Đề tài Tình hình đầu tư phát triển cho thủy sản ở việt Nam giai đoạn (2003 - 2007)

Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy, mặc dù trong vòng 30 năm qua tất cả cá nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng nguồn vốn đầu tư qua thị trường chứng khoáng có mức tăng nhanh hơn các nguồn vốn khác. Tính từ đầu những năm 1970 cuối năm 1990 của thế kỷ XX, vốn đầu tư trực tiếp các nước nhóm G7 chỉ tăng 30 lần, trong khi cổ phiểu các nước công nghiệp phát triển đã phát hành trên thị trường vốn quốc tế đã tăng 6 lần đạt khoảng 4 ngàn tỷ USD. Trong những năm gần đây dòng vốn này đã và đang có xu hướng tiếp tục gia tăng. Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng tăng mạnh mẽ. Mặc dù vào nửa cuối những năm 1990, có sự xuất hiện của một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến cuối năm 1999 có khối lượng giao dịch chứng khoáng tại các thị trường mới nổi vẫn rất đáng kể. Riêng năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào châu Á đã tăng gấp ba lần năm 1998, đạt khoảng 15 tỷ USD vượt qua con số kỷ lục được lập trong năm 2004 là 35,3 tỷ USD. Riêng khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã thu hút được gần 30 tỷ USD. Được đánh giá là khu vực kinh tế năng động nhất thế giới Châu Á hiện nay vẫn là nơi thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp đáng kể và có xu hướng ngày càng gia tăng. Đối với Việt nam, để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, nhằm mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Nhà nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn huy động qua thị trường vốn cũng được chính phủ quan tâm. Các đề án phát hành trái phiểu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp ra nước ngoài cũng đã và đang được triển khai. Năm 2005, chính phủ Việt nam đã phát hành đợt trái phiếu đầu tiên trên thị trường trái phiếu Hoa Kỳ với kết quả được đánh giá là thành công. Tuy nhiên, đầy là một hình thức huy động vốn rất mới mẻ đối với Việt nam. Việc phát hành trái phiểu ra thị trường quốc tế cũng vừa có những thuận lợi nhưng cũng có những hạn chế nhất định.

doc45 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1133 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình đầu tư phát triển cho thủy sản ở việt Nam giai đoạn (2003 - 2007), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và công suất máy lớn nhưng chưa có đủ trang thiết bị hàng hải, các công nghệ khai thác hợp lý và các thiết bị bảo quản và chế biến sản phẩm để đảm bảo cho tàu hoạt động dài ngày trên biển và vẫn đảm bảo nâng cao chất lượng, giá trị của sản phẩm khai thác. Đầu tư cho đào tạo chưa được chú trọng nên lao động đánh cá tăng nhưng không qua đào tạo đã góp phần làm giảm hiệu quả khai thác. Tình trạng thiếu thuyền trưởng và thuyền viên cho tàu khai thác xa bờ đã diễn ra nhiều nơi, trong đó các tỉnh Bắc bộ và Bắc Trung bộ thiếu nhiều hơn. Các chương trình đầu tư của Nhà nước như 327, 773, chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình tín dụng nông thôn, và các dự án tài trợ quốc tế khác... đã có tác dụng thúc đẩy nhanh việc sử dụng diện tích mặt nước hoang vắng ven biển để nuôi trồng thuỷ sản, giúp nhiều hộ gia đình nông ngư dân ven biển phát triển nghề nuôi trồng các hải sản xuất khẩu. Nhưng nhiều nơi sử dụng diện tích vùng bãi triều, rừng ngập mặn, các cửa sông chưa hợp lý; chưa thống nhất qui hoạch chung, qui hoạch chi tiết cho từng vùng; đầu tư chưa đủ mức chưa đồng bộ nên phát huy hiệu quả chưa tốt, có nơi sử dụng diện tích mặt nước nuôi quá sức, tác động tiêu cực tới sinh thái môi trường. Về nuôi trồng thủy-hải sản Nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu mới tận dụng điều kiện tự nhiên ở mức quảng canh và một phần quảng canh cải tiến (năng suất trung bình còn thấp, một số vùng nuôi tôm tập trung năng suất bình quân mới đạt 250kg/ha). Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, áp dụng tiến bộ công nghệ vào sản xuất, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là công nghệ sản xuất giống sạch bệnh, thức ăn và sử lý môi trường, phòng trừ dịch bệnh. Cơ sở hạ tầng và hậu cần dịch vụ cho việc nuôi trồng thuỷ sản còn quá yếu kém. Cơ chế chính sách còn thiếu hoặc chưa được cụ thể hoá kịp thời nên đã hạn chế phần nào tới tốc độ phát triển như hệ thống thuế chưa hợp lý, vốn đầu tư, vốn lưu động còn ít, chưa có chính sách bảo hiểm rủi ro, chưa có chính sách về thế chấp cho nông dân vay vốn đầu tư và sản xuất thoả đáng. Tổ chức và chỉ đạo chậm được tăng cường đổi mới: tổ chức quản lý dịch vụ hậu cần cho ngành nuôi trồng thuỷ sản còn yếu: sự hợp tác giữa các ngành các cấp chưa chặt chẽ, chưa có qui hoạch phát triển liên ngành, liên vùng cho nuôi trồng thuỷ sản. Về chế biến thủy –hải sản Đội ngũ kỹ thuật, đặc biệt là chuyên gia đầu ngành, vừa yếu vừa thiếu, hệ thống khuyến ngư chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.Vấn đề đầu tư bảo quản và tiêu thụ sản phẩm cho sản xuất và nuôi trồng thuỷ sản còn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là cho các vùng nuôi nước ngọt tập trung. Mặc dù đã đạt được những thành tựu trên, phân ngành chế biến hiện tại gần như đang bị chững lại, thể hiện qua số nhà máy hoạt động có hiệu quả chỉ chiếm 35%, điều đó có thể do các nguyên nhân sau: Chưa chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng của đội ngũ quản lý, vai trò quản lý của Nhà nước còn yếu, thiếu sự phối hợp chặt chẽ trong chỉ đạo xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển giữa các địa phương và ngành. Năng lực quản lý của các doanh nghiệp chưa theo kịp với đòi hỏi mới của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển tràn lan và khả năng quản lý kém đã dẫn đến nguy cơ phá sản của một số xí nghiệp Nhà nước. Chưa kịp thời đưa ra những văn bản phát lý cần thiết nhằm ổn định thúc đẩy sản xuất (đặc biệt trong vấn đề an toàn thực phẩn). Đầu tư vào nâng cấp cải tiến dây chuyền công nghệ còn yếu kém gây lên tình trạng mất cân đối giữa trình độ công nghệ hiện tại với nhu cầu chất lượng và dạng sản phẩm đối với thị trường, mặt hàng chế biến còn đơn điệu, phần lớn là dạng bán chế phẩm vừa tiêu hao nguyên liệu vừa cho giá trị xuất khẩu thấp, chất lượng sản phẩm chưa ổn định. Chưa tập trung cao cho công tác nghiên cứu đổi mới công nghệ để nhanh chóng đưa ra các sản phẩm mới, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Công tác thông tin tiếp thị cũng chưa được chú ý nên các doanh nghiệp cũng khó có khả năng định hướng cho những hoạt động kinh doanh của mình. Chưa tạo được sự liên kết có hiệu quả giữa các nhà máy xí nghiệp, giữa doanh nghiệp và cơ sở sản xuất nguyên liệu ban đầu đã gây ra cạnh tranh không lành mạnh là đẩy giá nguyên liệu đầu vào trong nước lên quá cao làm yếu đi sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Vỉệt Nam ở nước ngoài, sự ép cấp, ép giá, móc nối với các đại diện thương nhân nước ngoài nhằm thoát khỏi sự kiểm soát xuất khẩu của nhà nước thường xuyên sảy ra. Đây là vấn đề nhân quả giữa vai trò quản lý của Nhà nước và sự nhận thức của đội ngũ quản lý các doanh nghiệp về sự thống nhất, liên hiệp để hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển trước tình hình hội nhập của Việt Nam vào khu vự thế giới. Đầu tư dây chuyền không đồng bộ làm mất cân đối giữa công suất thiết bị và khả năng cung cấp nguyên liệu, nhu cầu thị trường. Các nhà máy chế biến hiện nay mới chỉ sử dụng 50% công suất, điều này có thể do sự dư thừa lớn về thiết bị hoặc là thiếu nguyên liệu hoặc thiếu khả năng phát triển mặt hàng do công nghệ quá cũ của các nhà máy xí nghiệp. Chất lượng nguyên liệu đưa vào chế biến thấp, giá nguyên liệu cao, giá đầu ra thấp, sản xuất ít có lãi lại là những khó khăn mà các doanh nghiệp chế biến đang gặp. Công nghệ bảo quản sau thu hoạch còn nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến chất lượng nguyên liệu đưa vào chế biến Về xuất khẩu nhược điểm chính là chưa định hình, tập trung sức để tạo ra một số mặt hàng chủ lực, chưa có các giải pháp đồng bộ : tạo nguồn nguyên liệu lớn ổn định; đúng tiêu chuẩn kích cỡ, độ tươi và công nghệ chế biến cao. Chưa tập trung giải quyết tốt các công nghệ bảo quản sau thu hoạch đối với sản phẩm của nghề khai thác nhằm tăng chất lượng nguyên liệu. Xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác nguồn lợi tự nhiên, mức đầu tư cho ngành nuôi trồng và chế biến thuỷ sản còn quá nhỏ bé so với nhu cầu và so với ngành kinh tế khác. Vì thế việc cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến xuất khẩu còn rất bấp bênh, không an toàn trong xuất khẩu. Do khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ chưa có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ với nhau theo một chiến lược sản phẩm xuyên suốt ở các khâu, các doanh nghiệp chế biến chưa coi trọng thúc đẩy sản xuất nguyên liệu, chưa có trách nhiệm hỗ trợ đầy đủ ngư dân trong việc ổn định giá cả, áp dụng kỹ thuật mới vào sau thu hoạch. Tuy đã có một số tiến bộ trong việc đa dạng hoá mặt hàng, song hàng thô vẫn chiếm 82,5%, còn mặt hàng có giá trị gia tăng mới chiếm 17,5% (trong đó sản phẩm làm sẵn là 14,5%, sản phẩm ăn liền 3%). Mặt hàng đông lạnh vẫn là chính (khoảng 85%) còn lại là hàng khô, đồ hộp, thức ăn chín. Qua liểm tra chất lượng năm 2007đã có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thuy sản đã không đảm bảo được chất lượng nên có khả năng bị rút giấy phép. Nhìn chung chất lượng sản phẩm xuất khẩu (kể cả bao bì và nhãn hiệu) vẫn còn khoảng cách khá xa so với nước nhập thuỷ sản. Tuy những năm gần đây các nhà máy chế biến xuất khẩu đã có những nỗ lực lớn trong việc đầu tư cải tạo điều kiện sản xuất, môi trường và đổi mới công nghệ nhưng do trên 70% nhà máy đã hoạt động trên 10 năm nên các máy móc đã quá cũ và lạc hậu, mặt bằng công nghệ đơn điệu. Tỷ trọng lao động thủ công trong chế biến còn rất lớn. Thông qua cơ chế thị trường, sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản đã nâng lên môi chút song nói chung sức cạnh tranh còn yếu, hình thức cạnh tranh còn mang đậm sắc thái nhỏ, phân tán, riêng lẻ. Nhiều hiện tượng như nâng giá mua hạ giá xuất có lợi cho thương nhân nước ngoài. Một số đơn vị còn dùng những thủ đoạn gian lận mang tính lừa đảo. Thế lực của từng đơn vị còn yếu, chưa kết hợp được với nhau để tạo sức cạnh tranh. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN VIẸT NAM I.Quan điểm định hướng đầu tư phát triển ngành Thuỷ sản Việt Nam. 1.Một số dự báo. Trong những năm gần đây, Thuỷ sản đã trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Cùng với sự phát triển của thế giới, ngành Thuỷ sản Việt Nam cũng có một số thay đổi để phù hợp với nhu cầu tiêu dùng. Xu hướng chuyển đổi cơ cấu nghề cá. Mặc dù nước ta được ưu đãi về vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển nghề cá nhưng đã nhiều năm nay, người ta càng nhận thấy rõ rằng nguồn lợi thuỷ sản tự nhiên trong các mực nước tù đầm, hồ, sông suối đến biển khơi và đại dương đều có hạnvà ngày nay con người đang khai thác đến sát nút sự bền vững của nó. Từ đó việc tái tạo lại các nguồn lợi thuỷ sản bằng cách nuôi trồng chúng ngày càng trở thành một lĩnh vực sản xuất quan trọng. Nuôi trồng thuỷ sản sẽ được đầu tư phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Trong đó đối tượng nuôi trồng là các loại cá vẩy (49% sản lượng và 55% giá trị) và tôm sú là loài được xếp hàng đầu các loài giáp xác được nuôi trong những năm gần đây. Một số yếu tố chủ yếu đẩy nhanh tốc độ sản xuất và nuôi trồng các loài cá có vẩy và các loài giáp xác chính là nhờ khả năng giải quyết được các giống nhân tạo. Trong những năm tới, sản lượng nuôi trồng nước ngọt vẫn sẽ chiếm cao và ngày càng cao so với sản lượng nuôi trồng nước lợ và nuôi biển (hiện nay là 60% so với 40&). Bên cạnh nuôi trồng thuỷ sản, cơ cấu nghề khai thác hải sản cũng có sự thay đổi. Nhữmg năm tới đây, chúng ta sẽ đầu tư công nghệ để phát triển và nâng cao hiệu quả đánh bắt xa bờ, chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, bảo vệ nguồn lợi hải sản gần bờ. Xu thế thương mại quốc tế và khu vực trong lĩnh vực thuỷ sản Thương mại quốc tế và khu vực trong lĩnh vực thuỷ sản những năm tới đây cũng có xu thế biến đổi. Việc tiêu thụ các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu đang có chiều hướng thay đổi tuỳ thuộc vào thị trường. Hàng thuỷ sản tươi sống sẽ tăng nhanh hơn so với các mặt hàng đông lạnh và có xu hướng giảm của các mặt hàng đông lạnh. Các mặt hàng tươi sống có nhu cầu cao như tôm hùm, cua bể, cá vược, cá mú... Cá hộp sẽ giảm nhu cầu thay vào đó là cua hộp, tôm hộp, trứng cá hộp. Hàng thuỷ sản nấu chín ăn liền cũng có xu hường giảm. Về mặt thị trường, Nhật Bản vẫn là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất do nghề khai thác cá biển của Nhật đang xuống dốc nghiêm trọng. Thị trường thuỷ sản ở Mỹ cũng là một thị trường lớn, kinh tế Mỹ đang tăng trưởng do đó nhập khẩu thuỷ sản có khả năng tăng theo. EU là thị trường lớn thứ hai trên thế giới ngang với thị trường Mỹ.Ngoài ra còn có các thị trường mới như Trung Quốc với lượng nhập khẩu để tiêu thụ và tái chế xuất khẩu rất lớn hằng năm; các thị trường Hồng Kông và Singapo có nhiều triển vọng. Tuy nhiên tư 2007, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn hơn vì theo dự đoán khả năng tăng trưởng của kinh tế thế giới sẽ giảm đi làm ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ. Hơn nữa có sự trở lại của một số nước mạnh về xuất khẩu thủy sản từ trước đến giờ như Ecuado, Indonexia. Xu hướng đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản phục vụ xuất khẩu. Những năm tới đây, một số thị trường xuất khẩu thuỷ sản có dấu hiệu phục hồi sau một thời gian vắng bóng làm cho ngành thuỷ sản Việt Nam có thêm nhiều bạn hàng cạnh tranh mới, so với năm 2007, những thuận lợi trong xuất khẩu thuỷ sản không còn nữa. Thêm vào đó nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng thuỷ sản cũng thay đổi, tỷ lệ tiêu thụ các mặt hàng tươi sống tăng nhanh trong khi các mặt hàng chế biến sẵn truyền thống giảm đang kể. Cùng với sự thay đổi trong cơ cấu đối tượng khai thác và đánh bắt, các loại thuỷ hải sản có chất lượng dinh dưỡng cao được tập trung khai thác, thêm vào đó là sự áp dụng công nghệ vào lai tạo và nuôi trồng các loài hiện nay đang được ưa chuộng, thì nguồn nguyên liệu cung cấp cho chế biến xuất khẩu ngày càng đa dạng và phong phú. Nhưng để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất thì chúng ta phải hạn chế tối đa viêc xuất khẩu những sản phẩm mới chỉ qua chế biến thô, tiến tới xu hướng đầu tư phát triển công nghệ đa dạng hoá các sản phẩm có thể chế biến được từ một nguồn nguyên liệu phục vụ cho nhiều đối tượng tiêu thụ, ví dụ như cùng một loài nguyên liệu từ cá, thị trường Nhật Bản ưa chuộng các sản phẩm gỏi, trong khi đó thị trường EU lại ưa thích các sản phẩm tươi sống. Hiện nay một loại sản phảm đang được đưa vào sản xuất ở nước ta đó là các loại bánh được làm từ trứng cá. Một đặc điểm cơ bản của thuỷ sản là sự tươi sống, sản phẩm càng tươi ngon bao nhiêu càng thu hút khách hàng bất nhiêu, so với những năm trước đây, mặt hàng đồ hộp sẽ không còn chiếm ưu thế, thay vào dó các sản phẩm tươi sống sẽ chiếm vị trí chủ yếu như tôm, cua,.. thịt cá ngừ đại dương. Bên cạnh đó sự đa dạng hoá các mặt hàng đông lạnh như mực đông lạnh, cá đông lạnh và một loạt các sản phẩm phụ khác nhưng không kém phần quan trọng bởi sự đáp ứng phong phú nhu cầu sẽ là xu hướng phát triển trong thời gian tới. 2.Những thuận lợi và khó khăn của ngành thủy sản Việt Nam sau khi ra nhập WTO Bước vào thời kỳ từ năm 2008 trở về sau là thời kỳ sau khi nước ta đó là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, cùng với những vận hội đang mở ra, các thách thức cũng không kém phần gay gắt cần phải vượt qua nhằm đạt được các mục tiêu phát triển và hội nhập đối với nền kinh tế nước ta. 2.1 Những thuận lợi. Sự ổn định chính trị-xã hội là nền tảng cững chắc tạo ra mụi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội, công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo đang chuyển sang giai đoạn phát triển cao theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nền kinh tế tăng trưởng khá, nguồn lực từ trong nước được tăng lên, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện. Nhà nước quan tâm đầu tư cho ngành thuỷ sản ngày một phát triển. Cơ chế chính sách Nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, tạo điều kiện cho quản lý nhà nước và sản xuất kinh doanh có hiệu lực và hiệu quả. Đối với ngành thuỷ sản :Tiềm lực kinh tế của ngành sau 20 năm đổi mới đã tăng lên đáng kể, ba chương trình của ngành đang được thực hiện có hiệu quả. Hướng phát triển theo nền kinh tế thị trường ngày càng rõ nét. Hoạt động khai thác hải sản đã vươn ra được những ngư trường ngoài khơi, nuôi trồng thuỷ sản phát triển nhanh, nhiều nhân tố mới xuất hiện nhất là nuôi tôm công nghiệp, xuất khẩu thuỷ sản đã mở rộng sang các thị trường Mỹ và EU.. Tiềm năng mặt nước tài nguyên đưa vào phát triển ngày cành lớn, nhất là tiềm năng đất và mặt nước nuôi trồng thuỷ sản còn nhiều. Nhu cầu trên thế giới ngày càng tăng, thị trường ngày càng mở rộng. Khoa học và công nghệ phát huy có tác dụng thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, có thể tạo ra các bước đột phá mới về giống, nguyên liệu, nhất là trong việc tạo luận cứ cho việc phát triển bền vững trong nhiều năm tới. Ngành thuỷ sản có thị trường ổn định, sản phẩm có giá trị kinh tế cao, có khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất. Sau khi ra nhâp WTO Việt Nam đã hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thê giới,có rât nhiều thuận lợi cho việt nam phát triển kinh tế nói chung và phát triển ngành thủy sản nói riêng: thứ nhất là, việc gia nhập WTO sẽ mang lại cơ hội cho sản phẩm thủy sản Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường thế giới, do các nước biết đến Việt Nam nhiều hơn, doanh nhân các nước sẽ quan tâm hơn đến xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, trong đó có sản phẩm thủy sản. Thứ hai là, sự ưu đãi hơn về thuế quan, xuất xứ hàng hoá, hàng rào phi thuế quan và những lợi ích về đối xử công bằng, bình đẳng sẽ tạo điều kiện để hàng thủy sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thứ ba là, để đáp ứng được các quy định của WTO cũng như yêu cầu của các nước thành viên, Bộ Thủy sản đã không ngừng điều chỉnh cơ chế chính sách và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chuẩn cho phù hợp. Thứ tư là, vào WTO sẽ là cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm hơn đến đầu tư vào phát triển thủy sản tại Việt Nam. Tình hình quốc tế phát triển theo xư hướng hoà bình, hợp tác và hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho ngành thuỷ sản tiếp cận nhanh được vốn và công nghệ bên ngoài, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản và năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 2.2 Những khó khăn Công nghiệp hoá hiện đại hoá đang là yêu cầu bức bách dối với các hoạt động đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản, chế biến hàng thuỷ sản, nhu cần đầu tư lớn cơ sở hậu cần dịch vụ lớn nhưng khả năng đáp ứng còn hạn chế. Việc tổ chức đánh bắt xa bờ còn tồn tại nhiều vấn đề: điều ta nguồn lợi, xác định ngư trường, mùa vụ đối tượng đánh bắt, trang bị nghề khai thác, cỡ loại tàu thuyền đối với từng nghề, hậu cần dịch vụ đào tạo lao động. Công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế do ý thức chấp hành luật pháp của dân chưa cao. Thiếu qui hoạch tổng thể về nuôi trồng thuỷ sản, phát triển còn tự phát không theo qui hoạch, nhiều địa phương tuy đã có qui hoạch phát triển kinh tế của tỉnh nhưng do qui định đã lâu nay không còn phù hợp. Việc tranh chấp đất trồng lúa và nuôi tôm và giữa rừng với nuôi trồng thuỷ sản còn sảy ra ở nhiều nơi. Thiếu kinh nghiệm quản lý về môi trường sinh thái, môi trường nước và phòng chống dịch bệnh cho nuôi trồng thuỷ sản. Vấn đề phát triển kinh tế xã hội vùng biển còn khó khăn lao động thiếu việc làm trình độ dân trí thấp, chuyển đổi cơ cấu vùng ven biển còn chậm. Cơ sở hạ tầng thiếu chưa đồng bộ. Trình độ công nghệ trong khai thác nuôi trồng chế biến nhìn chung còn lạc hậu, dẫn đến năng suất thấp giá thành cao, khả năng cạnh tranh trong hội nhập còn nhiều khó khăn và thách thức. Thị trường ngày càng khắt khe hơn với yêu cầu vệ sinh và chất lượng cùng với nhưng qui định chặt chẽ về quản lý sẽ là bất lợi đối với Việt Nam. Công tác nghiên cứu khoa học và nghiên cứu sản xuất các loài giống thuỷ sản có giá trị kinh tế cao cũng như áp dụng những thành tựu khoa học thế giới vào sản xuất con giống, thức ăn và các giải pháp phòng trị bệnh cho tôm, cá còn yếu, nên hiệu quả sản xuất còn hạn chế. Thiên tai thời tiết không thuận lợi là các yếu tố thường ảnh hưởng đến hoạt động của nghề cá. Từ chỗ không có tên trên bản đồ xuất khẩu thủy sản thế giới, ngành thủy sản Việt Nam đã liên tiếp có những cú bứt phá ngoạn mục để vươn lên vị trí thứ 7 trong topten có kim ngạch xuất khẩu thủy sản lớn nhất, với 2,65 tỷ USD đạt được trong năm 2005, có mặt ở 105 thị trường nước ngoài...Tuy nhiên, chính sự bùng nổ mạnh mẽ này là một phần khiến cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam phải đối mặt với những rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe về an toàn vệ sinh (an toàn vệ sinh) cũng như các vụ kiện chống bán phá giá (điển hình như vụ kiện cá tra, basa và vụ kiện tôm). Khi đã tham gia vào WTO, thủy sản Việt Nam, đương nhiên, đã có một “hành trang” kinh nghiệm quý báu từ việc giải quyết những tranh chấp kiểu như vậy, biết rõ “cuộc chơi” sẽ có rất nhiều “lắt léo” để sẵn sàng đối phó, phải gấp gáp “học” và chuẩn bị đầy đủ để đối phó với những khó khăn: thứ nhất  là, Việt Nam là nước đang phát triển, nên khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản còn yếu, trình độ quản lý còn nhiều bất cập, trong khi các yêu cầu về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước thường xuyên thay đổi và ngày càng đòi hỏi khắt khe. Thứ hai là,  sự hiểu biết của các doanh nghiệp về luật pháp quốc tế, nhất là hiểu rõ về pháp luật trong tranh chấp thương mại còn rất hạn chế, điều này ảnh hưởng khá lớn tới năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Thứ ba là,  sự mất cân đối giữa khu vực sản xuất nguyên liệu và khu vực chế biến xuất khẩu, cụ thể hơn là khu vực sản xuất nguyên liệu chưa đáp ứng được nhu cầu của khu vực chế biến xuất khẩu cả về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm. Thứ tư là, công tác quản lý nguồn lợi, quản lý tàu thuyền trên biển, công tác thống kê nghề cá còn lạc hậu và chưa đáp ứng được các yêu cầu về hội nhập. Thứ năm là, công tác đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật tuy đã được quan tâm nhưng do hạn chế về kinh phí và kinh nghiệm nên chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng khi gia nhập WTO. Thứ sáu là, năng lực, kinh nghiệm quản lý và trang thiết bị phục vụ cho kiểm tra, kiểm soát chất lượng, kiểm dịch hàng thủy sản nhập khẩu còn hạn chế - là thách thức lớn đối với việc bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng cũng như sức khoẻ và môi trường sống của các loài thủy sản, đồng thời đó cũng là thách thức đối với những cạnh tranh không lành mạnh sẽ diễn ra đối với thủy sản Việt Nam. Thứ bảy là, do  nước ta là nước đang phát triển nên nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn, công nghệ và kinh nghiệm, bên cạnh đó kỹ năng và trình độ quản trị của nhiều doanh nghiệp thủy sản chưa đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế và còn rất thấp so với các đối thủ. Thứ tám là, hệ thống cơ sở hạ tầng cho sản xuất kinh doanh thủy sản (hệ thống thủy lợi, các chợ thủy sản đầu mối, các trung tâm thương mại thủy sản) chưa có hoặc còn yếu, cộng với khả năng cạnh tranh thấp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ là thách thức lớn trong việc giữ được thị trường trong nước. Thứ chín là, vấn đề thương hiệu của thủy sản Việt Nam cũng được coi là một thách thức lớn, vì hiện nay các mặt hàng thủy sản Việt Nam được xuất khẩu thông qua các nhà nhập khẩu và được phân phối dưới nhiều thương hiệu khác nhau, vừa không quảng bá được sản phẩm, vừa có thể gây ra những rắc rối như vụ “cá basa” thành “cá mú” ở thị trường Mỹ vừa qua. 3.Quan điểm và phương hướng phát triển ngành Thuỷ sản Việt Nam đến năm 2020. 3.1 Nhận thức và quan điểm. Quán triệt đường lối phát triển kinh tế của Đảng, trên tinh thần tiếp tục đẩu nhanh công cuộc đổi mới của đất nước, để góp phần thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội để ra trong năm 2020, trong đó chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người dự kiến đạt 2000 USD, đầm bảo cho ngành thuỷ sản hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, ý thức được yêu cầu gắn kết giữa phát triển sản xuất đa dạng với bảo vệ an ninh chủ quyền trên biển, ngành Thuỷ sản cần phát triển theo các quan điểm cơ bản sau đây: 1-Nước ta có nhiều lợi thế và tiềm năng phát triển kinh tế thuỷ sản, phải coi đây là một trong những hướng đi chủ đạo của kinh tế biển và ven biển nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống của cư dân, thay đổi bộ mặt của nông thôn ven biển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, tăng cường tiềm lực an ninh quốc phòng. 2-Ngành kinh tế thuỷ sản có thể phát triển mạnh có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh cao và bền vững trên cơ sở thực thi các chính sách đầu tư và quản lý đúng đắn phù hợp với các điều kiện và tính chất đặc thù của ngành đồng thời phát huy mạnh mẽ hiệu lực quả lý của Nhà nước kết hợp với tính tích cực sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực thuỷ sản. 3-Trên cơ sở phát huy nội lực của nghề cá nhân dân, thu hút mọi thành phần kinh tế lấy kinh tế Nhà nước và hợp tác làm bà đỡ cho qui trình phát triển nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho ngư dân và cho nền kinh tế quốc dân góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước. 4-Công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong 15 năm tới cần hướng vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế nghề cá trong lĩnh vực khai thác nuôi trồng dịch vụ mạnh hơn nữa theo định hướng hướng mạnh vào xuất khẩu. 5-Để tiến hành một nghề cá hiện đại cần phát triển kinh tế thuỷ sản Việt Nam theo hướng kết hợp kế hoạch hoá với thị trường, kết hợp giữa sự phát triển phù hợp vớu đặc thù sinh thái và kinh tế xã hội của các vùng các địa phương với phát triển trên cơ sở lợi ích toàn cục trong các chương trình thống nhất. 3.2 Phương hướng phát triển ngành Thuỷ sản đến 2020 3.2.1Phương hướng chung. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ngành Thuỷ sản, thực hiện chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, đảm bảo tăng trưởng bền vững để đến năm 2020 Nâng cao vai trò của khoa học công nghệ tạo động lực mới cho sự phát triển, đầy mạnh hợp tác quốc tế để thu hút thêm các nguồn vốn, tiếp thu công nghệ mới, đào tạo nguồn nhân lực. Thu hút các thành phần kinh tế vào đầu te, phát triển thuỷ sản, phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ, thực hiện xoá đói giảm nghèo và giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội vùng nông thôn ven biển. Thực hiện cải cách công tác quản lý Nhà nước, tăng cường năng lực thể chế, bộ máy tổ chức và cán bộ, cải tiênd các thủ tục hành chính tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển mạnh mẽ. Chiến lược này cung cấp một khuôn khổ phát triển biển toàn diện đến năm 2020 với một mục tiêu rất quan trọng là: Việt Nam phải trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển. Để thực hiện các mục tiêu của Chiến lược trong bối cảnh hội nhập, ngoài việc xác định tầm nhìn dài hạn đối với các lĩnh vực kinh tế, bản Chiến lược đã xem phát triển kinh tế biển là một “trục chính”. 3.2.2Phương hướng cụ thể. Tiếp tục phát huy thế mạnh của biển, các vùng nước ngọt, lợ, tiềm lực lao động, khả năng hợp tác quốc tế, kết hợp phát triển nông lâm thuỷ lợi và dư lịch để phát triển sản xuất kinh doanh, từng bước đưa ngành thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tăng nhanh giá trị sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu nhằm tăng cường tích luỹ nội bộ từng ngành, mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và làm nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước ngày một tăng. Khu vực ven bờ cần sắp xếo lại nghề nghiệp. Phat triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản làm thay đổi xã hội nông thôn vùng ven biển. Đối với vùng xa bờ cần xây dựng các mô hình sản xuất có hiệu quả. Nghề cá nhân dân là động lực chủ yếu thúc đẩy ngành Thuỷ sản phát triển. Áp dụng tiến bộ khoa học ký thuật và công nghệ thích hợp vào phát triển sản xuất,Đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ thuỷ sản, nâng cao đời sống người lao động, giải quyết việ làm và ổn địng dân cư. Tập trung thúc đẩycông tác bảo vệ nguồn lợi, bảo vệ mơi trường duy trì cân bằng sinh thái ở vùng nuôi, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở vùng nuôi. Chuyển đổi nghề khai thác ven bờ để bảo vệ tái tạo nguồn lợi, đông thời có biện pháp hữu hiẹu phòng ngữa dịch bệnh phát sinh. Tập trung vật tư, vốn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành, ưu tiên vào những vùng trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và một số tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long. Tập trung phát triển vùng động lực tại Hải Phòng, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh, đồng thời đưa nhanh các công trình, dự án vào sản xuất, bảo đảm hiệu quả đầu tư . Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm thu hút vốn, công nghệ bên ngoài thúc đẩy 3 chương trình lớn của ngành. Thực hiện tốt công tác đổi mới về bộ máy, tinh giản biên chế, thực hhiện cải cách hành chính hiệu quả đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới. Tham gia tích cực vào công tác quốc phòng và bảo vệ an ninh vùng biển. II.Một số giải pháp đầu tư phát triển ngành Thuỷ sản Việt Nam Trong những năm qua, sự đóng góp của ngành Thuỷ sản vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam ngày càng lớn và khẳng địng được thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Nhưng chúng ta cũng thấy rõ được những khó khăn trước mắt của ngành. Từ những quân điểm và định hướng được xây dựng và quán triệt để phát triển ngành thuỷ sản, chúng ta phải có những giải pháp cụ thể và thiết thực để đầu tư giải quyết những khâu yếu kém cơ bản còn tồn tại, mở rộng phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ, đưa ngành thuỷ sản Việt Nam thành một trong nhưng thị trường xuất khẩu lớn của thế giới, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Sau đây là một số giải pháp cơ bản mang tính tổng thể để đầu tư phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam. 1.Giải pháp đầu tư thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá ngành thuỷ sản . Để có thể phát triển ngành thuỷ sản theo hướng bền vững và có hiệu quả cao đến năm 2020 ngành cần hướng vào đầu tư chuuyển đổi cơ cấu kinh tế nghề cá trong mọi lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng, dịch vụ theo định hướng chú trọng tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, để tiến đến một nghề cá hiện đại, có sức cạnh tranh và hiệu quả cao trong kinh tế thị trường, kết hợp giữa sự phát triển phù hợp vớp đặc thù sinh thái và kinh tế xã hội của các vùmg các địa phương trên cơ sở lợi ích toàn cục trong các chương trình thống nhất. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thuỷ sản theo phương hướng trên cần thực hiện các giải pháp đầu tư sau: Đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả đánh bắt hải sản xa bờ, chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp và bảo vệ nguồn lợi hải sản vùng gần bờ. Khuyến khích các thành phần kinh tế có kinh nghệm sản xuất, có năng lực tài chính, có khả năng quản lý, đóng tàu công suất lớn, hiện đại có đủ điều kiện hậu cần dịch vụ, thông tin liên lạc, neo đậu trú bão, dự báo ngư trường để bám biển dài ngày và khai thác các đối tượng có giá trị kinh tế cao để xuất khẩu, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cảng, bến cá, chợ cá đủ sức làm công tác hậu cần dịch vụ đánh bắt hải sản. Hoàn chỉnh ngành công nghiệp hỗ trợ như cơ khí điện lạnh, đóng sửa tầu thuyền, sản xuất vật liệu, ngư lưới cụ, bao bì. Phát triển mạnh mẽ ngành nuôi trồng thuỷ sản: Hình thành hợp lý các vùng nuôi công nghiệp hiện đại kết hợp với mở rộng nuôi sinh thái, đầu tư đồng bộ hệ thống kênh, cống, đê, bao cấp thoát nước, điện, giao thông vận tải. Thực hiện nuôi các loài có giá trị kinh tế cao như tôm sú, cua biển, ... Phát triển nghề nuôi biển để nuôi các đối tượng: cá giò, bào ngư, trai ngọc...và các đặc sản khác. Hoàn chỉnh đầu tư hệ thống giống thuỷ sản quốc gia trong cả nước, gắn sản xuất giống với các yêu cầu ưu tiên phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là nuôi phục vụ xuất khẩu. Đầu tư qui hoạch lại và phát triển các trại giống nuôi trồng thuỷ sản do dân đầu tư. Phát triển ngành công nghiệp sản xuất thức ăn cho nuôi trồng thuỷ sản, cơ sở sản xuất thuốc phục vụ sản xuất giống, phòng trừ dịch bệnh. Xây dựng các cơ sở chế biến thuỷ sản với công nghệ hiện đại, sản phẩm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu chất lượng vệ sinh và an toàn thực phẩm theo qui định quốc tế, để xuất khẩu các mặt hành có giá trị gia tăng đến các thị trường trên thế giới, chú trọng đến các thị trường Nhật, Mỹ, EU, Trung Quốc. Tùng bước hiện đại hoá gắn với sắp xếp lại các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ, trang bị các phương tiện hiện đại để nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ cho các thành phần kinh tế phát triển ngành, nhập công nghệ và nghiên cứu phát triển công nghệ sản xuất giống để chuyển giao cho dân sản xuất đại trà các loài giống có giá trị kinh tế cao, sản lượng hành hoá lớn. Hình thành hệ thống đào tạo lao động cho ngành Phát triển nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhiều trang trại thuỷ sản theo hướng hiện đại, có nhiều nhà quản lý sản xuất kinh doanh giỏi, nắm bắt được thị trường tạo ra nhiều kim ngạch xuất khẩu và lợi nhuận. 2. Giải pháp để duy trì và phát triển ngày càng nhiều sản phẩm từ thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao trong các thị trường trong nước và quốc tế, chống lại sự giảm sút của nguồn lợi biển, tăng khả năng phục hồi tự nhiên của các nguồn lợi biển nhưng vẫn duy trì được tốc độ phát triển cao. 2.1.Trong khai thác hải sản. Phương hướng chủ yếu là phân định rõ ràng các ngư trường, khu vực và mùa vụ khai thác. Qui hoạch qui mô khai thác cho từng địa phương, quản lý chặt chẽ các ngư trường, nơi sinh sống, môi trường và các giống loài thuỷ hải sản. Để làm được điều đó cần đầu tư điều tra khảo sát xây dựng được các hồ sơ về các bãi cá và các vung cư trú, sinh trưởng, nguồn lợi và mùa vụ khai thác thích hợp ở từng vùng biển, từng thuỷ vực để làm căn cứ ra quyết định. Bên cạnh đó đi đôi với cơ cấu lại lực lượng khai thác ven bờ một cách hợp lý, cần phải chuyển dần sang canh tác trên vùng biển ven bờ: vừa nuôi vừa khai thác, nuôi để khai thác. Để làm được điều đó cần phải sớm tính toán lại cường độ và cơ cấu nghề nghiệp hợp lý cho từng địa phương, từng ngư trường, trước mắt hạn chế việc mở rộng qui mô nghề cá gần bờ. Hỗ trợ xây dựng các bãi rạn nhân tạo, lắp đặt các thiết bị dụ cá, tạo các vùng cư trú có tính chiến lược cho các giống loài thuỷ hải sản. Khuyến khích và hỗ trợ các cộng đồng ngư dân nuôi biển bằng mọi hình thức, giao cho các cộng đồng nhất định quyền khai thác và nghĩa vụ quản lý, bảo vệ từng vùng ven bờ nhất định. Đối với nghề cá xa bờ cần phải phát triển một cách hợp lý và thận trọng trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Muốn vậy phải: Tăng cường nghiên cứu nguồn lợi để có thể đi đến qui định cụ thể, hợp lý việc phân bổ và khai thác các nguồn lợi xa bờ thuộc qyuền tài phán quốc gia cho các địa phương trên cơ sở qui định hạn mức cường lực khai thác cho mội địa phương. Tăng cường hỗ trợ đầu tư của Nhà nước cho các khu vực nghề cá thương mại tham gia vào phát triển nghề cá xa bờ với sự ưu đãi trong vốn vay với các điều kiện thương mại và tạo môi trường thuận lợi về đầu tư. Phát triển các cơ sở hạ tầng, các hệ thống buôn bán và tiếp thị hợp lý, tập trung. Đầu tư xây dựng hệ thống cảng cá phục vụ khai thác xa bờ tập trung có qui mô lớn, tránh đầu tư lẻ tẻ. 2.2 Trong nuôi trồng thuỷ sản. Với phương hướng lấy phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản, trong đó đặc biệt là nuôi biển, nước lợ phục vụ xuất khẩu làm định hướng chiến lược cơ bản nhất trong thời kỳ 2001-2010 chúng ta cần có các giải pháp đầu tư sau: Đẩy nhanh quá trình qui hoạch, phân lập và thiết kế các khu nuôi tập trung tôm và các loài cá biển. Nghiên cứu, nhập nhanh công nghệ sản xuất giống, thức ăn và công nghệ nuôi biển. Đẩy nhanh tốc độ cải tiến, nâng cao công nghệ nuôi tôm xuất khẩu, đẩy nhanh các tiến độ xây dựng các cơ sở hạ tầng và dịch vụ cho nghề nuôi tôm, cá biển. Tiếp tục và nâng cao các công nghệ, hệ thống nuôi thủy sản kết hợp với canh tác nông nghiệp và nuôi thuỷ sản trong nhưng khu vực tập trung để tạo khối lượng hàng hoá lớn có thể tổ chức chế biến và thương mại thuận lợi. Thúc đẩyvà hỗ trợ các doanh nghiệp và tư nhân tham gia phát triển nuôi thuỷ sản, đặc biệt là nuôi công nghiệp tăng cường việc phát triển cơ sở hạ tầng cho nuôi trồng thuỷ sản. Xây dựng hệ thống thể chế và thiết chế nhằm hỗ trợ mạnh mẽ cho nuôi thuỷ sản phát triển. Củng cố và phát triển mạng lưới điện, trạm nghiên cứu công nghệ và kỹ thuật một cách mạnh mẽ hơn. 2.3 Trong chế biến và thương mại thuỷ sản. Mở rộng mặt hàng và thị trường nhằm đa dạng hoá các mặt hàng chế biến cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, kích thích lại tính đa dạng của sản xuất nguyên liệu và tận dụng sản phẩm của khai thác lấy chế biến làm cơ sở cho việc nâng cao giá trị các sản phẩm thuỷ sản. Do đó phải có các giải pháp đầu tư sau: Tăng cường năng lực nghiên cứu công nghệ, tiếp thu và chuyển giao công nghệ chế biến tiên tiến. Huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để nâng cấp các cơ sở chế biến và đổi mới trang thiết bị, công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm của quốc tế và nâng cao chất lượng sản phẩm. Cải tổ lại mạng lưới bán buôn, bán lẻ thuỷ sản trong thị trường nội địa. Duy trì và giữ vững thị trường truuyền thống đồng thời mở rộng quan hệ để tạo thị trường mới, đặc biệt là các thị trường lớn như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật. Phát triển một số trung tâm chế biến công nghệ cao để tái chế biến các hành sơ chế trong mạng lưới các xí nghiệp chế biến qui mô nhỏ nằm rải rác ở các vùng nguyên liệu. Biện pháp tăng sức cạnh tranh: Khả năng cạnh tranh của sản phẩm thủy sản Việt Nam đang là mối lo ngại nhất là khi sắp bước qua ngưỡng cửa WTO. Nếu không nâng cao được sức cạnh tranh, thì ngành thủy sản Việt Nam không những sẽ đuối sức trong cuộc đua xuất khẩu với những đối thủ mạnh của châu á và châu Mỹ, mà còn bị “hạ nốc ao” ngay chính trên “sân nhà”. Mục tiêu phát triển nghề cá bền vững chỉ có thể đạt được trên nền tảng sản xuất hiệu quả và sức cạnh tranh cao. Chính vì vậy, chủ động các điều kiện và biện pháp để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm đã và đang được các cơ quan chức năng của Bộ Thủy sản dành nhiều công sức chuẩn bị nhất. Theo Vụ hợp tác quốc tế Bộ thuỷ sản, có 7 biện pháp cần được tập trung đẩy mạnh. Một là, tăng cường công tác nghiên cứu và áp dụng công nghệ mới trong sản xuất nguyên liệu thủy sản, đặc biệt là công nghệ sinh học, nhằm đa dạng hoá đối tượng xuất khẩu với giá thành hạ. Hai là, tổ chức lại sản xuất trong toàn ngành theo hướng liên kết ngang và dọc giữa các khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ thủy sản, nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm và phù hợp với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Ba là, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nghề cá, tăng cường năng lực chế biến cả về chiều rộng và chiều sâu nhằm đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu, tăng năng lực chế biến mặt hàng giá trị gia tăng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Bốn là, tiếp tục công tác quy hoạch phát triển thủy sản, thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản làm nguồn cung cấp chính nguyên liệu sạch cho chế biến xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Năm là, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, chú trọng vào xây dựng thương hiệu và phát triển thị trường cho các sản phẩm chủ lực. Sáu là, tăng cường công tác điều tra, đánh giá nguồn lợi để có biện pháp bảo vệ, tái tạo nguồn lợi, thực hiện quản lý an toàn vệ sinh, môi trường, đảm bảo phát triển nghề cá bền vững. Bảy là, tăng cường công tác quản lý, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa người sản xuất nguyên liệu với chế biến, tiêu thụ nhằm ổn định và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 3. Giải pháp đầu tư về vốn cho phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam. Vốn dầu tư từ trước đến nay vẫn là vấn đề quan trọng của bất cứ một ngành kinh tế nào, đối với ngành thuỷ sản vốn đầu tư đóng vai trò hết sức quan trọng, trong phần giải pháp về vốn chúng ta đề cập đến hai vấn đề là giải pháp để thu hút vốn và giải pháp từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đối với giải pháp thu hút vốn ta thấy trong 5 năm từ 2003-2007 tổng vốn đầu tư trong ngành thuỷ sản đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiờn nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào thuỷ sản còn hạn chế hay ngành thuỷ sản vẫn chưa có được những thu hút mạnh mẽ đối với nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong nước chủ yếu từ 3 nguồn Ngân sách; Tín dụng; Huy động, nguồn vốn ngân sách tăng theo các năm nhưng tăng không lớn bằng nguồn vốn tín dụng, riêng nguồn vốn huy động thì tuỳ thuộc vào từng thời kỳ. Trong những năm tới, để thu hút nhiều vốn hơn nữa vào đầu tư phát triển ngành cần có các biện pháp sau đây. Trước tiên phải tiến hành xây dựng các chương trình đối với từng lĩnh vực cụ thể. Sở dĩ phải tiến hành xây dựng các chương trình vì quá trình khai thác, nuôi trồng thuỷ sản là quá trình lâu dài đòi hỏi vốn lớn, trình độ công nghệ vừa phù hợp với điều kiện nước ta vừa không quá lạc hậu so với mức độ phát triển thuỷ sản của thế giới, kèm theo đó là hệ thống cơ sở hạ tầng và đội ngũ công nhân lành nghề... Hơn nữa do tính thời vụ, các chương trình phải được xây dựng liên tiếp để đảm bảo tính kế thừa phát huy và tận dụng công suất của thiết bị. Cũng như bất cứ ngành nghề nào khác khi đẫ lên kế hoạch, đảm bảo đủ độ tin cậy với những minh chứng hợp lý thì sẽ thu hút các nguồn vốn đầu tư ưu đãi đầu tư. Bên cạnh đó tuỳ thuộc vào các chương trình, địa phương thực hiện chương trình mà tiến hành biện pháp khuyến khích đầu tư. Chẳng hạn như vùng nước lợ có khả năng phát triển và nuôi trồng các loại nhuyễn thể thay cho việc đầu tư vào các ngành truyền thống của địa phương thì cần có chương trình nuôi trồng cụ thể cùng với lời hứa thu nua với mức giá có lợi sẽ tạo được một lượng vốn dầu tư đáng kể. Đối với nguồn vốn trong nước: Khuyến khích các thành phần kinh tế phat triển sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu thuỷ sản để thúc đẩy và thu hút nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này. Nhà nước có chính sách ưu tiên, ưu đãi về vốn cho khu vực còn gặp nhiều khó khăn ở vùng ven biển, hải đảo, vùng giáp biên, khai thác vùng khơi, vùng nghèo như các tỉnh Bắc trung bộ, đầu tư mạnh vào các tỉnh trọnh điểm nghề cá như đồng bằng sông Cửu Long, Nam trung bộ. Đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, hàng năm dự báo ngành thuỷ sản cần 200-240 triệu USD, một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ và hoàn chỉnh sẽ là mồi nhử các luồng vốn đầu tư nước ngoài. Cần khẩn trương xây dựng một số khu kinh tế mở có qui chế riêng tại một số đảo hoặc vùng ven biển như khu chợ cá, dịch vụ thuỷ sản, sản xuất giống cá biển nuôi thuỷ sản... Xây dựng các chính sách liên quan đến việc bảo lãnh tín dụng cho nuôi trồng thuỷ sản, lấy tài sản hình thành làm thế chấp và tín chấp cho vay lần đầu tạo vốn lưu động. Cần ưu tiên cho các dự án đầu tư tạo lập hạ tầng hoàn chỉnh và xây dựng khu nuôi công nghiệp để cho thuê ao nuôi. Cần khẩn trương áp dụng chính sách ưu đãi nhập công nghệ sản xuất giống một số loài thuỷ sản quí hiếm, khó cho sinh sản trong nuôi. Bên cạnh đó có chính sách ưu đãi cho việc đào tạo cán bộ có trình độ công nghệ cao, tinh nhuệ trong xây dựng và thẩm định các dự án đầu tư phát triển. Cần đầu tư phát triển các trung tâm phân tích, phổ biến thông tin và thị trường công nghệ. đẩy mạnh công tác khuyến nông hơn nữa. Cần phải chấm dứt ngay tình trạng của chính sách “ mưa cho khắp “ các vùng của các địa phương trong đầu tư như trong đầu tư vào lĩnh vực thuỷ sản hiện nay. Để từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đây là vấn đề mang tính thời sự, ngành thuỷ sản Việt Nam cũng có vấn đề nan giải trong việc sử dụng vốn hợp lý và có hiệu quả. Việc đầu tư ồ ạt và thiếu thận trọng vào khai thác xa bờ trong thời gian qua là một bài học kinh nghiệm trong việc sử dụng vốn hợp lý. Để thu hút vốn chúng ta tiến hành đầu tư theo chương trình cụ thể. Tuy nhiên, do sự phức tạp của sản phẩm thuỷ sản mà mỗi chương trình lại liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau, cần tiến hành ở những thời điểm khác nhau. Vì thế cần phân bố các chương trình lớn thanh các chương trình nhỏ, lẻ hay các tổ hợp chương trình một cách hợp lý, dựa trên tính chất và đặc điểm của mỗi chương trình. Ví dụ, đối với chương trìng khai thác xa bờ, cần phân bố thành các nhóm chương trình: đóng mới tàu thuyền, nâng cao công suất tàu thuyền; chương trình cải tiến nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng phù hợp với trọng tải và công suất khai thác, chương trình tìm kiếm mô hình đánh bắt phù hợp, kết hợp với hậu cần nghề cá; chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ và lao động...Nhờ sự phân bố đó chúng ta có thể thấy được những việc cần làm ngay, công việc nào tiếp theo công việc nào tập trung vốn cho công việc trước mắt. Do việc khai thác nguồn lợi biển trong một thời gian dài trước đây còn nhiều bất cập, chưa có quy định cụ thể mà hiện nay dẫn đến sự khan hiếm dần buộc thuỷ sản Việt Nam phải mở ra hướng đầu tư mới và chuyển đổi cơ cấu đầu tư, đầu tư khai thác xa bờ và đầu tư mạnh vào nuôi trồng thuỷ sản. để thực hiện được định hướng này, nguồn vốn đầu tư phải được tập trung vào các cơ sở đóng tàu trọng tải lớn, có thể khai thác dài ngày trên biển với các trang thiết bị hiện đại đảm bảo chất lượng sản phẩm. Trong nuôi trồng thuỷ sản, do đặc chưng của lĩnh vực này là có thể giao cho từng cá nhân, hộ gia đình nuôi trồng hay tiến hành nuôi trồng tại các nông trường với qui mô lớn nên nguồn vốn thu hút rất phong phú, vấn đề là để đạt được hiêụ quả cao cho các vụ mùa cần lựa chọn phương thức canh tác, nuôi trồng, hướng dẫn cụ thể phương thức chăn nuôi và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào nuôi trồng thuỷ sản. 4.Giải pháp đầu tư cho mở rộng thị trường quốc tế và nâng cáp thị trường trong nước. Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đến 2020 cho đến nay còn tuỳ thuộc vào từng phương án, nhưng nếu xét đến 2010 thì mong muốn đạt được 5 tỷ USD. Trong đó năm 2008 phấn đấu đạt 4 tỷ USD, đa dạng hoá các sản phẩm thuỷ sản đặc biệt cho xuất khẩu theo hướng nâng cao hàm lượng công nghệ và có sức hút với thị trường. Tiến hành đầu tư mở rộng thị trường bằng cách thăm dò nhu cầu tiêu thụ, các đối thủ cạnh tranh, ưu nhược điểm cả đối thủ cạnh tranh từ đó xác định được thế mạnh của ngành thuỷ sản Việt Nam sau đó tiến hành đầu tư sản xuất, chào hàng, thăm dò phản ứng và nhận xét của khách hàng. Hiện nay, Nhật là thị trường lớn, dự kiến sản phẩm xuất khẩu vào thị trường này là 34%, Mỹ 25%, EU 8% và Hồng Kông 18% thị trường khác là 15%...Tìm kiếm lợi thế cạnh tranh trên từng thị trường cho từng chủng loại mặt hàng, lợi dụng đồng bộ các yếu tố địa lý, thương mại ngoại giao truyền thống, tuy nhiên cần phải chọnyếu tố chất lượng, giá cả là chủ yếu. Nên sắp xếp lại để phân lập các doanh nghiệp có đủ khả năng tham gia vào thị trường thuỷ sản Đối với thị trường trong nước cần phải được nâng cấp bằng cách đầu tư hình thành và tổ chức một số chợ tôm chợ cá theo phương thức đấu giá nhằm gắn kết giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến, tăng cường chất lượng nguyên liệu, giảm thất thoát sau thu hoạch, nâng cao tỷ trọng sản phẩm khai thác nuôi trồng và đưa vào chế biến xuất khẩu. Đồng thời hạn chế tình trạng ép giá và đưa tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản. Nâng cao uy tín về chất lượng sản phẩm cũng là một biện pháp để duy trì và mở rộng thị trường, ngành Thuỷ sản Việt Nam cần đầu tư vào vệ sinh an toàn thực phẩm đặc biệt là các sản phẩm đông lạnh và đóng hộp, tiến tới chúng ta phải đầu tư triển khai việc áp dụng an toàn vệ sinh trong các khâu sản xuất nguyên liệu, cảng cá, chợ cá. Đa dạng hoá các sản phẩm nhờ ứng dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực của các nhà máy chế biến, giúp cho việc cung cấp sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu được thực hiện một cách liên tục, phong phú và chất lượng cao, quyết định vị trí của ngành thuỷ sản Việt Nam trên thị trường quốc tế. 5.Giải pháp đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ là môt yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và toàn diện ngành thuỷ sản, đầu tư phát triển công nghệ sẽ tạo những thay đổi cơ bản mang tính quyết định cho sự phát triển của ngành. Chúng ta cần đầu tư triển khai các dự án nâng cấp viện nghiêncứu, các trường đào tạo của ngành có trang thiét bị hiện đại, có năng lực nghiên cứu giả quyết nhưngnx vấn đề kỹ thuật, công nghệ, quản lýnguồn lợ, quản lý môi trường, an toàn vệ xsinh. Đầy nhanh việc nghiên cứu và phổ biến công nghệ sản xuất giống thuỷan, các tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực đánh bắt, nuôi trồng, chế biến, cơ khí, dịch vụ...Đẩy mạnh ciệc nghiên cứu và nhập một số cônmg nghệ tiên tiến của nước ngoài, nhất là công nghệ sản xuất giống các laòi thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao... thực hiện mới liên kết cơ sở nghbiên cứu với cơ sở sản xuất kinh doanh trong việc ứng dụng khoa học công nghệ. Chú trọng phát triển công nghệ sản xuất giống thuỷan có giá trị xuất khẩu và phục vụ sản sinh, trong đó tập trung hoàn thiện qui trình nuôi thành thục tộm sú bố , mẹ trong điều kiện nhâ tạo, tái tạo nguồn tôm bố mẹ ở vùng nước tự nhiên và công nghệ sản xuất giống các loài đặc sản có thị trường. áp dụng công nghệ tạo giống tôm sũ chất lượng cao. 6.Giải pháp đầu tư đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thu hút vốn đầu tư, mở rộng thị trường, tranh thủ được công nghệ mới và đào tạo cán bộ. Trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay, hợp tác quốc tế thúc đẩy quá trình phát triên của bất cứ ngành nghề nào. Nganh Thuỷ sản Việt Nam cũng đứng trước nhu cầu hội nhập hoá, hợp tác hoá quốc tế đóng vai trò quan trọng đưa ngành thuỷ sản Việt Nam lên ngang tầm với ngành thuỷ sản thế giới. Với một loại mực tiêu là thu hút vốn đầu tư, mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ mới và đào tạo cán bộ chúng ta cần: Chuẩn bị tốt các chương trình, dự án, tổ chức lực lượng để tranh thủ tối đa các cơ hội hợp tác với nước ngoài. Xây dựng qui chế trách nhiệm và phân cấp cụ thể để các địa phương cơ sở chủ động tìm kiếm các nguồn và phương thức hợp tác, tài trợ theo định hướng chung của ngành, tạo ra nguồn nhân lực rrất quan trọng và công nghệ cho sự phát triển của ngành. Để tạo khả năng cạnh tranh quốc tế cao cần phải có những hành lanh pháp lý hấp dẫn hơn đối với đầu tư vào các lĩnh vực thuộc ngành thuỷ sản như các ưu đãi và thuế sử dụng đất cho đầu tư vào nuôi trồng đặc biệt là vùng đất cát ven biển. Nên cấp tư cách tiên phong với nhiều ưu đãi cho các xí nghiệp đi tiên phong trong việc phát triển nuôi biển, nuôi tôm công nghiệp và đầu tư vào các ngành yểm trợ cho nuôi công nghiệp. Xúc tiến xuất khẩu lao động nghề cá theo các hiệp định chính thức với nước ngoài Kết luận Thuỷ sản là một ngành kinh tế- kỹ thuật đặc thù gồm các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ và thương mại; là một trong những ngành kinh tế biển quan trọng. Trong nhưng năm qua, do năm vững đặc điểm cơ bản của tự nhiên xã hội trong tổ chức quản lý, ngành thuỷ sản đã đạt tốc độ tăng trưởng cao. Nghị quyết Hội Nghị TW Đảng Lần thư 5 khoá VII đã xác định Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế cuae đất nước. Nhưng hiện nay, ngành Thuỷ sản đang đứng trước nhưng thử thách lớn : Nguồn lợi hải sản ven bờ cạn kiệt, nguồn lợi xa bờ chưa nắm chắc, do phát triển ồ ạt diện tích nuôi trồng thuỷ sản ở vùng bãi triều cửa sông ven biển đã thu hẹp diện tích rừng nghập mặn làm mất cân bằng sinh thái, các cơ sở chế biến thuỷ sản tuy nhiều nhưng trình độ công nghệ còn lạc hậu, sản phẩm kém sức cạnh tranh trên thị trường. Cơ sở hạ tầng yếu kém chưa đồng bộ. Chúng ta lại vừa ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO bbên cạnh những cơ hội còn có những thách thức đòi hỏi chúng ta có những biện pháp sử lý hợp lý. Tuy nhiên ngành Thuỷ sản Việt Nam cũng đã từng bước đã khẳng định được vị trí quan trọng của mình đối với nền kinh tế trong nước trong khu vực và trên thế giới. Với nguồn lợi tự nhiên dồi dào, phong phú chúng ta có đủ điều kiện để xây dựng một ngành thuỷ sản phát triển, trở thành một trung tâm của khu vực. Để đạt được điều này chúng ta cần nhận thức rõ được hạn chế và yếu kém trong từng lĩnh vực cụ thể từ đó có biện phát giải quyết thoả đáng và triệt để. Cũng như bất kỳ ngành kinh tế nào, đầu tư phát triển đóng vai trò quan trọng trong quá trình đi lên của ngành. Giải pháp nâng cao hiệu quả đâù tư cúng chính là giải pháp phảp triển ngành. Trong giới hạn về trình độ hiểu biết và thời gian, chắc chắn chuyên đề còn có nhiều thiếu sót. Em xin được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn bề đẻ chuyên đề được hoàn thiện hơn . Tài liệu tham khảo. Giáo trình kinh tế đầu tư _ NXB giáo dục 1998. Chiến lược huy động vốn cho các nguồn lực trong sự nghiệp CNH-HĐH- Trần kiên NXB Hà Nội. Báo cáo tình hình đầu tư phát triển của Việt Nam 10 năm qua. Báo cáo tình hình đầu tư phát triển của ngành thuỷ sản 10 năm qua. Qui hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản đến 2020. Qui hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế thuỷ sản- Pts Hà Xuân Thông. ảnh hưởng của quá trình đổi mới lên sự phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam. Có một Việt Nam như thế. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6029.doc
Tài liệu liên quan