Đề tài Tình hình đầu tư phát triển trong ngành dệt may Việt nam

Theo số lượng thống kê, đến nay có khoảng 1,6 tr lao động làm việc tại các cơ sở, nhà máy dệt may trong cả nước. Số lao động này chiếm khoảng 25% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp. Nhưng nhìn chung, khả năng sản xuất, phát triển của ngành dệt may còn có những hạn chế như: còn thiếu cán bộ có trình độ quản lý, chuyên ngành do đó đòi hỏi cần tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của ngành đã được quan tâm. Các trường đại học đã có chuyên ngành đào tạo riêng như: Trường đại học Mỹ thuật công nghiệp, Khoa công nghệ dệt may của Trường đại học Bách Khoa, chuyên ngành thời trang của Viện đại học Mở. Ngoài ra, các công nhân kỹ thuật cũng được đào tạo trong các trường dạy nghề ở Gia Lâm. Các địa phương cũng có trường dạy nghề tại chỗ, trường hướng nghiệp. Theo số liệu năm 2204, tổng công ty dệt may Việt Nam đã triển khai được 24 lớp đào tạo, 699 học viên, 126 cán bộ được tập huấn quản trị chiến lược.

doc41 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình đầu tư phát triển trong ngành dệt may Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tranh. - Mua quyền sử dụng công nghệ: Doanh nghiệp nào mua cũng có quyền sở hữu thứ công nghệ hiệu quả đó. Doanh nghiệp có thể mua công nghệ tĩnh hoặc động. Khi doanh nghiệp mua công nghệ tĩnh thì những cải tiến mới của doanh nghiệp không được cung cấp, không được quyền sử dụng mà họ chỉ được quyền sử dụng công nghệ như tại thời điểm mua. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể mua dưới hình thức động: công nghệ luông được cải tiến khi người bán công nghệ vẫn tiếp tục đầu tư cho nghiên cứu cải tiến công nghệ. *Nghiên cứu phát triển kỹ thuật công nghệ: Đối với những doanh nghiệp mà sản phẩm của họ sản xuất và kinh doanh là những công nghệ, thì những phát minh sáng chế của họ là những tài sản trí tuệ mà họ sở hữu. Còn với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những sản phẩm không phải là công nghệ thì những cải tiến kỹ thuật, công nghệ chưa chắc đã tạo ra một công nghệ mới nhưng ít nhất nó cũng tạo ra sự phù hợp của công nghệ với điều kiện sản xuất, ít nhiều tạo lợi thế cho doanh nghiệp. 4.2.2. Đầu tư xây dựng và phát triển thương hiệu *Thương hiệu là các dấu hiệu hay một loại dấu hiệu hoặc tổng hợp các dấu hiệu này gắn với hàng hóa hoặc dịch vụ, là biểu hiện bên ngoài. Dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của một (hay một nhóm) người này với hàng hoá, dịch vụ của một (hay một nhóm) người khác. Hiện nay, trên thị trường có quá nhiều sản phẩm, nhiều công ty do đó xây dựng cho mình một thương hiệu tức là xây dựng được sự thành công cho doanh nghiệp. Thương hiệu là phương tiện để cạnh tranh, nó thông báo sự hiện diện của nó với hàng hoá, dịch vụ cùng loại khác, tạo ấn tượng ban đầu cho người mua. Đồng thời, thương hiệu định hướng khách hàng, duy trì phát triển khách hàng. Đa số người tiêu dùng quen mua hàng hoá quen thuộc, một nhãn hiệu uy tín sẽ chiếm được cảm tình của người mua. Mặt khác, thương hiệu mang lại những lợi ích nổi bật cho doanh nghiệp, nó đem lại thu nhập lớn hơn so với sản phẩm cùng loại không có thương hiệu, nó thu hút được vốn đầu tư, có ưu thế trong định giá. Do đó, để phát triển sản xuất có hiệu quả, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một thương hiệu vững chắc, tạo hình ảnh đặc biệt trong tâm trí khách hàng. *Nội dung của đầu tư xây dựng và phát triển thương hiệu: - Xây dựng thương hiệu: + Đầu tư cho sản phẩm: nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo mẫu mã sản phẩm, bao bì cho sản phẩm. + Đầu tư cho xúc tiến thương mại: đầu tư cho khâu bán hàng, cho khâu tiếp thị, quảng cáo + Đầu tư nâng cao uy tín cho doanh nghiệp chi cho các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường… - Bảo vệ thương hiệu: + Đầu tư cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp, kiểm tra, dự báo, định hướng cho sự phát triển của thương hiệu. + Chi cho theo dõi phát triển các hoạt động xâm phạm sở hữu trí tuệ và các biện pháp xử lý khắc phục khi có vi phạm. 4.2.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực *Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là một trong những yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế xã hội. Phát triển nguồn nhân lực giúp ta hoàn thiện, chuẩn bị cho người lao động thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu qủa hơn, giảm bớt sự giám sát đối với lao động do họ được đào tạo họ có thể là người tự giám sát, giảm tai nạn do hạn chế điều kiện làm việc…Đồng thời, phát triển nguồn nhân lực đảm bảo doanh nghiệp ổn định, giữ vững hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp kể cả khi thiếu người chủ chốt. Quốc gia nào không nhanh chóng phát triển nguồn nhân lực thì sẽ sớm tụt hậu, mặt khác đó cũng là đòi hỏi của sự hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. *Nội dung đầu tư: - Lựa chọn lao động đầu vào có chất lượng cao. Có 2 hình thức tuyển chọn là tuyển lao động có trình độ cao và lao động phổ thông. Đối với lao động có trình độ cao thì các doanh nghiệp phải tổ chức cuộc thi để lựa chọn. Tuy nhiên, việc tuyển chọn được lao động giỏi tương đối khó vì nó phụ thuộc vào tính chủ quan của người ra điều kiện thi tuyển và chấm tuyển. Hình thức này được áp dụng nhiều ở doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn doanh nghiệp nhà nước thì nó mang tính hình thức do họ không có chế độ ưu đãi và giữ lao động giỏi lại làm việc lâu dài cho doanh nghiệp. - Đào tạo cho đội ngũ lao động trong doanh nghiệp: trang bị kiến thức phổ thông, chuyên nghiệp và kiến thức quản lý. Theo hình thức đào tạo nguồn nhân lực có đào tạo mới áp dụng người lao động chưa có nghề hoặc thực hiện công việc này. Đào tạo lại áp dụng cho người đã có nghề song nghề này không phù hợp với sự phát triển của doanh nghiệp. Ngoài ra, có đào tạo nâng cao trình độ lành nghề, nâng cao kiến thưc và kinh nghiêm để người lao động có thể làm được việc phức tạp. Song song với hình thức trên, đầu tư vào đào tạo cho đội ngũ lao động còn một số phương pháp đào tạo trực tuyến thông qua mạng Internet, đào tạo thông qua chương trình lập sẵn bằng máy tính, đào tạo phụ… - Nâng cao điều kiện làm việc cho người lao động. Điều này trước đây không được doanh nghiệp chú ý nhưng trong thực tế nó có vai trò khá quan trọng trong sản xuất. Vì khi người lao động có điều kiện làm việc tốt họ mới yên tâm làm việc, phát huy hết khả năng của mình trong công việc giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Trong đó, tiền lương tăng sẽ khuyến khích người lao động hăng hái hơn trong công việc, người lao động tăng khả năng chi trả cho các nhu cầu cuộc sống từ đó có thể yên tâm làm việc. Mặt khác, bảo hộ lao động giúp người lao động an tâm làm việc tránh được rủi ro trong lao động. 4.2.4. Đầu tư vào tài sản vô hình khác Đầu tư vào tài sản vô hình khác có thể được hiểu gồm nội dung sau: - Đầu tư vào quyền sử dụng đất: là toàn bộ chi phí doanh nghiệp chi ra liên quan đến việc sử dụng đất gồm chi phí thuê, đền bù giải phóng mặt bằng, chi phí san lấp, lệ phí trước bạ. - Chi phí mua các bằng phát minh, sáng chế - Chi phí thành lập doanh nghiệp gồm: thăm dò, lập dự án, chi phí liên quan đến khai trương, quảng cáo… II. Lý luận chung về ngành dệt may Việt Nam 1. Vai trò, đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam 1.1. Vai trò của ngành dệt may Việt Nam Ngành sản xuất các sản phẩm dệt may ở nước ta là một trong những ngành nghề có truyền thống lâu đời nhất, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển xã hội người Việt.Xã hội càng phát triển, khoa học công nghệ đạt đến khả năng giải quyết được các vấn đề khó khăn của sản xuất làm cho công nghiệp dệt may cũng ngày một hoàn thiện hơn và nhờ đó, phục vụ đời sống con người tốt hơn. Sự phát triển của công nghiệp dệt may Việt nam bắt đầu từ khu công nghiệp dệt Nam Định được thành lập năm 1889. Cho đến nay , ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Thứ nhất, ngành công nghiệp dệt may có vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Nó có tác động lớn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia. Dệt may phát triển kéo theo sự phát triển của hàng loạt các ngành trong đó phải kể tới ngành nông nghiệp như việc trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm….., ngành công nghiệp hoá dầu chế biến nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, công nghiệp chế tạo, giải quyết được vấn đề việc làm cho hàng loạt lao động ….. Thứ hai, ngành dệt may là ngành có kim ngạch xuất khẩu cao. Đến nay, hàng may Việt nam đã xuất khẩu đến hơn 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, chủ yếu là Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU.Từ đó vừa có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa thu được nguồn ngoại tệ đáng kể. Với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 24,8%/năm, ngành vươn lên đứng vị trí thứ hai về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 3,63 tỷ $, tăng nhanh so với năm 2002 và chiếm tỷ trọng hơn 18% trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu đã đạt kỷ lục 4,36 tỷ $. Thứ ba, ngành dệt may còn có vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho đông đảo lao động. Lực lượng lao động trong ngành dệt may chiếm khoảng 25% lực lượng lao động công nghiệp. Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho chính lao động trong ngành, dệt may còn góp phần giải quyết việc làm cho ngành phụ trợ, như những nông dân trông bông, trồng dâu nuôi tằm…. Thứ tư, dệt may là một phân ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, nó cung cấp sản phẩm thiết yếu cho xã hội. Ngành có nhiệm vụ đáp ứng cho nhu cầu mặc- một trong hai nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, mà con người là chủ thể của xã hội do đó chức năng của ngành dệt may có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội. 1.2. Đặc điểm của ngành dệt may Thứ nhất, ngành công nghiệp may là ngành mà sản phẩm của nó có vòng đời ngắn. Sản phẩm được sản xuất ra để phục vụ con người, mà con người lại có có độ tuổi, nhu cầu, sở thích khác nhau nên sản phẩm dệt may cũng phải thay đổi để phù hợp với người sử dụng. Mỗi độ tuổi, giới tính lại có nhu cầu khác nhau về may mặc. Ngoài ra, sản phẩm dệt may còn chịu ảnh hưởng của yếu tố thời vụ: theo từng mùa, từng năm, yếu tố thời trang của từng giai đoạn nhất định. Đặc điểm này đòi hỏi nhà sản xuất phải nắm bắt nhu cầu, quan tâm đến thiết kế, thay đổi mẫu mã để phát triển được sản xuất, kinh doanh của mình. Thứ hai, công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp mà sản phẩm của nó thường được bảo hộ cao. Việc bảo hộ này được thực hiện thông qua các hạn ngạch nhập khẩu, nguyên tắc nhãn hàng hoá, xuất xứ, chính sách xuất nhập khẩu…..Sự bảo hộ này không chỉ có ở các nước trực tiếp tham gia xuất khẩu hàng dệt may mà còn ở các nước lớn khác bởi họ muốn khống chế và chi phối các nước đang phát triển này. Do đó, nước nào muốn tham gia vào xuất khẩu hàng dệt may phải quan tâm dến chính sách nhà nước, luật quốc tế, để có đối sách cho phù hợp. Thứ ba, khác với ngành công nghiệp khác đòi hỏi nhiều máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại do đó sử dụng ít lao động, ngành dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn. Do yêu cầu của việc sản xuất trong ngành dệt may không đòi hỏi công nghệ, may móc hiện đại, phức tạp do đó cần nhiều lao động, trong đó lao động giản đơn là chính. Thứ tư, công nghiệp dệt may là ngành có sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu cho con người, là sản phẩm không thể thay thế được. Con người có hai nhu cầu cơ bản đó là ăn và mặc, thì ngành dệt may đáp ứng nhu cầu mặc của con người. Con người không thể không mặc gì, không thể thay quần áo bằng những thứ khác, mà chỉ có thể thay thế vải này bằng vải loại vải khác, quần thành váy mà thôi. 2. Đặc điểm đầu tư của ngành dệt may Mỗi một ngành công nghiệp độc lập có những đặc điểm nhất định, khác biệt so với các ngành khác. Những đặc điểm đó chi phối đến quá trình tổ chức sản xuất và trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành. Việc nghiên cứu, làm rõ chúng có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển. ngành dệ may có điểm khác biệt so với các ngành khác, do đó đầu tư của ngành dệt may cũng có những điểm khác biệt, đó là: Thứ nhất, vốn đầu tư vào ngành dệt may không lớn và thời gian thu hồi vốn nhanh. Đây là ngành có suất đầu tư thấp, suất đầu tư ngành dệt may bằng 1/10 so với ngành cơ khí, 1/15 so với ngành điện, 1/20 so với ngành luyện kim. Để tạo ra một làm việc ngành dệt chỉ cần đầu tư 15000$, ngành may 1000$,trong đó ngành giấy cần 30000$. Đồng thời, thời gian thu hồi vốn của ngành dệt may thấp hơn so với nhiều ngành khác, thời gian thi hồi vốn của ngành may là 5-7 năm, dệt là 10-12 năm, công nghiệp nặng là 10-15 năm. Thứ hai, dệt may là ngành không đòi hỏi công nghệ quá phức tạp. Khác với các ngành công nghiệp khác, công nghệ phải phát triển tới một mức độ nào đó thì sản xuất của ngành mới có thể thuẹc hiện được như việc khai thác, dầu khí, mỏ quặng…Dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn, do đó không yêu cầu công nghệ phải hiện đại và vì vậy nó xuất hiện sớm ở nhiều nước đang phát triển. Thứ ba, trong quá trình phát triển sản xuất, đầu tư nguyên nhiên liệu là quan trọng. Cũng như các ngành công nghiệp khác, nguyên vật liệu là cơ sở chính để sản xuất , đặc biệt trong ngành dệt may nó có những tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất. Hiện nay, dệt may Việt Nam còn nhập nguyên liệu nhiều với giá rất cao, do đó cần đầu tư phát triển vùng nguyên liệu trong nước đáp ứng nhu cầu sản xuất của ngành. Thứ tư, ngành dệt may đòi hỏi đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Như ta đã biết, 4 yếu tố tham gia vào sản xuất: vốn, lao động, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Dệt may là ngành có đòi hỏi vốn không nhiều, công nghệ không quá phức tạp, do đó trong sản xuất phải đầu tư phát triển nhiều nguồn lực. Do ngành dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là lao động giản đơn, do đó chú trọng vào nguồn nhân lực là điều quan trọng. PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM I. Tình hình huy động vốn trong ngành dệt may Việt Nam hiện nay 1.1. Vốn trong nước Hiện nay, hoạt động đầu tư phát triển bằng nguồn vốn trong nước của doanh nghiệp ngành dệt may đã mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, như giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu. Do đó, nhà nước có định hướng, chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành dệt may. Các doanh nghiệp dệt may quốc doanh được cấp vốn ban đầu, đồng thời được cấp 30% vốn lưu động định mức theo kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm. Nguồn vốn trong nhân dân hiện nay còn rất lớn, các doanh nghiệp có khả năng có thể huy động vốn bằng cổ phiếu, trái phiếu. Mặt khác nhiều doanh nghiệp năng động, đã huy động được các nguồn vốn khác, như vốn vay ở ngân hàng, vốn vay nước ngoài, liên doanh, hợp tác... để mở rộng quy mô sản xuất như May 10, May Nhà Bè, May Việt Tiến... Theo thống kê của hiệp hội dệt may Việt Nam, trong 4 năm 2001-2004, riêng Vinatex đầu tư 8000 tỷ đồng, trong đó gần 70% là đầu tư vào ngành dệt. Hiệp hội dệt may Việt Nam đang kiến nghị chính phủ tập trung nguồn tín dụng khoảng 15 000 tỷ đồng hỗ trợ cho ngành dệt may phát triển từ 2004-2009. Đồng thời, các ngân hàng giảm lãi suất cho vay, các tổ chức tín dụng nước ngoài sẵn sàng cho Việt Nam vay khi có ngân hàng ngoại thương bảo lãnh. Vì vậy, tạo thuận lợi cho việc thu hút cho ngành dệt may. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn trong tình trạng thiếu vốn, nhất là vốn đầu tư dài hạn. Tình trạng thiếu vốn này thể hiện ở cả 2 mặt: vốn lưu động và vốn đầu tư để đổi mới công nghệ và thiết bị. Một số doanh nghiệp cần vốn ngay do đó phải đi vay và chịu lãi suất cao, thời gian trả nợ ngắn. Lãi vay không kịp trả đưa đến tình trạng nợ lớn, nguy cơ phá sản cao. Lãi suất ngân hàng hiện nay tuy đã giảm nhiều so với trước nhưng tỷ trọng cho vay trong và dài hạn quá thấp nên các doanh nghiệp không có điều kiện để vay vốn đầu tư chiều sâu. 1.2. Vốn nước ngoài Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong sản xuất của ngành dệt may. Nó chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng vốn đầu tư vào ngành dệt may hiện nay. Tính đến nay, có khoảng 180 dự án sợi- dệt- nhuộm- đan len- may mặc có hiệu lực với số vốn đăng ký đạt gần 1,85 tỷ $, trong đó đã có 130 dự án đi vào hoạt động. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm trên 30 % giá trị sản lượng hàng dệt và trên 25 % giá trị sản lượng hàng may mặc của cả nước. Dòng vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành dệt may trong thời gian qua đã thực sự có tác động tích cực và có vai trò quan trọng trong chiến lược đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam. Đầu tư nước ngoài đã mang lại cho ngành dệt may Việt Nam một lượng vốn đầu tư rất lớn, khoảng 42 % trong tổng số vốn đầu tư toàn ngành dệt may trong thời gian qua. Lượng vốn này đã góp phần giải quyết khó khăn của doanh nghiệp dệt may Việt Nam, là nguồn vốn bổ sung đáng kể khi nguồn vốn trong nước chưa huy động hết. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may Việt Nam Năm Số dự án Tổng số vốn(triệu $) Bình quân 1dự án(Triệu $) 2000 46 89,018 1,872 2001 73 135,83 1,86 2002 148 237,78 1,606 2003 145 268,23 1,85 2004 21 73,0738 3,479 Đến nay, có khoảng 25 quốc gia đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam, chủ yếu là Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan.... với dự án quy mô vừa và nhỏ. Đài Loan là nước đầu tư lớn nhất với số vốn 1388,88 tr $ trong đó 53 dự án dệt, tương ứng 1189, 51 tr$; 92 dự án may tương ứng 199,37tr $. Song song với việc thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài, một lượng lớn tài sản thiết bị kỹ thuật và nguồn lực đáng kể được đưa vào hoạt động cho mục tiêu phát triển của ngành dệt may một cách có hiệu quả. Việc đổi mới trang thiết bị, máy móc công nghệ có được là nhờ sự góp vốn đầu tư của nhiều tập đoàn dệt may trên thế giới: Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản...Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp vai trò quan trọng trong sản xuất công nghiệp nói chung, dệt vải chiếm 33,5 % tổng giá trị sản xuất công nghiệp của ngành. Tuy nhiên, nguồn vốn nước ngoài còn một số hạn chế, đó là: Vốn đầu tư nước ngoài vào các khu vực chưa hợp lý do đó tạo ra sự chênh lệch thu nhập của công nhân dệt may giữa các khu vực và chưa khai thác hết tiềm năng về lao động, lợi thế của ngành dệt may. Hiệu quả sử dụng vốn nước ngoài chưa cao và không đồng đều. Hình thức liên doanh giảm đi đáng kể, chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ 16,44 % 2. Tình hình đầu tư vào tài sản cố định hữu hình 2.1. Đầu tư vào máy móc thiết bị và công nghệ Hoạt động đầu tư vào thiết bị công nghệ có vai trò rất quan trọng trong sản xuất của các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành dệt may. Tuy ngành dệt may được phát triển sớm nhưng nếu không có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ thì không có khả năng phát triển sản xuất sản phẩm chất lượng cao, tốn kém về chi phí sản xuất, không tạo được sản phẩm đa dạng. Công nghệ mới góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày một gia tăng của con người. Ngược lại, sự tiến bộ khoa học công nghệ tạo sản phẩm mới kích thích làm phát triển nhu cầu tiêu dùng dẫn đến thúc đẩy trở lại ngành dệt may phát triển. Đổi mới thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thực sự được đặt ra và thực hiện một cách mạnh mẽ trong quá trình công nghiệp hoá. Hiện nay, công nghệ này đã có những cải thiện đáng kể, nhiều công đoạn của quá trình sản xuất đã đạt được trình độ công nghệ ở các nước tiên tiến. Trong những năm qua, với lượng vốn đầu tư thu hút nhiều, ngành dệt may Việt Nam đã tập trung đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ cho ngành dệt may. Vốn đầu tư thiết bị trong tổng vốn đầu tư của Vinatex giai đoạn 1998-2004 Đơn vị: Tỷ đồng 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng vốn đầu tư 2066,8 3157 2111,8 1245,3 1514,6 Vốn thiết bị 1126 1774 1036 598 709,59 Tỷ lệ(%) 54,48 56,19 48,89 48,02 46,85 Ta thấy chỉ có năm 2003 vốn cho thiết bị của ngành thấp, chỉ đạt 598 tỉ đồng, còn lại ở các năm 2000-2004 thì vốn thiết bị tăng theo tổng vốn đầu tư. Cụ thể được thể hiện ở biểu đồ sau: Qua kết quả khảo sát 2003 về “ đổi mới thiết bị công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam” ta có thực trang trình độ công nghệ của công nghiệp dệt may như sau: * Thiết bị công nghệ kéo sợi: Hiện nay, toàn ngành có khoảng 1050000 cọc kéo sợi và số cọc đã sử dụng trên 20 năm chiếm 44,67 %; số cọc sợi đã sử dụng từ 10 – 20 năm chiếm 36,62 %; số cọc sợi đã sử dụng dưới 10 năm chiếm 8,6 %. Nhìn chung, công nghệ kéo sợi chưa đạt yêu cầu về chất lượng, công ty sợi được trang bị máy móc hiện đại nhất cũng mới chỉ đạt khoảng 50 %. Công nghệ kéo sợi OE là công nghệ phổ biến nhất cũng mới chỉ đạt xấp xỉ 5 % sản lượng kéo sợi. *Thiết bị công nghệ dệt thoi: Tỷ lệ máy dệt mới được trang bị chỉ chiếm khoảng 15 % toàn ngành có khoảng 14 nghìn máy dệt vải, 450 máy dệt kim. Số máy dệt thoi kiểu cũ khổ hẹp chiếm tới 80%. Hầu hết các doanh nghiệp mới kéo được sợi có chỉ số 50, một số ít làm được sợi 60 và sợi để sản xuất mảnh vải có chất lượng cao nhưng chỉ số 80 – 100 thì chưa làm được *Thiệt bị công nghệ in nhuộm: Chất lượng sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào thiết bị mà còn phụ thuộc vào công nghệ bao gồm hoá chất, thuốc nhuộm, quy trình công nghệ. Hiện nay, các xí nghiệp in nhuộm có năng lực sản xuất khoảng 600 tr m/ năm nhưng năng suất rất thấp. Tỷ lệ nhuộm đúng ngay từ mẻ đầu thường là 45 – 50%, cơ sở tốt nhất là 75% trong khi đó tỷ lệ này ở nước khác là 90%. Tỷ lệ nhuộm lại do sai màu chiếm 15-25%, cơ sở làm tốt nhất cũng chỉ đạt 6-7%, ở nước ngoài là 1-4%. *Thiết bị công nghệ may: Hiện nay toàn ngành có khoảng 190 nghìn máy may. Trên cả nước, ngành may đã đổi mới được 90% máy móc thiết bị, trong đó có các loại máy có chất lượng cao, tự động hoá. Song hiện nay thiết bị ở các khâu trên dây chuyền công nghệ có trình độ công nghệ rất chênh lệch nhau. Ở khâu may và hoàn tất sản phẩm sử dụng thiết bị mới và hiện đại, còn ở khâu chuẩn bị sản xuất, khâu cắt thì vẫn sử dụng lao động thủ công, năng suất thấp. Bên cạnh đó, còn tồn tại sự chênh lệch về trình độ công nghệ của các doanh nghiệp dệt may, như là: sự chênh lệch trình độ công nghệ của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao, còn ở doanh nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước rất thấp. Chênh lệch về trình độ công nghệ giữa doanh nghiệp dệt và doanh nghiệp may, doanh nghiệp dệt chỉ có 15% máy mới, còn doanh nghiệp may xuất khẩu đã được thay toàn bộ thiết bị hiện đại. Hơn nữa, trình độ công nghệ sản xuất của ngành dệt may vẫn đang lạc hậu so với các nước trên thế giới, sản lượng sản phẩm xuất khẩu hạn chế, đạt khoảng 400 tr sản phẩm, trong khi đó ở Trung Quốc là 10 tỷ, Inđô là 3 tỷ, Thái Lan là 2,5 tỷ sản phẩm. Vốn đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ còn thiếu, đầu tư mang tính chất bổ sung thay thế là chính, chứ chưa quan tâm đến đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư sản xuất chủng loại mặt hàng mới. Nhiều doanh nghiệp đầu tư lớn song lại chưa huy động hết thiết bị mới đầu tư vào sản xuất, đặc biệt là dây truyền dệt, nhuộm. Đầu tư còn chưa đồng bộ và chưa phù hợp với xu hướng hiện nay của thị trường. Từ thực trạng trên cho thấy, đòi hỏi các doanh nghiệp ngành dệt may cần tập trung đầu tư hơn nữa cho thiết bị, công nghệ để có thể sản xuất ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường trong nước cũng như thế giới. 2.2. Đầu tư vào nguồn nguyên vật liệu Hiệu quả sản xuất của ngành may mặc chịu ành hưởng của nhiều nhân tố như thị trường đầu ra, đầu vào, môi trường thể chế pháp luật…. trong đó, một trong những yếu tố đầu vào có ý nghĩa quyết định đó là nguyên liệu thượng nguồn hay còn gọi là nguồn nguyên phụ liệu. Nguyên liệu thượng nguồn cho ngành may mặc, bao gồm những loại sản phẩm trung gian có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất sản phấm cuối cùng của may măc, một số sản phẩm chủ yếu như: sợi, vải, chỉ may, bao bì đóng gói, nhãn mác… cũng có thể hiểu một cách tương đối là sản xuất nguyên phụ liệu may mặc chính là ngành sản xuất phụ trợ của may mặc. Trong thời gian qua, ngành dệt may đã chú trọng đến đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu và đạt được một số kết quả như: sản lượng bông cung cấp phát triển, chất lượng tốt hơn, các nguyên phu liệu khác cũng đáp ứng tốt hơn. Tuy nhiên, theo thống kê hiện nay ngành may mặc Việt Nam, nguồn nguyên phụ liệu trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành. Hàng năm, phải nhập từ nước ngoài chiếm đến 70%, điều này ành hưởng lớn đến hiệu quả của ngành may mặc Việt Nam. Nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may Việt Nam Mặt hàng Đơn vị 2000 2001 2002 2003 2004 Sợi dệt Nghìn tấn 273 210,7 265 217,3 231 Bông Nghìn tấn 90,4 98 97 91,7 138 Nguyên phụ liệu dệt may Triệu $ 1422 1589 1711 2035,6 2216 Tính đến nay, ngành may mặc và các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ may mặc có số vốn đầu tư đăng ký đạt 1,85 tỷ $, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm trên 30% giá trị sản lượng hàng dệt và 25% giá trị sản lượng may mặc. Bên cạnh đó, cây bông có vai trò quan trọng, là nguồn nguyên liệu của ngành dệt may. Ta sử dụng bông sản xuất trong nước sẽ chủ động được nguyên liệu, tiết kiệm ngoại tệ, cân băng kim ngạch XNK và khai thác tiềm năng đất đai lao động nhiều vùng trong cả nước. Trong giai đoan 2000 – 2003, ngành dệt may đã thực hiện 10 dự án phát triển trồng và chế biến bông, sản lượng bông tăng hàng năm 12- 15%, diện tích tăng từ 11- 17%, năng suất bình quân hàng năm đạt khoảng gần1 tấn/ha. Tuy vậy, thực tế hiện nay diện tích và năng suất trồng bông của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được từ 10- 15% nhu cầu nguyên liệu của ngành dệt may, còn lại vẫn nhập khẩu là chủ yếu. Hàng năm, chúng ta vẫn phải bỏ khoảng 100 tr $ để nhập khẩu từ 50- 60 tấn bông xơ, chiếm 90% số lượng bông xơ sử dụng. Chính việc nhập khẩu này đã hạn chế khả năng phát triển của công nghiệp dệt. Doanh nghiệp không chủ động được nguồn nguyên phụ liệu và thời gian đáp ứng nhanh yêu cầu khách hàng từ đó ảnh hưởng đến kết quả sản xuất. Ngoài ra, tơ tằm cũng là nguyên liệu quan trọng trong ngành dệt may. Trong những năm gần đây nghề trồng dâu nuôi tằm đã được nhà nước quan tâm đầu tư phát triển. Diện tích trồng dâu có xu hướng tăng lên, đến 2000, diện tích trồng dâu lên đến 40000 ha. Bên cạnh đó, cũng tập trung vào trồng đay để sản xuất đay tơ. Hàng năm sản lượng đay đạt 20000 tấn. Một số dự án phát triển sản xuất tơ sợi nhân tạo và tổng hợp cho công nghệ dệt được xây dựng và thực hiện. Tổng sản lượng sợi đã gia tăng, tính riêng tổng công ty dệt may Việt Nam đã đạt 90000 tấn. Tuy nhiên, tình hình đầu tư phát triển vùng nguyên vật liêu, phụ liệu cho ngành dệt may còn gặp nhiều khó khăn. Nghề trồng dâu nuôi tằm được sản xuất ở quy mô nhỏ, phân tán do đó năng suất chưa cao, kỹ thuật còn chưa hiện đại nên sản lượng, chất lượng tơ chưa cao. Sản xuất đay tơ gần đây có xu hướng giảm sút. Nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ việc trồng trọt, sản xuất nguyên liệu cho ngành dệt may. Các nhà sản xuất chưa lấy chất lượng đặt lên hàng đầu cho quá trình sản xuất. 3. Tình hình đầu tư vào tài sản vô hình 3.1. Đầu tư vào thương hiệu Theo đánh giá của chuyên gia quốc tế Việt Nam thành lập khá ổn định sự có mặt của mình trong thị trường hàng dệt may toàn cầu, ngành công nghiệp dệt may của Việt Nam đã có sức cạnh tranh. Sản phẩm dệt may Việt Nam đã tạo được sự tin cậy của các nhà bán lẻ quốc tế được biết đến khá nhiều trên thị trường quốc tế. Một số thương hiệu quen thuộc đã gây được uy tín như: may 10, may Việt Tiến, gấm Thái Tuấn, dệt kim Đông Xuân, sơ mi An Phước. Vài năm trở lại đây, một số doanh nghiệp dệt may đầu tư vào công tác tiếp thị, quảng bá sản phẩm hiệu quả đã sản xuất được nhiều sản phẩm mang thương hiệu của chính mình và từng bước đẩy lùi hàng ngoại như: công ty thời trang Việt với nhãn hiệu NinoMaxx, đưa ra sản phầm trên vải jeans, kaki, lylen… thích hợp cho giới trẻ năng động ; gấm Thái Tuấn với vải lụa mềm, hoạ tiết độc đáo hợp cho trang phục mang đậm nét văn hoá; may Việt Tiến với sản phẩm sơ mi, quần âu… đa dạng mẫu mã chiếm lĩnh thị trường khá đông đảo. Gần đây các doanh nghiệp đã quan tâm đến nghiên cứu, thu thập và phân tích thông tin thị trường như: tổ chức xây dựng các bộ phận nghiên cứu phát triển của phòng Marketing, xây dựng chương trình quảng cáo khuyến mãi, mở rộng hội nghị khách hàng, tham dự hội trợ trong nước, quốc tế. Tuy nhiên,sản phẩm may tiêu thụ nội địa phần lớn dựa vào mẫu mốt nước ngoài. Công tác nghiên cứu thiết kế mẫu thời trang còn thiếu. Các sản phẩm thời trang trên sàn diễn không được nhiều người thực tế sử dụng. Một số hàng thời trang cho trẻ em và phụ nữ còn ở mức cóp nhặt cải biển từ mẫu mã của Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc mà chưa có nhà thiết kế chuyên nghiệp. Ngành dệt may đến nay chưa hình thành được các trung tâm thiết kế mẫu mốt, tình hình tiêu thụ sản phẩm dệt may chất lượng cao mang nhãn mác của doanh nghiệp Việt Nam còn quá ít do đó không tạo được uy tín cho khách hàng, chưa xây dựng được hình ành doanh nghiệp trên thị trường. Bên cạnh đó, thương hiệu dệt may Việt Nam vẫn còn quá ít. Doanh nghiệp Việt Nam thiếu ý thức về đăng ký bản quyền bảo hộ thương hiệu, thường bị động trong việc bảo vệ thương hiệu khi xâm nhập thị trường nước ngoài. Chính vì vậy doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường bị mất thương hiệu do sự thiếu cẩn trọng trong nghiên cứu thị trường và đối tác nước ngoài. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất khẩu chưa có thương hiệu riêng về hàng hoá của mình theo thống kê có 70% giá trị xuất khẩu là sản phẩm gia công và mang nhãn hiệu hàng hoá của bên đặt hàng, 30% mang nhãn hiệu hàng hoá của nhà sản xuất trong nước hoặc mua quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá của nước ngoài. Chính vì vậy, một số nhãn hiệu nổi tiếng của Việt Nam như: may Nhà Bè, may Thành Công, dệt kim Hà Nội không được Mỹ, Nhật, EU biết đến. Mặt khác doanh nghiệp Việt Nam sau khi bị đánh cắp thương hiệu thường lúng túng trong việc giành lại quyền sở hữu thương hiệu của mình, như vừa qua công ty Việt Tiến bị chiếm dụng thương hiệu ở Mỹ. 3.2. Đầu tư vào nguồn nhân lực Theo số lượng thống kê, đến nay có khoảng 1,6 tr lao động làm việc tại các cơ sở, nhà máy dệt may trong cả nước. Số lao động này chiếm khoảng 25% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp. Nhưng nhìn chung, khả năng sản xuất, phát triển của ngành dệt may còn có những hạn chế như: còn thiếu cán bộ có trình độ quản lý, chuyên ngành… do đó đòi hỏi cần tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Hiện nay, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của ngành đã được quan tâm. Các trường đại học đã có chuyên ngành đào tạo riêng như: Trường đại học Mỹ thuật công nghiệp, Khoa công nghệ dệt may của Trường đại học Bách Khoa, chuyên ngành thời trang của Viện đại học Mở. Ngoài ra, các công nhân kỹ thuật cũng được đào tạo trong các trường dạy nghề ở Gia Lâm. Các địa phương cũng có trường dạy nghề tại chỗ, trường hướng nghiệp. Theo số liệu năm 2204, tổng công ty dệt may Việt Nam đã triển khai được 24 lớp đào tạo, 699 học viên, 126 cán bộ được tập huấn quản trị chiến lược. Về vấn đề tiền lương cho người lao động trong ngành dệt may đã được gia tăng. Thu nhập cho người công nhân hiện nay khá ổn định so với trước. Tiền lương bình quân lao động ngành dệt may Việt Nam Chỉ tiêu Năm (USD/người/năm) 2000 2001 2002 2003 Tiền lương 700 720 740 760 Như vậy, ta thấy xu hướng này khá tốt đẹp trong ngành dệt may. Đến nay, nó đã tăng gấp gần 4 lần so với năm 1992. Do đó, đời sống người lao động làm trong ngành dần được cải thiện hơn. Đây cũng chính là điểm mạnh thu hút lao động vào ngành dệt may trong giai đoạn hiện nay.Trong đó, thu nhập của lao động ngành may cao hơn so với ngành dệt. Nhưng hiện nay, do ngành dệt đã được chú ý đầu tư nên khoảng cách này sẽ ngày càng có xu hướng giảm. Bên cạnh đó, tình hình đầu tư vào ngành dệt may hiện nay còn tồn tại một số vấn đề bất cập: Nhân công trong ngành dệt may ít được qua đào tạo và đào tạo lại, thường khoá đào tạo được tiến hành ngắn, trong 2 đến 3 tháng nội dung, mục tiêu đào tạo còn chậm đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Tay nghề của công nhân chưa cao, chưa đồng bộ, phù hợp với máy móc thiết bị do đó dẫn tới năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thấp. Theo Vinatex, ngành dệt may Việt Nam hiện nay chỉ có 0,4% kỹ su công nghệ, 1,9% đạt trình độ trung cấp. Ngành sử dụng lao động nhiều, tỷ lệ ở mức cao ( 72 - 77%) nên khi doanh nghiệp không co việc làm, không tiêu thụ sản phẩm dẫn tới nghỉ việc tràn lan, gây ảnh hưởng đến các vấn đề về xã hội, tệ nạn gia tăng. Cơ sở vật chất, vốn tự có còn thấp, giải quyết chế độ phúc lợi còn chưa tốt. Thu nhập của công nhân dệt may dù phát triển nhưng còn thấp. Vì đó ảnh hưởng đến sức khoẻ, năng suất lao động, đời sống của công nhân. Từ đó ảnh hưởng đến phát triển sản xuất ngành dệt may. Trong vòng 20 đến 30 năm nữa, Việt Nam vẫn là nước có nguồn lao động dồi dào và rẻ, đây là cơ sở để dòng đầu tư nước ngoài từ các nước phát triển và các nước NICs đầu tư mạnh vào ngành dệt may Việt Nam nhằm tận dụng lợi thế về sức lao động. Do đó đầu tư phát triển vào nguồn nhân lực trong ngành dệt may cần được chú trọng để nâng cao sản xuất của ngành. PHẦN III: GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 1. Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam trong thời gian tới. Nhìn sang các nước khu vực Đông Nam Á như: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc ta thấy ngành công nghiệp dệt – may đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ công nghiệp hoá. Tiềm năng của ngành này ở Việt Nam còn rất lớn, chưa khai thác hết. Để phát huy tiềm năng đó và nắm bắt thời cơ phát triển, ngành dệt may cần có chiến lược và kế hoạch cụ thể trong thời gian tới. Trong quyết định số 55/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ngày 23/04/2001 phê duyệt chiến lược tăng tốc ngành dệt may đã chỉ rõ nhiệm vụ trong những năm tới. Chiến lược tăng tốc nhằm giải quyết việc làm, phát triển ngành dệt may và nâng cao kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt-may Việt Nam. Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, dự kiến đến năm 2010, ba thị trường xuất khẩu chính là: Hoa Kỳ chiếm 50-55 %, EU chiếm 25-27% và Nhật Bản chiếm 12-15% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Một số mục tiêu cơ bản mà ngành dệt-may đang hướng tới Chỉ tiêu Đơn vị 2005 2010 - Kim ngạch xuất khẩu +May +Dệt -Sản lượng +Vải lụa thành phẩm +Sản lượng dệt kim +Sản lượng may -Sử dụng lao động -Tỷ lệ nội địa hoá Triệu $ Triệu $ Triệu $ Triệu m Triệu sp Triệu sp 1000 người % 5800 5000 800 1330 150 780 3000 50 9000 8000 1000 2000 210 1200 4000 75 Về vốn đầu tư, tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 khoảng 3000 tỷ đồng, trong đó tổng công ty dệt may Việt Nam cần 9500 tỷ đồng. Như vậy, để ngành dệt may Việt Nam có thể phát huy tốt vai trò của mình, triển khai đồng bộ và hiệu quả những chương trình hoạt động, tiếp tục phát triển mục tiêu toàn ngành đã đề ra vào những năm 2010 cần có một số giải pháp cụ thể. 2. Giải pháp đầu tư 2.1. Giải pháp thu hút vốn đầu tư cho ngành dệt may Năm 2010 toàn ngành dệt may cần 4,8 tỷ USD để đầu tư cho dự án mới do đó cần kêu gọi từ các nguồn vốn, bao gồm: vốn trong nước và vốn nước ngoài. 2.1.1. Vốn trong nước Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định đối với việc phát triển ngành dệt may. Nó có thể có được từ nhiều nguồn khác nhau. Trong doanh nghiệp, có thể thu hút vốn từ việc tích luỹ của doanh nghiệp, được hình thành từ khoản khấu hao để lại hay từ tiết kiệm chi tiêu. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể huy động bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu, huy động từ tiền của cán bộ, công nhân viên. Trong dân cư, ngoài việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu, một biện pháp cũng được coi là hữu hiệu trong giai đoạn hiện nay, đó là cổ phần hoá doanh nghiệp. Công tác này được thực hiện từ doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, sau đó đến toàn bộ doanh nghiệp may và một số doanh nghiệp dệt. Trong quá trình cổ phần hoá, ta cần chú ý, kết hợp hài hoà giữa lợi ích doanh nghiệp với lợi ích người lao động và lợi ích của toàn xã hội. Như vậy, mới đảm bảo được việc thu hút vốn một cách có hiệu quả. Đối với nhà nước, cần có các chính sách đầu tư vốn ưu đãi hơn cho doanh nghiệp như: bổ sung vốn lưu động bằng ngân sách, được giữ lại lợi nhuận sau thuế để đầu tư phát triển, ngân hàng nới lỏng điều kiện cho vay và hạ lãi suất phù hợp với tốc độ tăng giá. 2.1.2. Vốn đầu tư nước ngoài: Để thu hút được nguồn vốn này, ta cần có những biện pháp gọi vốn như: chủ động xây dựng các dự án đầu tư kêu gọi từ phía nước ngoài, nâng cao kết cấu hạ tầng cơ sở kỹ thuật. Đặc biệt đối với ngành dệt may thì đường giao thông là quan trọng do đó cần được chú ý để thu hút được vốn từ bên ngoài. Đồng thời, ta cần phải giảm giá thuê đất, miễn hẳn thuế đất, giảm thuế đối với công trình đầu tư công nghệ, đầu tư phát triển vùng nguyên liệu. Từ đó, mới có thể thu hút được doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, làm tăng cường vốn đầu tư cho ngành dệt may. 2.2. Đầu tư vào công nghệ, trang bị máy móc. Để giành thế chủ động trong sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp dệt – may cần chú ý đến giải pháp đầu tư, đổi mới thiết bị sản xuất, thay thế máy dệt cũ, lạc hậu không đảm bảo chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất thấp. Năng lực khâu hoàn tất cần được đầu tư ở mức tương ứng với công suất dệt mới. Về thiết bị công nghệ kéo sợi: Cần chọn lọc để thay dần những cọc sợi đã sử dụng, nâng cấp số cọc sợi mới. Quy hoạch lại các doanh nghiệp kéo sợi ra theo hướng chuyên môn hoá, tập trung cho đầu tư cho một vài doanh nghiệp để tạo ra loại sợi có chất lượng cao. Áp dụng những thành tựu về nguyên liệu, vật liệu mới, tận dụng phế liệu trong lĩnh vực sản xuất vải không dệt, phế liệu tơ tằm để kéo sợi Spunsilk, đẩy mạnh công suất kéo sợi OE. Về thiết bị công dệt thoi, phải tập trung đầu tư mạnh để cân đối với năng lực kéo sợi, tạo ra các loại vải có chất lượng cao. Trong những năm tới, cần tập trung vào máy dệt không thoi có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt. Mặt khác, phải đầu tư có trọng điểm theo hướng chuyên môn hoá ở từng doanh nghiệp, thực hiện tốt phương châm sản xuất theo nhiều tầng công nghệ. Về thiết bị in nhuộm, doanh nghiệp phải thay thế các thiết bị in-nhuộm lạc hậu hiện có để có thể đồng bộ hoá toàn bộ trang thiết bị, sản xuất các mặt hàng cao cấp. Đây là khâu có công nghệ phức tạp, đòi hỏi vốn lớn do đó cần đầu tư tập trung, hình thành các trung tâm in, nhuộm… Máy móc thiết bị phải đảm bảo chất lượng bền vững và ổn định lâu dài như thiết bị có xuất xứ từ Tây Âu và Nhật Bản. Về thiết bị may: cần thay thế những máy may đã sử dụng trên 10 năm để đảm bảo hiệu quả sản xuất. Phát triển mạnh các doanh nghiệp may nhỏ trên phạm vi toàn quốc đáp ứng nhu cầu thị trường. Bên cạnh việc đầu tư thiết bị công nghệ mới, phải làm chủ công nghệ đã được chuyển giao và tạo công nghệ nội sinh trên cơ sở công nghệ đã được chuyển giao đó để giảm bớt nhập khẩu. Đó là: duy trì được sản xuất, vận hành và bảo trì tốt thiết bị công nghệ, cố gắng tự thiết kế, chế tạo những phụ tùng hay hỏng, phát huy hết khả năng sản xuất của mọi trang thiết bị công nghệ hiện có. Cải tiến nâng cao tính năng một số thiết bị công nghệ cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam. Tạo ra các bí quyết, công nghệ sản xuất mặt hàng mới. Mặt khác, ta còn cần phải chuyên môn hoá cao ở từng doanh nghiệp và đa dạng hoá ở quy mô toàn ngành dệt may. Chuyên môn hoá sẽ định hướng quan trọng cho mỗi doanh nghiệp trong quá trình đầu tư, tạo sự liên kết, tận dụng nguồn lực thiết bị ở doanh nghiệp gần nhau. Đa dạng hoá sẽ tiết kiệm được vốn đầu tư, tận dụng được nguồn lực trong và ngoài nước về vốn và lao động. 2.3. Đầu tư vào nguyên vật liệu cho ngành dệt may Nguyên liệu là đầu vào của quá trình sản xuất, nguồn nguyên liệu không ổn định thì sản xuất không thể phát triển bền vững được. Tập trung phát triển ngành công nghệ phụ trợ để tăng cường khả năng cung ứng nguyên vật liệu, phụ liệu ban đầu vào là giải pháp quan trọng để phát triển tốt ngành dệt may. Trước hết là vấn đề nguyên liệu cho bản thân ngành dệt. Đối với sợi bông, ngành dệt-may phải liên doanh với ngành bông đầu tư mở rộng các diện tích trồng bông, đầu tư công nghệ mới phù hợp để việc chế biến bông thành xơ, sợi có hiệu quả nhất để đảm bảo hiệu quả kinh tế toàn diện, nhất là nâng cao chất lượng xơ bông Việt Nam. Đồng thời, phải phát triển cây bông thành một chương trình, phải hợp tác sản xuất giữa công ty bông và doanh nghiệp dệt lâu dài. Đối với sợi tơ tằm nguồn nguyên liệu quý giá để sản xuất hàng may cao cấp cần đầu tư hỗ trợ vốn cho nông dân, thu mua với giá cả hợp lý, đầu tư thiết bị công nghệ để chế biến sản phẩm tơ tằm có chất lượng cao hơn phục vụ xuất khẩu. Do đó, cần nhanh chóng phát triển mạnh mẽ vùng nguyên liệu bông, vùng trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa thông qua các chính sách hỗ trợ cho nông dân về giống, phân bón….và tiêu thụ 100% sản phẩm với mức giá hợp lý để người nông dân có thể tái sản xuất, nang cao mức sống…Trong năm 2005, phải trồng được 60000 ha bông, thu hoạch được 30000 tấn bông xơ, và tới năm 2010 phải phát triển diện tích gieo trồng lên tới 130000ha với sản lượng thu được là 95000tấn. Bên cạnh đó, cần phải kết hợp tốt phương thức bốn nhà (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nước) trong việc phát triển diện tích vùng nguyên liệu và nâng cao năng suất, hoàn thiện quy trình sản xuất theo hướng khoa học và công nghiệp hoá. Đối với xơ, sợi tổng hợp, Việt Nam định hướng đầu tư ngành công nghiệp hoá dầu để chế biến nhằm giúp ngành dệt chủ động về nguồn nguyên liệu. Cần nhanh chóng đầu tư sản xuất sơ tổng hợp, đầu tư thêm các nhà máy kéo sợi chất lượng cao, các loại sợi mới và vải dệt kim. Thời gian tới, cần xây dựng thêm nhà máy để chế biến đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu về nguyên liệu này. Tiếp theo, để phát triển sản xuất nguyên phụ liệu may Nhà nước cần xem xét bổ sung, hoàn thiện hệ thống các chính sách và một số vấn đề khác như: Thứ nhất, Nhà nước nên đầu tư một số khu công nghiệp liên hoàn về dệt-may để hỗ trợ nhau đạt được hiệu quả kinh tế tối ưu bao gồm: nhà máy cơ khí, nhà máy sản xuất phụ liệu… Nhà nước nên khuyến khích đầu tư nước ngoài vào những dự án của ngành dệt đòi hỏi vốn lớn, có công nghệ phức tạp mà doanh nghiệp trong nước chưa đủ khả năng thực hiện để thay thế số vải vẫn nhập từ Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á khác. Thứ hai, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi hơn nữa cho việc đầu tư phát triển vào công nghiệp phụ trợ cho ngành may, các chính sách ưu đãi có thể thực hiện ngay như chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi tín dụng, ưu đãi nhập khẩu thiết bị…Đầu tư vào các ngành sản xuất nguyên phụ liệu may mặc lợi nhuận thường thấp hơn, khó khăn hơn khu vực may mặc, nên cần có các ưu đãi nhiều hơn. Thứ ba, cần có các chính sách hỗ trợ bước đầu cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nguyên phụ liệu may mặc, có thể là các chính sách trợ giá sản phẩm, ưu đãi về mặt bằng, hỗ trợ việc đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn đội ngũ lao động, định hướng liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp sản xuất phụ trợ và các doanh nghiệp hạ nguồn nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm thượng nguồn có thể phát triển theo hướng chuyên môn hoá. Thứ tư, thực hiện chính sách quy hoạch tổng thể, quy hoạch cụ thể cho phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ nói chung và ngành sản xuất nguyên phụ liệu may nói riêng. Quan điểm chung khi quy hoạch là phải xác định những sản phẩm phụ liệu nào cần phát triển sản xuất trong nước, sản phẩm nào cần nhập khẩu từ nước ngoài nhằm phát huy tối đa lợi thế kinh tế, đồng thời xử lý tốt mối quan hệ liên ngành trong việc nâng cao giá trị gia tăng của sản xuất hạ nguồn. Cần phải xác định đầu tư có trọng điểm, tránh đầu tư dàn trải, gây lãng phí trong việc đầu tư của Nhà nước như các ngành đã xảy ra như mía, đường, xi măng….. Để phát triển các ngành công nghiệp sản xuất phụ liệu cho ngành dệt may cần phải phát triển hệ thống các doanh nghiệp sản xuất phụ liệu may trong nước. Trong thời gian tới, cần nhanh chóng quy hoạch lại việc sản xuất phụ liệu, không để tình trạng đầu tư tự phát rồi dẫn đến dư thừa năng lực. Một số ngành sản xuất loại phụ liệu khác thì ngành cần đề nghị chính phủ để xây dựng các nhà máy hoá chất hoặc đẩy nhanh hoạt động của các nhà máy có sẵn để phục vụ tốt hơn cho ngành dệt – may. 2.4. Đầu tư vào thương hiệu Trong thời gian gần đây, thương hiệu mới được quan tâm và chú ý hơn trước, hiểu rõ được vai trò của nó, các doanh nghiệp mới bắt đầu đi vào đầu tư một cách riêng biệt cho thương hiệu. Hiện nay, do doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là doanh nghiệp dệt-may thường bị động trong việc bảo vệ thương hiệu, lúng túng trong việc giành lại quyền sở hữu thương hiệu của mình do đó ta cần có những giải pháp cụ thể cho việc đầu tư vào thương hiệu. Để tạo lập và phát triển thương hiệu thì chúng ta cần phải thoả mãn một số điều kiện như: nhận thức của doanh nghiệp, cơ sở pháp lý, tiềm lực tài chính của doanh nghiệp, chính sách Nhà nước, chiến lược, chính sách tạo lập và phát triển thương hiệu của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nhận thức rõ sự cần thiết và tác dụng của việc tạo lập và phát triển thương hiệu của mình thì sẽ tận dụng cơ hội để hình thành thương hiệu và đầu tư thời gian và tiền bạc vào sự tạo lậpvà phát triển thương hiệu. Hệ thống pháp luật đồng bộ, rõ ràng, mang tính quốc tế sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận thông tin về thương hiệu, hiểu biết quyền lợi, nhiệm vụ của doanh nghiệp trong việc đăng ký và bảo vệ thương hiệu của mình. Đồng thời nó còn giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí trong việc đăng ký và bảo vệ thương hiệu. Chính sách nhà nước tạo điều kiện, cơ hội, khuyến khích và trợ giúp doanh nghiệp trong hoạt động có liên quan đến thương hiệu.Vì vậy, doanh nghiệp nhận thức đúng đắn về thương hiệu là một nhân tố cần thiết định hướng cho việc đầu tư vào thương hiệu và nhà nước cũng cần có nhưng chính sách khuyến khích đầu tư vào thương hiệu trong ngành dệt may Việt nam. Trước hết, các doanh nghiệp dệt-may cần tập trung nguồn lực tài chính đầu tư cho khâu thiết kế, xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp và sản phẩm. Vấn đề thuê mua thương hiệu cũng cần được các doanh nghiệp cân nhắc và phải tính tới yếu tố thị trường khi ký hợp đồng kiểu này. Đồng thời, phải xây dựng thị trường mục tiêu cho từng thương hiệu, tiến hành các thủ tục đăng ký cho thương hiệu tại thị trường mục tiêu, phát triển mạng lưới phân phối tại các thị trường đó. Tăng cường tổ chức và tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, đặc biệt là các hội chợ chuyên ngành dệt may, các hoạt động tổ chức giới thiệu hàng dệt may Việt Nam. Ngoài ra, giải pháp tốt để xây dựng thương hiệu là tăng cường quảng bá cho các thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm dệt may trên Internet, đẩy mạnh thương hiệu điện tử trong kinh doanh dệt may. Đa dạng hoá và tranh thủ các hình thức hợp tác quốc tế để quảng bá thương hiệu, tổ chức các kênh phân phối, tiêu thụ một cách có hệ thống, bài bản. Song song với việc xây dựng thương hiệu ta cần bảo vệ thương hiệu của mình. Muốn vậy, cần am hiểu luật, chủ động đăng ký thương hiệu, tiếp cận thông tin về thương hiệu một cách hiệu quả. 2.5. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực Để đảm bảo thực hiện chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010, ngành dệt may cần bổ sung một số lượng lớn từ công nhân lành nghề, cán bộ quản lý, kỹ sư thực hành, nhà thiết kế thời trang cho đến cán bộ quản lý cao cấp. Đối với công nhân, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ khuyến khích và thu hút học sinh có khả năng theo học ngành dệt-may, khắc phục tình trạng thừa thầy, thiếu thợ trong ngành dệt may. Đầu tư thoả đáng cho các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu sản xuất theo dây chuyền hiện đại, phát huy được hết ưu thế của công nghệ mới. Đối với lực lượng công nhân lành nghề, ngoài việc tăng cường đào tạo tại doanh nghiệp,ngành dệt may nên tổ chức các lớp đào tạo nghề dệt-may, đặc biệt các lớp dạy nghề cho lao động tại các khu vực nông thôn để có thể tận dụng được lợi thế về lao động dồi dào, giá công nhân rẻ của những khu vực này. Thông qua các cuộc thi thợ giỏi, tay nghề của công nhân sẽ có điều kiện để được nâng cao. Vì thế, mở rộng và thành lập thêm các trung tâm dạy nghề nhằm ngày càng cung cấp cho ngành dệt may Việt Nam một lực lưọng lao động dồi dào, có tay nghề vững vàng, có tác phong công nghiệp, phục vụ tốt cho việc sản xuất các mặt hàng dệt may đạt tiêu chuẩn xuất khẩu theo yêu cầu của từng thị trường. Chính phủ nên có chương trình đào tạo lao động cho ngành dệt may và thực hiện chương trình này theo một chương trình đào tạo quốc gia. Chính phủ cần tài trợ dạy nghề mà chủ yếu là tiếp nhận và chuyển giao thành chương trình thường xuyên với chi phí chấp nhận được, trong đó có cả việc mời chuyên gia nước ngoài phối hợp với trường đại học để đào tạo theo yêu cầu. Điều kiện làm việc phải được cải thiện, phải có chính sách đãi ngộ, hỗ trợ đảm bảo công ăn việc làm tạo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động để họ yên tâm phát huy hết khả năng cho doanh nghiệp.Tránh tình trạng “chảy máu chất xám” trong các doanh nghiệp của ngành. Đối với cán bộ quản lý, biện phát tốt nhất để đào tạo cán bộ các cấp là tăng cường sự kết hợp giữa các doanh nghiệp và các trường đại học để mở các lớp đào tạo chuyên ngành quản lý có kiểm tra đào tạo gắn với thực tiễn, đồng thời cấp bằng tốt nghiệp cuối mỗi khoá để làm cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ của ngành. Đồng thời, cần thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, sát hạch nghiệp vụ của các cán bộ trong doanh nghiệp. Tổ chức các cuộc giao lưu doanh nghiệp điển hình trong ngành để học hỏi kinh nghiệm quản lý ở doanh nghiệp khác. Đối với cán bộ nghiên cứu khoa học, cần chú trọng giúp đỡ đào tạo các chuyên gia về thiết kế mấu chốt, cán bộ nghiên cứu thị trường nhằm khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành dệt-may xuất khẩu, từng bước tạo lập cơ sở để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp nhiều sản phẩm mang nhãn hiệu Việt Nam. Việc mở trường đào tạo các bộ ngắn hạn và dài hạn hướng dẫn chuyên sâu công tác nghiên cứu thị trường theo đặc thù, thiết kế mẫu mốt phù hợp với xu hướng mẫu mốt và tư duy của nền kinh tế mở sẽ tạo được một lực lượng cán bộ trẻ có năng lực tốt trong ngành dệt may. Đồng thời, cần đầu tư cơ sở vật chất cho việc thực hành, xúc tiến hoạt động giao lưu cả trong và ngoài nước để học hỏi và trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ cho cán bộ. KẾT LUẬN Tóm lại, ngành dệt may Việt Nam trong thời gian qua đã có bước tăng trưởng vượt bậc với nhiều thành tựu, đặc biệt là sự gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu trên thị trường thế giới. Những thành tựu mà ngành đạt được góp phần thúc đẩy tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp và một phần làm cho sự tăng trưởng GDP của đất nước. Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện nay, khó khăn của ngành dệt may gặp phải là không nhỏ: dỡ bỏ hạn ngạch dệt may đối với những nước trong tổ chức WTO mà Việt Nam chưa phải là thành viên chính thức…. Vì vậy, để đứng vững và phát triển được trước khó khăn đó, ngành dệt may Việt Nam đặt ra một yêu cầu cấp bách, đó là tăng cường đầu tư phát triển, nâng cao năng lực sản xuất của ngành. Cho đến nay, tình hình đầu tư phát triển trong ngành dệt may đã có những chuyển biến đáng kể, nhưng bên cạnh đó còn tồn tại những vấn đề chưa giải quyết được. Do đó, trong thời gian tới, ngành sẽ có những giải pháp đầu tư phát triển tích cực hơn nữa để giải quyết những khó khăn đó, tăng khả năng phát triển sản xuất, cạnh tranh trên thị trường thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư NXB Thống kê,2003 2. Niêm giám thống kê 2003 NXB Thống kê 3. Tạp chí công nghiệp 4. Tạp chí Khoa học-Công nghệ 5. Tạp chí Thị trường-Giá cả 6. Tạp chí Kinh tế và Dự báo 7. Tạp chí Kinh tế và Phát triển 8. Thời báo kinh tế Việt Nam 9. Một số trang web trên mạng internet.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0228.doc
Tài liệu liên quan