Xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội mở rộng trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả các nước và các vùng lãnh thổ từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó, chính sách biệt lập đóng cửa là không thể tồn tại vì chính sách này kìm hãm quá trình phát triển của xã hội. Một quốc gia, vùng lãnh thổ khó tách biệt khỏi thế giới vì những thành tựu khoa học kỹ thuật đã kéo con người ở khắp nơi trên thế giới xích lại gần nhau hơn và dưới tác động của quốc tế hoá buộc các nước phải mở cửa với bên ngoài. Vì vậy, đầu tư ra nước ngoài là một trong những hình thức kinh doanh quốc tế khá hữu hiệu hiện nay của các nước, đã và đang trở thành phổ cập tại rất nhiều nước.
Ngày nay, việc huy động vốn đầu tư ra các nước khác nhằm thu được lợi nhuận đang được các công ty áp dụng ngày càng rộng rãi hơn. Nó là một trong các yếu tố khá quan trọng trong cơ cấu phát triển của một quốc gia nhằm thu hút lợi nhuận, một hình thức quan trọng và phổ biến trong mối quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu tư ra nước ngoài góp phần sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn, công nghệ và lao động của các nước. Nước nhận đầu tư sẽ có được nhiều vốn hơn để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Còn nước đi đầu tư có thể khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực tiềm năng ở những nước nhận đầu tư, thu về những kết quả kinh doanh mà nếu như thực hiện đầu tư ở trong nước sẽ chỉ thu được hiệu quả nhất định. Đầu tư ra nước ngoài còn góp phần cải thiện mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia, các quan hệ về hợp tác thương mại, vấn đề môi trường, các quan hệ văn hoá xã hội khác, tạo nên tiếng nói chung giữa các cộng đồng và khu vực. Như vậy, trong bối cảnh quốc tế hoá nền kinh tế như hiện nay, vấn đề cần thiết đối với tất cả các nước, không phân biệt tình hình kinh tế xã hội là việc tăng cường khuyến khích, thực hiện đầu tư ra nước ngoài hiệu quả hơn.
58 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 1989 - 1998, mỗi năm có vài ba dự án, năm nhiều nhất có 5 dự án (1993) đầu tư ra nước ngoài nhưng vốn thực hiện còn thấp, có năm không giải ngân được đồng nào.
Kể từ năm 1999, khi Chính phủ ban hành Nghị định 22 về một số biện pháp khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu có sự tăng trưởng ổn định. Năm 1999 có 10 dự án, năm 2000 tăng lên 15 dự án và tăng trưởng đều đặn về số lượng dự án kể từ đó đến nay. Tuy nhiên, số vốn đầu tư thực hiện thấp hơn nhiều so với vốn đăng ký và vốn pháp định. Ví dụ, năm 2002 có tới 15 dự án được cấp phép ra nước ngoài với số vốn đăng ký 151,8 triệu USD, vốn pháp định 134,5 triệu USD nhưng vốn thực hiện chỉ đạt 1,7 triệu USD.
Những con số trên là khá khiêm tốn, song đầu tư ra nước ngoài là một hoạt động khá mới mẻ đối với các doanh nghiệp. Do đó, chúng ta cần nhận thức được những khó khăn gặp phải và tìm ra những nguyên nhân để khăc phục những hạn chế đó.
Hạn chế và nguyên nhân về mặt hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính
Đầu tiên, chúng ta phải tính đến là môi trường kinh tế vĩ mô. Thủ tục hành chính của ta hiện nay tuy đã có những tiến bộ, nhưng nhìn chung vẫn còn quá phức tạp, rườm rà, hiệu quả thấp. Vấn đề đáng quan tâm hiện nay là hầu hết các doanh nghiệp đều cho rằng thủ tục hành chính trong nước đang níu chân họ vươn ra thế giới. Nhiều dự án tuy chưa quá muộn để bị mất cơ hội đầu tư, nhưng cũng phải cận kề “giờ G” mới được cấp phép.
Do đó, trong thời gian gần đây, chúng ta cũng đã có những biện pháp khá tích cực, luôn theo sát hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp bằng việc sửa đổi hệ thống chính sách, pháp luật. Cuối năm 2005, Quốc hội nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư “mới” có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2006; thay thế cho Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 và Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998. Chúng ta đã dành riêng chương VIII trong Luật đầu tư “mới” quy định về hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đây là điểm nổi bật khi các bộ luật về đầu tư trước đây chỉ quy định hoạt động đầu tư pháp lý cho hoạt động đầu tư trong nước.
Từ trước năm 2006 chúng ta chỉ Nghị định 22/1999/NĐ – CP ngày 14/04/1999 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam là khung pháp lý dành cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Và, các doanh nghiệp còn gặp phải sự chậm chễ trong việc ban hành các văn bản pháp luật. Thật vậy, Nghị định 22 ra đời năm 1999 nhưng phải sau đó 2 năm, vào năm 2001 Thông tư 05 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam mới được ra đời. Sự chậm trễ này đã hạn chế rất nhiều đến việc xúc tiến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh đó, một loạt các vướng mắc doanh nghiệp gặp phải khi đầu tư ra nước ngoài vẫn chưa được quy định cụ thể như quy trình cấp phép đầu tư ra nước ngoài, quản lý ngoại hối, tuyển dụng lao động,… (những vấn đề này mãi đến gần đây mới được xem xét đến). Nguyên nhân và các vướng mắc này là do sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng của Chính phủ (như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ tài chính, và các Bộ ngành liên quan,…) trong việc quản lý các dự án đầu tư ra nước ngoài còn nhiều hạn chế. Việt Nam chưa thành lập được các đoàn khảo sát để đánh giá sâu hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Mối liên hệ giữa cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài mới bắt đầu thực sự được xúc tiến trong thời gian gần đây; tuy đã có những thay đổi lớn như ký thành công Hiệp định thương mại Việt Mỹ, đàm phán gia nhập WTO nhưng vẫn chỉ ở giai đoạn đầu, việc thực hiện tận dụng nó đối với các doanh nghiệp còn rất mới mẻ và chờ đợi nhiều khó khăn hạn chế.
Hệ thống pháp luật về đầu tư ra nước ngoài cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, như quy định thiếu cụ thể, thiếu nhất quán. Không ít qui định đã can thiệp quá sâu vào quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Quy trình đăng ký và thẩm định cấp giấy phép còn phức tạp. Thủ tục điều chỉnh giấy phép đầu tư chưa được rõ ràng, gây mất nhiều thời gian cho doanh nghiệp. doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam đầu tư được cố gắng cấp phép trong vòng 30-45 ngày, còn doanh nghiệp doanh nghiệp doanh nghiệp doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài thủ tục lại lòng vòng thậm chí còn bị cản trở, mặc dù nghị định đã quy định thời gian cấp phép đầu tư ra nước ngoài không quá 30 ngày, nhưng với thủ tục rườm rà thì có nhiều dự án kéo dài nhiều tháng, đôi khi cả năm, khiến cho doanh nghiệp lỡ mất cơ hội đầu tư. Luật đầu tư 2005 đã quy định, chỉ những dự án có quy mô vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng Việt Nam là phải thẩm tra. Do đó giảm rất nhiều các dự án phải qua quá trình thẩm định rất rườm rà, phức tạp. Nguyên nhân trực tiếp của sự chậm trễ này là trong khâu thẩm định các dự án, các Bộ - ngành liên quan cứ phải chờ đợi ý kiến của nhau, sau đó lại phải họp nhiều lần mới đi đến thống nhất. Một ví dụ cụ thể là năm 2001 Công ty gạch Thạch Bàn (Bộ Xây dựng) có dự án đầu tư nhà máy sản xuất đá Granít và gạch đỏ ở Nga với dự án giá trị 1.000.000 USD nhưng đã không thành công. Nguyên nhân một phần là thủ tục cấp phép trong nước quá chậm, dự án 3 năm không được cấp phép đầu tư, mất hết cơ hội kinh doanh.
Thậm chí, đến khi nhận được giấy phép thì việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài cũng bị tắc nghẽn khiến nhiều dự án phải triển khai chậm so với kế hoạch. Cơ chế vay ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài tính đến thời điểm này vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập. Việc cho vay ngoại tệ đối với các dự án đầu tư ra nước ngoài hầu như không ngân hàng thương mại nào chấp nhận cho vay vì cơ chế quản lý ngoại hối hiện nay chưa tính đến số tiền đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, bản thân các ngân hàng thương mại lại không có đủ điều kiện quản lý nguồn vốn vay mà doanh nghiệp đem ra nước ngoài đầu tư. Mặt khác, thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài cũng như chuyển lợi nhuận về Việt Nam cũng rất phức tạp, phiền hà, qua nhiều khâu, nhiều tầng nấc, vừa gây tốn kém về thời gian và tiền bạc cho nhà đầu tư, vừa làm nản lòng các nhà đầu tư và làm lỡ cơ hội kinh doanh.
Đến ngày 09 tháng 08 năm 2006, Nghị định 22 đã được thay bằng Nghị định số 78/2006/NĐ- CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Đó là bước chuyển đổi, đánh dấu sự thay đổi trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nó đã tạo điều kiện hơn cho các doanh nghiệp có thể tăng cường hoạt động đầu tư ra nước ngoài của mình một cách nhanh chóng hơn.
Hạn chế từ thị trường
Đầu tư ra nước ngoài đang có nhiều tiềm năng cho doanh nghiệp Việt Nam, đối với những nước vừa trải qua nội chiến (các nước ở châu Phi, Trung Đông…), đã và đang đi vào tái thiết, phát triển kinh tế. Điều kiện để nhà đầu tư Việt Nam vào các thị trường này khá dễ dàng. Xe máy, điện tử, điện lạnh, hàng may mặc, đồ uống giải khát... của Việt Nam rất dễ tiêu thụ ở thị trường châu Phi do họ thiếu hàng hoá và không đòi hỏi cao về chất lượng.
Tuy nhiên, do thiếu cơ chế chính sách còn hạn chế, tình hình chính trị bất ổn, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn…, việc tổ chức thị trường ngay vào lúc này là chưa thuận lợi và khá tốn kém. Mặt khác, Việt Nam chưa có quan hệ thanh toán qua ngân hàng với những nước này nên gặp không ít khó khăn.
Nguyên nhân khiến dự án của các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, nhất là dự án do các doanh nghiệp nhà nước làm chủ đầu tư, khó thực hiện được trọn vẹn là do các dự án này được thành lập nhằm thực hiện cam kết của chính phủ hai nước, khi tình hình quốc tế thay đổi, việc kinh doanh không thuận lợi như trước nên dự án chưa thể thực hiện được, trường hợp Irăc là một ví dụ.
Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng của Chính phủ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính) trong việc quản lý các dự án đầu tư ra nước ngoài còn hạn chế; chưa thành lập được các đoàn khảo sát tại chỗ để đánh giá sâu hiệu quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Mối quan hệ giữa cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài còn lỏng lẻo nên khi có vụ việc tranh chấp xảy ra sẽ không tranh thủ được tối đa sự hỗ trợ của nhà nước.
Thế mạnh của các doanh nghiệp tư nhân so với doanh nghiệp nhà nước là nhanh chóng thích nghi với tình hình mới, linh hoạt trong việc ra các quyết định đầu tư. Tuy nhiên, các hiệp định song phương ký giữa Chính phủ Việt Nam với chính phủ một nước nào đó thường không được công bố, nhất là những ưu đãi mà hai chính phủ dành cho nhau, thành ra công việc của Bộ nào do Bộ nấy lo và chỉ định luôn doanh nghiệp của Bộ đó thực hiện, khiến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khó có cơ hội tham gia.
Hiện có 30 quốc gia có các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam, một số quy định tương đối chặt về nhập cảnh của một số nước đã hạn chế khả năng đưa công nhân kỹ thuật của Việt Nam đến làm việc tại đó, nhất là trong các lĩnh vực xây dựng công trình dân dụng, nhà hàng. Gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc phát huy lợi thế tương đối về chi phí nhân công thấp.
Tại các nước Đông Bắc Á, trong đó có Nhật, việc đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ dừng ở việc xây dựng một số nhà hàng, quán ăn nhưng cũng rất khó khăn trong việc xin visa nhập cảnh, giấy phép làm việc cho cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật.
Đối với các nước kinh tế phát triển, cơ chế chính sách hoàn thiên, cơ sở hạ tầng hiện đại, có quan hệ kinh tế chính trị thân mật với Việt Nam, song các doanh nghiệp Việt Nam rất khó có thể tham nhập được thị trường tiếm năng này bởi những đòi hỏi vô cùng khắt khe của thị trường, trong khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn quá hạn chế. Một thực tế là, các nước phát triển sẵn sàng mở rộng cửa cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam không thể xâm nhập được vào thị trường của họ.
Khó khăn về vốn
Hạn chế nổi bật của việc đầu tư ra nước ngoài là lượng vốn thực hiện còn rất ít. Trong danh sách 132 dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn hiệu lực tính từ thời điểm năm 1989 đến ngày 31/7/2005, với 300,5 triệu USD đăng ký nhưng hiện mới thực hiện được 12,825 triệu USD, tức đạt 4,29 % so với tổng số vốn đăng ký. Ngay năm 2002, số vốn đăng ký lên tới 151,8 triệu USD, nhưng vốn thực hiện chỉ đạt 1,7 triệu USD.
Theo như quy định tại Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14-4-1999 của Chính phủ thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ được cấp phép cho dự án từ 1 triệu USD trở xuống, với mức lớn hơn phải trình Chính phủ xin ý kiến. Theo doanh nghiệp điều này là chưa hợp lý. Với mức đầu tư như vậy, doanh nghiệp chỉ đủ để xây dựng nhà xưởng, máy móc, trong khi doanh nghiệp cần nhiều hơn thế để hoạt động và còn phải đầu tư để cạnh tranh... Quy định này khiến các doanh nghiệp dệt may chỉ dám mở các đại lý phân phối hàng, song không thể đầu tư thiết bị nhà xưởng khép kín từ dệt đến may...
Nghị định số 22/1999/NĐ-CP chưa quy định về các hoạt động đầu tư gián tiếp như mua cổ phần, hoạt động thuê mua, đấu thầu quốc tế, đầu tư trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam. Điều này cản trở hiệu quả vốn đầu tư và cơ hội thâm nhập thị trường tiềm năng của các doanh nghiệp Việt Nam.
Với mức vốn bé nhỏ, các doanh nghiệp khi thực hiện dự án phải sử dụng vốn vay. Nhưng Thông tư số 01 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện Nghị định 22 đã hạn chế khả năng này.
Thông tư này yêu cầu các doanh nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài chỉ được huy động vốn tự có để đầu tư, doanh nghiệp chỉ được sử dụng vốn vay đầu tư ra nước ngoài nếu có sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. Quy định này rõ ràng đã hạn chế rất nhiều khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Với quy định như vậy, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng không dễ gì đầu tư ở Campuchia và hay đầu tư sang Mỹ để tránh bị áp đặt hạn ngạch. Việc chuyển tiền của doanh nghiệp ra nước ngoài đầu tư, sẽ được ngành ngân hàng “soi” rất kỹ và dường như ngân hàng nào cũng muốn đòi hỏi các doanh nghiệp này trước khi ra nước ngoài làm ăn hãy đầu tư tốt ở trong nước.
Rất hiếm, thậm chí là không có ngân hàng thương mại nào chấp nhận cho các doanh nghiệp vay ngoại tệ để đầu tư ra nước ngoài. Bởi hai lý do:
- Các ngân hàng thương mại không có cơ chế để quản lý nguồn tiền vay khi không có văn phòng đại diện ở quốc gia mà doanh nghiệp đầu tư. Các thương vụ tại các đại sứ quán của ta ở nước ngoài chưa làm tròn bổn phận là cầu nối làm ăn với doanh nghiệp trong nước
- Việc vay ngoại tệ đã được quy định trong nghị định 22/1999/NĐ/CP, song cơ chế quản lý ngoại hối của ngân hàng Nhà nước hiện nay chưa quy định về quản lý đồng tiền đầu tư ra nước ngoài. Không chỉ khó khăn trong việc vay vốn, các thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận từ nước ngoài về Việt Nam cũng đang gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp.
Tổng vốn đầu tư của một dự án dầu khí thường rất lớn, nhưng với khó khăn về vốn, số vốn bỏ ra ban đầu chỉ cần 10-15 triệu USD, sau đó các nhà đầu tư lấy dự án nuôi dự án, tức là khai thác dầu, bán và lấy tiền đầu tư tiếp. Không được sự hỗ trợ vốn từ phía Nhà nước, khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng … khiến các doanh nghiệp thiếu cho mình một tầm nhìn, một chiến lược lâu dài, các dự án đầu tư chi mong thu hồi vốn nhanh và có thể tồn tại đến cuối công cuộc đầu tư.
Đối với làng nghề thêu ren ở Thanh Hà, xuất khẩu vốn rất cần thiết, khách hàng chủ yếu là mua đứt bán đoạn chứ không gia công. Song, nguồn vốn của Thanh Hà chủ yếu là vốn tự có. Vốn vay thì chỉ có nguồn vốn ngắn hạn, vốn trung hạn. Vốn dài hạn chưa được sự quan tâm của ngân hàng đối với làng nghề. Những lúc cần huy động vốn thì vay của tư nhân. Tính đến hết tháng 6/1999, vốn vay ưu đãi cho làng nghề mới ở mức khiêm tốn: 300 triệu đồng, trong đó nhu cầu vay ngân hàng cần tới 1,6 tỷ đồng, điều này đã hạn chế việc phát huy lợi thế tương đối trong các làng nghề Việt Nam trong hoạt động đầu tư, kinh doanh quốc tế.
Mặc dù việc vay ngoại tệ đã được quy định trong nghị định 22/1999/NĐ/CP, song cơ chế quản lý ngoại hối của ngân hàng Nhà nước hiện nay chưa quy định về quản lý đồng tiền đầu tư ra nước ngoài. Không chỉ khó khăn trong việc vay vốn, hiện nay các thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận từ nước ngoài về Việt Nam cũng đang là vấn đề bức xúc của nhiều doanh nghiệp. Việc vay ngoại tệ của ngân hàng thương mại để đầu tư ra nước ngoài gặp khó khăn. Lý do là các ngân hàng thương mại chưa có cơ chế để quản lý nguồn tiền vay khi họ không có văn phòng đại diện ở quốc gia mà doanh nghiệp đầu tư.
Một số dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn do khả năng tài chính hạn hẹp, khả năng cạnh tranh còn yếu, thiếu kinh nghiệm thương trường. Ngoài khó khăn kể trên, thiếu đội ngũ lao động tay nghề cao, kỹ năng tổ chức, quản lý tiên tiến, trình độ khoa học công nghệ … đã và đang là những khó khăn đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải vượt qua trước ngưỡng cửa hội nhập kinh tế thế giới.
Ví dụ cụ thể về những ràng buộc khiến dự án bị chậm trễ
Có rất nhiều dự án bị chậm trễ hoặc có khi bị hủy vì những hạn chế không đáng có do rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Song ở đây em chỉ đưa ra một ví dụ cụ thể để phân tích và làm rõ những nguyên nhân cần được khắc phục.
Công ty cổ phần đầu tư Việt Xô (VSIJSC) được Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thành lập vào năm 2003, làm đại diện thành phố trong hợp tác thương mại cùng Matxcơva, trong đó có dự án xây dựng Trung tâm thương mại TP HCM tại Nga. Kỳ vọng của TP HCM là dùng trung tâm này làm bàn đạp để đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước vào thị trường Nga và Đông Âu, đồng thời giới thiệu văn hóa, du lịch Việt với đất nước này. VSIJSC có vốn điều lệ là 25 tỷ đồng với 6 cổ đông sáng lập ban đầu là Công ty Cholimex, Tecarpro, Thái Sơn, Tổng công ty Dệt may VN, Công ty may thêu Tân Tiến và Công ty cổ phần Xây dựng Sài Gòn. Vốn đầu tư dự kiến khoảng 15 triệu USD cho dự án xây dựng trung tâm thương mại tại Nga. Dự án sẽ được xây dựng với quy mô lớn gồm khách sạn, nhà hàng, khu thương mại, văn phòng, khu vui chơi giải trí.
Đến nay, chính quyền Matxcơva đồng ý cho thuê đất, nhưng lại buộc chủ đầu tư phải xây dựng công trình rộng ít nhất 1ha. Đại diện VSIJSC cho biết, nếu thực hiện theo yêu cầu này, dự án cần đến khoảng 70 triệu USD, giai đoạn đầu xây dựng khoảng 35 triệu USD.
Làm việc với các sở và chủ đầu tư VSIJSC cuối tuần qua, Phó chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Hữu Tín đã đề nghị thành lập một công ty cổ phần nhằm huy động thêm các thành viên có năng lực tài chính và kinh doanh thương mại, du lịch.
Tuy nhiên, theo đại diện nhà đầu tư, hiện đã thành lập một công ty cổ phần có pháp nhân của Nga tham gia, có tên giao dịch là Zao Vietsoinvest, để thực hiện dự án này. Trong đó VSIJSC góp 75% vốn, đối tác là Công ty Global Market của Nga góp 5%, còn lại là do các thương nhân VN tại Nga góp vốn. Cái khó là VSIJSC chưa có giấy phép đầu tư do Bộ Kế hoạch đầu tư cấp để chuyển tiền ra nước ngoài, trong khi phía Nga đang thúc ép đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Thời hạn chót để trình dự án khả thi cho Nga là ngày 15/8.
Trên thực tế dự án xây dựng Trung tâm thương mại TP HCM tại Nga đã được các Bộ Tài chính, Thương mại, Ngân hàng Nhà nước đồng ý sau khi thẩm định. Thế nhưng Bộ Kế hoạch và Đầu tư vẫn chưa thể cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài. Lý do là chưa có nghị định hướng dẫn áp dụng Luật Đầu tư đối với các dự án nộp hồ sơ trước ngày 30/6. Sự chậm trễ này đã gây nhiều khó khăn cho VSIJSC, đặc biệt là không chuyển ngân được ra nước ngoài để thực hiện dự án tại Nga. Trong khi đó các hoạt động xúc tiến dự án vẫn đang được triển khai bình thường ở Matxcơva.
Khó khăn của VSIJSC được tháo gỡ khi Nghị định 78 hướng dẫn Luật đầu tư ra nước ngoài đã được Thủ tướng ban hành hồi đầu tháng 8. Giấy phép đầu tư của VSIJSC đã được Bộ Kế hoạch Đầu tư cấp chỉ sau khoảng nửa tháng kể từ khi có Nghị định. Tuy nhiên việc khởi công xây dựng trung tâm thương mại VN VSIJSC không thể tiến hành được trong mùa đông lạnh giá của nước Nga, nên có thể phải chờ đến sau đông, tức phải sau tháng 3 năm tới.
Như vây, tức là phải sau 3 năm, từ 2003 đến 2006 thì dự án xây dựng Trung tâm thương mai TP HCM tại Nga mới bắt đầu được tiến hành. Đây là sự chậm trễ, rườm rà rất không đáng có mà chúng ta cần phải khắc phục. Qua đó cũng thấy được tầm quan trọng của Luật đầu tư mới cũng như Nghị định 78 đã cởi bỏ rất nhiều “nút buộc” cho các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài.
Một số dự án đầu tư ra nước ngoài năm 2006:
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp đã có sự thay đổi lớn. Mở đầu là việc Quốc hội thông qua Luật Đầu tư năm 2005, có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2006. Và vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa ban hành Nghị định 78 quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Theo nghị định này, sau 15 ngày nộp đủ hồ sơ hợp lệ, doanh nghiệp không nhận được văn bản trả lời của cơ quan quản lý coi như được chấp thuận đầu tư. Qua đó, cho thấy rằng Chính phủ đang tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài. Chấm dứt tình trạng có phải hủy dự án hoặc có dự án đã đăng ký nhưng không thực hiện vẫn thường xuyên xảy ra trong những năm trước đây. Trong chương IV của Nghị định, trách nhiệm của các Bộ, ban ngành liên quan đã được nêu cụ thể, đảm bảo sự thống nhất, tránh gây chồng chéo, ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp.
Chính những thay đổi nhằm hoàn thiện ngày một tốt hơn hệ thống chính sách, pháp luật của nước ta đã thúc đẩy các doanh nghiệp vững tin trong các dự án đầu tư ra nước ngoài. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, chỉ trong 8 tháng đầu năm 2006 đã có 18 dự án Việt Nam được cấp phép đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn đăng ký 287,3 triệu USD, nâng tổng số dự án đầu tư ra nước ngoài từ trước đến nay lên 184 với tổng số vốn 973,3 triệu USD. Bên cạnh đó, địa điểm đầu tư cũng đã có những sự thay đổi đặc biệt. Do những sự thay đổi của tình hình thế giới hiện nay, cũng như quan hệ ngày càng tốt đẹp hơn giữa Việt Nam với một số nước (đặc biệt là các nước Đông Nam Á) và việc bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ đã tạo hành làng thông thoáng cho các doanh nghiệp đầu tư sang các nước này. Thật vậy, 18 dự án đầu tư ra nước ngoài trong tháng 08 năm 2006 chủ yếu là sang các nước Lào, Campuchia, Hoa Kỳ, Malaysia và Singapo. Trong đó có một số các dự án tương đối lớn như Dự án đầu tư sang Angiêri của Tổng Công ty dầu khí Việt Nam với tổng vốn đầu tư tăng thêm 208 triệu USD; dự án Trung tâm thương mại Việt Nam tại Moscow có tổng vốn đầu tư 35 triệu USD (cấp ngày 21/08/2006); dự án trông cây công, nông nghiệp tại Lào có vốn là gần 22 triệu USD; dự án đóng mới, quản lý điều hành và cung cấp dịch vụ tàu FSO tại Singapo có tổng vốn đăng ký là 21,94 triệu USD; xây dựng Bệnh viện Chợ rẫy Phnôm Pênh có vốn đầu tư 10,5 triệu USD.
Trong đó, đặc biệt chú ý là dự án đầu tư lớn nhất của Việt Nam ra nước ngoài từ trước đến nay là dự án Xây dựng nhà máy thủy điện Xekman 3 tại tỉnh Sê Kông, Lào. Công trình có tổng số vốn hơn 270 triệu USD này vừa được Chính phủ Việt Nam và Lào tổ chức lễ khởi công ngày 05/04/2006 đánh dấu bước phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam cũng như thắt chặt tình đoàn kết giữa hai dân tộc Việt – Lào. Dự án thủy điện Xekaman 3 có công suất 250 MW, cung cấp sản lượng điện trung bình hằng năm hơn 1 tỷ kWh. Công trình do Tổng công ty Sông Đà thiết kế và làm tổng thầu xây dựng, thi công lắp đặt toàn bộ các hạng mục. Dự kiến đến đầu năm 2009, tổ máy số một sẽ phát điện và hoàn thành toàn bộ vào cuối năm. Sản lượng điện của Xekaman 3 sẽ cung cấp cho các tỉnh Nam Lào và xuất khẩu sang Việt Nam. Đây là dự án thủy điện đầu tiên tại Lào nằm trong chương trình hợp tác phát triển năng lượng điện giữa hai Chính phủ đã ký kết năm 1998. Theo đó, Lào sẽ cung cấp năng lượng điện cho Việt Nam năm 2003-2010 với sản lượng 2.000 MW.
Tuy nhiên, các dự án đầu tư chủ yếu vẫn là từ các công ty nhà nước, trong đó dẫn đầu là rất nhiều dự án của tổng công ty xăng dầu Việt Nam. Ngay trong năm nay, dự án tăng thêm vốn của tổng công ty Dầu khí sang Angiêri là 208 triệu USD, chiếm gần 2/3 trong tổng lượng vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2006. Hay như là dự án có lượng vốn lớn nhất là dự án xây dựng nhà máy thủy điện Xekaman (Lào) cũng do tổng công ty Sông Đà thực hiện. Nguyên nhân của hiện tượng này là do lượng vốn của các công trình này là quá lớn, chỉ có những tổng công ty lớn mới có đủ khả năng về tài chính cũng như nguồn lực để thực hiện. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Những tổng công ty với những dự án lớn chính là những đầu tàu đi tiên phong, mở đường cho các doanh nghiệp khác có những điều kiện bước đầu để tiến hành đầu tư ra nước ngoài.
Tóm lại, tuy chỉ trong thời gian rất ngắn, nhưng việc sự bổ sung thay đổi một loạt hệ thống luật pháp cũng như sự cam kết của rất nhiều các cơ quan chức năng đã làm cho các nhà đầu tư tự tin hơn rất nhiều khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài, mà các số liệu về tổng vốn của tất cả các dự án trong 8 tháng đầu năm 2006 đã thể hiện phần nào. Giờ đây, các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn, chủ động hơn trong việc tìm kiếm các hình thức kinh doanh, hình thức đầu tư, trong đó có đầu tư ra nước ngoài. Từ đây sẽ mở ra một con đường mới, một bước tiến mới cho các doanh nghiệp, một khả năng đầu tư còn rất mới mẻ song rất tiềm năng, hứa hẹn nhiều thành công sau này.
Chương 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
I. Xu thế quốc tế hóa nền kinh tế và yêu cầu tiếp tục tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư ra nước ngoài
Xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội mở rộng trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả các nước và các vùng lãnh thổ từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó, chính sách biệt lập đóng cửa là không thể tồn tại vì chính sách này kìm hãm quá trình phát triển của xã hội. Một quốc gia, vùng lãnh thổ khó tách biệt khỏi thế giới vì những thành tựu khoa học kỹ thuật đã kéo con người ở khắp nơi trên thế giới xích lại gần nhau hơn và dưới tác động của quốc tế hoá buộc các nước phải mở cửa với bên ngoài. Vì vậy, đầu tư ra nước ngoài là một trong những hình thức kinh doanh quốc tế khá hữu hiệu hiện nay của các nước, đã và đang trở thành phổ cập tại rất nhiều nước.
Ngày nay, việc huy động vốn đầu tư ra các nước khác nhằm thu được lợi nhuận đang được các công ty áp dụng ngày càng rộng rãi hơn. Nó là một trong các yếu tố khá quan trọng trong cơ cấu phát triển của một quốc gia nhằm thu hút lợi nhuận, một hình thức quan trọng và phổ biến trong mối quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu tư ra nước ngoài góp phần sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn, công nghệ và lao động của các nước. Nước nhận đầu tư sẽ có được nhiều vốn hơn để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Còn nước đi đầu tư có thể khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên, nguồn nhân lực tiềm năng ở những nước nhận đầu tư, thu về những kết quả kinh doanh mà nếu như thực hiện đầu tư ở trong nước sẽ chỉ thu được hiệu quả nhất định. Đầu tư ra nước ngoài còn góp phần cải thiện mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia, các quan hệ về hợp tác thương mại, vấn đề môi trường, các quan hệ văn hoá xã hội khác, tạo nên tiếng nói chung giữa các cộng đồng và khu vực. Như vậy, trong bối cảnh quốc tế hoá nền kinh tế như hiện nay, vấn đề cần thiết đối với tất cả các nước, không phân biệt tình hình kinh tế xã hội là việc tăng cường khuyến khích, thực hiện đầu tư ra nước ngoài hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, theo quan điểm hiện nay của rất nhiều người, nước ta là một nước đang phát triển, nền kinh tế đang cần rất nhiều vốn. Chính vì thế, vấn đề đầu tư ra nước ngoài có thực sự cần thiết hay không. Để trả lời cho câu hỏi đó, chúng ta hãy nhìn vào xu hướng hiện nay trên thế giới, nhìn vào hoạt động đầu tư của một số nước đang phát triển khác. Chẳng hạn như Thái Lan, Philipone hay Trung Quốc, Malaysia,… luôn có những chính sách khuyến khích thu hút đầu tư từ các nước phát triển nhưng vẫn có những hoạt động đầu tư sang Việt Nam. Đó cũng chỉ là một trong rất nhiều lý do khiến chúng ta cần có nhiều biện pháp thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay, năm 2006 được coi là năm chứng kiến nhiều hoạt động đối ngoại quan trong của nước ta, nổi bật là việc Viẹt Nam lần đầu tiên đăng cai tổ chức Năm APEC2006, mà trung tâm là Tuần lễ cấp cao APEC diễn ra từ 12 đến 19/11/2006. Bên cạnh đó, Hội nghị Thượng đỉnh Á – Âu lần thứ 6 (ASEM 6) diễn ra thành công tại Helsinki (Phần Lan) ngày 10 và 11/9/2006 và việc ký kết hiệp định thương mại Việt – Mỹ cũng là một mốc quan trọng. Việc đẩy nhanh quá trình đàm phán gia nhập WTO sẽ thúc đẩy kinh tế nước ta phát triển, trong đó có hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
II. Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam
Nhóm giải pháp của Chính phủ nhằm nâng cao khả năng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam
Thay đổi nhận thức về đầu tư ra nước ngoài
Hầu như ở tất cả các nước đang phát triển, do thiếu rất nhiều vốn đầu tư phát triển nên họ chỉ coi trọng dòng vốn chảy vào chứ ít quan tâm đến luồng vốn chảy ra, nhất là dòng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp. Đây thực sự là một quan điểm phiến diện. Bởi trong lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh rằng, dòng đầu tư ra ngoài càng mạnh thì nước đó càng có nhiều khả năng mở rộng thị trường, tăng cơ hội kinh doanh, từ đó tăng việc làm, tăng động lực phát triển kinh tế đất nước, góp phần thu hút dòng vốn đầu tư vào trong nước.
Đối với Việt Nam, vấn đề đầu tư ra nước ngoài vẫn chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí còn rất nhiều khoảng trống, bất cập. Mà trước hết là về nhận thức của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương, của các cơ quan quản lý của Nhà nước. Lý do của họ là nếu khơi thông dòng vốn đổ ra bên ngoài sẽ khiến đầu tư trong nước bị giảm sút, và cũng có không ít lo ngại về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, khó cạnh tranh ngay chính thị trường trong nước thì không thể sản xuất kinh doanh có lãi ở thị trường nước ngoài được.
Những lập luận trên chỉ đúng một phần, nhưng còn rất nhiều tác dụng mà đầu tư ra nước ngoài đem lại thì họ chưa hiểu một cách cặn cẽ. Vì trên thế giới hiện có rất nhiều nền kinh tế có trình độ và kỹ năng sản xuất ngang bằng nước ta; Việt Nam lại có những lợi thế riêng có, những mặt hàng truyền thống, những bí quyết sản xuất một số mặt hàng. Do đó, trong bối cảnh hội nhập thế giới hiện nay, với những hiệu quả tích cực mà hoạt động đầu tư ra nước ngoài đem lại trong thời gian qua, chúng ta cần nhanh chóng nâng cao nhận thức về đầu tư ra nước ngoài. Về phía các cơ quan quản lý của Nhà nước, cần coi đầu tư ra nước ngoài là hoạt động tất yếu, cần thiết trong xu thế phát triển của kinh tế hiện đại, là một bộ phận quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Các doanh nghiệp cần coi đầu tư ra nước ngoài là kênh đầu tư quan trọng để phân tán rủi ro và tăng cường thực lực, sức mạnh cạnh tranh và tỷ suất lợi nhuận đầu tư của mình. Và cũng cần có những kế hoạch hợp lý để mở rộng thị trường thông qua hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp mình.
Nhóm giải pháp về chính sáchvà thủ tục hành chính
Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tại Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, góp phần mở rộng và nâng cao hiệu quả của hợp tác kinh tế, kỹ thuật, thương mại với nước ngoài, tạo lập một môi trường pháp lý ổn định, thì việc hoàn thiện chính sách đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam là một đòi hỏi tất yếu.
- Hoạt động đầu tư ra nước ngoài gắn với chuyển nguồn vốn từ trong nước ra nước ngoài, có liên quan tới quản lý ngoại hối, an ninh tài chính, việc làm cho người lao động. Hơn nữa, việc đầu tư ra nước ngoài cần có qui hoạch, nhằm mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và cho xã hội. Do vậy, cần sửa đổi bổ sung qui định các lĩnh vực khuyến khích đầu tư như xuất khẩu nhiều lao động, phát huy có hiệu quả các ngành nghề truyền thống của Việt Nam, mở rộng thị trường và sử dụng nhiều nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, tăng khả năng xuất khẩu thu ngoại tệ. Đồng thời cũng qui định cụ thể những lĩnh vực cấm và hạn chế đầu tư ra nước ngoài.
Hoàn thiện chính sách với mục tiêu khắc phục sự thiếu thống nhất, tạo lập tính cụ thể, rõ ràng giữa các văn bản pháp qui liên quan đến đầu tư ra nước ngoài; Chính sách phải được thể hiện theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Đồng thời có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho đầu tư ra nước ngoài mà ta có thế mạnh. đầu tư ra nước ngoài phải nằm trong tổng thể qui hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Và do vậy, việc đưa ra Luật Đầu tư với một chương về đầu tư ra nước ngoài là một yêu cầu cấp thiết. Và mới đây nhất là việc Thủ tướng Chính phủ thông qua Nghị định 78 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong hàng rào luật pháp cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền khác như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Lao động thương binh xã hội, và các Bộ, ban ngành khác liên quan cũng cần có những sự bổ sung hợp lý cho phù hợp với Nghị định 78 nói riêng, và hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
Doanh nghiệp phải có báo cáo tình hình tài chính có kiểm toán của doanh nghiệp trong một năm gần nhất khi đăng ký giấy phép đầu tư ra nước ngoài là không cần thiết.
Thay đổi những chính sách ràng buộc về vốn, công nghê, nhân lực đối với các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp này dễ dàng có được sự ủng hộ của các cấp ngành liên quan, giúp họ nhanh chóng thực hiện những dự án đó. Theo đanh giá hiện nay của các doanh nghiệp, thì thủ tục cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài hiện nay của Việt Nam còn khá rườm rà, mất nhiều thời gian do khâu thẩm định dự án cần xin ý kiến tham gia của nhiều cơ quan. Do đó sẽ làm giảm tiến độ, làm nhỡ mất những cơ hội của các doanh nghiệp.
Các chính sách, chế độ và cơ chế điều chỉnh đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam cần được quy đinh rõ ràng, ngắn gọn, nhưng phản ánh được các chỉ tiêu cần thiết như: số vốn thực hiện, tình hình sản xuất kinh doanh, thu hút lao động, xuất khẩu, lợi nhuận,… Đồng thời cần có các chế tài đủ mạnh đối với các doanh nghiệp không báo cáo hoặc báo cáo không đầy đủ, không kịp thời tình hình hoạt động ở nước ngoài.
Nhóm giải pháp về thị trường
Các cơ quan quản lý nhà nước cần quan tâm nhiều hơn đến việc đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp trong nước trong việc hỗ trợ về thị trường quốc tế, mở rộng quan hệ quốc tế từ Nhà nước, trung ương đến địa phương, các ngành nghề. Việc tổ chức, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài không thể thực hiện tự phát, nhất thời khoán trắng cho một vài đơn vị, tổ chức, cá nhân, mà cần được tiến hành có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, liên tục với sự phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp của một hệ thống các tổ chức, các cấp, các ngành, đơn vị và cá nhân có liên quan.Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư ra nước ngoài từ phía nhà nước, nhất là những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh.
Việt Nam cần sớm đàm phán, ký kết các hiệp định đầu tư đa phương, khu vực và song phương nhằm tăng cường thúc đẩy cũng như bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài. Chúng ta cần tham gia đầy đủ các Công ước quốc tế liên quan đến đầu tư nước ngoài như Công ước Washington năm 1965, Công ước liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ và đẩy nhanh quá trình đàm phán gia nhập WTO, AFTA.
Ngoài ra Việt Nam cũng cần tăng cường đàm phán ký kết các Hiệp đinh đầu tư song phương (BIT) với các đối tác chủ yếu. Vì nội dung của BIT rất phong phú, nhưng tựa chung lại có những điểm cơ bản sau:
Định nghĩa về đầu tư rộng và còn để mở để có thể đưa vào những hình thức đầu tư mới.
Khuyến khích đầu tư ra nước ngoài.
Thực hiện đối xử công bằng và thỏa đáng.
Các nước đảm bảo tự do chuyển các khoản thanh toán ra nước ngoài liên quan đến đầu tư.
Quy định những nguyên tắc giải quyết tranh chấp đầu tư giữa nhà đầu tư và nước nhận đầu tư.
Cấm đặt ra yêu cầu về hàm lượng nội địa, yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu và các yêu cầu về tuyển dụng lao động như một điều kiện để cho phép đầu tư.
Trên chính trường quốc tế, chúng ta luôn khẳng định đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam là “ Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Tuyên ngôn này thể hiện rất kiên định quan điểm của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Với bất lợi của một nước chậm phát triển, Việt Nam đang thực hiện lộ trình hội nhập của mình với tốc độ thích hợp, tránh “sốc” cho nền kinh tế. Nhưng trong quá trình này, không nên để những quan điểm cũ, lạc hậu, những tư tưởng bảo thủ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Phải nhất quán quan điểm liên tục mở rộng hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, môi trường, xã hội,… Từ đó mở rộng các liên kết quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới một cách chủ động, thiết thực và hiệu quả.
Những hiệp định được ký kết với các nước sẽ góp phần mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị quốc tế của Việt Nam, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam đưa công nhân kỹ thuật của Việt Nam đến làm việc tại đó, nhất là trong các lĩnh vực xây dựng công trình dân dụng, nhà hàng, việc chuyển nguồn nhân lực trong nước ra nước ngoài không những tạo việc làm có thu nhập cao cho lao động trong nước mà còn tận dụng lợi thế so sánh về tiền lương, nâng cao hiệu quả hoạt động cho các doanh nghiệp xuất khẩu vốn.
Hỗ trợ và cùng với doanh nghiệp tìm kiếm và khai thác thông tin thị trường, khai thác tối đa những lợi thế tương đối mà các doanh nghiệp có được để tìm kiếm những cơ hội thị trường, cơ hội kinh doanh quốc tế.
Tăng cường công tác hướng dẫn doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Đề nghị Chính phủ giao các cơ quan ngoại giao và thương vụ, tham tán kinh tế Việt Nam ở nước ngoài có báo cáo định kỳ về chính sách và cơ hội đầu tư của nước sở tại. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối hướng dẫn doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
Nhóm giải pháp về quản lý vốn, nâng cao năng lực tài chính cho các doanh nghiệp
Sửa đổi Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14-4-1999 trong việc mở rộng quy mô vốn của các dự án khi đầu tư ra nước ngoài. Cho phép các doanh nghiệp tự do lựa chọn quy mô vốn, phù hợp với quy mô từng dự án khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài.
Sửa đổi Nghị định số 22/1999/NĐ-CP, quy định về các hoạt động đầu tư gián tiếp như mua cổ phần, hoạt động thuê mua, đấu thầu quốc tế, đầu tư trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam. Tạo điều kiện nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và cơ hội thâm nhập thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhà nước cần ban hành các lĩnh vực, ngành nghề … khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, trong đó có hỗ trợ về thị trường, về chính sách và đặc biệt là hỗ trợ về vốn, nhất là đối với những làng nghề, ngành nghề truyền thống của Việt Nam đã ít nhiều khẳng định được tên tuổi của mình trên thị trường trong nước cũng như quốc tế (trường hợp làng thêu ren ở Thanh Hà là ví dụ điển hình).
Chúng ta cần có những biện pháp thúc đẩy thị trường vốn (phát triển hệ thống các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, quỹ đầu tư, thị trường chứng khoán,…), phát triển các loại công cụ tài chính cần thiết, tạo hàng hóa (cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình,…) thông qua Trung tâm giao dịch chứng khoán để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư, khuyến khích và thúc đẩy phát triển các định chế tài chính trung gian như các công ty đầu tư tài chính, công ty thuê mua tài chính,.. để tăng cường việc huy động và luân chuyển vốn trên thị trường.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng nguồn vốn tín dụng bằng cách giữ lãi suất ổn định ở mức hợp lý, đơn giản thủ tục vay vốn, đa dạng hóa các hình thức vay vốn như bảo lãnh tín dụng, thuê mua tài chính. Thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các khoản vay từ các tổ chức tín dụng thông qua bảo lãnh, tái bảo lãnh tín dụng; đồng thời chia sẻ rủi ro giữa quỹ bảo lãnh tín dụng với các tổ chức tín dụng khi doanh nghiệp vay vốn gặp rủi ro bất khả kháng không thể trả nợ được.
Bên cạnh đó cũng cần có cơ chế thông thoáng trong việc sử dụng nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài. Cho phép các doanh nghiệp có thể huy động nhiều nguồn vốn hơn, nhất là cho phép các doanh nghiệp liên doanh có thể thực hiện dễ dàng việc đầu tư ra nước ngoài của mình. Vì tuy các doanh nghiệp này có phần nhiều vốn FDI nhưng họ thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Việt Nam, do đó họ được hưởng các quyền lợi như các doanh nghiệp nội địa, được theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, dù vốn đầu tư đó được sử dụng ở Việt Nam hay ở bất kỳ một quốc gia nào khác.
Nhóm giải pháp cụ thể đối với các doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện, nâng cao chất lượng công tác lập dự án đầu tư và chuẩn bị nhân lực cho dự án
Chúng ta cần có những biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả của hoạt động lập dự án. Hiện nay, công việc lập dự án của các doanh nghiệp Việt Nam còn mang nặng tính hình thức, để hợp thức hóa thủ tục hành chính, chỉ để xin phép đầu tư, còn việc thực hiện lại khác. Đây cũng là lý do mà tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua còn khá thấp. Do đó, cần nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp, cho họ thấy được tầm quan trọng của hoạt động lập dự án.
Những hoạt động đầu tư hiện nay rất phong phú và đa dạng, vì thế xuất hiện rất nhiều loại dự án khác nhau như dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng quy mô hiện có; dự án xây lắp, dự án mua sắm thiết bị; dự án thực hiện chiến dịch Marketing, đầu tư đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,… trong những linh vực khác nhau, có yêu cầu đặc trưng khác nhau. Và để lập dự án nhanh, chính xác, đáp ứng yêu cầu cần quan tâm nhiều đến từng loại dự án cụ thể, tránh làm lại nhiều lần. Vì thế các doanh nghiệp cần có sự nghiên cứu kỹ, cụ thể các loại dự án mà doanh nghiệp đã, đang và sẽ thực hiện giúp cho doanh nghiệp giảm bớt chi phí cũng như thời gian lập dự án, tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh.
Và các doanh nghiệp cũng cần tuyển dụng, đào tạo đội ngũ cán bộ lập dự án có chuyên môn, tinh thần trách nhiệm cao. Và không chỉ ở khâu lập dự án, trong tất cả các khâu khác, con người luôn là yếu tố cơ bản, muốn đầu tư ra nước ngoài thì phải có con người có đủ khả năng thực hiện nó. Đội ngũ cán bộ của Việt Nam phải được nâng cao hơn về trình độ hiểu biết, đặc biệt là ngoại ngữ và khả năng đóng góp vào việc hoạch định cũng như nghiên cứu, đưa ra các định hướng và thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất. Thật vây, kinh nghiệm trong tiến trình mở cửa với bên ngoài là danh ưu tiên cho đào tạo nhân lực. Những nước mới tham gia vào dòng chảy của nền kinh tế thế giới như Việt Nam cần đặc biệt quan tâm đến nhân tố con người. Và ngoài việc đào tạo trực tiếp cán bộ tại nội địa, các doanh nghiệp nên cử cán bộ đi đào tạo về hình thức đầu tư, thường xuyên đi tập huấn cập nhật những quan điểm mới.
Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một trong những nhân tố quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp ngay trong thị trường nội địa, quyết định sự thành công và phát triển của doanh nghiệp khi vươn ra thị trường quốc tế. Năng lực cạnh tranh đó bao gồm rất nhiều yếu tố như khả năng cạnh tranh của sản phẩm, năng lực của nguồn nhân lực, năng lực công nghệ của doanh nghiệp, thương hiệu,....
Với các doanh nghiệp Việt Nam, để nâng cao hiệu quả và tăng cường đầu tư ra nước ngoài các doanh nghiệp cần phải:
Có một chiến lược đầu tư và phát triển đội ngũ nhân lực của doanh nghiệp.
Đầu tư khoa học công nghệ, hoàn thiện và không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất.
Xây dựng các kế hoạch, chiến lược đầu tư dài hạn, trên thị trường cũ cũng như kế hoạch xâm nhập thị trường mới.
Mở rộng hợp tác liên minh bạn hàng rộng rãi và thân thiết, bao gồm cả các bạn hàng trong nước và bạn hàng quốc tế, bạn hàng truyền thống, bạn hàng mới …
Tích cực quảng bá hình ảnh của mình trong nước cũng như quốc tế thông qua các hội chợ thương mại, các website của doanh nghiệp ….
Xây dựng một website nối mạng quốc tế và các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp hoạt động trên phạm vi toàn quốc và toàn cầu để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ đầu tư ra nước ngoài như: cung cấp thông tin thị trường; thông tin đối tác, cơ hội và kinh nghiệm kinh doanh; thông tin về môi trường đầu tư; các dịch vụ xúc tiến thương mại; các dịch vụ hỗ trợ tư pháp về đăng ký và xử lý tranh chấp thương hiệu, tư vấn kế toán, thuế...
Bên cạnh đó cũng cần khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Góp phần nhằm nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp, giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam tiến kịp với trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại trên thế giới.
Có chính sách ưu đãi, khen thưởng kịp thời để khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Cho phép các doanh nghiệp áp dụng biện pháp khấu hao nhanh để đổi mới công nghệ và hạch toán các khoản chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học và đầu tư ứng dụng công nghệ cao vào giá thành sản phẩm.
Mở rộng hoạt động nghiên cứu triển khai, gắn các trường Đại học, Viện nghiên cứu với doanh nghiệp. Tăng vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư vào khoa học công nghệ, đưa tổng mức đầu tư của toàn xã hội cho khoa học công nghệ đạt 1,5% GDP vào năm 2010. Hoàn thiện các chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tụê để khuyến khích nghiên cứu khoa học công nghệ.
Mở rộng, khuyến khích trao đổi công nghệ giữa Việt Nam và nước ngoài. Tiếp tục loại bỏ những trở ngại về pháp luật đối với việc chuyển giao công nghệ.
Đơn giản hóa và giảm bớt các phí tổn đối với việc xuất nhập cảnh cho cán bộ kỹ thuật, các nhà khoa học và người điều hành kinh doanh. Cùng với đó là việc âm thầm tạo ra những ràng buộc cá nhân cũng như xã hội đối với họ đảm bảo rằng sau khi tiếp thu được những kinh nghiệm tiên tiến ở các nước khác, đội ngũ này sẽ trở lại Việt Nam phục vụ Tổ quốc. Họ sẽ là những nhân tố mới góp phần vào công cuộc phát triển doanh nghiệp nói riêng cũng như đối với nền kinh tế nói chung.
Mặt khác, các doanh nghiệp luôn luôn phải thực hiện các biện pháp marketing, quảng bá sản phẩm của mình tại các thị trường mới. Hành động này se tạo tiền đề, lợi thế cho các doanh nghiệp trước và trong khi tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Ngoài việc đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng ở các nước mà doanh nghiệp đầu tư, chúng ta cũng nên đưa sản phẩm đến với các thị trường lân cận, tạo tiền đề xuất khẩu hàng hóa hoặc cho những dự án đầu tư tiếp theo có khả năng được thực hiện dễ dàng, hiệu quả hơn.
Nhóm giải pháp trong quản lý của mỗi doanh nghiệp
Việc đầu tư ra nước ngoài luôn luôn gặp rất nhiều khó khăn và thách thức. Trước tiên là những rào cản về thủ tục hành chính của mỗi quốc gia, mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau. Tiếp theo sẽ là nhu cầu của nền kinh tế ở nước tiếp nhận đầu tư. Dự án đầu tư muốn được thực hiện phải đúng luật và muốn thu được kết quả tốt thì cần phù hợp với sự vận động và phát triển của nền kinh tế. Tiến hành đầu tư ra nước ngoài đồng nghĩa với việc phải chấp nhận hai hệ thống pháp luật, hai chính sách phát triển kinh tế xã hội khác nhau. Do đó việc nghiên cứu và tìm hiểu tình hình chính trị xã hội cũng như xu thế của nền kinh tế là yêu cầu quyết định sự thành bai của một dự án đầu tư và đây là hoạt động có ý nghĩa quyết định sự thành bại của dự án đầu tư. Làm tốt công tác này sẽ tạo tiền đề cho việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư của dự án ở các bước tiếp theo. Từ những nghiên cứu cụ thể đó mà chúng ta có được kế hoach đầu tư cụ thể, sát thực.
Vào được thị trường nước ngoài đã là một thành công đối với các chủ đầu tư của Việt Nam nhưng ngay lập tức dự án đã phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các dự án đến từ những nước khác và ngay cả của chính nước nhận đầu tư. Các đối thủ cạnh tranh không chỉ tạo sức ép về thời hạn hoàn thành và thực hiện kết quả đầu tư. Đối với bất kỳ một dự án nào, vấn đề thời gian là nhân tố khá quan trọng, nó quyết định thời cơ đưa dự án vào hoạt động. Nếu như dự án bắt đầu quá sớm thì sẽ không thu được hiệu quả cao nhất, còn nếu quá muộn thì sẽ lỡ mất cơ hội và dự án sẽ nhanh chóng gặp phải những thất bại. Do đó việc thực hiện dự án đầu tư phải kịp thời, theo đúng kế hoạch. Và việc vận hành kết quả đó phải được quản lý chặt chẽ và có những biện pháp phù hợp nhằm nâng cao năng suất hoạt động. Vì nền kinh tế, văn hóa ở mỗi nước là khác nhau, nên chủ đầu tư phải có những biến đổi hợp lý, linh hoạt.
Do những yêu cầu trên mà nhất thiết mỗi doanh nghiệp nên có những biện pháp cụ thể nhằm sử dụng có hiệu quả đồng vốn mang đi đầu tư:
- Nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm của đội ngũ lập kế hoạch đầu tư. Giúp họ nhận thức được vai trò then chốt của mình trong toàn bộ dự án. Mỗi người phải có ý thức trách nhiệm trong mỗi quyết định được đưa ra.
- Tăng cường giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng năng lực cho cán bộ quản lý. Tạo lập được đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ sư trung thành từ trong nước và coi đó là nòng cốt trong việc phát triển nhân sự ở nơi đầu tư. Quy định rõ trách nhiệm cá nhân của từng vị trí công tác cũng như việc thực hiện chính sách phù hợp đối với từng người lao động. Do đặc thù của dự án là sử dụng cả những người lao động sẵn có (từ nước đi đầu tư) và những người lao động bản xứ. Giữa họ có sự khác biệt về nhận thức, văn hoá nên cần có những hình thức đối xử khác nhau.
- Các quy chế thưởng phạt cũng như việc bố trí nhân sự một cách hợp lý cũng là một yêu cầu khá cần thiết. Việc này đòi hỏi người quản lý phải có những quyết định đúng, tránh cho người lao động có những cảm giác phân biệt giữa những quốc gia khác nhau.
KẾT LUẬN
Quá trình quốc tế hóa, phân công lao động xã hội đã mở rộng trên phạm vi toàn thế giới, lôi kéo tất cả các nước và các vùng lãnh thổ từng bước hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. Hoà chung vào bối cảnh đó, các nước đang phát triển đã chỉ dừng lại ở các biện pháp thu hút vốn đầu tư vào trong nước cho phát triển kinh tế, mà còn tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài để tận dụng lợi thế so sánh của mình và đã dành được không ít thành công, điển hình là trường hợp của Trung Quốc và Ấn Độ.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về đầu tư ra nước ngoài và thực tiễn đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam tính đến tháng 4 năm 2006 có thể kết luận rằng : Không nằm ngoài xu thế toàn cầu hóa, các doanh nghiệp Việt Nam đã biết phát huy được những lợi thế so sánh của mình về một số ngành như dầu khí, cao su, xây dựng trong việc thúc đầy hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Bên cạnh những thành công bước đầu, các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc mở rộng phạm vi và khu vực đầu tư. Không chỉ hạn chế về năng lực mà cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài của chính phủ .. . hiện đang “trói chân” các doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị trường khu vực và thế giới.
Vì thế sự khuyến khích của Nhà nước cần được đẩy mạnh hơn nữa thông qua việc hoàn thiện khung pháp lý và đơn giản các thủ tục hành chính nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
Em hi vọng, chính phủ cũng như các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong việc khuyến khích và sử dụng hiệu quả đồng vồn xuất khẩu của mình, nhằm tạo ra động lực mới cho nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0055.doc