Không chỉ góp phần đắc lực vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, sự hoạt động của FDI Mỹ tại Việt nam đã mang lại những hiệu quả về mặt xã hội. Các dự án FDI Mỹ đã góp phần tích cực vào việc giảm tỉ lệ thất nghiệp, tạo công ăn việc làm cho người lao động cũng như nâng cao tay nghề cho họ. Đây là tác động mà không phải doanh nghiệp Việt nam nào cũng có thể thực hiện được, đặc biệt mang lại một phong cách làm việc hiện đại. Không chỉ trực tiếp tạo ra việc làm cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI, hoạt động FDI Mỹ còn tạo ra hàng ngàn lao động gián tiếp.
Ví dụ: Sau nhiều lần chuyển đổi hình thức kinh doanh, hiện nay Coca-Cola (tại Hà nội, Đà nẵng, TP Hồ Chí Minh) có công suất 420 triệu lít/năm, giải quyết việc làm trực tiếp cho 2000 công nhân viên và gián tiếp cung cấp việc làm cho 25.000 người khác thông qua hệ thống phân phối và cung ứng nguyên liệu .
Cùng với việc giảm tỉ lệ thất nghiệp, FDI Mỹ cũng góp phần mang lại mức thu nhập cao cho những người lao động trong khu vực và gián tiếp nâng cao đời sống chung cho toàn bộ người dân.
- Một số thành tưu khác như góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển cơ sở hạ tầng, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế thông qua đó góp phần mở rộng thị trường của Việt nam, tăng cường xuất khẩu, tạo động lực giúp các doanh nghiệp Việt nam đầu tư ra nước ngoài
40 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1362 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam - Thực trạng và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à lợi ích của nước chủ nhà.
- Chuyển giao công nghệ là mặt tác động lớn của FDI, song còn tồn tại nhiều hạn chế và nhiều tiêu cực, trong đó có việc chuyển giao nhỏ giọt, từng phần và thông thường là công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm… với giá cao hơn mặt bằng quốc tế.
- Trong số các nhà đầu tư nước ngoài không phải không có trường hợp hoạt động tình báo, gây rối an ninh, chính trị,…
Nêu lên những hạn chế của FDI không có nghĩa là phủ nhận tác dụng của nó mà chỉ muốn lưu ý rằng không nên quá ảo tưởng về nó và cần có những biện pháp kiểm tra, kiểm soát và đối sách hữu hiệu để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của FDI.
V. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiện nay, nhu cầu vốn đầu tư phát triển của các quốc gia rất lớn và ngày một tăng, nhưng khả năng cung cấp vốn đầu tư rất hạn chế, do đó quan hệ cung cầu về vốn trên thế giới rất căng thẳng. Khả năng thu hút vốn đầu tư của các quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, các nhân tố cơ bản là xu hướng vận động có tính quy luật của các dòng vốn FDI trên thế giới, chiến lược đầu tư và phát triển của các tập đoàn đa quốc gia, môi trường đầu tư và khả năng cạnh tranh thu hút vốn FDI của các nước tiếp nhận đầu tư.
Xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới hiện nay
Dòng vốn FDI trên thế giới ngày một gia tăng và chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển.
Đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài (M&A) đã bùng nổ trong những năm gần đây, trở thành chiến lược hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên quốc gia (TNCs).
Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới
Các nước Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật chi phối dòng vận động chính của vốn FDI (vào, ra) trên thế giới.
Các tập đoàn xuyên quốc gia đóng vai trò rất quan trọng trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đang đẩy mạnh quá trình đầu tư ra nước ngoài.
Dòng vốn FDI đổ vào các nước đang phát triển đang gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là các nước đang phát triển ở Châu á
Các xu hướng trên có ảnh hưởng to lớn tới việc thu hút FDI của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Chiến lược đầu tư phát triển của các TNCs
Từ đầu thập kỷ 80 đến nay các TNCs đã dần trở thành lực lượng chủ yếu, nòng cốt thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới thông qua tác động to lớn của các TNCs trong việc phân bố nguồn lực của nền kinh tế thế giới, thúc đẩy quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế ở các quốc gia, chi phối lưu chuyển hàng hoá của thương mại quốc tế. Các TNCs cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tải kỹ thuật, công nghệ thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở những nước đang phát triển. Do đó, chiến lược đầu tư phát triển của các TNCs có tác động rất lớn đến dòng và xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Môi trường đầu tư và khả năng cạnh tranh thu hút vốn FDI của các nước tiếp nhận đầu tư.
Dòng FDI chỉ thực sự mở rộng và ưa tìm đến những nơi có môi trường đầu tư đảm bảo cho dòng vốn sinh sôi nảy nở. Môi trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh để thu hút FDI trước hết bao gồm các nhân tố:
Sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội và luật pháp đầu tư
Sự mềm dẻo và hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài.
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng
Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học - công nghệ và hệ thống doanh nghiệp trong nước và trên địa bàn.
Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI đã triển khai
Tóm lại, FDI đã, đang và sẽ tìm đến quốc gia và địa phương nào có nền kinh tế - chính trị - xã hội ổn định, hệ thống pháp luật đầu tư đầy đủ, cởi mở, tin cậy và mang tính chuẩn mực quốc tế cao; chính sách ưu đãi đầu tư linh hoạt và hấp dẫn,…. Đặc biệt việc các quốc gia đó tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế, cũng như tuân thủ nghiêm túc các công ước, quy định về luật pháp đầu tư và thông lệ đối xử quốc tế… sẽ là những yếu tố đảm bảo lòng tin và hấp dẫn các dòng FDI thậm chí còn mạnh hơn việc đưa ra các ưu đãi tài chính cao… nghĩa là dòng FDI chỉ ưa tìm đến những nơi đầu tư an toàn, đồng vốn được sử dụng có hiệu quả, quay vòng nhanh và ít rủi ro.
Phần II
Thực trạng đầu tư trực tiếp của Mỹ ở Việt nam giai đoạn từ 1994 đến nay
Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế mạnh, với hàng trăm công ty đa quốc gia quy mô lớn, hoạt động trên nhiều lĩnh vực, Mỹ là chủ đầu tư của nhiều nước. Mỹ đầu tư nhiều nhất vào những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển, trình độ lao động có chuyên môn cao, luật pháp ổn định rõ ràng, mức độ rủi ro thấp. Như vậy, những nước có nền kinh tế càng phát triển càng thu nhận nhiều FDI. Và các nước ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương (bao gồm cả ASEAN) là địa chỉ hấp dẫn để thu hút FDI.
Năm 1998, dòng FDI của thế giới là 643.879 triệu USD. Trong đó, riêng FDI ra nước ngoài của Mỹ là 121.644 triệu USD, chiếm 19% dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của toàn thế giới.
Trong bối cảnh chung đó, để biết được Mỹ đầu tư vào Việt nam như thế nào, ta đi vào xem xét thực trạng đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam.
Thực trạng đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam giai đoạn từ 1994 đến nay
Đánh giá chung
Từ sau khi Mỹ chính thức xóa bỏ lệnh cấm vận đối với Việt nam vào ngày 3/2/1994, hoạt động đầu tư trực tiếp của các công ty Mỹ vào Việt nam đã có bước nhảy vọt. Nhiều công ty và tập đoàn kinh tế Mỹ vào Việt nam với mục đích là thăm dò hoạt động đầu tư của thị trường này. Chỉ riêng năm 1994 - năm đầu tiên khi lệnh cấm vận được bải bỏ - số vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam đã tăng vọt lên 120,310 triệu USD với 12 dự án, đưa nước này lên vị trí thứ 14 trong danh sách các nhà đầu tư lớn nhất vào Việt nam. So với cả giai đoạn 1988-1993, khi lệnh cấm vận còn hiệu lực, đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam với tổng số vốn đăng ký là 3,34 triệu USD. Điều này cho thấy: trước khi Mỹ xoá bỏ cấm vận, các công ty của Mỹ đã rất sốt ruột muốn được vào đầu tư kinh doanh tại Việt nam, để có cơ hội cạnh tranh với các công ty của Nhật Bản, Châu Âu và các nước khác. Do đó khi huỷ bỏ lệnh cấm vận, các công ty Mỹ đã "nhảy" vào đầu tư ở Việt nam. Cụ thể, sau khi huỷ bỏ lệnh cấm vận 1 ngày, đã có 30 công ty mở văn phòng đại diện tại Việt nam, "mở đầu cuộc đấu tranh để giành trái tim và ví tiền của người Việt nam". Chỉ vài năm sau đó, nhất là khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao, đầu tư của Mỹ tại Việt nam đã tăng lên nhanh chóng. Cụ thể:
Bảng 1: Đầu tư của Mỹ tại Việt nam
(Tính đến tháng 10/2002 - các dự án còn hiệu lực)
Năm
Số dự án
Tổng số vốn đầu tư
(triệu USD)
Tỷ trọng
(%)
Quy mô dự án
(triệu USD)
1994
12
120,310
8,57
10,03
1995
19
397,871
28,34
20,94
1996
16
159,722
11,38
9,98
1997
12
98,544
7,02
8,21
1998
15
306,955
21,87
20,46
1999
14
66,352
4,73
4,74
2000
12
95,275
6,79
7,94
2001
23
110,8
7,89
4,82
10/2002
19
-
-
-
Tổng cộng
144
1.403,680
100,00
9,75
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
Với quy mô và tốc độ đầu tư tăng khá lớn vào Việt nam, chỉ 2 năm sau khi lệnh cấm vận được dỡ bỏ, Mỹ đã vượt lên thứ 6 trong danh sách 10 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt nam và chỉ sau Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Xingapo và Thuỵ Điển. Năm 1995, đã tạo ra một bước đột biến mới với 19 dự án đầu tư của Mỹ với tổng số vốn đầu tư là 397,871 triệu USD. Đây là năm đạt mức đầu tư cao kỷ lục cả về số lượng dự án lẫn số vốn đầu tư và quy mô dự án, chiếm tới 28,34% tổng vốn đầu tư; 13,19% số dự án đầu tư, với quy mô dự án bình quân đạt 20,94 triệu USD - mức cao nhất từ trước đến giờ của đầu tư Mỹ vào Việt nam và cao hơn nhiều so với quy mô dự án của cả giai đoạn (9,75 triệu USD). Điều đáng quan tâm là các công ty tầm cỡ thế giới của Mỹ đã tham gia chính với những dự án quy mô lớn và có tầm quan trọng đối với tương lai phát triển của nền kinh tế Việt nam. Chẳng hạn như Mobil Oil với dự án dầu khí (Mỏ Thanh Long) 55 triệu USD, dự án khu du lịch Non Nước của tập đoàn BBI China Beach Ltd 243 triệu USD…. Vị trí này Mỹ tiếp tục giữ trong năm 1997, mặc dù cả số dự án lẫn tổng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam giảm mạnh (trong năm chỉ có thêm 12 dự án với tổng số vốn 98,544 triệu USD). Tuy tốc độ đầu tư của Mỹ vào Việt nam hai năm 1996-1997 có dấu hiệu chựng lại do tác động của nhiều nhân tố khách quan như khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, môi trường, chính sách đầu tư của Việt nam chưa ổn định, phức tạp, nhiều rủi ro, chậm thu lợi nhuận, chính sách đối xử của Việt nam đối với các công ty nước ngoài nói chung, công ty Mỹ nói riêng, còn nhiều phân biệt, chưa thuận cho cách làm ăn kinh doanh của họ,… Nhưng tác động tích cực của các nhân tố khác như việc chính phủ Mỹ cho phép Cơ quan phát triển thương mại Mỹ (TDA) chính thức mở các chương trình hỗ trợ đầu tư tại Việt nam, sự cấp phép hoạt động tại Việt nam của ngân hàng xuất nhập khẩu và Tổ chức đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC), cũng như hiệp định về bản quyền giữa chính phủ hai nước được ngoại trưởng hai nước ký vào ngày 27/6/1997, đã tạo cơ sở pháp lý và những tiền đề quan trọng trong việc phát triển quan hệ kinh tế hai nước nhất là lĩnh vực đầu tư.
Sau hai năm theo xu hướng giảm sút, đầu tư của Mỹ vào Việt nam năm 1998 lại tạo được bước tăng đột biến với số vốn đầu tư tăng hơn 3 lần so với năm trước, đạt 306,955 triệu USD với 15 dự án. Điều này một phần là do ngày 10/3/1998, tổng thống Mỹ B.Clinton đã tuyên bố bãi bỏ tù chính án Jackson-Vanik đối với Việt nam, nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế với Việt nam lên một bước mới. Phía Mỹ cho rằng, bỏ tù chính án Jackson-Vanik đối với Việt nam là bước đầu cho việc thực hiện các chương trình bảo hiểm đầu tư, tạo thế thuận lợi cho cả hai bên Việt-Mỹ, đồng thời tăng thêm niềm tin đối với các công ty Mỹ vốn quan tâm tới việc hợp tác đầu tư vào Việt nam. Mặc dù vốn đầu tư tăng song thứ hạng của Mỹ đã tụt xuống vị trí thứ 8 trong danh sách 10 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt nam.
Sang năm 1999 - năm ảm đạm nhất trong lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam - đầu tư của Mỹ vào Việt nam cũng trong tình trạng chung. Mặc dù số dự án đầu tư của Mỹ vào Việt nam giảm không đáng kể so với năm trước, đạt 66,352 triệu USD. Nếu như năm 1995 được ghi nhận là năm đạt mức cao kỷ lục về tổng vốn đầu tư, số dự án và quy mô dự án thì năm 1999 đánh dấu mức thấp nhất về tổng vốn đầu tư và quy mô dự án của vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam. Quy mô trung bình một dự án chỉ bằng 48,62% mức trung bình của cả giai đoạn và chỉ gần bằng 1/4 so với mức tương ứng năm 1995. Sự giảm sút này đã đẩy Mỹ xuống vị trí cuối cùng trong danh sách 10 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt nam trong năm 1999.
Tính đến hết năm 2000, Mỹ chỉ chiếm 3,5% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam, xếp thứ 9 trong tổng số 13 nước này.
Năm 1999-2000 đầu tư của Mỹ vào Việt nam đã giảm hẳn. Tìm hiểu nguyên nhân suy giảm đầu tư của Mỹ vào Việt nam có thể đưa ra vài nhận xét: Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nhiều nước đã lấy lại được phong độ phát triển tốt, thay đổi chính sách đầu tư như Thái Lan, Hàn Quốc… nên đã hút vốn nước ngoài nhiều hơn, trong đó có Mỹ, thay vì Mỹ đầu tư vào Việt nam thì đầu tư vào các nước đó. Mặt khác, Trung Quốc là nước láng giềng của Việt nam cũng có nhiều lợi thế hơn trong việc thu hút các nhà đầu tư Mỹ vào Trung Quốc. Ngoài ra, phải kể đến, nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái, các công ty Mỹ cần cơ cấu lại và họ sẵn sàng rút các dự án đầu tư ở nước ngoài nếu nhắm thấy không có hiệu quả.
Tuy nhiên, số dự án đầu tư của Mỹ đang có chiều hướng tăng lên. Năm 2000, luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi đã chỉ rõ những ngành nghề được nhà nước khuyến khích đầu tư: sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng kỹ thuật cao, sử dụng nhiều lao động, tài nguyên sẵn có tại Việt nam, xây dựng cơ sở hạ tầng,… Bên cạnh đó, Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được kí kết vào ngày 13/7/2000 (giờ Hoa Kỳ) đánh dấu việc hoàn tất quá trình bình thường hoá hoàn toàn quan hệ Việt-Mỹ. Theo các chuyên gia kinh tế đánh giá thì hiệp định thương mại Việt-Mỹ được kí kết sẽ tạo môi trường thuận lợi hơn để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam, đặc biệt là các nhà đầu tư Mỹ. Do đó, năm 2001, đầu tư của Mỹ vào Việt nam được cải thiện hơn với 23 dự án và tổng só vốn đầu tư là 110,8 triệu. Điều này đã đưa Mỹ lên vị trí thứ 6 trong tổng số 10 nhà đầu tư lớn vào Việt nam năm 2001. Mặc dù vậy, nếu so với các quốc gia khác như Hà Lan - nước dẫn đầu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam năm 2001- thì tổng vốn đầu tư của Mỹ chưa bằng 1/5 của Hà Lan.
Từ đầu năm 2002 đến nay, các doanh nghiệp Mỹ đã đầu tư vào Việt nam khoảng 20 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 50 triệu USD, trở thành 1 trong 6 nước và vùng lãnh thổ đầu tư nhiều nhất vào Việt nam trong năm nay.
Hiện nay, Mỹ có khoảng 144 dự án còn hiệu lực tại Việt nam với tổng vốn đăng ký trên 1 tỉ USD, đứng vị trí thứ 13 trong số các nước và vùng lãnh thổ về FDI vào Việt nam. Trong đó, có 62 dự án với tổng vốn đầu tư 582 triệu USD đã đi vào sản xuất kinh doanh và 25 dự án với tổng vốn đăng ký 151 triệu USD đang xây dựng dự án.
Nếu so với nhiều đối tác đầu tư khác thì tình hình góp vốn của Mỹ, tình hình thực hiện vốn đã đăng ký và tình hình thực hiện vốn pháp định đã đăng ký của Mỹ là tương đối thấp. Và mặc dù là một nước lớn với nguồn vốn dồi dào, nhưng các dự án của Mỹ đầu tư vào Việt nam đa số chỉ là những dự án nhỏ, quy mô một dự án thấp hơn cả mức bình quân chung của tất cả các đối tác đầu tư (Bảng 2)
Bảng 2: Tình hình thực hiện vốn và quy mô dự án
Các chỉ tiêu
Mỹ
Bình quân chung
Tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định đăng ký(%)
71
77
Tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư đã đăng ký (%)
37
42
Tỷ lệ thực hiện vốn pháp định đã đăng ký (%)
49
48
Quy mô bình quân 1 dự án (triệu USD)
9,75
16,23
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư.
Tuy có những bước phát triển nhảy vọt, song hoạt động đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam còn dừng lại ở những kết quả khiêm tốn so với tiềm năng của cả hai phía. Đến nay, Mỹ mới chiếm 3,2% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam. Nếu so sánh vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam với tổng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ thì con số này hết sức nhỏ nhoi: trong suốt những năm qua tỷ lệ này chưa năm nào đạt nổi 0,5% (dao động trong khoảng từ 0,227% đến 0,456%).
Như vậy, qua nghiên cứu quá trình đầu tư của Mỹ vào Việt nam thì dễ dàng nhận thấy biểu đồ là một đường gấp khúc lúc lên, lúc xuống không đều. Mỹ là quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh, lượng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ lớn, nhưng so với các quốc gia khác đầu tư vào Việt nam thì lượng vốn FDI của Mỹ thu hút vào Việt nam là quá bé, chưa tương xứng với tiềm năng là một cường quốc số một về kinh tế, chưa khai thác hết lợi thế của một vùng đất mà Mỹ đã và đang có mặt.
Cơ cấu đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam phân theo ngành kinh tế
Cơ cấu FDI theo ngành phản ánh chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, phản ánh mức độ phù hợp giữa đầu tư và yêu cầu cân đối các ngành trong nền kinh tế. Thời gian qua, các dự án đầu tư của Mỹ vào Việt nam được thực hiện trên nhiều lĩnh vực nhưng mức độ khác nhau ở mỗi ngành.
Vốn đầu tư của Mỹ tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp. Đầu tư vào các ngành này chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số lượng dự án lẫn tổng vốn đầu tư. Với 85 dự án và tổng vốn đăng ký hoạt động trên 760 triệu USD. Nếu so với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam, tỷ trọng vốn đầu tư của Mỹ vào ngành công nghiệp cao hơn nhiều so với chỉ số tương ứng của tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam: 54,17% so với 37,78%. Điển hình Mỹ đầu tư vào ngành này là dự án sản xuất lắp ráp ôtô Ford với số vốn đăng ký là102,6 triệu USD, dự án công ty sản xuất xà phòng, kem đánh răng colgate Palmolive (40 triệu USD),… Tiếp đến là các dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ (tài chính, ngân hàng, văn phòng cho thuê, dịch vụ phần mềm, y tế, giáo dục,…) với 39 dự án và tổng vốn đầu tư đạt trên 400 triệu USD chiếm 28,53% tổng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam. Tuy tỷ trọng nhỏ nhưng nông, lâm nghiệp cũng là lĩnh vực được các nhà đầu tư Mỹ chú ý hơn các nhà đầu tư khác với 20 dự án, tổng vốn đầu tư đạt 242,811 triệu USD (chiếm 17,3% vốn và 13,89% số dự án). Cụ thể:
Bảng 3: Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam phân theo ngành kinh tế (tính đến tháng 10/2002- các dự án còn hiệu lực)
STT
Chuyên ngành
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Tỷ trọng (%)
I
Công nghiệp
85
760.347.606
54,17
Công nghiệp dầu khí
6
153.800.000
10,96
Công nghiệp nhẹ
13
107.002.000
7,62
Công nghiệp nặng
47
346.213.606
24,66
Công nghiệp thực phẩm
11
63.120.000
4,50
Xây dựng
8
90.212.000
6,43
II
Nông, lâm nghiệp
20
242.811.798
17,30
Nông-Lâm nghiệp
14
178.838.686
12,74
Thuỷ sản
6
63.973.112
4,56
III
Dịch vụ
39
400.520.596
28,53
GTVT- Bưu điện
8
55.930.540
3,98
Tài chính - Ngân hàng
7
82.150.000
5,85
Văn hoá- Y tế- Giáo dục
11
124.330.000
8,86
XD văn phòng- Căn hộ
5
76.833.215
5,47
Dịch vụ
8
61.276.841
4,37
Tổng số
144
1.403.680.000
100,0
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư.
Qua bảng trên cho thấy, đầu tư của Mỹ nhiều nhất là vào ngành công nghiệp nặng với 47 dự án chiếm khoảng 1/3 số dự án đầu tư của Mỹ vào Việt nam, với tổng số vốn đầu tư lên tới 346,213 triệu USD, chiếm 24,66% tổng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam. Các công ty Mỹ đầu tư vào Việt nam như Microsoft, IBM, Hewlett-Parckard, APC, oracle,… trong lĩnh vực tin học; hãng hàng không Boeing và Airburs trong công nghiệp hàng không; Chrysler, Ford trong công nghiệp chế tạo ôtô, P&G trong công nghiệp hoá chất, Pepsi và Cola trong lĩnh vực nước giải khát… đã trở thành khá quen thuộc đối với những đối tác đầu tư ở Việt nam. Ngành nông- lâm nghiệp chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên, tổng số vốn đầu tư vào ngành này chiếm 12,74% trong tổng số vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam với 178,838 triệu USD.
Các nhà đầu tư Mỹ cũng khá quan tâm tới ngành công nghiệp dầu khí. Tuy chỉ có 8 dự án nhưng số vốn đầu tư lên tới 143,8 triệu USD chiếm 10,96%. Lí giải cho điều này, có thể nói Mỹ là một nước có nhu cầu khá lớn về dầu khí, khoảng 50% dầu tiêu thụ Mỹ phải nhập khẩu từ bên ngoài. Mặt khác, dầu khí vốn là thế mạnh xuất khẩu của Việt nam trong mấy năm qua, mà Mỹ đã không mua được của Việt nam bao nhiêu. Do đó, các nhà đầu tư Mỹ đã quan tâm đầu tư lĩnh vực này.
Văn hoá - Y tế - Giáo dục cũng là một lĩnh vực được các nhà đầu tư Mỹ quan tâm với 124,33 triệu USD chiếm 8,86% tổng vốn đầu tư. Tiếp đến là các ngành công nghiệp nhẹ với tổng vốn đầu tư 107,002 triệu USD chiếm 7,62%; tài chính, ngân hàng với 7 dự án, tổng vốn đầu tư 82,150 triệu USD chiếm 5,8%; xây dựng có 8 dự án với tổng vốn đầu tư 90,212 triệu USD chiếm 6,43%. Ngành giao thông vận tải - Bưu điện có tổng vốn đầu tư nhỏ nhất với 55,93 triệu USD.
Nếu phân theo giá trị dự án thì đầu tư lớn nhất của Mỹ vào Việt nam là các ngành nước giải khát, xe hơi, hoá mỹ phẩm, chế biến nông sản, khai thác dầu khí. Còn nếu phân theo số dự án thì Mỹ đầu tư nhiều nhất vào ngành chế biến thực phẩm, vật liệu xây dựng, sản phẩm điện tử, cơ khí ôtô, dầu khí, hoá chất, thuốc chữa bệnh.
Khác với các nhà đầu tư Nhật Bản và một số nước Châu á khác, đầu tư của Mỹ vào Việt nam phần lớn thường tập trung trong các ngành công nghệ kỹ thuật cao như dầu khí, điện tử, tin học, chế tạo ôtô, dịch vụ máy bay, xây dựng cơ sở hạ tầng…. Các ngành dịch vụ đòi hỏi chi phí cao như mỹ phẩm, nước giải khát,…. Và các ngành sử dụng nhiều vốn như hoá chất, giao thông vận tải,…. Tuy số dự án không nhiều nhưng quy mô một dự án thường khá lớn.
Mặc dù đã có một số chuyển biến tích cực theo hướng phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhưng nhìn chung cơ cấu đầu tư trực tiếp của Mỹ theo ngành thời gian qua vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý. Các nhà đầu tư Mỹ luôn muốn thu hồi vốn nhanh và có lợi nhuận cao nên thường tập trung vào những ngành đáp ứng được yêu cầu này. Các ngành chế biến nông sản và thực phẩm là thế mạnh của Việt nam song rất ít dự án và vốn đầu tư cho một dự án thường nhỏ. Các lĩnh vực cần thiết như văn hoá, giáo dục, y tế… cũng thu hút được rất ít các dự án đầu tư trực tiếp của Mỹ.
Cơ cấu đầu tư đầu tư trực tiếp của Mỹ theo địa phương
Cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư ảnh hưởng lớn đến trình độ phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Nó tạo ra sự hài hoà giữa các vùng, các địa phương, do đó quyết định sự tăng trưởng chung của cả nước. Đồng thời, quyết định khoảng cách phân hoá giàu nghèo, mức độ bình đẳng, ổn định xã hội. Nhà nước đã có quy hoạch đầu tư vào các vùng, các địa phương sao cho đảm bảo hài hoà, cân đối, vừa có trọng điểm vào một số vùng để làm đầu tàu tăng trưởng. FDI là nguồn vốn lớn, vì vậy dòng chảy của nó vào đâu sẽ ảnh hưởng lớn đến cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư theo địa phương của Việt nam.
Mỹ là một trong những nước có nguồn vốn FDI vào Việt nam. Do vậy, cơ cấu đầu tư của Mỹ vào các địa phương cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư theo địa phương của Việt nam.
Đầu tư của Mỹ vào Việt nam cũng dàn trải trên nhiều tỉnh, có cả Hưng Yên, Thái Bình, Phú Yên, Đắc Lắc,…. Tuy nhiên, vốn đầu tư của Mỹ chỉ tập trung chủ yếu ở một số địa bàn thuận lợi nhất. Đây là tình hình chung thực tế của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Riêng TP. Hồ Chí Minh chiếm 24,04% tổng vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam, chiếm 28% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam. Chỉ hai địa bàn thu hút nhiều vốn đầu tư nhất là TP. Hồ Chí Minh và Đồng Nai đã chiếm gần nửa (43,37%) tổng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam. Còn nếu tính thêm cả Hà Nội - nơi thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ lớn thứ 3 - thì ba địa danh này chiếm gần 2/3 tổng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có số dự án chiếm tỷ trọng cao nhất, nhưng ở Hà Nội nhìn chung là những dự án quy mô nhỏ. Tuy không có dự án nào đầu tư vào Hải Phòng, nhưng Mỹ cũng có một dự án lớn đầu tư vào Hải Dương, một tỉnh giáp ranh Hải Phòng, nối liền Hà Nội, đó là công ty TNHH Ford VN.
Mười địa phương thu hút vốn đầu tư nhiều nhất chiếm tới 90% tổng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam, cao hơn so với tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư nhiều nhất vào 10 địa phương tại Việt nam (87,8%). Cụ thể:
Bảng 4: Mười địa phương thu hút nhiều nhất vốn đầu tư của Mỹ
(tính đến tháng 10/2002)
STT
Địa phương
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Tỷ trọng (%)
1
TP. Hồ Chí Minh
40
337.469.578
24,04
2
Đồng Nai
15
271.374.220
19,33
3
Hà Nội
23
208.142.980
14,83
4
Bình Dương
14
129.362.540
9,22
5
Hải Dương
1
102.700.000
7,32
6
Bà Rịa - Vũng Tàu
7
64.431.218
4,59
7
Cần Thơ
4
46.201.000
3,29
8
Hà Tây
2
40.000.000
2,85
9
Đắc Lắc
3
32.063.530
2,28
10
Hoà Bình
3
31.700.000
2,26
11
Địa phương khác
32
140.234.934
9,99
Tổng cộng
144
1.403.680.000
100,0
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư.
Nhìn vào số liệu thống kê trên cho thấy: đầu tư của Mỹ chủ yếu tập trung vào các tỉnh phía Nam - nơi có môi trường đầu tư thông thoáng, cơ sở hạ tầng và điều kiện sản xuất kinh doanh tốt hơn các tỉnh thành khác trong cả nước. Cả số dự án và tổng vốn đầu tư đều chiếm 2/3 so với tổng số dự án và tổng vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam. Nếu so với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các tỉnh phía Nam thì đầu tư của Mỹ vẫn dàn trải hơn (khoảng 66% so với gần 80% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các tỉnh phía Nam)
Sự tập trung quá nhiều các dự án FDI của Mỹ ở các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế, quá ít ở một số tỉnh vùng sâu,vùng xa, điều kiện khó khăn đã dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo. Khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng càng giãn rộng và có thể dẫn đến sự quá tải về đầu tư, sự lệ thuộc kinh tế vào bên ngoài ở một số nơi. Trong khi một số nơi khác không có điều kiện, không có vốn để khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên, sử dụng nhân công rẻ, dồi dào, cải thiện kinh tế, đời sống xã hội. Đó là các tỉnh thuộc miền Trung, Tây Nguyên, vùng núi, nơi mà cả điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội đều khó khăn, kém phát triển, kém thuận lợi hơn các địa phương khác.
Cho đến tháng 10/2002, đầu tư trực tiếp của Mỹ tập trung vào 29 tỉnh và thành phố, chủ yếu là các tỉnh và thành phố phát triển phía Nam (chủ yếu là TP. Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ) và một số tỉnh ở phía Bắc (Bắc Bộ).
Qua việc xem xét, đánh giá tình hình FDI của Mỹ vào Việt nam theo địa phương đã thấy nổi lên một số vấn đề còn tồn tại. Nhiệm vụ đặt ra là cần phải thực hiện công tác quy hoạch và các chính sách hợp lý để điều chỉnh cơ cấu FDI nói chung và FDI của Mỹ nói riêng theo đúng hướng chiến lược phát huy triệt để thế mạnh từng vùng phục vụ công cuộc phát triển đất nước.
Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam phân theo hình thức đầu tư
Mỗi hình thức đầu tư đều có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Tuỳ thuộc vào điều kiện tình hình cụ thể mỗi giai đoạn mà FDI ở Việt nam có sự thay đổi về hình thức đầu tư.
Nhìn chung, việc đa dạng hoá hình thức đầu tư không ảnh hưởng đến việc định hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt nam. Bởi các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, ở bất kỳ hình thức đầu tư nào cũng đều chịu sự điều chỉnh của luật pháp Việt nam. Bởi vậy, nhà nước Việt nam đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài kể cả các công ty Mỹ được linh hoạt chuyển đổi các hình thức đầu tư của mình nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
Trong giai đoạn đầu, vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam được phân phối khá đồng đều cho 2 hình thức liên doanh và xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, trong khi hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm tỷ trọng không đáng kể (0,3%). Đây là nét đặc trưng của các nhà đầu tư Mỹ. Nếu trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam, tỷ trọng của liên doanh - loại hình thu hút đa số vốn đầu tư nước ngoài tại Việt nam - chiếm 70%, trong khi hình thức 100% vốn nước ngoài chỉ chiếm 20% thì trong cơ cấu đầu tư của Mỹ vào Việt nam giai đoạn này, hai chỉ số này đã xích lại gần nhau với liên doanh 50,1% và còn lại 100% vốn nước ngoài. Cụ thể:
Bảng 5: Cơ cấu loại hình đầu tư của Mỹ tại Việt nam
(Tính đến đầu năm 2000 - các dự án còn hiệu lực)
STT
Hình thức đầu tư
Số dự án
Tỷ trọng
(%)
Tổng số vốn
(triệu USD)
Tỷ trọng
(%)
1
100% vốn nước ngoài
50
54,9
586,583
49,6
2
Liên doanh
35
38,5
592,444
50,1
3
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
6
6,6
3,209
0,3
Tổng cộng
91
100,0
1.182,236
100,0
Nguồn: Vụ Quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và đầu tư.
Thực tế trong những năm qua, khi tham gia liên doanh, phía Việt nam tỏ ra yếu cả về vốn đóng góp lẫn năng lực quản lý của cán bộ. Trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài muốn độc lập hơn khi họ ngày càng hiểu biết nhiều hơn về pháp luật, chính sách, cách thức hoạt động kinh doanh ở môi trường kinh doanh ở Việt nam. Do vậy, trong vài năm gần đây, hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài đã thu hút sự chú ý đặc biệt của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt nam, trong đó đặc biệt là các nhà đầu tư Mỹ. Cụ thể:
Bảng 6: Đầu tư của Mỹ vào Việt nam phân theo hình thức đầu tư
(tính đến tháng 10/2002- các dự án còn hiệu lực)
STT
Hình thức đầu tư
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
Tỷ trọng(%)
1
100% vốn nước ngoài
88
644.341.806
47,33
2
Liên doanh
38
489.813.304
34,89
3
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
18
249.524.890
17,78
4
BOT
0
0
0
Tổng cộng
144
1.403.680
100,0
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư.
Qua bảng số liệu cho thấy, hình thức 100% vốn nước ngoài đã tăng lên 88 dự án với tổng vốn đầu tư 644,341 triệu USD chiếm 47,33% tổng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam. Tiếp theo là hình thức liên doanh với 38 dự án có tổng vốn đầu tư 489,813 triệu USD chiếm 34,89%. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh đã tăng lên 18 dự án với tổng vốn đầu tư 249,524 triệu USD chiếm 17,78%. Hình thức 100% vốn nước ngoài tăng lên chứng tỏ sự tự tin của chủ đầu tư vào môi trường đầu tư Việt nam, chứng tỏ tiềm lực của các nhà đầu tư và hình thức này có thể mang lại lợi nhuận cao hơn hình thức liên doanh. Và cũng chứng tỏ khả năng góp vốn của các tổ chức kinh tế Việt nam có hạn. Tuy nhiên, nếu không có sự quản lý chặt chẽ, hình thức đầu tư này có thể đưa lại những hậu quả xấu: sự thao túng của nước ngoài trong một số lĩnh vực làm nhà nước Việt nam khó có khả năng kiểm soát, các doanh nghiệp Việt nam có thể bị đè bẹp do không đủ khả năng cạnh tranh và do được tự chủ trong điều hành doanh nghiệp, phía nước ngoài có thể không đảm bảo các quy định về lao động, bảo vệ môi trường…. Do đó, tăng cường quản lý một cách phù hợp là yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Hình thức đầu tư BOT vẫn chưa được các nhà đầu tư Mỹ quan tâm. Điều này khác với các nhà đầu tư nước ngoài khác: tuy đầu tư vào hình thức này chưa nhiều song vẫn có một vài dự án chiếm 1,14%.
Qua nghiên cứu các hình thức đầu tư của Mỹ vào Việt nam cho thấy: các hình thức đầu tư nước ngoài hiện nay chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư của nước ngoài nói chung và đầu tư của Mỹ nói riêng. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu mở rộng, bổ sung thêm các hình thức đầu tư mới như: cho phép thành lập các công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài….
Đánh giá kết quả và hiệu quả đạt được trong quá trình đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam thời gian qua
Những thành tựu đạt được
Những phân tích ở trên cho thấy: đầu tư trực tiếp của Mỹ đã trở thành một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế và đã có những đóng góp tích cực cho quá trình phát triển nền kinh tế xã hội của Việt nam, cụ thể:
- Đầu tư trực tiếp của Mỹ đã góp phần bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực kinh tế để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện năng, nuôi trồng và chế biến cây trồng công nghiệp, cây lương thực…
- Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam đã chuyển giao các công nghệ hiện đại, tạo môi trường cạnh tranh, góp phần phát triển mạnh mẽ các nguồn lực sản xuất.
Cùng với hoạt động đầu tư trực tiếp, các nhà đầu tư Mỹ đã tiến hành chuyển giao công nghệ. Nhiều công nghệ mới được nhập vào nước ta như thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, sản xuất lắp ráp ôtô, hoá chất,… Về chất lượng công nghệ đầu tư trực tiếp của Mỹ đưa vào Việt nam, nhìn chung, phần lớn các trang thiết bị là đồng bộ, thuộc loại trung bình của thế giới và tiên tiến hơn những thiết bị hiện có của ta. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư Mỹ, trong quá trình đầu tư rất quan tâm đến việc tham gia đào tạo, nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho người lao động Việt nam, kể cả lao động trực tiếp lẫn đội ngũ quản lý.
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: sự gia tăng FDI của Mỹ góp phần vào tăng trưởng GDP, nâng cao đời sống người dân Việt nam.
- Đóng góp vào ngân sách nhà nước
Những dự án đầu tư của Mỹ khi đi vào sản xuất kinh doanh không những mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư, lợi ích trực tiếp cho bên liên doanh, cho người lao động Việt nam mà còn đóng góp cho ngân sách nhà nước hàng trăm triệu đồng, làm tăng nguồn thu vào ngân sách nhà nước, góp phần vào việc khắc phục cân bằng thu chi, góp một phần quan trọng vào việc bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Rõ ràng, hoạt động FDI của Mỹ đã góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô nền kinh tế Việt nam. Nó đã góp phần đáng kể vào việc cải thiện ngân sách nhà nước, khắc phục hiện tượng bội chi, thúc đẩy tăng vốn trở lại cho hoạt động đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước.
- Phát triển các lĩnh vực trong nền kinh tế
Sự tăng trưởng chung của cả nền kinh tế là do sự tăng trưởng của các ngành mang lại. Trong đó, sự có mặt của FDI Mỹ góp một phần quan trọng. Đối với sản xuất công nghiệp, FDI của Mỹ có tác động không nhỏ, công nghiệp đã không chỉ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của môi trường trong nước mà còn đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, phát huy năng lực sản xuất trong nhiều lĩnh vực. Thông qua việc hợp tác với các TNCs mạnh hàng đầu của Mỹ như Ford, Chrydler, IBM,… thuộc các ngành chế tạo - sản xuất, do đó chúng ta có khả năng sản xuất và xuất khẩu một số phụ tùng ôtô hay linh kiện điện tử. Các loại phụ tùng và linh kiện điện tử này có thể sản xuất từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay thông qua các hợp đồng gia công cho các công ty Mỹ.
- Tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động Việt nam, góp phần nâng cao đời sống cho người lao động
Không chỉ góp phần đắc lực vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, sự hoạt động của FDI Mỹ tại Việt nam đã mang lại những hiệu quả về mặt xã hội. Các dự án FDI Mỹ đã góp phần tích cực vào việc giảm tỉ lệ thất nghiệp, tạo công ăn việc làm cho người lao động cũng như nâng cao tay nghề cho họ. Đây là tác động mà không phải doanh nghiệp Việt nam nào cũng có thể thực hiện được, đặc biệt mang lại một phong cách làm việc hiện đại. Không chỉ trực tiếp tạo ra việc làm cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI, hoạt động FDI Mỹ còn tạo ra hàng ngàn lao động gián tiếp.
Ví dụ: Sau nhiều lần chuyển đổi hình thức kinh doanh, hiện nay Coca-Cola (tại Hà nội, Đà nẵng, TP Hồ Chí Minh) có công suất 420 triệu lít/năm, giải quyết việc làm trực tiếp cho 2000 công nhân viên và gián tiếp cung cấp việc làm cho 25.000 người khác thông qua hệ thống phân phối và cung ứng nguyên liệu….
Cùng với việc giảm tỉ lệ thất nghiệp, FDI Mỹ cũng góp phần mang lại mức thu nhập cao cho những người lao động trong khu vực và gián tiếp nâng cao đời sống chung cho toàn bộ người dân.
- Một số thành tưu khác như góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển cơ sở hạ tầng, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế thông qua đó góp phần mở rộng thị trường của Việt nam, tăng cường xuất khẩu, tạo động lực giúp các doanh nghiệp Việt nam đầu tư ra nước ngoài…
Những điều còn trăn trở
Bên cạnh những thành tựu đạt, những đóng góp to lớn của đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam như đã trình bày ở trên, hoạt động FDI Mỹ còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, cụ thể:
- Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam trong thời gian qua rất thất thường. Nếu xét về tổng vốn đầu tư hàng năm thì kết quả chênh lệch nhau rất lớn: vốn đầu tư trong năm 1995 (cao nhất) gấp gần 6 lần năm 1999 (thấp nhất).
- Thời gian qua, đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam giảm mạnh. Năm 1999, tổng vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam chỉ đạt 66,352 triệu USD - chỉ bằng 80% số vốn thu hút được trong năm đầu khi lệnh cấm vận được huỷ bỏ hay chỉ bằng 21,6% số vốn đầu tư trong năm trước đó. Quy mô dự án đã giảm mạnh từ 20,46 triệu USD năm 1998 còn 4,82 triệu USD năm 2001.Bên cạnh đó, số dự án đầu tư của Mỹ vào Việt nam cũng liên tục giảm.
- Tuy có những bước nhảy vọt, song hoạt động đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam còn dừng lại ở những kết quả khá khiêm tốn so với tiềm năng của cả hai phía. Đến nay, Mỹ mới chiếm 4,09% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam (1.403,680 triệu USD so với 34.327 triệu USD). Nếu so sánh vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ thì con số này hết sức nhỏ nhoi: trong suốt những năm qua tỷ lệ này chưa năm nào đạt nổi 0,5% (dao động trong khoảng từ 0,26% đến 0,496%).
- Các nhà đầu tư Mỹ vào Việt nam vẫn còn hạn chế, đặc biệt là các nhà đầu tư có tiềm lực mạnh.
- Cơ cấu đầu tư tuy đã có nhiều cải tiến tích cực nhưng vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý như: vốn đầu tư và chủ yếu tập trung vào những vùng kinh tế trọng điểm, về hình thức đầu tư đang có sự chuyển mạnh qua hình thức 100% vốn nước ngoài.
- Còn có nhiều hạn chế trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ: có những công nghệ chuyển giao đã cũ, lạc hậu, hoạt động kém hiệu quả; công nghệ được chuyển giao không đồng bộ và định giá không đúng… Từ đó, dẫn đến sản phẩm làm ra có tính cạnh tranh chưa cao và đã gây ô nhiễm môi trường.
- Những hạn chế về chính trị - xã hội - văn hoá do đầu tư trực tiếp của Mỹ gây ra.
Nguyên nhân của những hạn chế
- Sự giảm sút vốn FDI của Mỹ từ năm 1999, nguyên nhân khách quan là do nền kinh tế Mỹ đã bắt đầu suy thoái. Bên cạnh đó, hoạt động xúc tiến đầu tư, những hoạt động ngoại giao nhằm tìm kiếm đối tác, cung cấp thông tin chính xác cho phía nước ngoài thực sự chưa hiệu quả.
- Môi trường đầu tư của Việt nam còn thiếu hấp dẫn trong bối cảnh cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gay gắt và nhiều nước trong khu vực luôn có những điều chỉnh để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn.
- Việc triển khai dự án đầu tư còn chậm và nhiều phát sinh.
- Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài còn nhiều yếu kém, thừa các thủ tục phiền hà, song lại thiếu khâu quản lý sau đầu tư. Thêm vào đó, theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài, chi phí đầu tư ở Việt nam là khá cao trong khu vực Châu á. Theo khảo sát của JETRO, cước điện thoại, tiền điện, phí vận chuyển côngtennơ,… cao gấp 2 - 3 lần so với các nước khác ở Châu á. Thêm vào đó, tệ quan liêu, tham nhũng, buôn lậu, sự yếu kém của hệ thống ngân hàng đang là những vấn đề nổi cộm làm giảm mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Theo báo cáo của cơ quan CRS trình Quốc hội Mỹ năm 1999, Việt nam đứng thứ 15 trong số 16 nước Châu á về sức hấp dẫn của môi trường kinh doanh.
- So với các nước trong khu vực thì lợi thế về lao động rẻ ở Việt nam không còn nữa.
- Nguyên nhân có sự chuyển giao những công nghệ cũ kỹ, lạc hậu với giá cao gây thiệt hại cho bên Việt nam là do phía Việt nam quá thiếu các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ kỹ thuật và các nhà tư vấn có đủ trình độ để thẩm định, đánh giá công nghệ. Đồng thời, sự quản lý lỏng lẻo và thậm chí có cả những vấn đề tiêu cực như sự hám lời, chỉ nhận thấy lợi ích trước mắt mà không thấy được hậu quả sau này của một số đối tượng. Đó cũng phần nào phản ánh khả năng tự chủ, kiểm soát của phía Việt nam.
Việc tìm hiểu, đánh giá tình hình nhận thức rõ nguyên nhân của các hạn chế trong hoạt động đầu tư là một cơ sở cho việc đề ra các giải pháp để phát huy hơn nữa tác dụng của FDI phục vụ cho chiến lược phát triển đất nước.
Chương III
Phương hướng và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ vào
Việt nam
I. Phương hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ nay đến năm 2010
1. Mục tiêu :
Để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và phương hướng nhiệm vụ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài phải phát triển ổn định hơn, đạt kết quả cao hơn, đặc biệt là về chất lượng, so với thời kỳ trước, để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể hơn, hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời kỳ 2001 - 2005 phải đạt được các mục tiêu sau :
a) Vốn đăng ký của các dự án cấp giấy phép mới : khoảng 12 tỷ USD.
b) Vốn thực hiện : khoảng 11 tỷ USD.
c) Đến năm 2005 đóng góp khoảng 15% GDP, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng 10% tổng thu ngân sách của cả nước (không kể dầu khí).
2. Định hướng :
a) Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến; công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, sản xuất phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
b) Tiếp tục thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Khuyến khích và dành các ưu đãi tối đa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những vùng và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở các địa bàn này bằng các nguồn vốn khác để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tập trung thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các Khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt.
c) Khuyến khích các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển; tiếp tục thu hút các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực. Có kế hoạch vận động các tập đoàn, công ty lớn đầu tư vào Việt Nam, đồng thời chú ý đến các công ty có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại; khuyến khích, tạo thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.
II. Một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam
Để thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát huy những ưu điểm của mình góp phần phát triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần đẩy mạnh hơn nữa thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt nam, nhất là các nhà đầu tư Mỹ có tiềm lực về tài chính và công nghệ, theo tôi chính phủ cần tập trung vào một số giải pháp sau:
1. Tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thủ tục đầu tư cũng là một vấn đề nổi cộm đang được chúng ta cải tiến từng bước. Để đảm bảo tính hấp dẫn cần kiên quyết thực hiện "một cửa" và quy định chặt chẽ thời gian tối đa giải quyết thủ tục. Kiên quyết xử lý và xử lý nghiêm những trường hợp gây phiền hà, nhận ăn hối lộ. Cần nhanh chóng thực hiện tối ưu hoá các thủ tục hành chính, rút ngắn tối đa thời gian mà các nhà đầu tư phải chi phí cho các công việc thủ tục.
2. Tăng cường kết cấu hạ tầng, hoàn thiện các chính sách khuyến khích
Kết cấu hạ tầng là điều kiện tiên quyết đối với thu hút FDI, đặc biệt là FDI của Mỹ. Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng đã hạn chế nhiều việc thu hút đầu tư vào Việt nam. Vì vậy, trong thời gian trước mắt phải nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải tiến để nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ cho các nhà đầu tư như viễn thông, vận chuyển, bảo hiểm, ngân hàng, điện, nước,…
Cần điều chỉnh chính sách để đạt độ khuyến khích cao nhất và chính sách khuyến khích đối với các nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào kết cấu hạ tầng, nông lâm nghiệp, trung du, miền núi.
Chính sách giá: cần điều chỉnh giá cho thuê đất thích hợp, nhất là có thể miễn giảm giá cho thuê đất ở miền núi trong vòng 5 năm để các nhà đầu tư có điều kiện đầu tư vào Việt nam
Về giá dịch vụ: cần nghiên cứu chỉ đạo khung giá dịch vụ đối với các nhà đầu tư. Không nên để các cơ sở tuỳ tiện nâng giá.
Về chính sách thuế: cần tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh các loại thuế, nên tăng thời gian miễn giảm thuế đối với các dự án đầu tư vào ngành, vùng trọng điểm.
3. Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư
Xúc tiến đầu tư là hoạt động nhằm quảng cáo, quảng bá cho các nhà đầu tư nước ngoài. Xúc tiến đầu tư được thực hiện dưới nhiều hình thức như triển lãm, hội nghị, cuộc viếng thăm (cấp chính phủ, cấp thành phố, cấp tỉnh…),...
Trong thời đại thông tin và toàn cầu hoá, các công ty đa quốc gia ngày càng có nhiều cơ hội đầu tư khắp thế giới. Vì vậy, Việt nam nên tổ chức làm marketing thông qua cuộc hội thảo hoặc diễn đàn đầu tư với chủ đề "Việt nam điểm đến của nhà đầu tư" tại các tiểu bang Mỹ và thường xuyên quảng bá các cơ hội đầu tư tại Việt nam với môi trường đầu tư hấp dẫn và hiệu quả. Bên cạnh đó, chính phủ Việt nam cũng nên thông qua các chuyến viếng thăm giữa hai nước Mỹ và Việt nam để quảng bá cho các nhà đầu tư Mỹ. Từ đó để giúp các nhà Mỹ hiểu rõ hơn cơ hội kinh doanh, đầu tư ở Việt nam.
Cần thành lập các bộ phận chuyên trách đảm nhiệm công việc xúc tiến đầu tư ở nước ngoài nói chung và ở Mỹ nói riêng để chủ động đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài.
4. Về bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài và đội ngũ cán bộ làm công tác đầu tư
- Về bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài
Cần nhanh chóng đổi mới bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài theo phương hướng tinh giản, gọn nhẹ, có hiệu lực.
Để thực hiện "một cửa" nên tham khảo mô hình Thái Lan: cơ quan hợp tác đầu tư là "cửa" duy nhất tiếp nhận hồ sơ và giải quyết công việc tiếp theo, đồng thời thay mặt nhà đầu tư đi liên hệ với các cơ quan hữu quan, rồi trả lời các nhà đầu tư, tạo điều kiện rất thuận lợi cho họ. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho Thái Lan trở thành nước thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất trong khu vực.
- Về đội ngũ cán bộ
Cần có chiến lược đào tạo cán bộ. Đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ là những chuyên gia trong từng lĩnh vực, có phong cách giao tiếp và trình độ ngoại ngữ thông thạo. Cần tăng cường sử dụng có chọn lọc các cơ quan tư vấn trong và ngoài nước, đồng thời tăng cường thêm đội ngũ có tầm quản lý vĩ mô.
Về lâu dài, nên có kế hoạch đào tạo chuyên ngành đầu tư nước ngoài trong trường đại học (như Đại học Kinh tế quốc dân) theo chương trình mới và cơ bản hoà nhập với các nước trong khu vực và các nước phát triển, từ đó có thể chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ về lĩnh vực này của đất nước.
Vấn đề bảo vệ môi trường
Đây là vấn đề rất lớn cần được quan tâm từ đầu, nếu không sẽ khó khắc phục hậu quả không chỉ trước mắt mà còn về lâu dài. Theo quy định hiện hành, nhà đầu tư phải báo cáo đánh giá tác động môi trường với nhiều nội dung, như mục tiêu kinh tế xã hội, phải mô tả điều kiện địa lý tự nhiên… tại địa điểm dự án (tất cả với 11 chỉ tiêu). Điều đó gây nhiều khó khăn phiền phức cho các nhà đầu tư. Việc này nên giao cho Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường làm chức năng kiểm tra, đồng thời có thể đề nghị chính phủ đình chỉ hoạt động nếu xí nghiệp gây tác đông xấu đến môi trường sinh thái.
Kết luận
Từ khi Mỹ đầu tư vào Việt nam, hoạt động FDI Mỹ đã có những đóng góp tích cực cho quá trình phát triển nền kinh tế xã hội của Việt nam như góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt nam, góp phần giải quyết công ăn việc làm, đóng góp vào ngân sách nhà nước, việc chuyển giao công nghệ,… Tuy nhiên, cũng có không ít những điều còn trăn trở như số dự án đầu tư của Mỹ vào Việt nam liên tục giảm, vốn đầu tư của Mỹ vào Việt nam còn quá nhỏ bé so với tiềm năng của cả hai nước, việc chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế,…. Chính vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng cường kết cấu hạ tầng, hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư , tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư… đang là những vấn đề đặt ra nhằm thu hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư Mỹ vào Việt nam.
Hy vọng môi trường Việt nam sẽ được cải thiện nhiều để đầu tư của Mỹ vào Việt nam phục hồi lại tốc độ như những năm trước và tạo ra những bước đột phá quan trọng.
Do có sự hạn chế về thời gian và vốn hiểu biết, đề án chỉ trình bày những nét cơ bản về tình hình đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam, về những kết quả đạt được và những khó khăn tồn tại để đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam. Đề án không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Trần Mai Hoa đã tận tình góp ý, hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
Hà Nội, ngày 22 tháng 11 năm 2002
Sinh viên
Đỗ Thị Thuỷ
Tài liệu tham khảo
1. Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư nước ngoài vào Việt nam - Nguyễn Khắc Thân - Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 1996.
2. Giáo trình đầu tư nước ngoài - Vũ Chí Lộc - Nhà xuất bản giáo dục,1997.
3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt nam - Nhà xuất bản thống kê, 1997.
4. Quan hệ kinh tế Việt nam - Hoa Kỳ - Nhà xuất bản thế giới, 2000.
5. Châu Mỹ ngày nay
- Số 5/2000: đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam.
- Số 5/2001: Đầu tư của Mỹ vào Việt nam.
- Số 6/2001: Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia Mỹ tại Việt nam
- Số 4/2002: Đầu tư nước ngoài của Mỹ ở khu vực.
6. Phát triển kinh tế số 125/2001: Xu hướng vận động và phát triển của các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam.
7. Tạp chí thị trường giá cả
Số 4/2001: Các động lực và nhân tố chủ yếu tác động tới thu hút FDI trên thế giới.
Số 6/2001: Triển vọng đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam.
8. Tạp chí kinh tế phát triển số 128/2001: Một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam.
9. Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương số 1/2001: đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam. Vấn đề và giải pháp.
10. Thị trường tài chính tiền tệ số 4/2001: Hiệp định thương mại Việt Mỹ và triển vọng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Mỹ vào Việt nam.
11. Trang Web: www.vneconomy.com.vn
12. Trang web: www.vir-vietnam.com
13. Một số tài liệu khác có liên quan.
Mục lục
Lời nói đầu
Phần I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
2. Phân loại hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.Các lý thuyết kinh tế vĩ mô về FDI
2. Các lý thuyết kinh tế vi mô về FDI
III. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước chủ nhà
để phát triển kinh tế.
2. FDI với việc chuyển giao công nghệ và tăng cường năng lực
công nghệ
3. FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
4. FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm nhiều việc
làm mới
5. Những tác động khác
IV. Một số hạn chế của FDI
V. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài
1. Xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới hiện nay
2. Chiến lược đầu tư phát triển của các TNCs
3. Môi trường đầu tư và khả năng cạnh tranh thu hút vốn FDI
của các nước tiếp nhận đầu tư.
Phần II: Thực trạng đầu tư trực tiếp của Mỹ ở Việt nam giai đoạn từ 1994 đến nay
I. Thực trạng đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam giai đoạn
từ 1994 đến nay
1. Đánh giá chung
2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam phân theo
ngành kinh tế
3. Cơ cấu đầu tư đầu tư trực tiếp của Mỹ theo địa phương
4. Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam phân theo hình thức
đầu tư
II. Đánh giá kết quả và hiệu quả đạt được trong quá trình
đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt nam thời gian qua
1. Những thành tựu đạt được
2. Những điều còn trăn trở
3. Nguyên nhân của những hạn chế
Phần III: Phương hướng và một số giải pháp
nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ vào
Việt nam
I. Phương hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ nay
đến năm 2010
1. Mục tiêu
2. Định hướng
II. Một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ
vào Việt nam
1. Tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài
2. Tăng cường kết cấu hạ tầng, hoàn thiện các chính sách
khuyến khích
3. Tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư
4. Về bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài và đội ngũ cán bộ
làm công tác đầu tư
5. Vấn đề bảo vệ môi trường
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0177.doc