Đề tài Tình hình đầu tư xây dựng CB ở Công ty điện lực I

Trong sự tiến bộ đi lên của xã hội loài người, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển hiện đại và tinh vi hơn, cùng với việc tăng cường vốn cho hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản thì năng suất, trình độ kỹ thuật, trình độ tay nghề, trình độ quản lý của người lao động cũng ngày một nâng lên rõ rệt. Đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư là việc rất cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm, những tồn tại, hạn chế và tìm hướng khắc phục để hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị ngày một hiệu quả hơn cả về mặt kinh tế và về mặt xã hội. Nhìn chung trong giai đoạn 1996 - 2000, nhờ có chiến lược và phương pháp đầu tư đúng hướng, công tác đầu tư XDCB đã đáp ứng được nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, đồng thời đưa điện về các xã vùng sâu, vùng xa, phục vụ nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất sinh hoạt của nhân dân đặc biệt đồng bào các dân tộc miền núi, đồng thời góp phần tăng lượng điện thương phẩm, tăng doanh thu tiền điện, đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, hoàn thành tốt các chỉ tiêu Nhà nước giao như: Nộp Ngân sách Nhà nước, các khoản thuế do Nhà nước qui định duy trì được sự tăng trưởng vốn đầu tư trong những giai đoạn nền kinh tế nhiều biến động và gặp khó khăn. Tuy nhiên, trong công tác đầu tư XDCB vẫn tồn tại những khó khăn và hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của hoạt động đầu tư.

doc103 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình đầu tư xây dựng CB ở Công ty điện lực I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giải quyết. Các ví dụ cụ thể sau sẽ chứng minh cho những điều trên: + Trạm 110 KV Hải Dương: phải lập lại BCNCKT và TKKT làm lại (sửa lại toàn bộ mặt bằng thiết bị và giải pháp công nghệ phù hợp cho thi công và vận hành chống quá tải). + Trạm 110 KV Hùng Vương: sau khi thực hiện lắp đặt xong, phải tiếp tục bổ sung thi công bể dầu sự cố. Còn phần đo đếm 22KV, phần thông tin không được đề cập đến trong thiết kế nên phải bổ sung điều chỉnh. Trong dự toán công trình, khối lượng chưa chính xác. Việc áp dụng các định mức, chế độ đơn giá theo qui định của Nhà nước chưa đầy đủ và chính xác nên phải sửa đi, sửa lại nhiều lần. Xây dựng các công trình điện chưa bám sát qui hoạch đô thị, qui hoạch địa phương từng tỉnh nên thiết kế cấp điện áp chưa phù hợp, địa điểm đặt trạm biến áp phải điều chỉnh. Ví dụ cụ thể: Công trình đường dây 35 KV Võ Cường - Trình Xá (Bắc Ninh) giai đoạn chuẩn bị đầu tư các đơn vị chức năng của địa phương đã thoả thuận các mặt bằng tuyến để triển khai các bước tiếp theo, khi công trình tổ chức đấu thầu và triển khai thi công xong phần móng thì Tỉnh đã thay đổi qui hoạch yêu cầu thay đổi mặt bằng tuyến (tránh khu công nghiệp mới qui hoạch). Công trình buộc phải duyệt thay đổi lại BCNCKT và bỏ đi 10 vị trí móng đã thi công xong, gây lãng phí. Tương tự các công trình nhà điều hành của các Điện lực: Hà Nam, Bắc Ninh, Bắc Cạn đều phải thay đổi lại cao độ san nền mặt bằng trong giai đoạn thực hiện đầu tư do Tỉnh yêu cầu thay đổi cao độ Qui hoạch dẫn đến phải duyệt điều chỉnh lại thiết kế, dự toán và giá trị gói thầu. Đối với việc thẩm định các BCNCKT, TKKT, TKKTTC và TDT Công ty đã có qui định tạm thời được ban hành kèm theo quyết định số1918 EVN/ ĐLI- P3 ngày 10/05/2000, nhưng chất lượng công tác thẩm định của các đơn vị thực hiện chưa tốt, làm cho Công ty gần như phải thẩm định lại trước khi phê duyệt. Nguyên nhân của những tồn tại trong công tác lập các thủ tục đầu tư XDCB trên có rất nhiều, nhưng tựu chung lại có thể qui về hai nguyên nhân cơ bản: Trước hết, về phía điều hành dự án: còn buông lỏng hoặc phó mặc cho cơ quan tư vấn trong việc lập thủ tục đầu tư, không đặt ra đầu bài với mục tiêu đầu tư, các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật cụ thể để cơ quan tư vấn giải quyết. Đã như vậy khi nghiệm thu sản phẩm cũng không xem xét, có nhiều trường hợp tư vấn giao sản phẩm là trình luôn Công ty. Lý do thứ hai, về phía các cơ quan tư vấn: Nhiều cơ quan tư vấn không làm đúng trách nhiệm trọng việc lập các thủ tục đầu tư. Nội dung các thủ tục đầu tư còn nhiều sai sót như đã chỉ ra trên. Một số cơ quan tư vấn làm việc mang tính chất: thuê gì thì làm đấy, sản phẩm đề án mang tính chất chỉ cần đáp ứng yêu cầu của đơn vị thuê lập dự án. Việc bám sát qui hoạch và khảo sát hiện trạng không được chú trọng. Nhưng điều tại hại nhất là có cơ quan tư vấn muốn đưa giá trị công trình cao lên để hưởng kinh phí lập thủ tục cao. Thứ tư, công tác quyết toán và giải ngân vốn công trình còn chậm Đối với công tác quyết toán Nguyên nhân chính làm cho công tác quyết toán công trình chậm, tồn đọng nhiều là ở khâu chuẩn bị đầu tư thực hiện chưa tốt (chiếm khoảng 55 - 60%), vì vậy dẫn đến vượt tổng mức đầu tư, sau đó phải tiến hành điều chỉnh. Điển hình tồn tại này là các Nhà điều hành Yên Bái, Lai Châu, Hải Dương, Thuỷ điện Suối Củn, các công trình 35 KV của Điện lực Cao Bằng, Hà Tĩnh, Nghệ An, các công trình chống quá tải của Điện lực Ninh Bình. Một nguyên nhân nữa là nhiều trường hợp giá trị quyết toán vượt dự toán, do khối lượng phát sinh và trượt giá, dự toán đền bù thường là tạm tính (chiếm khoảng 15 - 20%). Các dự án khi duyệt dự toán không lưu giữ dự toán chi tiết nên rất khó khăn trong công tác cấp phát vốn và công tác thanh quyết toán công trình. Tập trung nhiều ở các Điện lực Sơn La, Cao Bằng, Ninh Bình, Lào Cai, Hà Giang. Ví dụ như công trình đường dây 110KV Sơn La - Tuần Giáo - Điện Biên đóng điện gần 2 năm, đã bàn giao cho đơn vị quản lý vận hành nhưng bên A vẫn không giải quyết cấp vốn cho B vì lý do TDT công trình đã vượt TDT - TKKT trong khi đó chưa được duyệt lại do không đủ các thủ tục pháp lý giải trình để cấp có thẩm quyền phê duyệt lại. Các nguyên nhân cơ bản khác như: Biên bản nghiệm thu và khối lượng hoàn thành công trình nhiều khi không phù hợp, có sự sai khác giữa khối lượng quyết toán và khối lượng hoàn công (chủ yếu tập trung vào khối lượng quyết toán phần xây lắp và xây dựng cơ bản khác). Do đó phải xác minh lại số liệu, hồ sơ phải luân chuyển từ Công ty về cơ sở và ngược lại (số này chiếm khoảng 15 - 20%). Quyết toán giữa bên A và bên B phần giá trị do công tác thống kê xác định khối lượng theo thời điểm làm chưa tốt, do vậy khi thẩm tra quyết toán phải xác định lại theo đúng thời điểm cả khối lượng và giá trị quyết toán làm kéo dài thời gian. Hoá đơn chứng từ liên quan đến đơn giá VTTB có tập hợp nhưng không đầy đủ khi trình về Công ty. Khi Công ty yêu các Ban quản lý mới tập hợp đầy đủ, làm cho quá trình quyết toán phải chờ đợi. Đối với công tác giải ngân Tiến độ giải ngân các dự án còn chậm. Nhiều đơn vị quản lý dự án không tích cực giải ngân, cứ muốn đơn vị thi công hoàn thành công trình rồi mới làm thủ tục thanh quyết toán luôn một lần, nên có khi bị dồn lại hoặc bên B bị thiếu vốn. Một nguyên nhân khác nữa do tiến độ thi công chậm làm cho việc giải ngân vốn cũng trễ theo. Trước những khó khăn, hạn chế trong công tác đầu tư XDCB như đã nêu trên. Công ty đã và đang từng bước xây dựng nên các giải pháp cụ thể hơn nhằm khắc phục những tồn tại, đồng thời tạo điều kiện cho việc phát huy những ưu điểm, mặt mạnh của Công ty. Điều đó sẽ góp phần tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư XDCB của Công ty trong giai đoạn tiếp theo. Phần III Phương hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đầu tư XDCB ở công ty đIện lực I Phương hướng và nhiệm vụ công tác đầu tư XDCB giai đoạn 2002 - 2005 1. Những thuận lợi và khó khăn trong giai đoạn tới 1.1. Những thuận lợi Cho đến thời điểm này và trong tương lai gần, thuận lợi lớn nhất của Công ty nói riêng và ngành điện nói chung là ngành điện còn là độc quyền do Nhà nước quản lý, được Đảng, Chính phủ quan tâm, giải quyết các cơ chế chính sách kịp thời. Điện năng là một trong các ngành hạ tầng cơ sở quan trọng, hiện chưa có dạng năng lượng khác cạnh tranh. Công ty thường xuyên được Ban lãnh đạo Tổng công ty quan tâm, chỉ đạo sát sao phương hướng sản xuất kinh doanh, trực tiếp giúp đỡ để tháo gỡ khó khăn về phía quản lý Nhà nước và vốn đầu tư cải tạo lưới điện. Hơn nữa, bước vào giai đoạn mới trong điều kiện nền kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến đổi quan trọng. Nền kinh tế nước nhà sau khi chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu á năm 1997 đã dần phục hồi và đang từng bước đi lên. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây đạt khá cao, nhất là năm 2000, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,5%. Đi cùng với tốc độ tăng trưởng về GDP, tốc độ tăng trưởng công nghiệp cũng tăng lên 14%. Điều đó cũng có nghĩa là nhu cầu tiêu dùng điện cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt sẽ tăng lên. Đây là điều kiện để Công ty mở rộng sản xuất kinh doanh điện năng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Hiện nay các nhà máy thuỷ điện lớn đã, đang và sẽ được xây dựng như nhà máy thuỷ điện Sơn La đang chuẩn bị thi công, nên sản lượng điện sản xuất ra ngày càng tăng. Điều đó góp phần giảm giá thành điện, nâng cao chất lượng điện. Giá thành sản phẩm điện năng giảm cũng có nghĩa là lượng khách hàng tiêu dùng điện sẽ tăng lên. Tình hình chính trị ổn định góp phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình an tâm công tác làm ăn. Hơn nữa cơ chế chính sách đã có nhiều thay đổi chính xác hơn, thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho Công ty hoạt động tự chủ và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó các chính sách về hỗ trợ giá điện cho một số đối tượng tiêu dùng điện đã làm tăng lượng khách hàng của Công ty. 1.2. Những khó khăn Khó khăn thứ nhất, do có sự thay đổi trong cơ chế chính sách của Nhà nước về qui chế đầu tư XDCB (Nghị định 88 - 52) và việc hướng dẫn thực hiện thực hiện của các cơ quan Nhà nước còn chưa sâu sát nên trong việc triển khai thực hiện các chính sách mới này đôi khi gặp nhiều vướng mắc như trong qui chế đấu thầu, như trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan tư vấn… Khó khăn thứ hai, nước ta chưa có “luật điện” làm cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động liên quan trong việc cung cấp sử dụng điện của toàn xã hội. Chính vì vậy còn xảy ra nhiều hiện tượng như tiêu dùng điện trái phép, không có ý thức trong việc sử dụng điện, nợ đọng tiền điện trong nhiều kỳ. Khó khăn thứ ba, Công ty điện lực I hiện vừa là Công ty kinh doanh, lại vừa đảm nhận trách nhiệm như là doanh nghiệp hoạt động công ích, có trách nhiệm bù lỗ đưa điện về nông thôn miền núi. Tuy nhiên, cơ chế chính sách thích ứng và phù hợp với hoạt động quản lý, điều hành và hạch toán của Nhà nước còn thiếu nên cũng gây khó khăn nhất định cho Công ty. Khó khăn thứ tư, Công ty còn tương đối thụ động trong việc hạch toán các hoạt động của Công ty như các hoạt động về đầu tư XDCB, mua sắm trang thiết bị, giá bán điện... vì tổ chức sản xuất của ngành điện theo doanh nghiệp 2 cấp: Tổng công ty - Công ty, do đó chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế sản xuất. Khó khăn thứ năm, Công ty cũng như ngành điện nói chung khi sử dụng vốn đầu tư nước ngoài thường phải chịu lãi suất cao hơn các thành phần kinh tế xã hội khác theo qui định của Nhà nước. Điều này sẽ làm giảm hoạt động đầu tư của Công ty đối với các dự án vay vốn nước ngoài. Khó khăn thứ sáu, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân chưa cao, còn tệ nạn ăn cắp điện. Tình trạng vi phạm hành lang bảo vệ lưới điện cao áp có xu hướng ngày càng tăng. Hầu hết các vụ vi phạm đều đã được lập biên bản nhưng việc xử lý của các cơ quan hữu quan còn chậm và ở một số nơi chưa dứt khoát nên số vụ vi phạm ngày một tăng lên. Tính đến hết 31/12/2001 trong toàn khu vực thuộc phạm vi quản lý của Công ty vẫn còn 21.137 hộ vi phạm. 2. Phương hướng, mục tiêu và kế hoạch của Công ty trong thời gian tới 2.1. Phương hướng chung 2.1.1. Quy hoạch phát triển điện lực Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 có xét triển vọng đến năm 2020 (Tổng sơ đồ V) Về nhu cầu phụ tải Phát triển ổn định, nâng cao chất lượng, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu điện cho sinh hoạt của nhân dân và phát triển kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng; đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đến hết năm 2005, các nhà máy điện trong cả nước sản xuất điện đạt từ 45 đến 50 tỷ KWh, dự báo năm 2010 đạt sản lượng từ 70 đến 80 tỷ KWh và năm 2020 đạt sản lượng 160 đến 200 tỷ KWh. Về phát triển nguồn điện Phát triển nguồn điện phải đáp ứng nhu cầu điện tiêu thụ nói trên, đảm bảo cung cấp điện an toàn, chất lượng, ổn định, hợp lý để phát triển kinh tế xã hội. Khai thác tối đa các nguồn năng lượng hiện có hiệu quả kinh tế như: thuỷ điện, nhiệt điện khí, nhiệt điện than, nhiệt điện dầu, các dạng năng lượng mới…kết hợp với từng bước trao đổi điện hợp lý với các nước trong khu vực. Ưu tiên xây dựng các nhà máy thuỷ điện có các lợi ích tổng hợp như: chống lũ, cấp nước, sản xuất điện….Phát triển thuỷ điện nhỏ, điện gió, điện mặt trời … cho các khu vực xa lưới điện, miền núi, biên giới, hải đảo. Việc cân đối nguồn phải tính các phương án xây dựng với đầu tư chiều sâu và đổi mới công nghệ các nhà máy đang vận hành, đáp ứng tiêu chuẩn môi trường; sử dụng công nghệ hiện đại đối với các nhà máy điện mới. Kết hợp với các nguồn điện đầu tư theo các hình thức xây dựng nhà máy điện độc lập (IPP), nhà máy điện BOT, liên doanh và trao đổi điện với các nước láng giềng.. để đáp ứng cho khu vực và cho cả hệ thống điện. Tổng công suất các dự án được đầu tư theo các hình thức BOT, IPP, liên doanh…có nguồn vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ không quá 20%. Đẩy mạnh các công trình nguồn điện theo tiến độ và kế hoạch đã đề ra. Về phát triển lưới điện Xây dựng lưới điện từ cao thế xuống hạ thế phải đồng bộ với nguồn điện. Khắc phục tình trạng lưới điện không an toàn, lạc hậu, chắp vá, tổn thất còn cao như hiện nay. Về nguồn vốn đầu tư Tổng công ty Điện Lực Việt Nam giữ vai trò chủ đạo trong đáp ứng điện cho phát triển kinh tế, xã hội và sinh hoạt của nhân dân. Tổng công ty Điện Lực Việt Nam được huy động mọi nguồn vốn để đầu tư các côngtrình nguồn và lưới theo cơ chế tự vay tự trả (vay vốn ODA, vay vốn tín dụng trong nước và ngoàn nước …) và tiếp tục thực hiện cơ chế Trung ương, địa phương, Nhà nước và nhân dân cùng làm để phát triển nguồn và lưới điện nông thôn. Khuyến khích các nhà đầu tư trong, ngoài nước tham gia xây dựng các công trình nguồn và lưới điện phân phối theo các hình thức đầu tư: Nhà máy điện độc lập (IPP), hợp đồng BOT, hợp đồng BT, hợp đồng BTO, liên doanh, công ty cổ phần … Về cơ chế tài chính Cho phép Tổng công ty Điện Lực Việt Nam được giữ lại tiền thu sử dụng vốn hàng năm đây là nguồn vốn được ngân sách Nhà nước cấp để đầu tư các công trình điện. Thực hiện điều chỉnh giá điện hợp lý từ nay đến năm 2005. Về đổi mới tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành điện Tổng công ty Điện Lực Việt Nam tiếp tục sắp xếp cơ cấu tổ chức chức cải cách hành chính, phân cấp đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, để đáp ứng yêu cầu phát triển điện lực trong thời gian tới. Tổng công ty Điện Lực Việt Nam đẩy mạnh ngành chế tạo thiết bị trong nước, giảm dần thiết bị nhập khẩu nước ngoài. 2.1.2. Phương hướng chung của Công ty trong những năm tới Nhằm nâng cao khả năng cung cấp điện cho khách hàng, Công ty cần có định hướng phát triển. Phương hướng phát triển lưới điện của Công ty căn cứ vào phương hướng phát triển của Tổng công ty, của đất nước và của Kế hoạch Công ty. Phương hướng trong những năm tới của Công ty như sau: Thứ nhất, đổi mới tổ chức quản lý theo hướng chuyên môn hoá để có thể áp dụng tiến bộ kỹ thuật tiến lên hiện đại hoá khâu quản lý: mua thiết bị, phương tiện cơ giới hoá hiện đại, áp dụng tin học, áp dụng công nghệ mới. Phân cấp mạnh mẽ cho các đơn vị cơ sở để chủ động trong hoạt đông sản xuất kinh doanh. Đánh giá hiệu quả hoạt động của đơn vị bằng hiệu qủa kinh doanh. Thứ hai, đẩy mạnh tiến độ hiện đại hoá lưới điện, phát triển lưới điện mới theo hướng nâng cao chất lượng và độ an toàn. Có bộ phận chuyên nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới trong sản xuất. Thứ ba, đề nghị áp dụng đa hình thức quản lý lưới điện phân phối, mạnh dạn cổ phần hoá một đến hai điện lực quận, huyện. Khu vực nông thôn có thể áp dụng hình thức Công ty TNHH, HTX…để huy động mọi nguồn vốn, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực phân phối điện. Thứ tư, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBCNV về kỹ thuật và quản lý phù hợp với trình độ công nghệ mới. Xây dựng hệ thống ISO 9000 trong doanh nghiệp. Thứ năm, đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ điện khác để đáp ứng nhu cầu sửa chữa điện tại nhà của các cơ sở sản xuất và nhân dân trong khu vực thuộc phạm vi quản lý, nhất là khu vực các thành phố, thị xã - những thị trường đang có nhiều tiềm năng. 2.2. Mục tiêu và kế hoạch cụ thể về đầu tư xây dựng ở Công ty 2.2.1. Mục tiêu và kế hoạch về đầu tư XDCB Tập trung vốn chủ yếu cho việc chống quá tải và củng cố nâng cấp thiết bị, thay thế các thiết bị cũ, lạc hậu bằng các thiết bị tiên tiến để ổn định lưới điện cho các phụ tải, chú trọng việc cấp điện cho các khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn các tỉnh miền Bắc. Tiếp tục củng cố lưới điện trung và hạ thế, tập trung cho chương trình củng cố nâng cấp chống quá tải lưới 35 KV. Triển khai chương trình cải tạo lưới điện một số thị xã nhằm giảm bớt tổn thất điện năng, nâng cao giá bán điện bình quân, tăng doanh thu, tăng độ tin cậy và cung cấp điện an toàn liên tục. Bảng 3.1: Kế hoạch vốn đầu tư XDCB toàn Công ty Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 Tổng vốn đầu tư 1.261.103 1.298.936 1.675.627 1.893.459 1. Xây lắp 967.266 1.036.421 1.279.769 1.291.907 2. Thiết bị 176.554 98.719 217.831 336.278 3. KT cơ bản khác 117.283 163.796 178.027 265.274 Nguồn: Qui hoạch cải tạo và phát triển lưới điện miền Bắc đến năm 2005 2.2.2. Kế hoạch về đầu tư xây dựng phát triển lưới điện nông thôn Tiếp tục xây dựng một số công trình đưa điện về các xã chưa có điện và điện khí hoá nông thôn nhằm thực hiện tốt chủ trương xoá đói giảm nghèo, đưa điện về vùng sâu, vùng xa, đặc biệt các vùng an toàn khu cách mạng. Tăng cường quản lý tiếp nhận lưới điện trung áp nông thôn (LĐTANT) theo qui định của Nhà nước. Bảng 3.2: Chỉ tiêu kế hoạch phân phối điện và điện khí hoá nông thôn Stt Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 1 Số huyện có điện lưới 233 235 235 235 Tỷ lệ(%) 98,9 99,1 99,1 99,1 2 Số xã có điện lưới 4.466 4.617 4.709 4.956 Tỷ lệ(%) 82,54 85,44 88 90,7 3 Số hộ nông dân có điện lưới 5.397.587 5.506.288 5.600.687 5.703.733 Tỷ lệ(%) 72,4 74,6 76,3 78,4 4 Điện tiêu thụ cho n.thôn (Mwh) 2.599..233 2.872.455 3.154.720 3.486.903 5 Điện tiêu thụ bình quân/người (Kwh/người năm) 85,39 92,28 100,84 109,15 6 Giá bán điện bình quân (đ/Kwh) Tại công tơ tổng 360 360 360 360 Đến hộ nông dân 698,39 685,35 672,96 663,26 7 Công tác tiếp nhận lưới điện Số xã tiếp nhận bán điện đến hộ 66 75 78 82 Số xã tiếp nhận LĐTA NT 923 378 330 278 Nguồn: Báo cáo kế hoạch công tác điện nông thôn năm 2001 2.2.3. Kế hoạch hợp tác đầu tư: thực hiện các dự án vốn đầu tư nước ngoài Trong giai đoạn 2002 - 2005, số lượng các dự án nước ngoài không tăng lên nhưng khối lượng vốn giải ngân theo kế hoạch tăng lên. Điều đó có nghĩa là khoản nợ của Công ty cũng tăng theo. Do vậy sẽ có những khó khăn nhất định trong hoạt động Công ty. Công ty sẽ phải trích khấu hao để trả nợ lãi suất cho các khoản vay đó. Kế hoạch về hợp tác quốc tế thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài cụ thể thông qua bảng 3.3: Căn cứ vào bảng chúng ta thấy rằng dự kiến trong khoảng thời gian từ năm 2002 - 2005, tổng số tiền giải ngân của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài của Công ty điện lực I là 154,211 triệu USD trong đó: vốn ODA 89,896 triệu USD; vốn đối ứng 64,315 triệu USD. 2.2.4. Kế hoạch về đầu tư XDCB khác Bên cạnh việc đầu tư xây dựng các công trình đưa điện đến khách hàng tiêu dùng điện. Công ty còn chú trọng đến việc nâng cấp cơ sở vật chất, địa điểm làm việc của các chi nhánh điện còn phải đi thuê, nơi làm việc chật chội, nhà cửa xuống cấp, cải tạo nơi làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động. Điều đó sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động của cán bộ công nhân vận hành và quản lý lưới điện. II. Một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đầu tư XDCB ở Công ty điện lực I 1. Về phía Công ty Điện lực I Để thực hiện định hướng phát triển đã đề ra, khắc phục những tồn tại, hạn chế, vượt qua những khó và thách thức như đã nêu ra ở trên, trong thời gian tới Công ty điện lực I đã đưa ra một số giải pháp lớn sau đây nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu tư xây dựng phục vụ sự phát triển chung của Công ty nói riêng và của toàn ngành nói chung. 1.1. Giải pháp thứ nhất: huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả đáp ứng nhu cầu đầu tư mỗi năm trên 1.000.000 triệu đồng. Với mức tăng trưởng điện thương phẩm hàng năm khoảng 10 - 14%, Công ty điện lực I cần vốn để xây dựng các công trình điện, nhất là các công trình phục vụ cho quá trình điện khí hoá nông thôn. Vốn tự có của Công ty không thể đáp ứng nhu cầu trên, nên một chiến lược huy động vốn cần được đặt ra gồm: Trước hết tranh thủ các nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) có lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài, các khoản tín dụng hỗn hợp gồm một phần ODA, một phần tín dụng thương mại, tiếp đến là các khoản tín dụng của ngân hàng trong nước, và cuối cùng là vốn vay của các ngân hàng thương mại nước ngoài. Huy động vốn của các khu vực tư nhân để xây dựng nên nhiều công trình theo phương thức xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT), thành lập các công ty cổ phần phân phối điện…. Huy động vốn của khách hàng: Nguồn vốn này huy động được từ lượng tiền nhàn rỗi của địa phương và của khách hàng. Trong những năm qua nguồn vốn này chiếm một tỷ lệ rất nhỏ không đáng kể trong tổng số vốn đầu tư xây dựng của Công ty nhưng nó ngày một quan trọng hơn trong điều kiện đang thiếu vốn hiện nay của Công ty để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển khối lượng điện thương phẩm. Huy động được nguồn vốn này bên cạnh việc bổ sung vào phần vốn thiếu hụt để thực hiện hoạt động đầu tư XDCB, Công ty còn tận dụng được lực lượng cán bộ, công nhân của địa phương và nâng cao trách nhiệm của địa phương với các công trình xây dựng điện. Song song với những biện pháp trên, việc sử dụng có hiệu quả đồng vốn cũng như việc không để vốn nhàn rỗi cần phải được quan tâm thường xuyên nhằm thực hiện tốt phương châm chỉ vay khi thực sự cần thiết. 1.2. Giải pháp thứ hai: xây dựng các chủ trương kế hoạch đầu tư hợp lý để hoạt động đầu tư đi đúng hướng và hiệu quả hơn Khâu kế hoạch nếu thực hiện tốt, sâu sát sẽ đóng góp một phần quan trọng để các công trình, các dự án đầu tư xây dựng hoàn thành đảm bảo tiến độ thời gian, chi phí, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư đã bỏ ra, tiết kiệm được nguồn lực hạn chế, bên cạnh đó làm giảm đáng kể việc thất thoát, lãng phí vốn đầu tư. Nhìn chung việc bố trí kế hoạch hàng năm của Công ty còn bộc lộ một số nhược điểm như: Thiếu kế hoạch đầu tư XDCB tổng quát; hàng năm việc phân phối vốn thường mang tính "chia phần" dẫn đến bố trí kế hoạch phân tán, không theo tiến độ thực hiện dự án được phê duyệt… và những tồn tại như đã nêu trên. Công ty cần làm gì trước những tồn tại trên, phải chăng câu trả lời đó là cần phải đưa ra các chủ trương, kế hoạch đầu tư đúng đắn kịp thời. Muốn xây dựng được các chủ trương kế hoạch đầu tư hợp lý để hoạt động đầu tư đi đúng hướng và hiêụ quả, một số điểm Công ty phải chú ý trong công tác lập kế hoạch đó là: a. Xây dựng kế hoạch đầu tư dài hạn (kế hoạch 5 năm). Trên cơ sở đó bố trí thích đáng vốn đầu tư cho công tác chuẩn bị đầu tư, đảm bảo công tác này đi trước một bước để làm cơ sở cho kế hoạch đầu tư hàng năm. b. Đối với kế hoạch đầu tư hàng năm: Thứ nhất, đề ra và sắp xếp các công trình trọng điểm ưu tiên đầu tư, đưa vào danh mục kế hoạch và cung cấp đủ nguồn vốn cho đầu tư toàn bộ, toàn diện và dứt điểm. Thứ hai, kiên quyết loại bỏ khỏi danh mục kế hoạch vốn hàng năm đối với các dự án chưa đủ thủ tục xây dựng cơ bản, hiệu quả kinh tế chưa rõ ràng cho dù đã thi công hoặc đang thi công dở dang. Thứ ba, ưu tiên bố trí vốn cho các dự án hoàn thành trong năm kế hoạch hoặc thi công đúng kế hoạch theo quyết định đầu tư, có chất lượng xây dựng cao, giá thành hạ, sử dụng vật liệu địa phương và áp dụng công nghệ mới. Thứ tư, qui định mức khống chế về vốn cho các loại dự án không được phép bố trí thời gian xây dựng trên một năm. Theo năng lực thực tế của các đơn vị thi công ở nước ta, những dự án có tổng dự toán, dự toán từ 3 tỷ đồng trở xuống đều có khả năng thực hiện trong vòng một năm. Vì vậy những dự án có mức vốn từ 3 tỷ đồng trở xuống chỉ nên bố trí trong một năm kế hoạch phải xong. Thứ sáu, qui định số lượng dự án tối đa được bố trí vào kế hoạch đầu tư hàng năm tương ứng với số vốn hạn mức được bố trí. Thứ bảy, bố trí kế hoạch theo tiến độ thực hiện dự án sao cho sâu sát, nhằm đáp ứng kịp thời những thay đổi của điều kiện bên ngoài tới dự án Thứ tám, các nguyên vật liệu phục vụ vào hoạt động đầu tư chỉ nên nhập khi cần dùng đến. Điều đó sẽ tránh được các chi phí tăng thêm trong quá trình đầu tư như chí phí lưa kho, chi phí bảo quản… 1.3. Giải pháp thứ ba: tăng cường chất lượng lập các thủ tục đầu tư xây dựng Chất lượng của các thủ tục đầu tư xây dựng nó ý nghĩa đến việc thực hiện thành công hay thất bại trong việc tiến hành các giai đoạn tiếp theo của các công trình, các dự án đầu tư. Với những vướng mắc và tồn tại trong khâu lập các thủ tục đầu tư xây dựng như đã nêu ở trên, các biện pháp cụ thể Công ty cần thực hiện trong giai đoạn tới: Thứ nhất, trong nội dung BCNCKT lập đề nghị các Điện lực phải đề cập đến Qui hoạch phát triển lưới điện của địa phương, nội dung xây dựng dự án phải phù hợp với qui hoạch của địa phương. Thứ hai, đối với những dự án cải tạo và phát triển lưới điện có liên quan đến việc qui hoạch phát triển lưới điện các Tỉnh, trong quá trình thẩm tra, phòng Quản lý xây dựng sẽ tổ chức hội nghị mời các đơn vị có liên quan thẩm tra, cơ quan tư vấn thiết kế phải có trách nhiệm bảo vệ nội dung BCNCKT lập. Trên cơ sở những ý kiến tham gia của Hội nghị Điện lực cho hoàn chỉnh đề án báo cáo để Công ty phê duyệt. Thứ ba, khâu triển khai giai đoạn chuẩn bị đầu tư nên thực hiện sớm hơn một bước để các thủ tục thẩm tra, phê duyệt đáp ứng yêu cầu, đủ điều kiện để ghi vào kế hoạch vốn trong năm kế hoạch trình Tổng công ty phê duyệt. Thứ tư, giai đoạn rà soát các danh mục công trình do các điện lực trình duyệt kế hoạch hàng năm phải thực hiện kỹ lưỡng hơn, phối hợp giữa các phòng ban chức năng của Công ty để xác định đúng đắn mục tiêu đầu tư, sự cần thiết khi bảo vệ việc xây dựng kế hoạch danh mục các công trình đầu tư xây dựng, các Điện lực phải bảo vệ được việc đầu tư là phù hợp với qui hoạch chung. Thứ năm, cần giải quyết thật tốt, đầy đủ và chất lượng công tác khảo sát, lập BCNCKT, TKKT, TDT, DT các dự án trước khi khởi công. Chủ nhiệm Ban quản lý dự án là người được giám đốc Công ty giao nhiệm vụ điều hành dự án phải thay mặt Công ty kiểm tra kỹ các tài liệu BCNCKT, TKKT, TDT do tư vấn lập trước khi trình Công ty phê duyệt. Công tác phê duyệt phải tổ chức tốt. Các dự án lớn phải có đơn vị tham mưu trong Công ty tham gia. Việc phê duyệt phải kỹ lưỡng nhằm giảm bớt các phát sinh trong quá trình thi công. Thứ sáu, công ty cần có biện pháp cụ thể cho công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, nhất là các dự án cải tạo lưới điện các thành phố, thị xã. Các ban QLDA cần phối hợp với chính quyền địa phương, các ngành để giải quyết tốt công tác đền bù. Thường xuyên báo cáo Công ty, Tổng công ty và các cấp có thẩm quyền hỗ trợ giải quyết các vướng mắc. Nhất là khi lập BCNCKT cần đề cập đủ kinh phí giải phóng mặt bằng, cần tính toán chi tiết, cụ thể hơn vốn cho công tác này để khi thực hiện đáp ứng đủ vốn, đảm bảo tiến độ, giảm thiểu tình hình ách tắc dự án. 1.4. Giải pháp thứ tư: chấn chỉnh hoàn thiện các khâu để thực hiện tốt công tác đấu thầu Đấu thầu là hình thức lựa chọn nhà thầu tiên tiến đang được áp dụng rộng rãi, có nhiều ưu điểm. Hiệu quả thể hiện không chỉ về mặt kinh tế mà cả tiến độ thi công, thanh quyết toán công trình, giảm tiêu cực và lãng phí. Trong quá trình thực hiện các công trình đầu tư xây dựng cơ bản, Công ty cần đến sự giúp đỡ, hợp tác của các đơn vị chuyên môn khác nhằm xây dựng nên các công trình có chất lượng cao và sử dụng hợp lý nguồn vốn bỏ ra. Để thực hiện được điều đó Công ty phải tiến hành mời thầu. Các nhà thầu phổ biến được gọi tham gia dự thầu là: nhà thầu xây lắp (chiếm trên 90%), nhà thầu thiết kế, nhà thầu cung cấp vật tư thiết bị (chủ yếu các dự án hợp tác nước ngoài). Nhận thức rõ tầm quan trọng và hiệu quả của công tác đấu thầu, các khâu cần thực hiện tốt trong thời gian tới như sau: Trước hết cần chấn chỉnh và hoàn thiện công tác lập kế hoạch đầu tư xây dựng theo hướng đã nêu ở trên. Thứ hai, thực hiện tốt công việc lập hồ sơ mời thầu: việc soạn thảo các yêu cầu ban đầu trong hồ sơ mời thầu cần được quan tâm thích đáng vì nó liên quan đến toàn bộ qúa trình sau này của dự án. Mỗi sai sót, nhầm lẫn hoặc không rõ ràng trong hồ sơ mời thầu đầu dẫn đến tranh cãi hoặc gây thiệt hại cho dự án mà Công ty phải gánh chịu. Quá trình thương thảo hợp đồng là bước quyết định đưa công trình vào xây lắp. Vì vậy ở giai đoạn này Ban quản lý dự án, Công ty điện lực I cần tập trung chỉ đạo để hợp đồng được kí kết đảm bảo đầy đủ, rõ ràng, có tính pháp lý và tính khả thi cao. Thứ ba, chấn chỉnh lại các tổ chức tư nhân, nhận thầu xây lắp, cung ứng vật tư thiết bị, các tổ chức tư vấn nhằm đảm bảo khả năng tham gia đấu thầu của các nhà thầu phù hợp với năng lực về kỹ thuật và tài chính của mình. Riêng đối với nhà thầu xây lắp, nếu thi công không đảm bảo tiến độ, chất lượng … đề nghị cho chấm dứt hợp đồng và giao nhà thầu khác tiếp tục thực hiện trên cơ sở giữ nguyên giá thầu, thời gian thi công của hợp đồng đã ký trước. Để làm tốt công tác đấu thầu, có chủ trương đúng đắn của Giám đốc Công ty, có nhiệt tình của cán bộ chuyên môn từ cơ sở đến Công ty chưa đủ mà cần phải thực sự đi sâu nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, trau dồi trình độ nghiệp vụ tổ chức thực hiện tốt công tác đấu thầu. 1.5. Giải pháp thứ năm: cải tiến thủ tục, qui định rõ trách nhiệm từng khâu của các cơ quan có liên quan trong quá trình cấp phát vốn thanh toán Giải ngân vốn còn chậm là một trong những tồn tại của Công ty trong những năm qua. Nhiều đơn vị quản lý dự án đợi đơn vị thi công hoàn thành công trình rồi mới làm thủ tục thanh quyết toán 1 lần nên có khi vốn bị dồn lại hoặc bên B bị thiếu vốn. Một số ban quản lý dự án không tích cực làm thủ tục thanh quyết toán cho bên B với nhiều lý do khác nhau. Vì thế, để khắc phục tình trạng trên cần qui định rõ trách nhiệm từng khâu, từng cấp, từng đơn vị có liên quan một cách cụ thể, thời hạn phải thực hiện giải ngân kèm với chế độ thưởng, phạt nghiêm minh. 1.6. Giải pháp thứ 6: chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán công trình, dự án hoàn thành Chế độ hiện hành qui định khi công trình dự án hoàn thành đưa vào sử dụng, chậm nhất là 6 tháng chủ đầu tư phải quyết toán để đánh giá và bàn giao tài sản cho đơn vị sử dụng. Trong thực tế nhiều công trình dự án của các ngành TW và địa phương chưa thực hiện tốt công tác này và đối với việc quyết toán các công trình điện ở Công ty điện lực I cũng còn không ít hạn chế tồn tại. Hiện nay nhiều công trình đã đưa vào sử dụng từ lâu nhưng chưa làm quyết toán. Để chấn chỉnh, giải quyết dứt điểm các tồn tại trong công tác quyết toán công trình, dự án hoàn thành Công ty cần thực hiện một số biện pháp: Thứ nhất, cần thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư: tăng cường chất lượng công tác khảo sát sơ bộ dự án, công tác lập BCNCKT để tạo tiền đề cho quá trình quản lý đầu tư được thuận tiện và giúp cho công tác quyết toán được nhanh chóng và đạt hiệu quả cao. Đồng thời tạo điều kiện để thực hiện tốt quá trình lập, thẩm tra và duyệt quyết toán. Thứ hai, các đơn vị căn cứ vào các biên bản nghiệm thu tại thời điểm thi công triển khai ngay công tác quyết toán A-B, khi thanh toán tại quỹ hỗ trợ phát triển địa phương phải rà soát ngay các phiếu giá, đối chứng từng khoản thanh toán theo dự án và theo khoản mục. Trách nhiệm này thuộc về các đồng chí Kế toán trưởng và kế toán thanh toán các đơn vị. Thực tế cho thấy khi quyết toán các đơn vị chỉ có số liệu cấp phát của dự án còn giá trị vốn cấp tương ứng với các khối lượng nào trong quyết toán thì nhiều đơn vị còn lúng túng. Chính đây là nguyên nhân cơ bản chiếm nhiều thời gian của các đơn vị khi về duyệt quyết toán tại Công ty. Nếu việc này được thẩm tra kỹ trước khi thanh toán và có cập nhật theo dõi sẽ rất thuận lợi khi thực hiện công tác quyết toán. Tồn tại này được khắc phục sẽ giảm đáng kể thời gian quyết toán của đơn vị tại Công ty. Thứ ba, khi dự án có các thay đổi về khối lượng thiết kế dự toán hoặc Nhà nước có thay đổi về chế độ hoặc định mức các đơn vị phải trình duyệt bổ sung dự toán hoặc điều chỉnh tổng mức đầu tư ngay không để khi kết thúc mới làm điều chỉnh. Các dự toán trình điều chỉnh phải nhất thiết phải phân định rõ thời điểm. Trên cơ sở này các bộ phận duyệt quyết toán sẽ có cơ sở sử dụng lại các kết quả và giảm được hao phí thời gian do phải làm đi làm lại. Các dự án khi duyệt dự toán cần lưu giữ dự toán chi tiết làm căn cứ cho công tác cấp phát vốn cũng như công tác quyết toán dự án khi kết thúc nhất là ở các Điện lực Cao Bằng, Ninh Bình, Lào Cai. Thứ tư, hiện nay theo qui định hiện hành được ghi trong qui chế đầu tư việc quyết toán các dự án trách nhiệm chính thuộc về chủ đầu tư. Do vậy khi quyết toán các dự án đề nghị các đơn vị rà soát kỹ lưỡng trước khi trình về Công ty không nên để tình trạng AB cứ ký còn về Công ty mới là quyết định. 1.7. Các giải pháp cơ bản khác: Thực hiện nghiêm ngặt công tác quản lý tiến độ và chất lượng xây dựng công trình. Đối với việc quản lý công trình trong quá trình xây lắp, tư vấn giám sát xây dựng giúp Ban quản lý dự án làm nhiệm vụ giám sát là chủ yếu. Những công trình không có tư vấn giám sát thì phải bố trí lực lượng đủ trình độ, kinh nghiệm, trách nhiệm giám sát để đảm bảo chất lượng, tiến độ thi công các dự án. Công ty phải theo dõi chặt chẽ tiến độ, khối lượng, chất lượng của dự án. Củng cố và tăng cường vai trò của Ban quản lý dự án là người đại diện chủ đầu tư tại công trường, được phân cấp giải quyết nhanh chóng những vấn đề phát sinh cấp bách để đảm bảo tiến độ và chất lượng. Đồng thời cần có chế độ lương thưởng hợp lý để thu hút được cán bộ cho Ban QLDA vì thời gian qua Ban QLDA gặp nhiều khó khăn về chế độ, về công ăn việc làm lâu dài nên không những không khuyến khích thu hút được cán bộ mà trái lại làm nhiều cán bộ không yên tâm công tác đã bỏ việc hoặc xin chuyển đi nơi khác. Giải quyết sớm các thủ tục cho vay vốn trong và ngoài nước để đáp ứng đủ vốn cho các công trình đã có đủ các điều kiện thanh toán Phát động phong trào thi đua trong toàn Công ty trong thời gian tới với nội dung: Quyết tâm xây dựng các công trình trong công ty hoàn thành đúng mục tiêu, đảm bảo khối lượng và giá trị thanh toán, hạ giá thành đầu tư xây dựng, đảm bảo chất lượng, tuyệt đối an toàn trong thi công. 2. Về phía Tổng công ty và Nhà nước 2.1. Giải pháp thứ nhất: Cải thiện môi trường pháp lý và tăng cường thể chế Việc quản lý điện của nước ta hiện nay chưa có qui định chặt chẽ về vi phạm trong sử dụng điện: câu móc điện, quay công tơ… vẫn còn nhiều. Trong điều kiện hiện nay, Nhà nước chưa có khả năng đầu tư quản lý toàn bộ lưới điện nhất là lưới điện nông thôn, chủ yếu vẫn do các địa phương tự đầu tư và trực tiếp quản lý, đặc biệt là lưới điện hạ thế. Trong lĩnh vực quản lý điện cho đến nay, văn bản pháp luật quản lý chuyên ngành có hiệu lực pháp luật cao nhất chỉ có Nghị định 80 HĐBT ban hành ngày 19/07/1983 và Nghị định 54/1989 NĐCP ban hành ngày 08/07/1989 của Chính phủ về bảo vệ an toàn hành lang lưới điện. Điều cần quan tâm là cả hai văn bản này chủ yếu chỉ đặt ra yêu cầu về quản lý điện, còn việc xử lý vi phạm thì không đề cập đến. Hơn nữa, Nghị định 80/HĐBT được ban hành từ thời cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên có một số nội dung không phù hợp với cơ chế mới hiện hành. Từ thực tế trên, chúng ta thấy rằng việc quản lý bằng pháp luật các hoạt động có liên quan đến điện là một tất yếu khách quan và ngày càng đặt ra bức xúc với nhiều quan hệ pháp luật đan xen phức tạp. Yêu cầu phải có qui trình quản lý, điều hành thống nhất trong sản xuất, truyền tải, phân phối và tiêu dùng một cách đầy đủ, cụ thể và phải được mọi người - cả người sản xuất và người tiêu dùng quán triệt tuân thủ nghiêm minh. Để tạo cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động điện lực, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động quản lý Nhà nước về điện lực, cho các hoạt động kiểm soát và điều phối thị trường điện luật điện cần sớm được ban hành. Trên cơ sở luật điện những quyền lợi chính đáng của người dùng điện được bảo vệ. Luật điện sẽ qui định rõ nhiệm vụ của cơ quan hoạch định chính sách, nhiệm vụ của các cơ quan điều tiết, nghĩa vụ và quyền hạn của các doanh nghiệp điện lực đối với các cơ quan Nhà nước và đối với khách hành của mình. Về mặt thể chế, cơ quan có trách nhiệm về lập chính sách năng lượng quốc gia cũng cần sớm được hình thành để lập các chính sách dài hạn và trung hạn, mặt khác để phối hợp hoạt động giữa các tiểu ngành năng lượng. Cơ quan điều tiết điện lực cần sớm được thành lập, đây là một cơ quan Nhà nước thực hiện chức năng kiểm soát việc chấp hành luật điện lực và các chính sách điện lực, kiểm soát biểu giá và chất lượng cung cấp điện năng, kiểm soát mối quan hệ và điều chỉnh mối quan hệ giữa bên cung ứng điện với khách hàng và mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp Điện lực 2.2. Giải pháp thứ hai: Xây dựng một chiến lược về nguồn tài chính phục vụ cho nhu cầu phát triển ngành Điện Phát triển ngành điện không chỉ chờ vào ngoại lực, các biện pháp nội lực về tài chính gắn chặt với chính sách giá. Giá điện trung bình hiện nay ở mức 5 cent/kWh là quá thấp so với chi phí biên dài hạn và đe doạ tới sự phát triển lâu dài của ngành điện. Với mức giá này nếu tiếp tục duy trì thì Tổng công ty điện lực Việt Nam sẽ không đủ tài chính để trang trải cho việc phát và phân phối thêm điện trước nhu cầu đang ngày càng tăng. Đồng thời khả năng trả nợ của Tổng công ty cũng như những khoản phải thanh toán theo hợp đồng sẽ phải phụ thuộc vào việc tăng giá điện của Chính phủ và kết quả của chương trình cắt giảm chi phí của EVN (cắt giảm bớt chi phí như chi phí khấu hao máy móc thiết bị, chi phí quản lý, tìm phương thức giảm bớt tỷ lệ hao hụt trên đường truyền..). Theo tính toán của ngành điện, nhu cầu điện đến năm 2010 tăng lên tới 10.000 MW và cần khoảng 9,5 tỷ USD. Mức đầu tư cao như vậy mà giá điện vẫn thấp sẽ gây nên tình trạng thua lỗ và lâu dài chắc chắn ngành Điện sẽ không thể hấp dẫn các nhà đầu tư tư nhân vào các dự án BOT. Do vậy, việc sớm xác định giá điện hợp lý, giá điện phải được xác định trên cơ sở chi phí biên dài hạn để đáp ứng nhu cầu về vốn, vừa để thoã mản điều kiện vay vốn của các tổ chức nước ngoài, đồng thời cũng để đáp ứng cho mục tiêu phát triển bền vững của ngành Điện là vấn đề cốt yếu nhất hiện nay. Tăng giá điện là cần thiết nhưng phải chọn đúng thời điểm. Việc sử dụng vốn vay nước ngoài cần được tính toán kỹ phù hợp với khả năng trả nợ, cần tập trung vốn cho các công trình có hiệu quả kinh tế cao và có tính đến thời hạn thực tế của việc đưa công trình vào khai thác sử dụng. Huy động vốn của các khu vực tư nhân để phát triển Điện lực thông qua đầu tư các nhà máy điện dưới hình thức nhà sản xuất điện độc lập (IPP), Xây dựng - vận hành - chuyển giao (BOT), thành lập các công ty cổ phần phát điện hoặc phân phối điện…Theo định hướng phát triển, giai đoạn 2001- 2010 EVN cần tập trung vốn cho công trình thuỷ điện Sơn La nên hình thức đầu tư BOT sẽ tiếp tục được khuyến khích. Một số dự án thuỷ điện có chỉ tiêu kinh tế hấp dẫn sẽ được EVN đưa ra đấu thầu để chọn nhà phát triển theo dạng BOT. Các công ty cổ phần phát điện hoặc phân phối điện sẽ được tổ chức. Tổng công ty Điện hoặc các doanh nghiệp khác có thể đóng vai trò thành viên sáng lập để huy động vốn từ các nguồn ngoài EVN, trong đó các cán bộ EVN sẽ được ưu tiên hàng đầu. Ngoài ra Nhà nước cần có những chương trình cấp vốn ngắn hạn, phục vụ cho kế hoạch cải tạo và hoàn thiện lưới điện hiện tại, cần có chương trình đầu tư dài hạn phục vụ kế hoạch phát triển lưới điện với qui mô rộng lớn. Như vậy việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước sẽ giúp Công ty điên lực I nói riêng, ngành điện Việt Nam phát triển ngày một lớn mạnh hơn trong xu hướng cạnh tranh và hội nhập. 2.3. Giải pháp thứ ba: nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua việc giao giá hạch toán nội bộ cho các nhà máy điện và thực hiện tốt cơ chế giá bán điện nội bộ cho các công ty điện lực (CTĐL). Việc giao giá hạch toán nội bộ cho các nhà máy điện sẽ tăng cường hơn nữa tính chủ động của các nhà máy điện trong vận hành và đặc biệt là trong sửa chữa, thúc đẩy việc tiết kiệm chi phí, hợp lý hoá trong sản xuất, gắn thu nhập của người lao động với kết quả hoạt động của nhà máy. Mặt khác giá hạch toán cũng là thước đo hiệu quả sản xuất của từng nhà máy điện. Theo kế hoạch, việc thực hiện giá hạch toán nội bộ được thí điểm ngay trong năm 2001và sẽ được áp dụng rông rãi từ đầu năm 2002. Đây chính là bước chuẩn bị chuyển các nhà máy điện sang hạch toán kinh doanh và tiến tới đủ khả năng tham gia cạnh trang trên thị trường điện trong tương lai. Các công ty điện lực là những đơn vị hạch toán độc lập đã thực hiện cơ chế theo giá nội bộ từ nhiều năm, trong cơ chế mới cần thực hiện tốt hơn nữa phương thức này. Thực chất của giải pháp này là giao thêm quyền hạn và trách nhiệm cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn Tổng công ty. 2.4. Giải pháp thứ tư: Về quản lý kinh tế và quản lý vốn Việc phát triển ngành Điện lực có hiệu quả và giảm chi phí đầu tư không thể tách khỏi vấn đề tiết kiệm năng lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng nói chung và đặc biệt là năng lượng điện. Tiết kiệm một đồng cho đầu tư ngành Điện lực là tiết kiệm tài nguyên quốc gia, bảo vệ môi trường, đó không chỉ là yêu cầu đối với các quốc gia nghèo mà ngày nay còn là vấn đề của mọi quốc gia trên thế giới. Vì vậy biện pháp cần thực hiện đó là thực hành tiết kiệm sâu sắc và triệt để hơn để giảm các chi phí sản xuất kinh doanh, ít nhất là 5% so với kế hoạch. Thực hiện chính sách “tiết kiệm điện là quốc sách” để giảm bớt gánh nặng quá tải đối với ngành điện hiện nay đặc biệt trong những giờ cao điểm. Phân cấp rộng hơn về quyền huy động vốn: Tổng công ty yêu cầu các CTĐL phải tự vay vốn để đầu tư phát triển, kể cả điện nông thôn và các công trình 110 KV do công ty quản lý. Điện lực tỉnh cũng được giao quyền vay vốn để thực hiện các dự án lưới điện qui mô nhỏ. Vốn do Tổng công ty vay phục vụ cho các dự án phát điện được giao cho các nhà máy điện tương ứng quản lý và đưa các chi phí vốn vào giá thành của các nhà máy điện để từng bước tính đúng, tính đủ giá thành chuẩn bị cho giai đoạn tham gia thị trường điện. Giao chỉ tiêu lợi nhuận cho từng đơn vị. Cần quan tâm nhiều hơn tới công tác quản lý vật tư, xác định khối lượng dự trữ hợp lý về nhiên liệu, vật tư và phụ tùng thay thế. Xoá bỏ hẳn cai thầu trong kinh doanh, phân phối điện hiện nay để giảm gánh nặng về giá điện cho các hộ dân tiêu thụ điện. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước, tiếp tục xây dựng và ban hành các văn bản qui phạm pháp luật về sản xuất và kinh doanh điện năng, giảm bớt các qui trình thủ tục phiền hà trong cơ chế chính sách. Rà soát và hoàn chỉnh hệ thống qui chế, qui định về về quản lý kinh tế và quản lý vốn để phù hợp với tinh thần quản lý mới trong xu thế hiện nay. EVN cần đầu tư nhiều hơn cho đổi mới công nghệ đặc biệt là các máy móc, thiết bị của những nhà máy điện tiên phong. Cần quan tâm đến việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý ngành để có thể nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ. 2.5. Giải pháp thứ năm: tăng cường cơ chế quản lý lao động và tiền lương nhằm gắn chặt quyền lợi người lao động với kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Việc giao đơn giá tiền lương cho các CTĐL không chỉ dựa và sản lượng điện tiêu thụ mà còn lệ thuộc vào các chỉ tiêu năng suất lao động, lợi nhuận, tỷ lệ tổn thất điện năng, hệ số an toàn… Cần quản lý chặt chẽ hơn nữa số lượng lao động. Các đơn vị chỉ được phép tuyển dụng lao động dưới số lượng đã được Hội đồng Quản trị công ty duyệt hàng năm. Mặt khác việc tuyển dụng phải theo qui chế của Tổng công ty. 2.6. Giải pháp thứ sáu: Mở rộng thị trường điện lực Trong những năm gần đây, hầu hết các quốc gia đều cải tổ ngành điện theo xu hướng tách rời các khâu phát điện, truyền tải điện và phân phối điện. Hiện nay Điện lực là Tổng công ty khép kín từ khâu phát đến khâu phân phối, các đơn vị trong khâu phát và khâu truyền tải hạch toán phụ thuộc vào Tổng công ty, các Công ty phân phối tuy hạch toán độc lập nhưng chỉ có quyền tự chủ ở mức thấp, với hình thức tổ chức này thể hiện mức độ tập trung cao, tạo thuận lợi cho quá trình tích tụ nhưng không thúc đẩy được yếu tố cạnh tranh, hạn chế tính độc lập và tính năng động của các đơn vị sản xuất. Do vậy Nhà nước và Tổng công ty điện lực Việt Nam cần có chính sách mở rộng thị trường điện lực, nên phân định rõ hơn việc cạnh tranh trong những khâu nào, khâu phát điện, khâu phân phối điện hay khâu chuyển tải điện…Việc truyền tải điện bằng đường dây cao thế hay hạ thế có thể là khâu độc quyền, nhưng việc sản xuất điện và phát điện nên để cho các doanh nghiệp mọi thành phần tham gia và cạnh tranh. Như vậy sẽ có lợi cho cả hai chiều, Chính phủ không phải gánh chịu những rủi ro quá lớn, việc đầu tư cho sản xuất điện sẽ thu hút thêm nhiều nhà đầu tư tư nhân. Kinh nghiệm một số nước cũng đã đưa ra những mô hình như vậy và cho thấy hiệu quả rất cao. Đồng thời, tiến hành liên kết mua bán điện với các nước trong khu vực để tạo một thị trường điện liên quốc gia và đẩy mạnh sự cạnh tranh lành mạnh. Để mở rộng thị trường điện lực, lộ trình cải tổ dự kiến như sau: - Năm 2002, EVN sẽ giao giá hạch toán nội bộ cho các nhà máy trực thuộc để từng bước có cơ sở hạ giá thành sản xuất và giá bán điện. - Năm 2003, chuẩn bị chuyển một số nhà máy hiện có thành Công ty TNHH 100% vốn Nhà nước. - Năm 2004, thực hiện cơ chế chào giá cạnh tranh trên thị trường điện với mức độ hạn chế khoảng 20 % nhu cầu. Việc thực hiện các giải pháp trên sẽ từng bước thúc đẩy quá trình đầu tư phát triển ngành điện ngang tầm với nhiệm vụ chiến lược mới mà Đảng và Nhà nước giao phó, đồng thời là một bước chuẩn bị quan trọng để chuyển các doanh nghiệp Điện lực sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các nhà máy, các CTĐL ngày càng nhiều hơn, song trách nhiệm và hiệu quả kinh tế cũng đòi hỏi cao hơn. Với phương hướng trên chúng ta hy vọng Tổng công ty Điện lực Việt Nam sẽ phát triển mạnh cả về chất lượng lẫn số lượng. Kết luận Dưới ánh sáng đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế, công cuộc Công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong thời gian qua đã đạt một số thành tựu có ý nghĩa bước ngoặt. Thực hiện nghiêm túc lời chỉ dẫn của Lênin với luận điểm nổi tiếng của người “ Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô Viết cộng với điện khí hoá toàn quốc”, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến phát triển công nghiệp Điện Lực. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III năm 1960 đã khẳng định: “Điện Lực cần đi trước một bước”. Thành tựu xây dựng và phát triển điện năng trong những thập kỹ qua nhất là sau 15 năm đổi mới tự nó nói lên những cống hiến đáng tự hào của Điện Lực Việt Nam nói chung và của Công ty điện lực I nói riêng. Càng tự hào với những gì đã đạt được, Công ty cần nhận thức rõ hơn trách nhiệm nặng nề trên con đường thực hiện những mục tiêu đã đề ra. Không có điểm dừng, càng không có điểm lùi, cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty phải không ngừng phát huy truyền thống cách mạng, phát huy nội lực, tranh thủ có hiệu sự hợp tác quốc tế, vượt qua khó khăn, khắc phục những yếu kém trong hoạt động đầu tư XDCB, quản lý, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển, tăng cường hơn nữa trong công tác đầu tư xây dựng các công trình điện xứng đáng là một bộ phận hợp thành ngành cơ sở hạ tầng trọng yếu của cả nước, luôn “đi trước” hỗ trợ cho các ngành kinh tế xã hội phát triển và sánh vai được với ngành điện các nước trong khu vực. Qua đề tài này, trước hết tôi mong muốn sẽ giúp chính bản thân tổng hợp được những kiến thức đã được học trong những năm qua, tích luỹ được một số kinh nghiệm thực tế và tôi mong rằng chuyên đề của mình sẽ đóng góp một phần nào đó trong việc giải quyết những vướng mắc, tồn tại trong hoạt động đầu tư XDCB ở Công ty điện lực I để đưa Công ty trở thành một DNNN hàng đầu có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến và một phong cách phục vụ văn minh, phù hợp lòng dân. Mặc dù đã có nhiều cố gắng tìm hiểu thực tế, nghiên cứu tài liệu và tham khảo ý kiến về tình hình đầu tư XDCB của Công ty điện lực I, song do thời gian và khả năng có hạn nên chắc chắn bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tôi mong vấn đề này sẽ được tập trung nghiên cứu ở góc độ sâu hơn trong những báo cáo chuyên đề khác, nhằm tiếp tục đưa Công ty hoạt động có hiệu quả hơn. Một lần nữa tôi xin cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo đã giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này đặc biệt là cô giáo Nguyễn Thị ái Liên, chú Phạm Bình Minh - những người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm chuyên đề. Tôi xin cảm ơn các phòng ban Công ty điện lực I đã giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ thực tập. Tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế đầu tư - Trường đại học KTQD NXB giáo dục, Hà Nội - 1998 Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư - Trường đại học KTQD NXB giáo dục, Hà Nội- 1998 Giáo trình kinh tế các ngành sản xuất vật chất Trường đại học KTQD NXB giáo dục - 1999 Giáo trình kinh tế phát triển - Trường đại học KTQD NXB Thống Kê, Hà Nội - 1999 Kế hoạch đầu tư xây dựng- Công ty điện lực I các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2001, 2002. Báo cáo thực hiện Kế hoạch đầu tư xây dựng- Công ty điện lực I các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2001. Báo cáo Hội nghị tổng kết công tác đầu tư xây dựng - Tổng công ty điện lực Việt Nam Báo cáo tổng kết công tác sản xuất kinh doanh - Công ty điện lực I các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2001. Báo cáo công tác đấu thầu - Công ty điện lực I các năm 1998, 1999, 2000, 2001. Báo cáo Phòng điện nông thôn - Công ty điện lực I các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Baó cáo công tác Quản lý kỹ thuật - Công ty điện lực I các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Báo cáo Phòng kinh tế đối ngoại - Công ty điện lực I các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Bộ năng lượng - viện năng lượng - Tổng sơ đồ phát triển điện lực Việt Nam giai đoạn 1992 - 1995, có xét triển vọng đến năm 2001 Bộ năng lượng - viện năng lượng - Tổng sơ đồ phát triển điện lực Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010, có xét triển vọng đến năm 2020 Bộ năng lượng - Tổng công ty Điện lực Việt Nam - Tổng sơ đồ giai đoạn IV, phụ lục I , II - Hà Nội 9/ 1995 Bộ công nghiệp - Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 2000 và định hướng kế hoạch 2001 - Hà Nội 12/2000 Bộ công nghiệp - Báo cáo tình hình hoạt động 5 năm (1996 - 2000, năm 2000 và chương trình công tác năm 2001 của Bộ công nghiệp 2001- Hà Nội 1/2001. Qui hoạch cải tạo và phát triển lưới điện miền Bắc đến năm 2005 Tài liệu của Ngân hàng thế giới - Việt nam tổng quan chính sách và đầu tư ngành năng lượng Tạp chí Điện Lực các năm 1996,1997, 1998, 1999, 2000, 2001 Tạp chí Xây dựng điện Việt Nam số 2, 3+4, 6/ 2001 Tạp chí Điện và Đời sống năm 2000, 2001 Tạp chí Thông tin quản lý ngành Điện số 4,6,7- 2000, số 1,2,5,8,10 - 2001 Tạp chí công nghiệp số 7/1998; số 3,7,8,10,12/1999; 3,4/2000; Tạp chí Kinh tế phát triển số 117/2000; số 128/ 2001 Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 11/1999; số 15/2000 Tạp chí Tài chính số 9,10/1998 Thời báo kinh tế Việt Nam các số năm 2000, 2001

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0012.doc
Tài liệu liên quan