Tình hình giảm sút FDI vào Việt Nam từ sau năm 1997 có nguyên nhân khách quan gắn với cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực và tiếp đó là sự suy giảm kinh tế của thế giới, nhất là của Mỹ, EU và Nhật Bản đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam, trước hết là xuất nhập khẩu, làm giảm rõ rệt lợi thế do sánh của Việt Nam trong đầu tư và thương mại quốc tế.
Tuy vây, cũng không thể phủ nhận một hiện thực "đáng buồn" đối với Việt Nam. Đó là khi cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực xảy ra, mặc dù nằm ngoài "tâm bão" nhưng Việt Nam lại là một trong số nước có FDI giảm sút mạnh nhất. Trong 5 nước trực tiếp xảy ra khủng hoảng kinh tế, chỉ có Indonesia, nước có cả bất ổn về chính trị là có tỷ lệ giảm FDI nhiều hơn Việt Nam. Còn Thái Lan, Philippin, và Hàn Quốc sau khủng hoảng, FDI đều tăng hơn trước. Malaysia thì giữ được mức tăng FDI xấp xỉ trước khủng hoảng. Do vậy, tình hình giảm sút FDI trong những năm gần đây ở Việt Nam chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ hệ thống pháp luật thiếu minh bạch, nhất quán, cho đến việc thực thi pháp luật không nghiêm minh, thủ tục hành chính phiền hà, chi phí đầu tư và kinh doanh tương đối cao, đã làm cho môi trường đầu tư ở Việt Nam kém hấp dẫn hơn trước.
70 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 994 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình FDI vào Việt Nam từ trước đến nay và theo em hạn chế nào là lớn nhất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN.
Đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn rất ít trong khi đó là lĩnh vực thế mạnh và chiếm chủ trọng chủ yếu của nước ta.
2. Giải pháp cho hạn chế phân bổ khồng đều
a,Giữa các ngành nghề
Tính đến cuối năm 2007 tình hình FDI vào lĩnh vực nông nghiệp chỉ là 58 dự án với 3,78 tỷ, chiếm 10% về tổng số dự án và 5,6% về tổng giá trị vốn. Vốn FDI thực hiện trong nông nghiệp, nông thôn chỉ là 1,9 tỷ.
Đầu tư vào nông nghiệp chủ yếu cho chế biến nông sản, thực phẩm 53,7% tổng số vốn, trồng rừng và chế biến lâm sản 24,7%, chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc 12,7%, trồng trọt 8,9%. Tỷ trọng đầu tư cho ngành thấp và có xu hướng giảm, hiệu quả hoạt động của các dự án chưa cao, chưa phát huy đầy đủ tiềm năng của đất nước. Phân bổ không đồng đều giữa các vùng miền. Các quốc gia lớn chưa thực sự đầu tư vào nông nghiệp, thiếu tính đa dạng.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, điều này có 3 nhóm nguyên nhân chính
Thứ nhất, chưa có chiến lược thu hút và quy hoạch sử dụng FDI cho phát triển nông nghiệp và nông thôn. Chưa có cơ chế chọn lựa đề xuất các dự án FDI ưu tiên trong ngành, mong muốn của ngành chưa thể hiện thành chính sách ưu đãi. Chưa có cơ quan của ngành theo dõi và giúp đỡ giải quyết vướng mắc trong quá trình xúc tiến và thực hiện các dự án FDI. Chưa có cơ chế hối hợp ngành - địa phương.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng và tay nghề ở khu vực nông thôn chưa đủ để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Rủi ro khi đầu tư vào nông nghiệp và khu vực nông thôn cao. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chưa đủ năng lực để chủ động kêu gọi FDI theo ý đồ phát triển sản phẩm và thị trường của riêng mình.
Thứ ba, những nguyên nhân bắt nguồn từ thủ tục hành chính, chính sách chung của Nhà nước. Chưa thực sự ưu đãi cho đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào khu vực nông nghiệp và nông thôn. Chính sách đất đai, thuế và các chế độ ưu đãi đầu tư trong nông nghiệp và các vùng nông thôn chưa rõ và chưa thống nhất.
Tuy nhiên quá trình thu hút và sử dụng FDI đã đạt được những thành tựu nhất định: đã bổ sung vốn cho nguồn thu ngân sách Nhà nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản, góp phần cải thiện công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tạo việc làm cho ngành.
Quan điểm, phương hướng thu hút và sử dụng FDI vào nông nghiệp và nông thôn đến năm 2010 và tầm nhìn xa hơn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất: cần thu hút cho mục tiêu tạo dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh, hiệu quả. Nông nghiệp là lĩnh vực cần ưu đãi đầu tư, có kế hoạch chung cho nghành và cụ thể cho từng ngành hàng chủ yếu.
Danh mục, lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư là: Trồng và chăm sóc rừng, nuôi trồng cây con trên đất hoang hoá, vùng chưa khai thác. Đánh bắt hải sản ở vùng xa bờ. Nhân giống mới có hiệu quả kinh tế cao. Sản xuất tinh chế muối.
Danh mục, lĩnh vực ưu đãi: sản xuất thuốc phòng, trừ sâu bệnh cho cây trồng vật nuôi. Sản xuất máy, thiết bị, phụ tùng máy cho sản xuất, chế biến nông, lâm, ngư nghiệp, lương thực , thực phẩm. Trồng cây dược liệu. Bảo quản nông sản sau thu hoạch, bảo quản thự phẩm. Sản xuất nước hoa quả đóng chai, hộp. Tinh chế thức ăn gia súc, gia cầm, thuỷ sản. Dịch vụ kỹ thuật nông, lâm, thuỷ sản, xây dựng và phát triển ngành nghề truyền thống. Sản xuất giấy, bìa, ván nhân tạo trực tiếp từ nguồn nguyên liệu trong nước.
Vậy, đâu là giải pháp thu hút, sử dụng có hiệu qủa FDI vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn?
Một là, cần sớm khắc phục những nguyên nhân hạn chế vừa qua. Chính phủ cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, nâng cao tính tiên liệu, minh bạch, đơn giản hoá thủ tục cấp phép, quản lý hoạt động đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng nông nghịêp, nông thôn. Sử dụng hợp lý các nguồn vốn khác để khuyến khích dòng chảy FDI.
Hai là, nhóm giải pháp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: xây dựng chiến lược thu hút, sử dụng FDI trong nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích về ưu đãi hỗ trợ đầu tư, phát triển thị trường, chính sách đất đai, phát triển vùng nguyên liệu, phát triển nguồn nhân lực. Thực hiện hiệu quả công tác quản lý, sử dụng FDI.
Ba là, nhóm giải pháp của các hiệp hội ngành hàng: tham mưu cho Bộ, địa phương về xây dựng quy hoạch vùng và cơ cấu sản phẩm, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực hoạt động, tăng cường vai trò trong giải quyết tranh chấp thương mại.
Bốn là, nhóm giải pháp của các doanh nghiệp: nâng cao năng lực hoạt động của doanh nghiệp, tích cực tham gia chương trình xúc tiến đầu tư của ngành, chú trọng xây dựng và quảng bá thương hiệu.
Khơi dòng FDI vào nông nghiệp
Thực trạng của hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực nông nghiệp - phát triển nông thôn (NN&PTNT), những vướng mắc trong quá trình thực hiện, cũng như các giải pháp tháo gỡ, khơi thông “dòng chảy” FDI đã được phân tích cụ thể tại Hội thảo “Chiến lược thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng FDI trong nông nghiệp”
Theo Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ NN&PTNT, những năm gần đây, nông nghiệp Việt Nam có bước phát triển mạnh mẽ, sản lượng sản xuất nông nghiệp tăng trên 4%/năm. Tuy nhiên, để đảm bảo phát triển bền vững, ngành nông nghiệp còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập, thu hút FDI cần được đẩy mạnh, nhằm tạo dựng nền nông nghiệp hàng hóa hiệu quả cao, hướng mạnh ra xuất khẩu, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới.
Theo TS. Trần Thị Thu, Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư ), tính đến hết tháng 6/2007, có 7.490 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 67,3 tỷ USD, vốn thực hiện gần 30 tỷ USD. Trong đó, các dự án thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp là 758 dự án, vốn đăng ký 3,78 tỷ USD, vốn thực hiện gần 1,9 tỷ USD. Theo đánh giá, lĩnh vực nông nghiệp chưa thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Điều này không chỉ thể hiện qua tỷ trọng FDI trong ngành nông nghiệp (chiếm 10,6% số dự án), mà còn qua cơ cấu đầu tư giữa các ngành. Theo báo cáo, ngành công nghiệp nặng hiện chiếm tới 45,5% vốn đầu tư; công nghiệp nhẹ chiếm 32,7%; nông, lâm nghiệp chỉ chiếm 7,6%.
Bên cạnh đó, việc phân bổ FDI chưa đồng đều giữa các vùng, miền, phần lớn các dự án tập trung ở khu vực đồng bằng. Không những thế, các dự án FDI chưa khai thác tiềm năng, lợi thế của các vùng; chưa có dự án đầu tư vào khoa học - công nghệ cao; một số dự án trồng rừng nguyên liệu, chế biến nông sản đạt hiệu quả thấp. Ngoài ra, còn khá nhiều dự án tác động nghiêm trọng đến cảnh quan, môi trường tự nhiên...
Một yếu tố khác được đề cập tại Hội thảo là, lĩnh vực NN&PTNT chưa thu hút được đầu tư của các nền kinh tế lớn (dẫn đầu về FDI trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp là Đài Loan 21%, tiếp đó là Nhật Bản 18%, Hàn Quốc 13%)... Theo ông Lê Văn Minh, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ NN&PTNT, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thu hút FDI đạt hiệu quả thấp, trong đó nguyên nhân chính bắt nguồn từ hệ thống quản lý của ngành NN&PTNT. Bên cạnh đó, tính rủi ro của các dự án FDI nông nghiệp rất lớn, do phụ thuộc thiên nhiên của khu vực nông thôn và sản xuất nông, lâm nghiệp. Ngoài ra, còn do vướng các “rào cản” thủ tục hành chính, cơ chế, chính sách chung.
“Chúng ta chưa xây dựng được chiến lược thu hút và quy hoạch sử dụng FDI cho phát triển NN&NT. Bản thân ngành nông nghiệp cũng chưa có cơ chế chọn lựa, đề xuất các dự án FDI ưu tiên trong ngành. Điểm yếu khác là, cho đến nay, vẫn chưa có cơ quan chuyên trách của ngành theo dõi và giúp đỡ giải quyết vướng mắc trong quá trình xúc tiến và thực hiện các dự án FDI. Cũng cần nhấn mạnh, cơ sở hạ tầng và tay nghề lao động ở khu vực nông thôn chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài; các doanh nghiệp trong lĩnh vực NN&PTNT chưa đủ năng lực để chủ động kêu gọi FDI theo ý đồ phát triển sản phẩm và thị trường của riêng mình. Thêm vào đó, các chính sách đất đai, thuế và các chế độ ưu đãi đầu tư trong nông nghiệp và ở các vùng nông thôn chưa rõ và chưa thống nhất”, ông Minh phân tích.
Trong bối cảnh hội nhập, các cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp đã tạo cơ hội cho nhà đầu tư nước ngoài•tiếp cận rộng rãi hơn với các cơ hội đầu tư và thị trường hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam. Vấn đề đặt ra là, làm gì để cải thiện môi trường đầu tư, tạo sự thuận lợi, minh bạch, an toàn và bình đẳng cho các nhà đầu tư?
Tham luận của Vụ Hợp tác quốc tế đã đưa ra những giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng FDI trong NN&PTNT. Đó là, nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành/sản phẩm; xây dựng các Danh mục dự án ưu tiên gọi vốn FDI với các thông tin cụ thể về mục tiêu, địa điểm, công suất và đối tác Việt Nam, để làm cơ sở cho việc tổ chức các chương trình vận động đầu tư; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về khuyến khích, hỗ trợ, ưu đãi FDI trong lĩnh vực NN&PTNT...
Ông Minh cho biết, hàng loạt biện pháp sẽ được tiến hành trong thời gian tới. Cụ thể, ngay trong tháng 8/2007, ngành NN&PTNT sẽ Ban hành chiến lược và quy hoạch sử dụng FDI cho ngành tới năm 2010. Tiếp đó, trình Chính phủ phê duyệt và ban hành các chính sách mới ưu đãi thu hút FDI cho ngành nông, lâm nghiệp (thực hiện trong quý IV/2007). Ngành cũng sẽ phát triển hệ thống quản lý và xúc tiến FDI cho NN&PTNT... (Đầu tư 23/7)
b,Giữa các vùng kinh tế
2, Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa được giải quyết kịp thời đồng thời chế độ dành cho người lao động còn rất kém.
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động. Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp.
ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các nước và vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN.
Thu nhập bình quân tháng của người lao động ở các doanh nghiệp FDI chỉ trên dưới 1 triệu đồng, trong đó dưới 1 triệu đồng chiếm gần một nửa tổng số lao động (dưới 800 nghìn đồng chiếm 14,7%, ở ngành dệt may, da giày còn chiếm 17,7%, ở ngành xây dựng giao thông vận tải còn chiếm tới 27,4%), thậm chí còn có một bộ phận không nhỏ có thu nhập bình quân 1 tháng dưới 600 nghìn đồng.
Thu nhập không cao, nhưng số giờ làm việc trong một tuần lại khá cao. Gần một nửa số lao động làm việc trên 8 giờ/ngày; gần hai phần ba số lao động làm 6 ngày/tuần, một phần tư số lao động làm suốt cả tuần không nghỉ. Mức khoán lại khá cao, nên lao động buộc phải làm thêm mới bảo đảm được mức lương. Đã vậy, chi phí cho ăn, ở lại rất cao, thu nhập thấp, giờ giấc làm việc căng thẳng, đã làm cho một bộ phận người lao động bức xúc, nếu chỉ cần một sự đối xử không tốt của chủ, thì rất dễ manh động và xảy ra đình công. Hậu quả là người lao động gặp khó khăn về công ăn việc làm, còn các chủ sử dụng lao động cũng bị thiệt thòi. Cách giải quyết khôn ngoan là trung hòa lợi ích, tức là một mặt chủ sử dụng lao động cần mở rộng khoảng cách các bậc lương, hạ mức khoán, bảo đảm chế độ làm việc về số giờ và số ngày theo quy định, tự tôn vinh thương hiệu doanh nghiệp, mặt khác, người lao động coi doanh nghiệp là chỗ làm ăn lâu dài, nâng cao tay nghề. Nhà nước cần có chế độ chính sách hợp lý và kiểm tra chặt chẽ; các tổ chức xã hội, nhất là Công đoàn cần có tổ chức rộng rãi ở doanh nghiệp để vừa đấu tranh với chủ doanh nghiệp thực hiện đúng chế độ và vận động người lao động không manh động...
Theo kết quả khảo sát của Viện Công nhân và Công đoàn (CN&CĐ) được công bố tháng 8/2007, tuyệt đại bộ phận NLĐ trong DN FDI phải làm việc với cường độ cao, thời gian kéo dài, song thu nhập bình quân không cao hơn so với mặt bằng thu nhập trong các loại hình DN khác.
Hầu hết các DN FDI đều tổ chức làm thêm giờ, tăng ca (có DN làm thêm 500 - 600 giờ/năm) nhưng lại vi phạm nghiêm trọng về tiền lương/tiền công trả cho lao động.
Khoảng 6,5% lao động trong DN phải làm việc bình quân trên 10 tiếng/ngày, 18% làm từ 8-10 tiếng và chỉ có 52% làm việc tám tiếng/ngày. 65% lao động làm việc sáu ngày/tuần, 25% làm bảy ngày/tuần.
16,6% số lao động làm việc trong doanh nghiệp FDI có tâm trạng thoải mái khi làm việc. 26,3% số lao động cho biết có quan hệ tốt với người sử dụng lao động.
44,4% số lao động cho rằng doanh nghiệp trả lương thấp, không đủ sống. 15,4% số lao động bức xúc vì phải làm tăng ca, tăng giờ thường xuyên.
Đây là kết quả khảo sát của Viện Công nhân và công đoàn, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam tại một số địa phương có nhiều doanh nghiệp FDI như Tp.HCM, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hải Dương, nhằm tìm hiểu thực trạng việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động trong các doanh nghiệp FDI.
Cường độ làm việc cao, lương vẫn thấp
Khảo sát cũng cho thấy người lao động làm việc ở khu vực FDI phải làm việc với cường độ cao, thời gian kéo dài, song thu nhập bình quân của người lao động không cao hơn so với mặt bằng thu nhập của lao động trong các loại hình doanh nghiệp khác. Phần lớn lao động có mức thu nhập thấp từ 800.000-1.000.000 đ/tháng.
Trong đó, nhóm lao động phổ thông có thu nhập thấp nhất và nhóm lao động kỹ thuật và nhân viên quản lý doanh nghiệp có thu nhập cao nhất. Mức thu nhập của lao động có thể chênh lệch đến 5-10 lần. Sự chênh lệnh này ở các doanh nghiệp FDI phía Nam lớn hơn so với các doanh nghiệp khu vực phía Bắc.
Theo ông Nguyễn Mạnh Thắng, Viện Công nhân và Công đoàn, Nghị định 03/NĐ-CP về mức lương tối thiểu (710.000 đông và 790.000 đồng) chỉ có ý nghĩa là “lưới chắn” để doanh nghiệp không được trả thấp hơn và là căn cứ để tính mức lương trong hệ thống thang bảng lương, phụ cấp... chứ không phải là mức thu nhập thực của người lao động.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp đều lấy mức đó làm mức để trả lương cơ bản (không có hệ số). Chính vì thế chỉ có 1/3 số lao động được hỏi có mức thu nhập tạm đủ sống. Để có thêm thu nhập, 42,5% số lao động phải làm thêm giờ ngoài thời gian làm khá vất vả trong doanh nghiệp, đặc biệt trong ngành dệt may, số lao động làm thêm lên tới 54,7%.
Hiện còn khoảng 6,5% lao động trong doanh nghiệp FDI phải làm việc bình quân trên 10 tiếng/ngày, 18% làm từ 8-10 tiếng, trong khi đó chỉ có 52% lao động làm việc 8 tiếng/ngày. Nhưng lại có khoảng 65% lao động làm việc 6 ngày/tuần, 25% làm 7 ngày/tuần.
Riêng tại Hà Nội, điển hình như vụ đình công mới đây của hơn 300 công nhân Công ty Yangmin Enterprise, một công ty chuyên sản xuất phụ tùng xe máy của Đài Loan - Trung Quốc có trụ sở tại Đông Anh. Theo phản ánh của người lao động, họ bắt buộc phải làm thêm 2 giờ /ngày, làm cả thứ 7, chủ nhật.
Bỏ quên thoả ước tập thể
Theo quy định, sau 3 năm, doanh nghiệp phải tăng lương cho người lao động, tuy nhiên theo kết quả điều tra 3 năm qua thì trên 20% số lao động không được doanh nghiệp tăng lương hoặc mức tăng mỗi lần rất thấp, nhất là những doanh nghiệp trả lương theo hình thức khoán sản phẩm.
Bên cạnh đó, vi phạm hình thức hợp đồng lao động cũng là tình trạng khá phổ biến trong các doanh nghiệp FDI. 3,2% số lao động làm việc từ 11-15 năm vẫn chỉ được ký hợp đồng miệng, 1,6% ký hợp đồng lao động thời hạn dưới 1 năm. Những lao động làm việc tại doanh nghiệp từ 6-10 năm chỉ có 71,5% được ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Tỉ lệ này thấp hơn nhiều ở những lao động làm việc trong doanh nghiệp từ 1-3 năm.
Qua những khảo sát trên, có thể thấy, mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp FDI chưa thực sự hài hòa về quyền lẫn lợi ích. Trong khi đó, tiếng nói của công đoàn trong các doanh nghiệp FDI lại chưa đủ mạnh.
Qua điều tra tỷ lệ lao động gia nhập công đoàn trong các doanh nghiệp FDI đã thành lập công đoàn cơ sở chỉ đạt 59,3%, một tỷ lệ thấp so với tỷ lệ chung của các loại hình doanh nghiệp khác.
Đặc biệt khi được hỏi về việc có muốn tham gia tổ chức công đoàn hay không, chỉ có 28,3% lao động trong doanh nghiệp FDI khẳng định “có”, 5,9% nói “không” và 53% lao động không trả lời. Có lẽ chính vì vậy mà ở nhiều doanh nghiệp, thỏa ước lao động tập thể lại dường như đang bị “bỏ quên”.
Chỉ có 50% số doanh nghiệp có thỏa ước lao động tập thể. Và đặc biệt, dù có thỏa ước lao động tập thể nhưng theo đánh giá của đoàn khảo sát thì đây chỉ là hình thức chống chế, nội dung thỏa ước chỉ là sự sao chép cứng nhắc các quy định của luật, rất ít điều khoản cao hơn về quyền lợi cho Cngười lao động.
Thậm chí, có tới 10,3% người lao động không biết doanh nghiệp mình đang làm việc có thỏa ước hay chưa.
Liên tục xảy ra đình công
Với sự bất cập trong mối quan hệ lao động cho nên trong doanh nghiệp FDI liên tục xảy ra các vụ việc tranh chấp lao động và đình công xảy ra với tỷ lệ cao nhất. Điển hình nhất vụ mới đây (ngày 29/8), hơn 1.000 công nhân Công ty Beautec Vina (100% vốn Hàn Quốc, chuyên sản xuất hàng may mặc tại Khu công nghiệp Sóng Thần II, Dĩ An, Bình Dương) đã đình công đòi tăng lương.
Cùng ngày, hơn 200 công nhân chuyên về may xuất khẩu thuộc Công ty TNHH Samitex (100% vốn nước ngoài tại Cần Giuộc, Long An) đã đình công yêu cầu công ty giải quyết vấn đề làm thêm giờ, bố trí người quản lý sản xuất, chế độ ăn uống...
Còn theo thống kê của UBND tỉnh Đồng Nai, chỉ tính riêng trong 7 tháng đầu năm 2007, Đồng Nai đã xảy ra 66 vụ đình công. Phần lớn các cuộc đình công yêu cầu chủ doanh nghiệp thực hiện đúng Luật Lao động và giải quyết lợi ích cao hơn. Nhiều cuộc đình công đã kéo dài 3-5 ngày.
Thống kê của Viện Công nhân và công đoàn, từ năm 1995 đến năm 2006 thì doanh nghiệp FDI đã xảy ra 878/1333 cuộc đình công, chiếm khoảng 66%, năm 2006 70,7%.
Như vậy, việc cải thiện chế độ tiền lương, tiền công và giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách cho người lao động ở khu vực FDI cũng cần có các giải pháp.
Theo Viện Công nhân và công đoàn, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt nghiêm các doanh nghiệp vi phạm, không thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, không đảm bảo điều kiện làm việc, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người lao động. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng xây dựng và ký kết thỏa ước lao động trong các doanh nghiệp.
Muốn vậy Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng những bộ thỏa ước lao động tập thể cấp ngành, khu vực hoặc trong một khu công nghiệp, tạo khung pháp lý cho doanh nghiệp.
Viện Công nhân và công đoàn cũng đưa ra kiến nghị tiếp tục sửa đổi bổ sung về pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động và đình công. Nhiều công đoàn cơ sở cho rằng thủ tục đình công còn rất rườm rà, để đảm bảo một cuộc đình công hợp pháp là khó xảy ra; hoặc phân biệt thế nào là ngừng việc tạm thời, vì định nghĩa đình công cũng chính là ngừng việc tạm thời.
Tất cả các chế độ chính sách liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động đều phải đưa vào luật hoặc văn bản dưới luật, công đoàn muốn thương lượng hiệu quả cần phải có văn bản của Nhà nước.
Một ví dụ ở Hải Phòng: Toàn thành phố hiện có 5 khu công nghiệp lớn trong đó có gần 100 doanh nghiệp FDI đang hoạt động, giải quyết việc làm cho hơn 30.000 lao động. Tuy nhiên, mới chỉ có gần 50% số doanh nghiệp FDI thành lập tổ chức công đoàn. Một số doanh nghiệp có tổ chức công đoàn nhưng hoạt động mờ nhạt, khó bảo đảm quyền lợi người lao động.
Theo phản ánh của nhiều công nhân làm việc tại các khu công nghiệp, thời gian đầu, khi thành phố rộng mở thu hút đầu tư, các khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn thành phố liên tục được thành lập, người lao động còn hào hứng với công việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng gần đây, nhiều người lao động, không còn mặn mà với doanh nghiệp. Thi thoảng, tại các doanh nghiệp FDI lại xảy ra đình công đòi thương lượng để tăng lương và giải quyết thỏa đáng một số chính sách.
Từ đầu năm 2008 đến nay, trong các khu công nghiệp xảy ra 17 vụ đình công ở các doanh nghiệp FDI. Vụ việc đình công kéo dài, phức tạp nhất là tại Công ty Yazaky với 3000/5000 lao động tham gia ngừng việc tập thể.
Lý giải về việc gia tăng các vụ đình công tại các doanh nghiệp FDI, ông Vũ Đức Cường, Chủ tịch Công đoàn khu công nghiệp, khu chế xuất Hải Phòng cho biết: “Gần đây, do lạm phát tăng cao, giá nhiều mặt hàng tăng gấp 2, 3 lần, trong khi mức lương của người lao động tại các doanh nghiệp hiện quá thấp, trung bình từ 1,3 đến 1,5 triệu đồng/người/tháng, khó bảo đảm cuộc sống. Bên cạnh đó, thời gian làm việc trong các doanh nghiệp FDI quá căng thẳng, một số chế độ, chính sách của người lao động chưa được chủ doanh nghiệp quan tâm”.
3, Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta.
Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Theo xếp hạng của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 2004, năng lực cạnh tranh tổng hợp của nền kinh tế nước ta chỉ đứng thứ 77/104 nền kinh tế, chỉ số về chuyển giao công nghệ được xếp thứ 66 là nhờ tỷ lệ vốn FDI vào nước ta ở mức cao so với các nước trong khu vực. Chỉ số xếp hạng về công nghệ chỉ đứng thứ 92 do tỷ lệ nhập khẩu máy móc, thiết bị trên tổng kim ngạch nhập khẩu mới ở mức thấp. Chỉ số về mức độ sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài của Việt Nam chỉ đứng thứ 99 trong số 104 nền kinh tế được xếp hạng.
Các số liệu trên cho thấy Việt Nam cần phải sớm khắc phục tình trạng yếu kém về chuyển giao công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo định hướng xuất khẩu, khắc phục sự mất cân đối giữa sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước với tiếp nhận công nghệ qua các doanh nghiệp FDI và khắc phục sự liên kết yếu kém giữa đào tạo, nghiên cứu và sản xuất.
Hiện nay, mặc dù vốn đầu tư của Nhà nước đang chiếm tỷ lệ rất cao, nhưng các ngành công nghiệp nước ta còn chưa tập trung thích đáng vào việc nhanh chóng phát triển và làm chủ các công nghệ nguồn, công nghệ chế tạo định hướng xuất khẩu, có xu hướng để các nhà đầu tư nước ngoài "phát triển giúp" các ngành công nghiệp nói trên. Điều này dẫn đến nguy cơ "công nghiệp hóa mà không nắm giữ được những bí quyết công nghệ chiến lược và mũi nhọn" như tình trạng của nhiều nước Đông - Nam Á hiện nay. Tỷ lệ nhập khẩu máy móc, thiết bị sản xuất công nghiệp trên tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nền kinh tế nước ta cũng chỉ đạt mức thấp so với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong giai đoạn trình độ công nghiệp hóa tương tự, tỷ lệ này của Nhật Bản và Hàn Quốc vào khoảng 40%.
4. Gây ô nhiễm môi trường
Môi trường bị tác hại do ô nhiễm nguồn nước, không khí Một số doanh nghiệp chưa nhận thực được tầm quan trọng của vấn đề này nên đã xử lý nguồn nước thải, chất thải chỉ mang tính đối phó.
Cũng theo nghiên cứu trên thì có tới 80% doanh nghiệp FDI không đầu tư trang thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường, 60 - 81% doanh nghiệp không chịu chi cho hoạt động bảo vệ môi trường hàng năm.
trên cơ sở kết quả khảo sát từ 10/40 doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực khai khoáng thì chính sách ưu đãi đầu tư là “nam châm” hút nhà đầu tư, nhưng không phải là yếu tố duy nhất dẫn đến quyết định rót vốn của họ vào Việt Nam.
Có những dự án FDI rất lớn được bộ này yêu cầu làm báo cáo tác động môi trường, nhưng họ nhận báo cáo xong là chấm hết. Cách quản lý nhà nước hiện nay là đưa ra tiêu chuẩn, xong rồi kệ. Vấn đề quan trọng nhất là phải hậu kiểm thì không làm được.
Trước đây bộ Khoa học công nghệ và môi trường (cũ) đề ra tiêu chuẩn được nhập thiết bị cũ còn 80% chất lượng. Ai có thể kiểm tra được việc này khi có hàng vạn thiết bị nhập vào. Chỉ cần cái phong bì là chất lượng từ 70% lên 80% ngay thôi. Đây là sơ hở trong quản lý nhà nước để những người xấu trong bộ máy có điều kiện để tham nhũng. Cái này tôi nghe các nhà đầu tư nước ngoài phản ánh chứ không phải bịa.
Việt Nam cần từ chối dự án FDI gây ô nhiễm
Có một thực tế là ở Việt Nam hiện nay, khi một doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường, công chúng mới chỉ biết phản ảnh trên báo chí hay làm đơn tố giác với cơ quan hữu trách chứ không có một cuộc tranh chấp trực diện tại tòa án. Điều này cho thấy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vẫn là một khái niệm xa lạ.
Vấn đề này trở thành chủ đề được tranh luận sôi nổi tại Diễn đàn Doanh nghiệp Đông Á về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, diễn ra ngày 8/10 tại Hà Nội.
“Tấm gương đen” Vedan
Sự việc Cty Vedan phá hoại môi trường Việt Nam suốt 14 năm được lấy làm ví dụ điển hình để phân tích về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tại diễn đàn. Việc xả thải không qua xử lý xuống sông Thị Vải, việc trốn nộp phí môi trường suốt nhiều năm của Vedan được cho là một cách tiết kiệm để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp mà bỏ qua những quy chuẩn về môi trường.
“Không chỉ có Vedan, thống kê hiện nay trong số hơn 100 khu công nghiệp ở Việt Nam có đến 80% đang vi phạm các quy định về môi trường. Bộ TN&MT đã đang và sẽ tổ chức nhiều đoàn thanh tra đi khắp các địa phương, lập danh sách đen các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng, có khả năng bị đóng cửa, trong đó sẽ đặc biệt chú ý đến các điểm nóng về môi trường hiện nay như sông Thị Vải, Khánh Hoà, lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy....” - Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà cho biết.
Trước thực trạng ngày càng có thêm nhiều doanh nghiệp bị phát hiện đang ngấm ngầm phá hủy môi trường mà gần đây nhất, sau Vedan, là Cty Miwon, gây bất bình trong dư luận, đại diện các doanh nghiệp, các bộ ngành và hơn 100 đại biểu từ 16 nước trên thế giới tham gia diễn đàn bày tỏ quan điểm: Việt Nam phải từ chối những dự án FDI gây ô nhiễm môi trường nặng, cần loại bỏ những dự án chỉ muốn khai thác tài nguyên thiên nhiên vì không gì tai hại và thiệt thòi cho nền kinh tế và cả cho các thế hệ mai sau bằng việc xúc tài nguyên đi bán thô với giá rẻ.
Việt Nam cần thận trọng khi cấp giấy phép cho những dự án gây ô nhiễm môi trường như sân golf, các nhà máy đóng tàu, nhà máy giấy, xi măng, thép, v.v., sử dụng công nghệ lạc hậu.
Đặc biệt, là thành viên của WTO, các doanh nghiệp Việt Nam cần tuân thủ các quy tắc kinh doanh có trách nhiệm với xã hội, tương tự như các doanh nghiệp trên thế giới.
Ông Jung Gun Young, Trưởng đại diện văn phòng Tổng Cty Môi trường Hàn Quốc (ENVICO), cho rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở các hoạt động xã hội từ thiện, quyên góp mà còn bao gồm các hoạt động vì sự phát triển bền vững của chính doanh nghiệp, trong đó có các hoạt động liên quan đến quản lý môi trường.
“Các giá trị trách nhiệm xã hội ngày càng giữ vị trí quan trọng trong hệ thống giá trị của doanh nghiệp. Thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là con đường tích cực, hiệu quả giúp doanh nghiệp tăng tính cạnh tranh, bảo vệ và dung hoà quyền lợi của các bên liên quan, bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững” - Ông Jung Gun Young nhấn mạnh.
Sản xuất sạch hơn, bền vững hơn
Việt Nam cần có thêm những chính sách khuyến khích doanh nghiệp phát triển bền vững, đặc biệt là những chính sách cụ thể để phát triển sản xuất sạch hơn – đại diện nhiều ngành và doanh nghiệp cho ý kiến tại diễn đàn.
Hiện nay mới chỉ có 250 doanh nghiệp tại Việt Nam thực hiện các biện pháp sản xuất sạch hơn và đều thông qua các dự án hỗ trợ. Số lượng các doanh nghiệp tham gia còn khiêm tốn như vậy bởi Việt Nam hiện chưa có cơ sở pháp lý để bắt buộc hoặc khuyến khích các doanh nghiệp tham gia sản xuất sạch hơn. Còn nhiều trường hợp ngân hàng không cho doanh nghiệp vay tiền để áp dụng sản xuất sạch hơn vì quan niệm đó là nhiệm vụ môi trường và phải được chi từ ngân sách nhà nước...
Bởi vậy, có tình trạng có doanh nghiệp bỏ ra hàng tỷ đồng để đầu tư sản xuất sạch hơn trong khi các doanh nghiệp khác tự do xả các chất ô nhiễm ra môi trường và chỉ bị phạt hành chính với số tiền quá nhỏ.
“Về mặt chính sách vĩ mô, một khi các doanh nghiệp còn chưa nhận thức được rằng phát triển bền vững chính là phương thức tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất thì những biện pháp xử lý nghiêm minh, chế tài bằng pháp luật của chính quyền đối với đối tượng sai phạm là rất cần thiết” - ông Somkiat Anaras, Phó Chủ tịch phòng Thương mại và Công nghiệp Thái Lan nêu ý kiến.
Xây dựng doanh nghiệp “trách nhiệm xã hội”
Theo ông Đoàn Duy Khương, Phó chủ tịch VCCI, “làm thế nào để giải quyết vấn đề môi trường đi đôi với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo tiến bộ xã hội nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững” vẫn là một trong những thách thức của thời đại mới. Đây được coi là vấn đề toàn cầu, nhất thiết phải có sự hợp tác giữa các nước phát triển cũng như đang phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế nhưng không gây tổn hại đến môi trường, chính phủ các nước trên thế giới đã nhiều lần nhóm họp, đề xuất các nguyên tắc, kế hoạch chiến lược nhằm giải quyết những mối đe dọa môi trường toàn cầu. Đó là những vấn đề ưu tiên đối với tất cả các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các thành phố cũng như các công dân.
Tuy nhiên, chỉ có hành động của các chính phủ là chưa đủ mà cần sự hợp tác thực hiện của cộng đồng doanh nghiệp - đầu tầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế- bằng cách thực hiện tốt trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, tuân thủ các luật lệ, ứng dụng công nghệ, phát minh mới thân thiện với môi trường, tiến tới xây dựng những ngành công nghiệp xanh, góp phần vào tăng trưởng xanh của từng quốc gia trên thế giới, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng như hiện nay.
Sự kiện vi phạm của Vedan tại Việt Nam mới được phát hiện gần đây là một trong những mặt tối trong phát triển bền vững, một hình ảnh xấu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Hành động của Vedan là hành vi có chủ ý, bất chấp quy định về bảo vệ môi trường.
Ông Đồng cho rằng, đây là cách “tiết kiệm” của doanh nghiệp để tăng lợi nhuận mà bỏ qua những quy định, quy chuẩn về môi trường. Lẽ ra các doanh nghiệp phải là đối tác quan trọng trong việc bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ môi trường và hình thành các tiêu chuẩn môi trường trong tương lai.
Có lẽ, Việt Nam không chỉ có một Vedan mà còn nhiều những “Vedan” cần phải phát hiện, lên án. Hiện nay trong hơn 100 khu công nghiệp ở Việt Nam, có đến 80% đang vi phạm các quy định về môi trường. Dọc sông Thị Vải cũng không chỉ có doanh nghiệp Vedan xả chất thải nguy hại. Ngành y tế sẽ đánh giá tác động của nước thải Vedan đưa ra môi trường tới sức khỏe người dân. Người dân hoàn toàn có thể kiện, đòi Vedan bồi thường thiệt hại với những bằng chứng cụ thể.
Tác hại lâu dài của dòng nước thải khiến cho hình ảnh thương hiệu mà Vedan Việt Nam cố công xây dựng từ năm 1991 đến nay trở nên nhạt nhoà. Hành động của Vedan không những gây bất bình với dư luận xã hội, mà còn nêu một “tấm gương xấu” về tinh thần “trách nhiệm xã hội” mà cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đang hướng tới.
Ông Đồng cho rằng, để hạn chế ô nhiễm, bảo vệ môi trường, Việt Nam cần kiên quyết đình chỉ hoạt động của các cơ sở ô nhiễm nặng, từ chối những dự án FDI gây ô nhiễm môi trường nặng.
Với xu thế “làm ăn với thế giới” ngày càng gia tăng, doanh nghiệp Việt Nam phải sẵn sàng hội nhập quốc tế về các chuẩn mực hành xử trong quy tắc kinh doanh, trong đó có những điều kiện tiên quyết của một doanh nghiệp phát triển bền vững cần tuân thủ, đó là có trách nhiệm với xã hội về nhân văn và về môi trường sinh thái. Các nhà quản lý doanh nghiệp không thể làm ngơ trước những đòi hỏi từ xã hội, thể hiện qua chất lượng sản phẩm, điều kiện lao động và đặc biệt là ảnh hưởng của sản xuất tới môi trường sinh thái.
Tuy nhiên, một khi các doanh nghiệp còn chưa nhận thức được rằng: phát triển bền vững chính là phương thức tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất, thì những biện pháp xử lý nghiêm minh, chế tài bằng pháp luật của chính quyền đối với đối tượng sai phạm là rất cần thiết.
CHƯƠNG III. TRIỂN VỌNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần X. Mục tiêu và định hướng thu hút ĐTNN giai đoạn tới được xác định như sau:
I. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH H ƯỚNG
1. Mục tiêu Chương trình thu hút ĐTNN 2008-2010 :
Các chỉ tiêu chủ yếu về ĐTNN giai đoạn 2008-2010 cần đạt được là:
- Vốn ĐTNN thực hiện: đạt khoảng 24 - 25 tỷ USD (tăng 70-75% so với giai đoạn 2001-2005) chiếm khoảng 17,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
- Vốn đăng ký bao gồm cả vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng vốn đạt khoảng 55 tỷ USD (tăng hơn 2 lần so với giai đoạn 2001–2005), trong đó vốn cấp mới đạt 41 tỷ USD và vốn bổ sung đạt khoảng 14 tỷ USD. Bình quân mỗi năm đạt khoảng 11 tỷ USD.
- Doanh thu: khoảng 163,4 tỷ USD
- Xuất - nhập khẩu: xuất khẩu đạt khoảng 93,3 tỷ USD (không kể dầu thô); nhập khẩu đạt 103,tỷ USD.
- Nộp ngân sách nhà nước: đạt khoảng 8,4 tỷ USD.
- Cơ cấu vốn thực hiện theo ngành: vốn FDI thực hiện trong ngành công nghiệp chiếm khoảng 60%, nông-lâm-ngư nghiệp khoảng 5% và dịch vụ khoảng 35%.
- Chú trọng thu hút đầu tư từ các nước G7 có công nghệ cao, đảm bảo phát triển bền vững.
2. Định hướng thu hút vốn đầu tư trong một số ngành:
a) Ngành Công nghiệp-Xây dựng:
- Các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học; chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ.
- Công nghiệp phụ trợ: Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên-phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. Để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, cần tạo điều kiện để các dự án sản xuất lắp ráp các sản phẩm công nghiệp nhanh chóng mở rộng quy mô và thị trường tiêu thụ.
b) Ngành Dịch vụ:
- Ngành dịch vụ còn dư địa lớn để đầu tư phát triển góp phần quan trọng trong nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như dịch vụ ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chính-viễn thông, y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực dịch vụ khác.
Với định hướng trên, tiến hành xem xét, giảm bớt các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện đối với ĐTNN có tính tới các yếu tố hội nhập và toàn cầu hóa theo lộ trình “mở cửa”; tạo bước đột phá trong thu hút ĐTNN bằng việc xem xét đẩy sớm lộ trình mở cửa đối với một số lĩnh vực dịch vụ, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển hạ tầng. Cụ thể là:
- Khuyến khích mạnh vốn ĐTNN vào các ngành du lịch, y tế, giáo dục-đào tạo. Mở cửa theo lộ trình các lĩnh vực dịch vụ “nhạy cảm” như ngân hàng, tài chính, vận tải, viễn thông, bán buôn và bán lẻ và văn hoá.
- Khuyến khích ĐTNN tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng các phương thức thích hợp gồm BOT, BT để xây dựng cảng biển, cảng hàng không, đường cao tốc, đường sắt, viễn thông, cấp nước, thoát nước nhằm góp phần nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng nhanh của nền kinh tế.
c) Ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp:
Theo Luật Đầu tư năm 2005, nuôi trồng, chế biến nông, lâm thuỷ sản, làm muối; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới là một trong những lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư. Phù hợp chiến lược phát triển ngành, thu hút ĐTNN định hướng theo ngành hàng, sản phẩm chủ yếu như sau:
- Về trồng trọt và chế biến nông sản, ĐTNN tập trung vào các dự án xây dựng các vùng trồng và chế biến nông sản xuất khẩu như lúa gạo, cây lương thực, rau quả, cà phê, cao su, chè... theo hướng thâm canh, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đổi mới thiết bị các xưởng chế biến.
- Về chăn nuôi và chế biến sản phẩm chăn nuôi, ĐTNN tập trung thu hút vào các dự án sản xuất giống lợn, bò và gia cầm có chất lượng cao tại các vùng có điều kiện thuận lợi về lao động, đất đai, đảm bảo vệ sinh môi trường khi phát triển chăn nuôi với quy mô lớn, đồng thời tiếp tục thu hút đầu tư sản xuất thức ăn gia súc có chất lượng cao.
- Về trồng rừng - chế biến gỗ, ĐTNN tập trung vào các dự án sản xuất giống cây có chất lượng, năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu trồng rừng nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ, lâm sản.
3. Định hướng thu hút vốn đầu tư theo vùng:
Trong thời gian tới, dự báo vốn ĐTNN vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi về địa lý-tự nhiên, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm. Để tăng cường thu hút ĐTNN tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, bên cạnh những ưu đãi của đối với ĐTNN tại các vùng đó đòi hỏi phải tăng cường đầu tư xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đường giao thông, điện, nước ở các vùng kinh tế khó khăn bằng nguồn vốn nhà nước, vốn ODA và nguồn vốn tư nhân.
Tập trung thu hút đầu tư, lấp đầy các KCN-KCX-KCNC, khu kinh tế đã được Chính phủ phê duyệt góp phần đẩy nhanh việc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Tận dụng những khu vực đất trống, đồi trọc, ít giá trị nông nghiệp để phát triển KCN, xây dựng nhà máy, hạn chế xây dựng KCN-KCX-KCNC trên đất canh tác nông nghiệp truyền thống.
II. BÀI HỌC KINH NGHIÊM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tiễn 20 năm hoạt động ĐTNN tại Việt Nam cũng như kinh nghiệm của một số nước trong khu vực có thể rút ra một số bài học sau:
Một là, cần thống nhất nhận thức và có cách nhìn nhạy bén về kinh tế, chính trị, nắm bắt thời cơ, thuận lợi, thấy rõ được những khó khăn, thách thức từ bên trong cũng như bên ngoài để kịp thời đề ra được chủ trương, đường lối đúng đắn, tập trung lực lượng, giải quyết dứt điểm các vấn đề nảy sinh. Chủ trương, đường lối khi đã đề ra phải được quán triệt thông suốt, đầy đủ từ trung ương đến địa phương và phải được cụ thể hóa kịp thời, tạo ra sự thống nhất và quyết tâm cao trong việc tổ chức thực hiện để đảm bảo thành công.
Hai là, các chủ trương, phương hướng lớn phải được nhanh chóng thể chế hóa thành pháp luật, cơ chế, chính sách một cách đồng bộ, tạo đủ hành lang pháp lý cho việc thực hiện. Pháp luật và văn bản liên quan về ĐTNN phải minh bạch, rõ ràng và phù hợp với thông lệ quốc tế có chú ý tới điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Cơ chế, chính sách phải đồng bộ thể hiện tính khuyến khích và canh tranh cao so với các nước trong khu vực, có tính tới quy luật cạnh tranh và xu hướng tự do hóa trong thu hút đầu tư phù hợp với tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đồng thời tạo điều kiện, khuyến khích sự chủ động, sáng tạo của người thực hiện.
Ba là, công tác chỉ đạo, điều hành phải thông suốt, thống nhất, có nền nếp, kỷ cương trong bộ máy công quyền, tạo niềm tin và độ tin cậy đối với nhà đầu tư, đặc biệt đối với người đứng đầu. Phải luôn luôn hướng về nhà đầu tư và doanh nghiệp để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Mọi thủ tục hành chính phục vụ cho hoạt động đầu tư phải đơn giản, gọn nhẹ, không làm tăng chi phí, không gây phiều hà, sách nhiễu cho nhà đầu tư.
Bốn là, công tác cán bộ cần luôn được xem trọng để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, liên tục nhằm xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại không những tinh thông nghiệp vụ, am hiểu về kinh tế đối ngoại, mà còn trong sạch về phẩm chất, đạo đức, vì đây là cầu nối giữa nhà đầu tư với nước chủ nhà, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân thành công hay thất bại.
Năm là, tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các cơ quan quản lý đầu tư các cấp chủ động vận dụng, tổ chức triển khai, giám sát và đánh giá việc thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước về đầu tư sao cho hiệu quả, đảm bảo hài hòa mối quan hệ giữa nhà đầu tư, nhà quản lý, giữa lợi ích của nhà nước với lợi ích của nhà đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội bền vững trên địa bàn và trên cả nước.
2. Các giải pháp chủ yếu:
Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN trong giai đoạn 2006- 2010 và một số năm về sau, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau :
Nhóm giải pháp về quy hoạch:
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án.
Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế.
Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư.
Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách:
Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan.
Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh.
Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành.
Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ.
Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư:
- Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương.
- Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này. Đồng thời, thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010 để đảm bảo kinh phí cho vận động thu hút vốn ĐTNN nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương mại-du lịch.
- Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga)
- Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam.
Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng:
- Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng.
- Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v.
Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời.
- Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập.
- Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v.
- Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng.
- Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu,
Nhóm giải pháp về lao động, tiền lương:
- Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau.
- Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm:
- Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động.
- Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
Nhóm giải pháp về cải cách hành chính:
- Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư.
- Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài.
- Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể.
- Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư .
- Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan.
Một số giải pháp khác:
- Trong các giải pháp nêu trên cần phải tính đến yếu tố vùng, miền cho các định hướng ưu tiên, đặc thù.. phù hợp thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trong thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung.
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5956.doc