Mục tiêu cuối cùng của việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội của quốc gia . Thông qua thị trường chứng khoán ,các luồng vốn trong và ngoài nước được tập trung và sử dụng cho các dự án đầu tư, nhu cầu mở rộng sản xuất ,v.v. Nhưng thị trường chứng khoán cũng có tác động như con dao 2 lưỡi ;nó cũng làm nảy sinh những vấn đề tiêu cực; những tác động nguy hiểm lôi kéo, lũng đoạn ,phá hoại nền kinh tế khi nó không được vận hành theo đúng cơ chế của nền kinh tế thị trường .
Thực tế tại các quốc gia phát triển ,thị trường chứng khoán đã từng trải qua những cuộc khủng hoảng những ngày "đen tối" có tác động hết sức tồi tệ đến nền kinh tế . Còn tại Việt Nam chúng ta có thể tránh được hoặc khắc phục những rủi ro này nhờ sự can thiệp đúng đắn của chính phủ thông qua các công cụ điều chỉnh . Từ đây chúng ta có thể lạc quan và tin tưởng vào sự phát triển của thị trường chứng khoán trong tương lai .
32 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1575 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GDCK chỉ có nhiệm vụ tổ chức đấu giá chứng khoán theo đúng nguyên tắc cạnh tranh và quan hệ cung cầu của thị trường. SGDCK cũng không kiểm soát việc mua bán chứng khoán mà chỉ đóng vai trò là quan toà xử lý các vi phạm lừa đảo trong mua bán chứng khoán . Đồng thời SGDCK luôn quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Chính điều này đã thu hút các nhà đầu tư đến với thị trường chứng khoán. Để hoàn thành mục tiêu này thị trường chứng khoán chỉ cho phép những chứng khoán có phẩm chất cao được mua bán qua SGDCK. Đó là chứng khoán của những công ty hội đủ những tiêu chuẩn do SGDCK đề ra hay còn gọi là tiêu chuẩn niêm yết. Vai trò của các SGDCK quyết định đến sự thành công hay thất bại của thị trường chứng khoán quốc gia. Nếu được tổ chức tốt sẽ thúc đẩy việc thu hút và tập trung được các nguồn vốn lớn phục vụ cho việc đầu tư sản xuất. Vì những lý do trên sự xuất hiện sự tồn tại và phát triển của SGDCK là một điều tất yêú khách quan của nền kinh tế thị trường.
+ Thị trường chứng khoán không tập trung thị trường OTC: còn gọi là thị trường chứng khoán phi chính thức thị trường này thực hiện giao dịch những chứng khoán không được phép mua bán qua SGDCK. Hiện nay thị trường này phát triển không kém gì thị trường chính thức đồng thời nó còn mua bán cả những chứng khoán đã được niêm yết. (OTC - over the counter market ) tuy thị trường này có phí giao dịch thấp hơn so với phí của SGDCK nhưng dù sao khi mua chứng khoán qua SGDCK các nhà đầu tư cũng cảm thấy an tâm hơn.
2) Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán:
Hoạt động của thị trường chứng khoán của một quốc gia thường lôi cuốn tất cả hoặc hầu hết các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư tham gia. Đặc biệt là sự tham gia đông đảo của các tổ chức tài chính như ngân hàng đầu tư , ngân hàng thương mại ,công ty tài chính , công ty chứng khoán , công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư . . .
2.1 Công ty chứng khoán.
a) Tiêu chuẩn để công ty chứng khoán được là thành viên của SGDC.Thành viên của SGDCK là các công ty chứng khoán hoạt động tại sàn giao dịch. Mỗi nước có thể có hàng trăm thậm chí hàng nghìn công ty chứng khoán nhưng không phải công ty nào cũng được là thành viên của SGDCK. Ví dụ nước Nhật có 240 công ty chứng khoán nhưng chỉ có 124 công ty được là thành viên của SGDCK. Thông thường có những công ty là thành viên của sở giao dịch chứng khoán phải hội đủ những điều kiện như :
- Có giấy phép hoạt động của cơ quan nhà nước cấp.
- Có số vốn tối thiểu theo quy định.
- Tập hợp được các chuyên gia chứng khoán đã qua đào tạo được cấp giấy chứng nhận và có đạo đức. (Brockers, dealers).
b) Chức năng của công ty chứng khoán trên SGDCK.
- Giao dịch chứng khoán trên thị trường : Một công ty được nhà nước cấp giấy phép hợp lệ sẽ được quyền thực hiện toàn bộ nghiệp vụ giao dịch chứng khoán từ khâu tiếp nhận đơn đặt hàng cho đến khâu tham gia mua bán chứng khoán công khai trên thị trường. Tuỳ theo quy mô hoạt động mà công ty chứng khoán có thể được phép thực hiện một hay nhiều nghiệp vụ giao dịch sau đây:
+ Môi giới trung gian mua bán chứng khoán theo lệnh đặt hàng của thân chủ để hưởng hoa hồng.
+ Nghiệp vụ buôn bán chứng khoán : công ty chứng khoán sẽ sử dụng vốn tự có để mua bán chứng khoán cho chính mình nhằm kiếm lời từ chênh lệch giá Thực hiện nhiệm vụ này là những giao dịch viên hay những thương gia chứng khoán có đăng ký (registered dealers). Khi thực hiện những nhiệm vụ này công ty phải gánh chịu những rủi ro , cho nên phải nghiên cứu rất kỹ thị trường và các lại chứng khoán muốn mua hay muốn bán. Công ty phải tuân thủ một số quy định sau:
- Công ty không được cạnh tranh trực tiếp với thân chủ và không được phép giữ quá 1% nghạch số phát hành của bất cứ loại chứng khoán nào.Nghiêm cấm công ty mua bán cho mình nhiều loại chứng khoán được phát hành bởi các hiệp hội các công ty chứng khoán với tư cách là giám đốc hay quản trị viên .
+ Đại lý phát hành chứng khoán (distribuor): Công ty nhận phân phối chứng khoán ra thị trường cho cơ quan phát hành để hưởng hoa hồng, khi thực hiện nghiệp vụ này thì :
Công ty không hứa mua trực tiếp số chứng khoán phân phối hộ . Công ty không hứa bán với một giá nhất định. Công ty không hứa bán hết hay mua số chứng hoán không bán hết.
+ Bảo lãnh phát hành chứng khoán ( underwriter): Công ty thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán khi có một khả năng tài chính vững mạnh, thường đó là một tập đoàn tài chính đứng ra đảm bảo thực hiện thành công việc phát hành chứng khoán với chủ thể phát hành bằng cách :
Hứa mua toàn bộ hay một phần số cổ phiếu phát hành.
Đảm bảo bán với một giá nhất định.
Cam kết mua số cổ phiếu không bán hết.
Qua các nghiệp vụ trên của công ty chứng khoán cho thấy sự có mặt của các công ty này có vai trò vô cùng quan trọng trong việc kết nối những nguồn cung chứng khoán và nguồn cầu chứng khoán. Chức năng này của công ty chứng khoán góp phần đẩy nhanh quá trình lưu thông và phân phối chứng khoán , qua đó giúp cho quá trình giao lưu vốn trên thị trường được thông suốt liên tục.
-Trung tâm thông tin và tư vấn cho các nhà đầu tư chứng khoán:
Với một đội ngũ chuyên gia chứng khoán thông thạo nghiệp vụ giỏi chuyên môn và nhiều kinh nghiệm , công ty chứng khoán không chỉ đơn thuần hoạt động như người trung gian thực hiện lệnh mua bán chứng khoán của khách hàng mà còn là cố vấn thực sự cần thiết cho khách hàng khi ra quyết định đầu tư.Để công việc tư vấn cho khách hàng đầu tư có hiệu quả, công ty chứng khoán phải là nơi nắm bắt và cung cấp các thông tin cần thiết về thị trường, về chứng khoán và về các chủ thể phát hành, xử lý phân tích các thông tin để làm cơ sở cho tư vấn đầu tư.
Chức năng này được xem như một trong những tiêu chuẩn quyết định chất lượng hoạt động của công ty môi giới, quyết định sự tín nhiệm của người đầu tư và đồng thời cũng quyết định sự tồn tại của công ty trong quá trình cạnh trạnh.
- Can thiệp trên thị trường chứng khoán góp phần điều tiết giá chứng khoán.Theo quy định của Uỷ ban chứng khoán quốc gia các nước phát triển. Các công ty chứng khoán nếu có nhiệm vụ kinh doanh chứng khoán phi tham gia can thiệp trên thị trường chứng khoán để điều tiết giá chứng khoán thông qua việc mua chứng khoán vào khi giá chứng khoán giảm và tung chứng khoán dự trữ ra khi giá chứng khoán tăng. Theo quyết định này kinh doanh chứng khoán phải dành một tỷ lệ 60% giao dịch của mình cho hoạt động có tính chất ổn định trên thị trường.
2.2 Công ty đầu tư
a- Khái niệm
Công ty đầu tư là một dạng doanh nghiệp của công ty cổ phần nó phát hành và bán cổ phiếu để lấy vốn hoạt động. Đây là một loại doanh nghiệp đặc biệt nó không dùng vốn của mình để mua máy móc, thiết bị và các yếu tố suất nhập xuất khác để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh mà dùng vốn để đầu tư dài hạn qua góp vốn liên doanh mua cổ phần hoặc các loại cổ phiếu khác với mục đích thu lợi nhuận. Hoạt động của công ty đầu tư là kinh doanh đầu tư vốn bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.Đầu tử trực tiếp là việc các công ty dùng vốn của mình để thâm nhập trực tiếp vào các công ty các dự án bằng cách góp cổ phần mua cổ phiếu , phát hành với tư cách là cổ đông sáng lập như các sáng lập viên khác.
Đầu tư gián tiếp là việc các công ty đầu tư vốn của mình tham gia vào các thị trường chứng khoán với các tư cách là một nhà kinh doanh chứng
khoán mua đi bán lại các chứng khoán nhằm hưởng chênh lệch gi hay nhận cổ tức từ các công ty. Tuy nhiên công ty đầu tư không phải là thành viên của thị trường chứng khoán tập trung do đó việc mua bán cổ phiếu của công ty đầu tư ở thị trường này phải thông qua các công ty chứng khoán.
b) Phân loại quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư có nhiều loại khác nhau và mỗi quỹ đầu tư có đặc thù, một định hướng hoạt động khác nhau nhưng có thể phân chia theo các cách sau:
- Căn cứ vào quy mô, cách thức và tính chất góp vốn quỹ đầu tư gồm hai loại :
+ Quỹ đầu tư dạng đóng ( close and funds) đây là quỹ đầu tư theo điều lệ quy định thường chỉ tạo vốn qua một lần bán chứng khoán cho công chúng. Quỹ này có thể phát hành cổ phiếu thông thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Ngoài ra quỹ không được phát hành thêm bất cứ loại cổ phiếu nào để huy động thêm vốn và cũng không được mua lại các cổ phiếu đã được phát hành. Giá thị trường cổ phiếu của quỹ đầu tư dạng đóng phụ thuộc vào lượng cung cầu như khi áp dụng đối với các loại chứng khoán khác chứ không trực tiếp liên quan đến giá trị tài sản thuần (Net asset value - NAV) của mỗi cổ
phần. Vì thế,một quỹ đầu tư dạng đóng có thể bán theo giá cao hơn giá trị tài sản thuần hoặc thấp hơn giá trị tài sản thuần. Quy mô vốn của các quỹ này chỉ có thể tăng lên từ các khoản lợi nhuận thu được mà thôi.
+ Quỹ đầu tư dạng mở (open- endfunds) : Khác quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở luôn phát hành thêm những cổ phiếu mới để tăng thêm vốn và cũng sẵn sàng mua lại nhứng cổ phiếu đã phát hành. Cổ phiếu này được bán trực tiếp cho công chúng thông qua thị trường chứng khoán. Muốn mua cổ phiếu chỉ cần viết thư hoặc điện thoại trực tiếp cho quỹ xin giấy tờ cần thiết nên tạo cơ hội cho bất kỳ ai cũng có thể tham gia và trở thành chủ sở hữu của quỹ . Tất cả các cổ phiếu phát hành của quỹ đầu tư là cổ phiếu thông thường . So với quĩ đầu tư dạng đóng thì quỹ đầu tư dạng mở rõ ràng có ưu thế hơn trong huy động , mở rộng qui mô vốn do đó nó linh hoạt hơn trong việc lựa chọn các dự án đầu tư
- Căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động, các quĩ đầu tư được chia làm :
+ Quỹ đầu tư chứng khoán dài hạn: Đối tượng của quỹ này khá đa dạng gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Quỹ đầu tư chứng khoán ngắn hạn :Loại này chủ yếu đầu tư vào các loại chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ .
+ Quỹ đầu tư hỗn hợp : Loại này thực hiện đầu tư cả vào chứng khoán ngắn hạn và chứng khoán dài hạn . Đây là dạng quĩ đầu tư kết hợp cả hai dạng trên thực hiện đầu tư theo kiểu này có ưu điểm là độ an toàn cao .
2.3--Công ty cổ phần
a/ Khái niệm : Công ty cổ phần là đơn vị kinh tế mà số vốn sở hữu được chia làm nhiều phần bằng nhau. Những người tham gia hùn vốn vào công ty cổ phần được gọi là cổ đông . Cổ đông góp vốn vào công ty cổ phần dưới hình thức mua cổ phần .Chứng từ ghi nhận số cổ phần đóng góp của cổ đông là cổ phiếu .Công ty cổ phần sinh ra cổ phiếu do đó nó gắn chặt với thị trường chứng khoán như hình với bóng
Công ty cổ phần là một đặc trưng của nền kinh tế thị trường .Nó có những đặc điểm sau:
-Vốn sở hữu của công ty cổ phần là vốn cổ phần mỗi cổ đông là một chủ sở hữu một phần của doanh nghiệp tương đương với tỷ lệ vốn góp của mình
-Công ty cổ phần là một pháp nhân tồn tại độc lập với chủ sở hữu
-Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty trong giới hạn số vốn cổ phần của mình.
-Cổ đông có quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phần qua việc bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
-Công ty cổ phần có khả năng huy động vốn rất lớn.
-Công ty cổ phần có thể tồn tại qua nhiều thế hệ cổ đông.
-Công ty cổ phần pphát triển đã liên kết mở rộng các nguồn vốn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong quần chúng .Đồng thời cũng phát huy dược trình độ khả năng của các nhà
quản lý chuyên nghiệp tạo ra hiệu quả kinh tế lớn,tạo ra các tập đoàn kinh tế lớn có đủ sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
b/ Các hình thức tổ chức công ty cổ phần:
Trên thế giới hiện có hai loại công ty cổ phần
-Công ty cổ phần đại chúng (public company) được thành lập với số vốn chia thành nhiều cổ phần bán cho công chúng .Cổ phiếu của loại hình công ty này thường là cổ phiếu vô danh để có thể chuyển nhượng tự do và mua bán trên thị trường chứng khoán .
-Công ty cổ phần tư nhân (Private company) loại công ty này cũng chia vốn của mình thành những cổ phần nhưng không được phép bán cổ phiếu cho công chúng .Các cổ phiếu do các hội viên công ty nắm giữ và không được phép chuyển nhượng cho người khác trừ khi được sự đồng ý của các thành viên khác
2.4/ Hàng hoá chứng khoán :
a/ Khái niệm : CK là các loại giấy có giá ,chứng nhận sự góp vốn hay cho vay dài hạn đối với chủ thể phát hành .Đây là một công cụ rất hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường để tạo nên một lượng vốn tiền tệ khổng lồ ,tài trợ dài hạn cho các mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hay các dự án đầu tư của nhà nước và tư nhân .Cũng như các loại hàng hoá khác ,chứng khoán là loại hàng hoá đặc biệt lưu thông trên thị trường riêng của nó: Thị trường chứng khoán.
b/ Phân loại chứng khoán:
- Căn cứ vào nội dung chứng khoán ta có thể chia ra thành chứng khoán nợ và chứng khoán vốn :
+Chứng khoán nợ là giấy chứng nhận nợ do nhà nước hoặc doanh nghiệp phát hành khi cần huy động vốn cho mục đích tài trợ dài hạn. Điển hình chứng khoán nợ là các loại trái phiếu
+Chứng khoán vốn là giấy chứng nhận góp vốn kinh doanh vào các công ty cổ phần .Đó là các loại cổ phiếu ,gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
-Căn cứ vào hình thức chứng khoán được phát hành thì chứng khoán gồm có :
+ Chứng khoán vô danh: Trên các giấy chứng nhận nợ hay góp vốn không ghi tên người sở hữu. Loại chứng khoán này có thể dễ dàng mua bán chuyển đổi trên thị trường chứng khoán.
+ Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán mà tên người sở hữu được ghi trong hồ sơ của chủ thể phát hành cũng như trên các giấy tờ chứng khoán. Việc chuyển quyền sử hữu chứng khoán này có phần khó khăn hơn loại chứng khoán trên .
- Căn cứ vào lợi tức chứng khoán người ta chia thành:
+ Chứng khoán có lợi tức ổn định là loại chứng khoán mà người cầm giữ nó được hưởng lợi tức ổn định theo tỷ lệ lãi suất tính trên mệnh giá chứng khoán .Điển hình của loại này là các trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi .
+ Chứng khoán có lợi tức không ổn định là loại chứng khoán mà người giữ chứng khoán này yêu cầu phải có lãi suất cao hơn nhiều so với mức lãi xuất ổn định. Điển hình của loại chứng khoán này là cổ phiếu thường của các công ty cổ phần.
3) Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế:
Thị trường chứng khoán ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế mỗi quốc gia cũng như trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Qua lịch sử phát triển của nền kinh tế thị trường của các quốc gia phát triển, thị trường chứng khoán có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với sự tăng trưởng một quốc gia. Cụ thể là:
- Công cụ tài trợ cho nền kinh tế: Vai trò quan trọng đầu tiên của thị trường chứng khoán là thu hút tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để hình thành các nguồn vốn khổng lồ có khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư dài hạn phát triển kinh tế.
Thị trường chứng khoán là công cụ huy động vốn hết sức hữu hiệu không chỉ vốn trong nước mà cả ngoài nước. Đối với nước ta một nước có nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư chưa được đưa vào sản xuất kinh doanh thì việc hoàn thiện thị trường chứng khoán là một chiến lược phát triển kinh tế trước mắt cũng như lâu dài:
- Khuyến khích tiết kiệm, tạo thói quen để dành tích cực:
Thị trường chứng khoán tạo cơ hội thuận tiện khuyến khích mọi người dân tiết kiệm và biết cách sử dụng tiền iết kiệm một cách tích cực mang lại hiệu quả kinh tế thông qua việc đầu tư vào các loại chứng khoán. Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền tiết kiệm nhỏ bé nhưng tổng số tiền đó của xã hội sẽ lớn hơn bất cứ tài sản của cá nhân nào.
Mặt khác, trong xã hội cũng luôn tồn tại các quỹ tiền tệ tập trung như ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư v.v. đều nhằm mục đích khuyến khích tiết kiệm nhưng các quỹ tiền tệ này cũng chỉ mang lại hiệu qủa cao khi có một thị trường chứng khoán tồn tại song hành với nó.
- Công cụ bảo đảm tính thanh khoản cho số tiết kiệm phục vụ đầu tư dài hạn:
Vai trò này của thị trường chứng khoán thể hiện qua việc bảo đảm cho quá trình chuyển các chứng khoán có giá trị tiền mặt. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư đến với thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán hoạt động càng hữu hiệu thì tính thanh khoản càng cao.
- Công cụ đo lường biểu hiện tình hình, khả năng kinh doanh của doanh nghiệp: Những thông tin doanh nghiệp cung cấp cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán qua các bảng phân tích đánh giá năng lực sản xuất của doanh nghiệp, triển vọng của doanh nghiệp trên thị trường , khả năng sinh lợi của hoạt động sản xuất kinh doanh, xu thế phát triển của doanh nghiệp trong thời kỳ tương lai. Mặt khác, với tính chất đặc biệt nhạy bén của thị trường chứng khoán, sự lên xuống giá cả chứng khoán trên thị trường cũng nói lên sự biến động của giá trị doanh nghiệp tại bất cứ thời điểm nào.
- Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn . Với nguyên tắc hoạt động chủ đạo trên thị trường chứng khoán là công khai, công bằng và trung thực, mọi thông tin về doanh nghiệp đều được công chúng kiểm tra, đánh giá phân tích. Thị trường chứng khoán vừa tạo điều kiện nhưng đồng thời cũng bắt các doanh nghiệp làm làm ăn nghiêm túc.
- Thị trường chứng khoán cũng là công cụ làm giảm lạm phát. Ngân hàng trung ương với vai trò điều hoà hệ thống tiền tệ sẽ tung ra nhiều trái phiếu kho bạc bán trên thị trường chứng khoán với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền mặt trong lưu thông nhờ đó số lượng tiền sẽ giảm bớt và hạn chế được lạm phát.
- Thị trường chứng khoán có vai trò hỗ trợ ccho hoạt động của công ty cổ phần trong việc đưa cổ phiếu tới tay công chúng, giúp cho quá trình phát hành và lưu hành cổ phiếu đạt hiệu quả cao.
II)Sự cần thiết của thị trường chứng khoán đối với nền
kinh tế Việt Nam:
1) Hiện tượng đói vốn đạng ngày càng gay gắt :
Tính đến hết năm 2000, nước ta đã thực hiện xong ba lần kế hoạch 5 năm:
Lần 1 từ 1986 đến1990
Lần 2 từ 1991 đến 1995
Lần 3 từ 1996 đến 2000
Và chúng ta cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc phát triển kinh tế. Cụ thể là hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ do đại hội VII đề ra, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, kiểm soát được phần nào tình trạng lạm phát, tăng thu nhập bình quân trên đầu người, cải thiện đời sống nhân dân v.v. đã và đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn đang ở trong tình trạng chậm phát triển do một số nguyên nhân:
- Việc đổi mới cơ chế quản lý tuy đã bỏ ra những công sức nhứng còn nhiều bất cập. Ví dụ ngay như việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp. Nhà nước có chính sách cổ phần hoá từ 1992 nhưng cho tới 6 năm sau số doanh nghiệp đã cổ phần hoá mới chỉ đạt con số 29 doanh nghiệp mà chủ yếu doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả.
- Doanh nghiệp nhà nước thiếu vốn kinh doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển chậm lại do thiếu nguồn đầu tư trong khi tỷ lệ tiết kiệm nội địa của tư nhân tăng vọt từ 7,4% năm 90 lên 14,6% năm 1993 và ổn định ở khoảng 12% cho đến nay. Theo ước tính của một số nhà kinh tế thì nguồn lực tồn trữ này có thể lên tới 7 đến 10 tỷ USD.
- Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư , số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đăng ký trong những năm gần đây bị chựng lại do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nổ ra gây ảnh hưởng lớn đến tâm lý của các nhà đầu tư. Nhiều liên doanh công bố kết quả kinh doanh thua lỗ như hầu hết các liên doanh lắp ráp ô tô tại Việt Nam đều lỗ do hàng sản xuất ra không bán được v.v.
Nói tóm lại nền kinh tế Việt Nam hiện ở trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng mặc dù nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp khắc phục.
2) Việc hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam là điều kiện
cho sự phát triển kinh tế.
Trong những năm gần đây nền kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng ở mức độ cao, nhưng đang trong tình trạng thiếu vốn gay gắt. Vốn trong nước huy động đầu tư trực tiếp vào nền kinh tế đang có xu hướng chựng lại. Vốn nước ngoài do ảnh hưởng của cuộcc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại các nước trong khu vực nên các nhà đầu tư còn đang do dự. Trước tình hình đó thì việc hoàn thiện và phát triển của thị trường chứng khoán sẽ giúp ta có được môt công cụ sắc bén để phát huy tối đa nội lực đồng thời cũng là công cụ giúp ta nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế nhất là trong giai đoạn khu vực hoá, toàn cầu hoánền kinh tế. Thị trường chứng khoán thực chất chỉ là địa điểm giao lưu giữa những người có vốn và những người cần vốn. Nhưng đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay thì việc hoàn thiện thị trường chứng khoán sẽ giúp Nhà nước và các doanh nghiệp qua đó huy động vốn lớn cho các công trình trọng điểm, cho những nghành nghề đang có nhu cầu phát triển nhưng thiếu vốn.
Đối với các nước đang phát triển như nước ta nếu chỉ dựa vào nội lực không thể đủ mà phải thông qua hoạt động hợp tác quốc tế để thu hút thêm ngoại lực.
Một hình thức thu hút ngoại lực hết sức quan trọng mà lâu nay ta chưa sử dụng là bán cổ phần của các doanh nghiệp trong nước cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là một trong những hình thức đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên để các nhà đầu tư nước ngoài không thể chi phối hoạt động của các doanh nghiệp trong nước , nhà nước phải số cổ tối đa của mỗi doanh nghiệp có thể bán ra cho người nước ngoài. Hình thức thu hút vốn này hiện nay đang được triển khai mạnh mẽ bởi chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đang được thực hiện mạnh và nhất là thị trường chứng khoán đã ra đời và đi vầo hoạt động tháng 7 năm 2000.
Qua đây có thể thấy , việc củng cố và phát triển thị trường chứng khoán là bước đi tất yếu của nền kinh tế thị trường nước ta. Vấn đề đặt ra lúc này là chúng ta cần phải củng cố và hoàn thiện thị trường chứng khoán như thế nào để đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
CHƯƠNG II: Thực trạng của nền kinh tế VIệT NAM trong thời gian qua
I/ Những thời cơ và thuận lợi:
Chúng ta có hệ thống chính trị ổn định. Sau nhiều năm đổi mới Việt nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội đất nước. Nền kinh tế vẫn đang tăng trưởng với tốc độ khá cao. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân từ 6 % đến 7%/năm trong nhiều năm qua và của 6 tháng đầu năm 2000 là 6,2%.Tốc độ tăng trưởng công nghiệp là 14,3% cao hơn so với ccùng kỳ năm trước. Ngoại thương phát triển khá mạnh với kim nghạch xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD tăng 28,5% so với cùng kỳ năm 1999. Bên cạnh đó là sự ra đời của hơn 5000 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là trên 4000 tỷ đồng. Đây là dấu hiệu đáng mừng của nền kinh tế Việt Nam và được các nhà tài trợ đánh giá cao. Đồng thời đây cũng là tiền đề quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán, tạo ra sức hút mạnh mẽ của thị trường chứng khoán Việt Nam. Hiện nay mức sống của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội được cải thiện và gia tăng rõ rệt, nhân dân cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước ngày càng vững tin hơn.
Đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng trong những năm cải cách và đổi mới đã ra đời và phát triển các ngân hàng thương mại các tổ chức bảo hiểm và các định chế tài chính khác. Từ đây đã tạo nên và thúc đẩy tính hiệu quả trong mọi hoạt động kinh doanh, dịch vụ đối với khu vực này đồng thời lãi xuất cho vay cũng ngày một giảm. Đây là các nhân tố và điều kiện quan trọng đối với sự phát triển thị trường tài chính nói chung và là tiền đề quan trọng để xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán nói riêng.
Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước đang giải phóng mọi năng lực trong hoạt động sản xuất kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất và thị trường vốn. Chính phủ cũng đã thành lập ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương với công trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước . Sự thành công của nó có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. cho đến nay chúng ta đã thực hiện cổ phần hoá thành công hơn 600 doanh nghiệp trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước.
Hệ thống pháp luật ở nước ta không ngừng được bổ xung và ngày càng hoàn thiện. Điều này đã tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán được đánh dấu thông qua việc cổ phần đã ban hành các văn bản pháp luật quan trọgn trong đó là Nghị định số 75/CP ngày 28 tháng 11 năm 1996 về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán nhà nước và Nghị định số 48/1998/NĐ/CP ngày 11- 7 - 1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán ...Đây là những cơ sở pháp lý căn bản, quan trọng nhất đối với quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta.
Chế độ kế toấn doanh nghiệp mới sửa đổi ban hành được áp dụng thực hiện trên thực tế đã gần gũi hơn với những chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó hệ thống kiểm toán nhà nước và phi nhà nước, kiểm toán nước ngoài đã đượcc hình thành và phát triển. Đây cũng là một trong những mắt xích và đầu mối quan trọng không thể thiếu được trong qua trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.
Hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống thông tin ở nước ta đang đà phát triển mạnh. Chiến lược tăng tốc của nghành bưu điện đã và đang thu được nhiều kết quả tốt đẹp và là điều kiện hỗ trợ quan trọng để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Có thể nói trình độ của nghành tin học Việt Nam cho đến nay đã đủ khẩ nănng tham gia vào việc xây dựng cấc chương trình của hêj thống giao dịch điện tử của thị trường chứng khoán.
Một số thuận lợi rất quan trọng khác đó là Việt Nam là nước phát triển sau nên có thể tranh thủ học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước. Nhờ chính sách kinh tế mở cửa, hội nhập với bên ngoài làm cho kinh tế trong nước cũng như kinh tế đối ngoại ngày càng thu được nhiều thành quả rất đáng phấn khởi.Bên cạnh đó là sự giúp đỡ nhiệt tình và hiệu quả cuả các quốc gia,các tổ chức quốc tế. Yếu tố này đã có tác động tích cực đến quá trình hình thành và phát triển thị trường chứng khoán của nước ta.
II/ Những khó khăn và thách thức:
Đã nói đến thị trường hàng hoá đến giao dịch trên thị trường đó,trên thực tế hàng hóa của thị trường chứng khoấn Việt Nam rất nghèo nàn cả về số lượngvà chủng loại, những công ty cổ phần đủ tiêu chuẩn niêm yết tại thị trường giao dịch chứng khoán còn rất hạn chế.
Hiện nay ở nước ta có 43 công ty cổ phần đủ điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán. nếu so với tổng số công ty cổ phần hiện có là khoảng 630 thì con số này quả là khá khiêm tốn. Trong số các công ty cổ phần đó thì mới có 6 công ty tham gia niêm yết tại thị trường giao dịch chứng khoán.
Hệ thống kiêm toán của nước ta tuy đã được hình thành và phát triển từng bước nhưng vẫn chưa thể đáp ứng đưọc nhu cầu của thị trường chứng khoán kể cả về số lượng và chất lượng đặcc biệt khi quy mô hoạt động của thị trường chứng khoán đang được mở rộng. Tính đến thời điểm này nước ta có khoảng 20000 doanh nghiệp nếu chỉ cần 1/10 số doanh nghiệp này đăng ký và phát hành chứng khoán và đều cần đến kiểm toán thì với khả năng hiện tại của nghành kiểm toán sẽ mất bao nhiêu thời gian để hoàn thành công việc này. ngoài ra còn phải nói đến chất lượng của công việc kiểm toán đặc biệt là trên thực tế việc thực thi còn có rất nhiều vấn đề cần xem xét lại.
Việt Nam là một trong số nước có bình quân thu nhập đầu người thấp nhất thế giới. Do đó khi thực hiện cổ phần hoá và bán cổ phần ra công chúng với số lượng lớn không phải là việc dễ dạng bởi tích luỹ trong dân không nhiều. Tập quán thanh toán bằng tiền mạt vẫn là phổ biến trong dân chúng thậm chí với cả các doanh nghiệp. Hệ thống thanh toán qua ngân hàng hiệu quả chưa cạ đổ vỡ cuả một số ngân hàng thương mại một số quỹ tiết kiệm đã làm giảm lòng tin trong dân chúng. Điều này gây ảnh hưởng không tốt đến tiến trình hình và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta.
Đội ngũ cán bộ quản lý cũng là một vấn đề hết sức khó khăn . Chủ yếu cán bộ quản lý điều hành thị trường chứng khoán còn non trẻ thiếu cả về số lượng kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn .Việc xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực ,có kinh nghiệm đầy đủ cả về số lượng và chất lượng vào thời điểm hiện tại vẫn còn là một thách thức lớn đối với nghành chứng khoán.
Qua thực tế cho thấy , hiện nay hầu hết những người bỏ vốn mua cổ phần cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá thường thiếu thông tin về các tổ chức phát hành họ chỉ căn cứ vào các dấu hiệu bên ngoài , lời đồn đại và cảm tính về uy tín và khả năng sinh lời của doanh nghiệp . Rất nhiều người không biết việc đầu tư như thế là thiếu cơ sở khoa học ,không có căn cứ dễ dẫn tới rủi ro . Vừa rồi chúng ta đã tiến hành điều tra trên địa bàn HN với 800 mẫu điều tra thì thấy đại bộ phận dân chúng đều ở trong tình trạng hiểu biết mơ hồ về thị trường chứng khoán . Họ đều muốn đồng vốn bỏ ra an toàn và có thu nhập ổn định ,có tâm lý sợ rủi ro và vẫn quen gửi tiền vào ngân hàng hơn là mua chứng khoán v.v.
Hệ thống trung gian tài chính với tư cách là hoạt chất bôi trơn hoạt động của thị trường chứng khoán ,đang được đánh giá là vừa thiếu ,vừa yếu .Tại thời điểm này chỉ mới có 6 công ty chứng khoán hoạt động trên một phạm vi hẹp ,chủ yếu là địa bàn Hà Nội và TPHCM mà nhu cầu của các nhà đầu tư đã không được đáp ứng đầy đủ vậy không biết nếu số lượng công ty cổ phần tăng nhanh và đều cần đến công ty chứng khoán thì những công ty này sẽ giải quyết như thế nào ? Hiện nay một biện pháp đang được thực hiện để giải quyết vấn đề này là tăng số lượng các công ty chứng khoán .Nhưng chính biện pháp này đã làm phát sinh mâu thuẫn mới .Đó là trong bối cảnh hàng hoá của thị trường còn quá nghèo nàn việc mở thêm các công ty chứng khoán càng gây thêm khó khăn bởi các khoản phí thu từ hoạt động giao dịch là quá nhỏ bé thậm chí có phiên chỉ thu được 20000 đồng . Bình quân giá trị giao dịch của thị trường chứng khoán đạt khoảng 1tỷ đồng /phiên .Như vậy tổngphí giao dịch mà các công ty chứng khoán được phép thu theo quy định của UBCKNN là 8tr đồng .Rõ ràng với tình hình hoạt động như hiện nay của thị trường chứng khoán thì chỉ một công ty hoạt động cũng không thể hoà vốn .
Thực tế hoạt động của thị trường chứng khoán đã làm phát sinh thêm một khó khăn nữa ,đó là quy mô của hệ thông lưu ký hiện nay quá nhỏ bé không thể đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư khu vực xa .Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng thêm các trung tâm lưu ký .Tuy nhiên việc này không hề đơn giản ,theo các chuyên gia đi liền với việc mở rộng hê thông lưu ký cần phát triển hạ tầng kỹ thuật thông tin hiện đại .Điều này đòi hỏi một khoản chi phí không nhỏ khó có thể đáp ứng đựợc trong điều kiện hiện nay .
Với mục tiêu đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động an toàn ,công khai,hiệu quả,bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư trong quản lý hoạt động của thị trường ,UBCKNN đã sử dụng cả hai biện pháp :Hành chính và kinh tế.
Biện pháp quản lý hành chính đầu tiên đã được áp dụng ngay tại phiên giao dịch đầu tiên bằng cách công bố mức giá trần cho cả cổ phiếu REE và SAM lúc 8h 45' ngày 28/7/2000 chỉ 15' trước khi TTGDCK mở cửa . Biện pháp tình thế này ,xét về mặt quản lý nhằm mục đích định hướng thị trường ,đồng thời giúp nhà đầu tư có giá để tham chiếu và đưa ra quyết định hợp lý .Tuy nhiên việc định giá trần của UBCKNN là hành động mang tính chủ quan do đó đánh giá không đúng giá trị của cổ phiếu côg ty niêm yết và hệ quả là sự vắng mặt một thời gian dài trên sàn giao dịch của cổ phiếu TMS.
Biện pháp hành chính kế tiếp được thực hiện trong phiên giao dịch thứ 2 qua việc sửa đổi biên độ dao động giá từ 5% theo quy chế xuống còn 2%.Việc làm này nhằm mục đích tránh biến động lớn cho thị trường trong tình hình có sự sự khác biệt quá lớn giữa cung và cầu chứng khoán .Tuy nhiên liệu pháp này đã làm cho thị trường thiếu đi tính hấp dẫn ,sôi động , sự háo hức ban đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam trong buổi đầu sơ khai .
III/ Một số thành tựu đạt được :
Nhờ sự nỗ lực của nghành chứng khoán và các ban nghành có liên quan
trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM đã ra đời ngày 20/7/2000 và chính thức đi vào hoạt động với phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/7/2000 . Sự kiện này đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam . Đây chính là công cụ ,là phương tiện giúp cho nền kinh tế nước ta có thể giao lưu ,hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới . Mặc dù trong phiên giao dịch đầu tiên chỉ có sự tham gia của hai loại cổ phiếu REE và SAM với tổng giá trị giao dịch là 70.4 tr đồng ,một con số hết sức khiêm tốn .Nhưng nó đã được đánh giá là một sự khởi đầu thành công tốt đẹp .
Tuy trung tâm giao dịch chứng khoán VN hoạt động chưa được bao lâu nhưng nó đã phần nào khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế VN .Cụ thể là chỉ sau đúng 5 tháng đi vào hoạt động con số 2 thành viên và 70.4 triệu đã được tăng lên 6 thành viên và trên 5 tỷ đồng tổng giá trị giao dịch trong một phiên . Như vậy ,có thể kết luận hoạt động của thị trường chứng khoán đã và đang thổi một luồng gió mới vào nền kinh tế giúp cho nền kinh tế nước nhà vươn lên trong kỷ nguyên mới ,kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức .
CHƯƠNG III: Một số nhân xét về TTCKVN
Hiện nay, tâm lý phổ biến của giới kinh doanh liên quan đến hoạt động chứng khoán có thể được tóm gọn trong hai chữ "Chờ thời ".Điều này không riêng gì với các công ty chứng khoán ,các công ty đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường ,nhà đầu tư mà ngay cả với các công ty cổ phần đã có đủ hoặc gần đủ điều kiện niêm yết cổ phiếu . Mỗi đối tượng đều đưa ra những nguyên nhân khác nhau nhưng họ đều xuất phát từ một điểm .Đó là thị trường chứng khoán chưa hội đủ những những yếu tố cần thiết để đảm bảo sự sôi động của thị trường và sau đó mang lại lợi ích cho giới kinh doanh.
Thông điêp chung của các công ty chứng khoán là hoạt động cầm chừng để chờ khi nào "hàng hoá "nhiều hơn ,khuôn khổ pháp lý nới rộng hơn và sự điều hành của UBCKNN bớt đi sự can thiệp mang nặng tính hành chính thì mới thực sự bước vào kinh doanh . Các công ty chứng khoán cho rằng hiện nay lượng chứng khoán giao dịch quá ít lại bị gò ép trong các quy định khắt khe về giá tham chiếu ,biên độ dao động v.v. Trong khi đó ,tuy được hưởng một khoản lệ phí giao dịch nhưng không thấm gì so với những chi phí mang tính bắt buộc mà họ phải chấp nhận khi tham gia hoạt động .
Đối với các công ty niêm yết thì hiện nay họ không có nhu cầu huy động vốn do khó khăn về thị trường ,chưa thể mở rộng sản xuất kinh doanh .Lượng chứng khoán giao dịch trên thị trường trong thời gian qua chủ yếu là của các chủ sở hữu mua đi bán lại với nhau .Hiện tượng giá chứng khoán lên hay xuống không có nhiều ý nghĩa vì khối lượng giao dịch nhỏ . Có thể coi đây chỉ là thủ pháp để nâng giá ảo của những cổ đông lớn để thông qua đó khuyếch trương thương hiệu công ty trên thị trường . Mặt khác cũng phải thừa nhận một thực tế là bản thân chủ sở hữu cũng không muốn bán cổ phiếu một khi cổ tức cao hơn lãi suất ngân hàng và xu thế có thể phát triển tốt hơn nữa
Từ góc độ nhà đầu tư ,nhận xét một cách kỹ lưỡng thì đã qua thời gian ban đầu sốt sắng mua vì thị hiếu .Mặc dù hiện nay không phải không có người muốn đầu tư nhưng họ có quá ít sự lựa chọn .Hơn thế, nhiều nhà đầu tư dường như đang chờ đợi nền kinh tế nóng lên mới nhảy vào kinh doanh thật sự.
Cuối cùng với các công ty cổ phần họ vẫn giữ thái độ thờ ơ đối với thị trường chứng khoán . Một số công ty chưa đủ điều kiện niêm yết thì đợi nới lỏng điều kiện niêm yết ,một số khác thì chờ đợi hết thời gian ưu đãi đang được hưởng v.v.
Nói tóm lại , dù thế nào đi chăng nữa thì cũng chưa thể hy vọng thay đổi được diện mạo của thị trường chứng khoán vào lúc này.
CHƯƠNG IV: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện TTCKVN
Việc thành lập một thị tr ường chứng khoán chỉ có ý nghĩa khi có thể bảo đảm duy trì và phát triển hoạt động của thị trường . Muốn vậy,phải luôn luôn duy trì và phát triển được nguồn cung và cầu chứng khoán cũng như không thể thiếu các định chế tài chính trung gian làm cầu nối giữa cung -cầu chứng khoán .
I/ Một số giải pháp tăng cung hàng hoá trên thị trường chứng khoán:
Thực tế tại các quốc gia có thị trường tài chính kém phát triển như VN thì khả năng cung ưngs chứng khoán thường bị hạn chế do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Có quá ít các công ty cổ phần đại chúng ,mà hình thức huy động vốn cho thị trường lại là phát hành chứng khoán rộng rãi ra công chúng .
- Còn tòn tại chính sách ưu đãi tín dụng ,nhà nước tài trợ vốn cho các doanh nghiệp với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường .
- Chính sách thuế không nhằm mục tiêu phát triển thị trường tài chính như mức thuế đánh trên giao dịch chứng khoán quá cao, thuế đánh trên thu nhập cổ tức của cổ đông . Cách đánh thuế như vậy không khuyến khích phát hành và lưu thông chứng khoán .
-Sự thiếu vắng các công ty CK chuyên nghiệp phục vụ cho việc phá hành và lưu hành chứng khoán ,sự thiếu vắng các nhà tạo môi trường và nhà môi giới.
-Thị trường tài chính không đủ các công cụ tài chính đa dạng đáp ứng nhu cầu người sử dụng vốn và hấp dẫn các nhà đầu tư.
Rút kinh nghiệm từ thực tiễn trên cần có một số giả pháp tăng cung chứng khoán như:
1/ Khuyến khích và tạo mọi điều kiện cần thiết cho việc thành lập các công ty cổ phần đại chúng,đẩy mạnh chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp .Sát nhập nhiều doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá hình thành công ty cổ phần đại chúng có số cổ phần chi phối hoặc cổ phần đặc biệt thuộc nhà nước
2/ Giảm bớt tiến tới xoá bỏ hẳn các hình thức phụ thuộc vào nguồn tín dụng ưu đãi của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh . Mặt khác ,cần có giải pháp xử lý nợ tồn đọng trong các doanh nghiệp nhà nước một cách hợp lý nhằm lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp,hấp dẫn các nhà đầu tư tiềm năng ,tạo điều kiện cho doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
3/ Tăng cường hơn nữa các khuyến khích về thuế đối với việc phát hành chứng khoán đại chúng
4/ Phát triển các tổ chức tài chính trung gian,các nhà môi giới ,nhà tạo thị trường .Ngân hàng cần hoàn thiện điều kiện thành lập các công ty chưng khoán chuyên nghiệp làm môi giới ,đại lý hay bảo lãnh phát hành chứng khoán ,kinh doanh chứng khoán nhằm tạo ra thị trường và duy trì thị trường .
5/ Đa dạng hoá các công cụ tài chính : UBCKNN có trách nhiệm nghiên cứu nhằm đa dạng hoá các loại chứng khoán có thể phát hành ở Việt Nam như:trái phiếu chính phủ ,trái phiếu công ty,đặc biệt là các trái phiếu ngân hàng ,các tổ chức tài chính phi ngân hàng . . . có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu về chứng khoán
II/ Một số giải pháp nhằm tạo cầu chứng khoán:
ở các nước thị trường kém phát triển thì sức cầu chứng khoán cũng thường rất thấp. Sở hữu chứng khoán chỉ tập chung trong tay một số người giàu có và ít nhiều có quan hệ với các công ty cổ phần .Đại đa số dân chúng,với số tiền tiết kiệm ít ỏi của mình và không hiểu biết về thị trường tài chính ,họ giữ số tiền tiết kiệm này dưới hình thức mua kim loại quý hoặc mua bất đọng sản .Sự yếu kém về khả năng cầ chứng khoán có thể được giải thích bởi những nguyên nhân sau:
- Thiếu một mạng lưới ngân hàng năng động và hiệu quả ,đưa các dịch vụ đầu tư đến tận những người có số tiết kiệm nhỏ. Hình thức thanh toán thường là tiền mặt ,thu nhập thường thầp và chính phủ chưa có chương trình cụ thể khuyến khích đầu tư chứng khoán thông qua các quỹ:quỹ đầu tư ,quỹ bảo hiểm ,quỹ hưu trí . . .
- Dân chúng thiếu niềm tin vào sự ổn định của nền kinh tế ,điều này tạo tâm lý tiết kiệm theo cách như trên và do đó xã hội mất đi những khoản tiết kiệm nhỏ nhưng góp lại là nguồn vốn vô cùng to lớn.
- ở nhiều nước ,còn có tìh trạng chính sách thuế không thoả đáng cũng làm hạn chế khả năng cầu chứng khoán .Ví dụ thuế đánh trên cổ tức của cổ đông trong khi lợi tức tiền gửi ngân hàngthì không phải chịu thuế ,chênh lệch lãi do bán chứng khoán cũng phải chịu thuế, . . .nên không khuyến khích người có tiền tham gia đầu tư.
Xem xét điều kiện của nước ta ,rút kinh nghiệm của các nước đi trước ,nên chăng trong giai đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán cần phải có một số giải pháp sau:
1/ Nâng cấp ,cải tiến hoạt động của ngân hàng,đưa dịch vụ đến tận tay các nhà đầu tư tiềm năng,tạo niềm tin vào sự tiện ích cũng như uy tín của ngân hàng.
Khuyến khích các hình thức đầu tư đa dạng ,mở rộng quy mô bán chứng khoán.Ngân hàng có thể áp dụng hình thức cho vay mua chứng khoán đối với một số thành phần hoặc mua trả chậm như đối với công nhân viên chức chẳng hạn.
2/ Phát triển các công ty chưng khoán ,tuyên truyền vận động giáo dục dân chúng về lợi ích đầu tư vào chứng khoán để tạo cho công chúng hiểu sâu về chứng khoán và đầu tư chứng khoán.Đồng thời cải thiện tình hình cung cấp thông tin của các công ty niêm yết ,tạo tính minh bạch cho thị trường chứng khoán,xử lý mọi hành vi gian lận ,mua bán nội gián gây rối loạn thị trường làm mất lòng tin của công chúng đầu tư.Bản tin thị trường chứng khoán ra ngày thứ 3 và thứ 5 hàng tuần của TTGDCK và các ấn phẩm chính thức của UBCKNN nên phổ biến rộng rãi ,không nên gò bó trong việc phát hành nội bộ bởi đây là điều kiện đưa kiến thức chứng khoán tới công chung đầu tư một cách hiệu quả ,vả lại việc phát hành rộng rãi không dừng lại ở bản tin nội bộ tạo tâm lý tin tưởng vào tính minh bạch của thị trường chứng khoán của công chúng ,người đang tìm mặt gửi vàng và họ sẵn sàng tham gia vào thị trường chứng khoán.
3/ Cần có chính sách thuế công bằng đối với tiền gửi ngân hàng và đầu tư vào chứng khoán ,không nên áp đặt ngay một mức thuế đánh vào thu nhập từ mua bán chứng khoán ,miễn giảm đối với các cổ đông mua cổ phiếu không nhằm mục đích kinh doanh. Tạm thời chưa thu thuế thu nhập đối với các khoản thu nhập từ lãi tiền gửi ngân hàng ,lãi tiền gửi tiết kiệm ,lãi mua tín phiếu ,trái phiếu kỳ phiếu ,cổ phiếu. Trong thời gian đầu khi mới hình thành thị trường chứng khoán nên duy trì diều quy định này để khuyến khích mọi người mua cổ phiếu và trái phiếu.
III/ Một số giải pháp phát triển và hoàn thiện các tổ chức tài chính trung gian.
Với đặc điểm của nước ta ,nền kinh tế mới chuyển đổi sang cơ chế thị trường ,chưa có một hệ thống ngân hàng phát triển ,nhưng phải xây dựng thị trường chứng khoán trong một thời gian ngắn ,để đảm bảo tính thanh khoản và liên tục của thị trường cần phải có những giải pháp sớm cho ra đời một số định chế tài chính trung gian với chức năng tạo lập thị trường .Đồng thời cần phải có những giải giáp cụ thể :
1/ Nâng mức vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại quốc doanh để tăng cường sức mạnh tài chính cho các ngân hàng tạo cơ sở thành lập các công ty chứng khoán con ,chuyên nghiệp hoạt động môi giới và kinh doanh chứng khoán.
2/ Cho phép thành lập các công ty chứng khoán nhà nước ,công ty chứng khoán liên doanh ,công ty chứng khoán cổ phần .Bước đầu ,nên phát triển công ty chứng khoán nhà nước làm lực lượng nòng cốt và hướng dẫn các thành phần kinh tế khác tham gia .
3/ Xem xét thực hiện miễn giảm thuế lợi tức đối với các công ty chứng khoán trong 1 đến 2 năm đầu moứi thành lập để tăng cường sức mạnh tài chính của các công ty khiến công ty có thể nhanh chóng hôị nhập vào thị trường vốn đang cạnh tranh khốc liệt giữa các nước .
IV/ Một số giải pháp tổng thể:
1/ Tăng cường công tác quản lý của nhà nước
ở đây muốn nói đến khía cạnh đảm bảo lợi ích cho nhà đầu tư ,xử lý nghiêm những trường hợp nội gián ,lũng đoạn thị trường . . .tiến tới giảm bớt các biện pháp hành chính để quản lý thị trường .Về lâu dài ,khi hàng hoá đa dạng về chủng loại ,nhiều về khối lượng thì nên cân nhắc điều chỉnh biên độ dao động giá từ +-2%đến +-5%,khi tiềm lực kinh tế mạnh biên độ dao động giá có thể tăng lên từ +-10%đến +-15%.Có như vậy mới tạo nên tính sinh động của thị trườngchứng khoán ,tạo ra sự hấp dẫn của thị trường và thu hút được nhiều người tham gia ,lúc đó thị trường chứng khoán mới thể hiện đúng bản chất của nó là một thị trường bậc cao .Hầu hêt các thị trường mới nổi đều có quy định biên độ giá nhằm hạn ché sự biến động quá mức giá cả trên thị trường .Vi dụ như SGDCK Thái Lan quy định mức trần là 33%và sàn là 27%,SGDCK Ba Lan quy định biên độ +-10% . . .một số nước không áp dụng biên độ nhưng có quy định ngừng hoạt động của SGDCK trong những thời gian nhất định ,ví dụ như khi chỉ số Dowjones giảm 250 điểm thì ngừng hoạt động 30 phút ,nếu giảm xuống 400 điểm thì ngừng 60 phút .So với biện pháp trên ,việc ngừng giao dịch có thể làm giảm niềm tin của những người đầu tư vào thị trường .
Ngoài ra,UBCKNN cần đưa vào các quy định cấm các tổ chức ,cá nhân cùng thực hiện lệnh mua và bán cùng một loại chứng khoán trong một phiên giao dịch để tránh việc "làm giá"gây rối loạn thị trường .Đối với các cổ phiếu cố giá giao dịch đụng trần trong nhiều phiên liên tục thì nên đưa vào diện kiểm soát và có mức khống chế giao dịch và biên độ giá dao động riêng cho loại cổ phiếu này .Chưa nên cho phép công ty niêm yết mua lại cổ phiếu và chưa áp dụng việc giao dịch thâu tóm doanh nghiệp.
2/ Cần xây dựng thị trường chứng khoán phi tập chung (OTC)
Hiện nay ,do chưa có thị trường OTC ,việc mua bán trao tay các cổ phiếu của các công ty chưa được niêm yết vẫn đang diễn ra một cách phức tạp và có nhiều khó khăn trong giao dịch. việc mua bán những cổ phiếu này chủ yếu dựa vào tin đồn,và đây là kẽ hở cho bọn đầu cơ trục lợi và tất nhiên phần thiệt thòi sẽ thuộc về công chúng đầu tư .
Thực tế hiện nay trên cả nước có khoảng hơn 600 công ty cổ phần đang hoạt động .Về triển vọng đây có thể là nguồn hàng rất loén cho thị trường .Tuy nhiên,số nhiều công ty cố đủ điều kiện niêm yết trên thị trường tập trung trong đó chưa nhiều trong khi cổ phiếu của nhiều công ty đang cố nhu cầu mua đi bán lại .Một khi chưa tổ chức thị trường phi tập chung chính thức thì hoạt động trên vẫn diễn ra tự phát và nhà nước không quản lý và kiểm soát được .Thiết nghĩ việc tổ chức thị trường OTC hiện nay cũng chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường và góp phần làm giảm áp lực cầu về chứng khoán trên TTCK tập chung.
Được biết UBCKNN hiện nay đang soạn thảo đề án thành lập thị trường chứng khoán OTC để trình chính phủ phê duyệt .Hy vộng rằng khi đề án được thông qua ,thị trường OTC ra đời sẽ góp phần thúc đẩy và cải thiện được những mất cân đối hiện nay của thị trường tập chung.
Tóm lại, để cho thị trường chứng khoán VN thực sự là một kênh huy động vốn cho nền kinh tế phục vụ cho công cuộc CNH & HĐH đất nước thì phải tiến hành hàng loạt các biện pháp trong đó có một số biện pháp đã nêu ở trên.Có như vậy thị trường chứng khoán mới phát triển bền vững ,vững bước tiến vào kỷ nguyên mới ,kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức
Kết luận :
Mục tiêu cuối cùng của việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội của quốc gia . Thông qua thị trường chứng khoán ,các luồng vốn trong và ngoài nước được tập trung và sử dụng cho các dự án đầu tư, nhu cầu mở rộng sản xuất ,v.v. Nhưng thị trường chứng khoán cũng có tác động như con dao 2 lưỡi ;nó cũng làm nảy sinh những vấn đề tiêu cực; những tác động nguy hiểm lôi kéo, lũng đoạn ,phá hoại nền kinh tế khi nó không được vận hành theo đúng cơ chế của nền kinh tế thị trường .
Thực tế tại các quốc gia phát triển ,thị trường chứng khoán đã từng trải qua những cuộc khủng hoảng những ngày "đen tối" có tác động hết sức tồi tệ đến nền kinh tế . Còn tại Việt Nam chúng ta có thể tránh được hoặc khắc phục những rủi ro này nhờ sự can thiệp đúng đắn của chính phủ thông qua các công cụ điều chỉnh . Từ đây chúng ta có thể lạc quan và tin tưởng vào sự phát triển của thị trường chứng khoán trong tương lai .
TàI LIệU THAM KHảO
1.Cẩm nang hỏi đáp về thị trường chứng khoán -Tác giả Đặng Quang Gia
-Xuất bản năm 1996
2.Thị trường chứng khoán kỹ năng lựa chọn đầu tư
-Tác giả Huy Nam
-Xuất bản năm 2000
3.Xác định thời điểm mua bán cổ phiếu
-Tác giả Leeb do Trần Tuấn Thạc dịch
-Xuất bản năm 1996
4.Thị trường chứng khoán và bước đầu hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam
- Tác giả Võ Thành Hậu-Bùi Kim Yến
- Xuất bản năm 1998
5.Hướng dẫn đầu tư vào thị trường chứng khoán
- Minh Đức-Kim Chung biên dịch
6.Thị trường chứng khoán và công ty cổ phần
7.Quản lý và các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường chứng khoán
-Tác giả Đinh Xuân Hạ
8.Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
9.Thị trường chứng khoán
-Tác giả Lê Tùng Vân
-Xuất bản năm 1997
10.Lý thuyết tiền tệ
-Chủ biên:PGS.PTS Vũ Văn Hoá
-Nhà xuất bản tài chính -1998
11.Các quan điểm về chính sách tỉ giá hối đoái
12.Cẩm nang thị trường ngoại hối
13.Thời báo Kinh Tế và báo kinh tế Sài Gòn các số ra năm 2000
14.Tạp chí đầu tư chứng khoán các số : Số 28 ra ngày 16 tháng 6 năm 2000
Số 44 ra ngày 6 tháng 10 năm 2000
Số 45 ra ngày 13 tháng 10 năm 2000
Số 46 ra ngày 20 tháng 10 năm 2000
Số 47 ra ngày 27 tháng 10 năm 2000
Số 48 ra ngày 3 tháng 11 năm 2000
Số 49 ra ngày 10 tháng 11 năm 2000
Số 50 ra ngày 17 tháng 17 năm 2000
Số 59 + 60 + 61 ra ngày 19 tháng 1 năm 2001
15.Những kiến thức cơ bản về CK & môi giới CK
16.Tạp chí chứng khoán Việt Nam : Số 1 ra tháng 1 năm 2000
Số 4 ra tháng 4 năm 2000
Số 6 ra tháng 6 năm 2000
Số 8 ra tháng 8 năm 2000
Số 9 ra tháng 9 năm 2000
Số 11 ra tháng 11 năm 2000
MụC LụC
Trang
Lời nói đầu
1
Chương I: giới thiệu chung về thị trường chứng khoán
2
I. Khái niệm và vai trò của thị trường chứng khoán
2
1. Khái niệm
2
2. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
3
3. Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế
8
II. Sự cần thiết của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế Việt Nam
9
1. Hiện tượng đói vốn đang ngày càng tăng
9
2. Việc hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam là điều kiện cho sự phát triển kinh tế
10
Chương II: Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua
11
I. Những thời cơ và thuận lợi
11
II. Những khó khăn
12
III. Một số thành tựu đạt được
14
Chương III: Một số nhận xét về TTCKVN
15
Chương IV: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện TTCKVN
16
I. Một số giải pháp tăng cung hàng hoá trên thị trường chứng khoán
16
II. Một số giải pháp nhằm tạo cầu chứng khoán
17
III. Một số giải pháp phát triển và hoàn thiện các tổ chức tài chính trung gian
18
IV. Một số giải pháp tổng thể
18
1. Tăng cường công tác quản lý của nhà nước
18
2. Cần xây dựng thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC)
19
Kết luận
20
Tài liệu tham khảo
21
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29352.doc