- Nhà bảo hiểm sẽ phối hợp cùng người được bảo hiểm trong công tác đề phòng hạn chế tổn thất nhằm hạn chế tối đa nguy cơ xảy ra rủi ro tổn thất.
- Nhờ tham gia bảo hiểm, chủ đầu tư có thể tự chủ về tài chính, hạch toán dự trù một cách chính xác hơn, đảm bảo kế hoạch sản xuất kinh doanh mà không cần lãng phí một khoản tiền đầu tư lớn dự trữ cho việc đối phó với rủi ro tổn thất nếu không tham gia bảo hiểm.
Ở nước ta hiện nay, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra mạnh mẽ, các công trình xây dựng và lắp đặt phục vụ đất nước ngày càng nhiều và quy mô lớn. Điều đó cũng làm tăng rủi ro trong các quá trình xây dựng và lắp đặt làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Vì vậy, bảo hiểm xây dựng lắp đặt ngày càng trở nên cần thiết và thiết thực với các chủ đầu tư, các nhà thầu và đất nước.
33 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 980 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, đất nước ta đã có nhiều thay đổi lớn cả về kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội. Hoà nhập với những biến đổi to lớn của nền kinh tế, ngành xây dựng, lắp đặt nước ta có những bước phát triển đáng kể. Hiện nay ngành thu hút hàng triệu lao động tham gia trong các hình thức tổ chức kinh doanh xây dựng lắp đặt khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế. Ngành xây dựng lắp đặt đã và đang vươn lên về mọi mặt để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng nhanh của các địa phương, các doanh nghiệp cũng như toàn bộ dân cư trong cả nước.
Cùng với sự phát triển của ngành xây dựng lắp đặt, bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở nước ta đã ra đời và phát triển theo dù ra đời muộn hơn so với thế giới cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Với mục tiêu là san sẻ rủi ro và đảm bảo về mặt tài chính cho xã hội, bảo hiểm xây dựng - lắp đặt ngày càng thể hiện rõ vai trò của mình góp phần vào sự ổn định và phát triển của đất nước.
Thấy rõ được tầm quan trọng và thiết thực cũng như những nét riêng biệt của nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác, nên em đã chọn đề tài: “Tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt trên thị trường bảo hiểm Việt Nam”. Kết cấu của đề án ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm có 3 chương:
Chương I: Tổng quan về nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt
Chương II: Thực trạng khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của cô giáo – Ths Tô Thiên Hương đã giúp em hoàn thành đề án này. Do thời gian và sự hiểu biết còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong được sự góp ý của thầy cô giáo và các bạn đề bài viết được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
XÂY DỰNG LẮP ĐẶT
Sự cần thiết và quá trình phát triển nghiệp vụ Bảo Hiểm XD LĐ
Lịch sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ Bảo hiểm XD LĐ
1.1.1.1 Trên thế giới
Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng bất kể lý do gì khi xảy ra rủi ro thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều tài sản, làm ngưng trệ hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức và cá nhân. Làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây ra, nhưng bảo hiểm vẫn là biện pháp được ưu tiên và được sử dụng nhiều nhất.
Cùng với sự ra đời của ngành bảo hiểm nói chung thì bảo hiểm xây dựng lắp đặt cũng xuất hiện. Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là bộ phận của bảo hiểm kỹ thuật. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm kỹ thuật luôn gắn liền với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. So với các loại hình bảo hiểm khác thì bảo hiểm kỹ thuật ra đời muộn hơn rất nhiều. Đơn bảo hiểm kỹ thuật đầu tiên trên thế giới được cấp năm 1859, trong khi đó bảo hiểm hàng hải xuất hiện năm 1547, bảo hiểm hoả hoạn năm 1667. Bảo hiểm kỹ thuật có mặt hầu hết trong các lĩnh vực của hoạt động kinh tế và xã hội trên toàn thế giới. Từ việc bảo hiểm cho các máy móc sản xuất, các thiết bị dụng cụ tinh vi trong y tế, phòng thí nghiệm cho tới việc bảo hiểm hiểm các công trình xây dựng lớn như các toà nhà chọc trời, sân bay bến cảng, tàu vũ trụ, nhà máy điện nguyên tử
Nhu cầu tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và kỹ thuật làm cho bảo hiểm kỹ thuật phát triển hơn bao giờ hết và trở thành một trong những loại hình bảo hiểm quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm kỹ thuật đã có sự phát triển rất nhanh và tương đối hoàn chỉnh bao gồm các loại hình chính sau:
Bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu
Bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt
Bảo hiểm đổ vỡ máy móc
Bảo hiểm thiết bị điện tử
Bảo hiểm mất thu nhập cho máy móc ngừng hoạt động
Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí
Các loại hình bảo hiểm trong bảo hiểm kỹ thuật có liên quan chặt chẽ với nhau. Mỗi loại hình đảm bảo cho một giai đoạn hay một khâu quá trình sản xuất.
Cho đến nay bảo xây dựng, lắp đặt cũng như bảo hiểm kỹ thuật có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Về mặt kỹ thuật nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt tương đối phức tạp so với các loại hình bảo hiểm khác. Với xu thế phát triển như hiện nay, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt còn phát triển và tiến xa hơn nữa trong tương lai.
1.1.1.2 Ở Việt Nam
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975 và có sự xuất hiện của Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt). Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt mới bắt đầu có sự phát triển nhất định. Ban đầu khi triển khai nghiệp vụ Bộ Tài Chính cho phép sử dụng đơn bảo hiểm, quy tắc và biểu phí của công ty Munich Re. Thị trường bảo hiểm lúc này chưa phát triển cả về cung lẫn cầu.
Sau khi đất nước mở cửa (1986) và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở nước ta có những bước phát triển rất đáng mừng từ hành lang pháp ký cho đến sự hoạt động của cung cầu bảo hiểm trên thị trường. Ngày 20/10/1994 Chính phủ ban hành Nghị định 177/CP quy định về quản lý đầu tư. Điều 52 quy định rõ các chủ đầu tư phải mua bảo hiểm công trình xây dựng lắp đặt, các tổ chức tư vấn xây lắp, nhà thầu xây lắp phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các sản phẩm tư vấn, thiết bị vật tư nhà xưởng phục vụ thi công, tai nạn lao động đối với người lao động, trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba trong quá trùnh thực hiện dự án. Nghị định 42/CP thay thế NĐ 77/CP, thông tư số 663/TC/ĐT – TCNH ngày 24/6/1996 về việc ban hành quy tắc và biểu phí, phụ phí và khấu trừ bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng và lắp đặt. Đơn bảo hiểm xây dựng và lắp đặt đầu tiên ở Việt Nam được cấp là đơn bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt cho trạm thi phát vệ tinh mặt đất Láng Trung. Đây là công trình liên doanh giữa tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam và hãng Teltra của Úc. Và gần đây nhất ngày 12/04/2004 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 33/2004/QĐ-BTC về việc ban hành quy tắc, biểu phí bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều công ty bảo hiểm hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh cùng với các công ty nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam làm cho thị trường bảo hiểm trong nước trở nên rất sôi động và cạnh tranh khốc liệt.
Sự cần thiết của Bảo hiểm XD LĐ
Đối với xã hội
Ngày nay, nhu cầu xây dựng lắp đặt là một nhu cầu không thể thiếu đối với sự phát triển của các nền kinh tế trên thế giới từ những quốc gia khó khăn lạc hậu nhất đến những cường quốc lớn mạnh nhất thế giới. Và cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học - kỹ thuật, giá trị và qui mô của các công trình không ngừng tăng lên đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của sự phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro rất lớn bởi một số lý do sau:
Thứ nhất, cuộc cách mạng công nghiệp khiến các nền kinh tế phát triển ngày càng cao nhưng cũng kéo theo việc ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực đến khí hậu trái đất. Gần đây, chúng ta đã được chứng kiến rất nhiều thảm hoạ thiên nhiên mà con người với khoa học kỹ thuật hiện đại cũng không thể kiểm soát được gây hậu quả rất nghiêm trọng. Ngành xây dựng với đặc trưng là thực hiện ngoài trời và trong thời gian dài là một trong những ngành chịu ảnh hưởng nhiều nhất của những rủi ro đó.
Thứ hai, các công trình xây dựng ngày nay sử dụng nhiều công nghệ hiện đại, tự động hoá nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro hơn, các vụ nổ vật lý, hoá học sẽ rất dễ xảy ra nếu không có sự xem xét, kiểm tra, thử nghiệm kỹ lưỡng trước khi đưa vào sử dụng.
Thứ ba, nguy cơ về con người. Nguy cơ phá hoại hay lỗi điều hành hay bất kỳ một sự bất cẩn nào cũng có thể là nguyên nhân gây ra rủi ro thiệt hại cho các công trình xây dựng.
Mỗi rủi ro xảy ra đối với các công trìng xây dựng thường gây ra thiệt hại rất lớn về tiền của, tính mạng và sức khoẻ của rất nhiều còn người và thường có sức ảnh hưởng đến cả nền kinh tế - xã hội.
Trong các biện pháp đề phòng và khắc phục tổn thất đối với ngành xây dựng - lắp đặt thì bảo hiểm có thể xem là biện pháp hiệu quả nhất. Thông qua bảo hiểm xây dựng – lắp đặt, công tác đề phòng hạn chế tổn thất của các công trình có hiệu quả hơn nhờ sự tham gia của các nhà bảo hiểm. Đặc biệt, mọi rủi ro tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm đều được công ty bảo hiểm bồi thường kịp thời góp phần khắc phục tổn thất và nhanh chóng ổn định sản xuất kinh doanh và từ đó góp phần đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội.
Đối với người được bảo hiểm
Mỗi công trình xây lắp là một qui hoạch tổng thể có liên quan đến rất nhiều khía cạnh của các vấn đề pháp luật, kỹ thuật nên đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của nhiều bên. Tất cả các bên liên quan đến công việc xây lắp và có quyền lợi trong công trình, được nêu tên hay chỉ định trong bản phụ lục bảo hiểm đều có thể là người được bảo hiểm.
Tác dụng chung và quan trọng nhất của bảo hiểm là đảm bảo về tài chính cho người đuợc bảo hiểm. Bảo hiểm xây dựng - lắp đặt có tác dụng đối với người được bảo hiểm cụ thể như sau:
Từ việc hình thành quỹ, công ty bảo hiểm sẽ nhanh chóng bồi thường cho người được bảo hiểm khi rủi ro tổn thất xảy ra trong phạm vi bảo hiểm, góp phần ổn định sản xuất kinh doanh cho người được bảo hiểm một cách nhanh chóng nhất.
Nhà bảo hiểm sẽ phối hợp cùng người được bảo hiểm trong công tác đề phòng hạn chế tổn thất nhằm hạn chế tối đa nguy cơ xảy ra rủi ro tổn thất.
Nhờ tham gia bảo hiểm, chủ đầu tư có thể tự chủ về tài chính, hạch toán dự trù một cách chính xác hơn, đảm bảo kế hoạch sản xuất kinh doanh mà không cần lãng phí một khoản tiền đầu tư lớn dự trữ cho việc đối phó với rủi ro tổn thất nếu không tham gia bảo hiểm.
Ở nước ta hiện nay, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra mạnh mẽ, các công trình xây dựng và lắp đặt phục vụ đất nước ngày càng nhiều và quy mô lớn. Điều đó cũng làm tăng rủi ro trong các quá trình xây dựng và lắp đặt làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Vì vậy, bảo hiểm xây dựng lắp đặt ngày càng trở nên cần thiết và thiết thực với các chủ đầu tư, các nhà thầu và đất nước.
Nội dung cơ bản của nghiệp vụ Bảo hiểm XD LĐ
Theo quyết định số 33/2004/QĐ-BTC thì bên mua bảo hiểm và người được bảo hiểm được hiểu như sau:
Bên mua bảo hiểm là chủ đầu tư (hoặc ban quản lý dự án). Trường hợp phí bảo hiểm đã được tính vào giá trúng thầu thì nhà thầu thực hiện việc mua bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm
Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm
Nội dung cơ bản của bảo hiểm xây dựng
Người được bảo hiểm
Mỗi công trình xây dựng là một qui hoạch tổng thể liên quan đến rất nhiều khía cạnh của các vấn đề pháp luật, hợp đồng và kỹ thuật cho nên việc hợp tác chặt chẽ giữa các bên là vấn đề cần thiết không thể thiếu được. Chính vì vậy việc xác định rõ người được bảo hiểm trong một công trình xây dựng là rất cần thiết. Trong bảo hiểm xây dựng, tất cả các bên liên quan tới công việc xây dựng và có quyền lợi trong công trình xây dựng và được nên tên hay chỉ định trong bản phụ lục bảo hiểm đều có thể là người được bảo hiểm:
Chủ đầu tư hoặc chủ công trình (bên A trong hợp đồng xây dựng)
Nhà thầu chính (bên B trong hợp đồng xây dựng)
Các nhà thầu phụ.
Các kiến trúc sư, kỹ sư tư vấn, cố vấn chuyên môn. Tuy nhiên, các hợp đồng bảo hiểm xây dựng không bảo hiểm cho trách nhiệm nghề nghiệp của các kiến trúc sư, cố vấn chuyên môn, các kỹ sư tư vấn mặc dù họ có liên quan đến công trình xây dựng.
Do đó có rất nhiều bên được bảo hiểm nên sẽ nảy sinh vấn đề đơn bảo hiểm sẽ ghi tên ai hay ai sẽ là người được ghi tên đầu tiên. Thông thường người đứng ra kí kết hợp đồng bảo hiểm và đóng phí sẽ là người đại diện cho các bên trong hợp đồng bảo hiểm. Vì vậy trên hợp đồng sẽ ghi tên người đứng ra đại diện kèm theo danh sách những người có quyền lợi liên quan đến công trình.
Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng của bảo hiểm xây dựng bao gồm tất cả các công trình xây dựng dân dụng, công trình công nghiệp hay nói cách khác là các công trình có sử dụng xi măng và bê tông cốt thép. Cụ thể là các nhóm công trình sau:
Nhà ở, trường học, bệnh viện, trụ sở làm việc, rạp hát, rạp chiếu phim, các công trình văn hóa khác
Nhà máy, xí nghiệp, các công trình phục vụ sản xuất.
Đường sá ( bao gồm cả đường bộ và đường sắt ), đường băng sân bay.
Cầu cống, đê đập, công trình thoát nước, kênh đào, cảng
Mỗi công trình bao gồm nhiều hạng mục riêng biệt được xác định và dự
tính thông qua sơ đồ tổng thể, bản vẽ thiết kế cùng các máy móc trang thiết bị cần thiết phục vụ cho công tác xây dựng cũng như các công việc có liên quan trong quá trình xây dựng. Để thuận tiện cho việc tính phí bảo hiểm cũng như giải quyết khiếu nại trong trường hợp tổn thất xảy ra, một công trình xây dựng được chia làm nhiều hạng mục khác nhau, bao gồm:
Cấu trúc chủ yếu của công trình xây dựng: Hạng mục này chiếm phần lớp giá trị công trình. Nó bao gồm tất cả các công việc thực hiện bởi chủ thầu chính (bên B) và tất cả các nhà thầu phụ của chủ thầu chính theo qui định của hợp đồng xây dựng ký kết giữa bên A và bên B: từ công tác chuẩn bị, dọn dẹp mặt bằng, xây dựng các công trình tạm thời phục vụ cho công tác thi công cho đến việc đóng cọc, làm móng, và xây dựng cấu trúc chính của công trình.
Trang thiết bị xây dựng: Gồm các thiết bị cố định phục vụ thi công như các công trình phụ trợ (lán trại, trụ sở tạm thời, kho bãi, nhà xưởng), giàn giáo, hệ thống băng tải, thiết bị cung cấp điện, nước, rào chắn, v.v Khi yêu cầu bảo hiểm cho các trang thiết bị này, cần phải có danh sách kèm theo đơn bảo hiểm.
Máy móc xây dựng: Bao gồm các máy móc có động cơ tự hành hoặc không tự hành phục vụ công tác thi công (ví dụ như máy xúc, máy ủi, cần cẩu, xe chuyên dùng) thuộc quyền sở hữu của người được bảo hiểm hoặc do họ đi thuê. Các loại máy móc này chỉ được bảo hiểm trong thời gian sử dụng trên khu vực công trường. Khi yêu cầu bảo hiểm cho các máy móc này cần có danh sách kèm theo đơn bảo hiểm
Các tài sản có sẵn trên và xung quanh khu vực công trường thuộc quyền sở hữu, quản lý, trông nom hay coi sóc của người được bảo hiểm. Trường hợp này thường có ở các công trình mở rộng hoặc cải tạo lại, các tài sản trên có thể bị thiệt hại trong quá trình xây dựng mới. Giá trị của các tài sản này không nằm trong giá trị của công trình mới nên chúng thường không thuộc phạm vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm xây dựng. Nhưng nếu người được bảo hiểm có nhu cầu thì người bảo hiểm có thể xem xét và mở rộng phạm vi bảo hiểm theo điều khoản bổ sung.
Chi phí dọn dẹp hiện trường: Bao gồm các chi phí phát sinh do việc thu dọn và di chuyển mảnh vụn, đất đá do các rủi ro được bảo hiểm xảy ra trên phạm vi công trường.
Trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với bên thứ ba: Bao gồm các trách nhiệm pháp lý do thiệt hại về tài sản, thương tật thân thể của bên thứ ba phát sinh trong quá trình thi công công trình trong hoặc xung quanh khu vực công trường. Tuy nhiên cần lưu ý rằng thiệt hại của người làm công, người thân hoặc đại diện không thuộc phạm vi của phần này (không phải người thứ ba).
Phạm vi bảo hiểm
Trong bảo hiểm xây dựng người ta qui định cụ thể các rủi ro bảo hiểm và các rủi ro loại trừ
Các rủi ro bảo hiểm
Các đơn bảo hiểm xây dựng do người bảo hiểm cung cấp thường nhà đơn bảo hiểm mọi rủi ro nên phạm vi bảo hiểm thường rất rộng, chỉ trừ các rủi ro loại trừ được nêu rõ trong đơn (theo thông lệ quốc tế) còn hầu hết các rủi ro bất ngờ và không lường trước được đều được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm xây dựng.
Cụ thể, trách nhiệm của công ty bảo hiểm đối với người được bảo hiểm phát sinh khi tổn thất xảy ra cho các đối tượng được bảo hiểm phát sinh khi tổn thất xảy ra do các rủi ro chính sau:
+ Cháy, sét đánh, nước chữa cháy hay phương tiện chữa cháy;
+ Lũ lụt, mưa, tuyết rơi, tuyết lở, sóng thần;
+ Các loại bão;
+ Động đất, sụt lở đất đá;
+ Trộm cắp;
+ Thiếu kinh nghiệm, bất cẩn, hành động ác ý hay lỗi của con người;
Ngoài ra, còn tuỳ vào từng công trình, mỗi đơn cấp còn có các điều khoản bổ sung thêm đối với các rủi ro phụ để phù hợp với nội dung công việc.
Các rủi ro loại trừ
Những rủi ro loại trừ chung cho cả phần bảo hiểm vật chất và trách nhiệm:
Chiến tranh hay những hoạt động tương tự, đình công, nổi loạn, ngừng trên công việc, yêu cầu của bất cứ cơ quan có thẩm quyển nào.
Hành động cố ý hay sự cẩu thả cố ý của người được bảo hiểm hoặc đại diện của họ
Phản ứng hạt nhân, phóng xa hay ô nhiễm phóng xạ
Các rủi ro loại trừ áp dụng đối với phần bảo hiểm thiệt hại vật chất bao gồm:
Bất kỳ loại tổn thất nào có tính chất hậu quả
Hỏng hóc cơ khí/điện hay sự trục trặc của máy móc, trang thiết bị xây dựng
Lỗi thiết kế
Chi phí thay thế, sữa chữa hay khắc phục các khuyết tật của nguyên vật liệu và/hoặc do tay nghề (các tổn thất hư hại do hậu quả thì được bảo hiểm)
Các loại trừ đối với phần bảo hiểm trách nhiệm:
Khiếu nại tổn thất liên quan đến tai nạn được bảo hiểm hay có thể được bảo hiểm trong phạm vi của phần bảo hiểm vật chất của đơn bảo hiểm xây dựng
Khiếu nại phát sinh do dịch chuyển, rung động hay suy yếu của cột chống.
Thời hạn bảo hiểm
Thời hạn bảo hiểm được ghi rõ trong đơn bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm thường là thời gian thi công công trình được tính từ khi bắt đầu khởi công công trình đến khi hoàn thiện hay chuyển giao hoặc đưa vào hoạt động. Trên thực tế, thời gian thi công không nhất thiết phải trùng với thời hạn ghi trong hợp đồng. Nếu công trình hoàn thành trước thời hạn thì hiệu lực của hợp đồng cũng chấm dứt ngay sau khi công trình được bàn giao đưa vào sử dụng. Trong trường hợp thời gian thi công kéo dài vượt quá thời hạn qui định thì người được bảo hiểm phải có yêu cầu gia hạn thêm đối với hợp đồng bảo hiểm và phải thanh toán thêm phí bảo hiểm cho thời gian vượt quá này.
Thông thường thời hạn bảo hiểm bao gồm thời gian:
Lưu kho (vật liệu) trước khi xây dựng (tối đa là ba tháng)
Giai đoạn xây dựng
Kiểm nghiệm, chạy thử (nếu có máy móc)
Bảo hành
Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm
Việc xác định chính xác giá trị bảo hiểm rất phức tạp. Các giá trị phải xác định trong bảo hiểm xây dựng bao gồm:
Giá trị bảo hiểm của phần công tác xây dựng: thường là giá trị ước tính và có thể là một trong số các giá trị sau:
+ Tổng giá trị khôi phục lại công trình trong trường hợp có tổn thất toàn bộ và phải tiến hành xây dựng lại
+ Giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng
+ Giá trị nhỏ hơn hoặc bằng tổn thất lớn nhất có thể xảy ra
Tuy nhiên việc xác định giá trị của phần công tác xây dựng theo giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng thường là hợp lý nhất. Khi công trình hoàn thành, giá trị này được điều chỉnh lại theo giá trị thực tế và phí bảo hiểm cũng được điều chỉnh lại cho phù hợp.
Giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng thường bao gồm chi phí lập công trình, giá trị các nguyên vật liệu do nhà thầu cung cấp, chi phí nhân công của chủ thầu, những chi phí trả cho khối lượng công việc thầu phụ hay dịch vụ, chi phí liên quan đến việc sử dụng máy móc thi công xây dựng, nhà xưởng thiết bị và các công trình tạm thời, kỹ thuật và giám sát, chi phí hành chính, lợi nhuận.
Giá trị bảo hiểm của máy móc và trang thiết bị xây dựng: Được xác
định theo giá trị thay thế tương đương của các máy móc trang thiết bị đó mua tại thời điểm thi công công trình và có thể bao gồm cả các chi phí vận chuyển lắp ráp.
Giá trị bảo hiểm cho phần chi phí dọn dẹp: Thường được ước tính
theo phần trăm giá trị của hợp đồng xây dựng.
Giá trị bảo hiểm cho các công trình hoặc tài sản có sẵn trong hoặc xung quanh khu vực thi công thuộc quyển sở hữu, trông nom hoặc coi sóc của người được bảo hiểm: Được xác định theo giá trị thực tế của
các tài sản đó tại thời điểm yêu cầu bảo hiểm.
Mức trách nhiệm bảo hiểm cho trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với bên thứ ba do việc thi công công trình: Thường được
xác định trên cơ sở giá trị tổn thất tối đa có thể. Đây là giới hạn thoả thuận cho mỗi tai nạn nhưng không giới hạn trong suốt thời hạn bảo hiểm.
Thông thường, công ty bảo hiểm thường thuyết phục người được bảo hiểm tham gia bảo hiểm ngang giá trị. Trong trường hợp người được bảo hiểm tham gia bảo hiểm dưới giá trị sẽ áp dụng phương pháp bảo hiểm theo tỉ lệ với các thiệt hại xảy ra.
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm được xác định theo giá trị bảo hiểm, bao gồm:
Cấu trúc chủ yếu của công trình: là giá trị đầy đủ của công trình theo hợp đồng tại thời điểm hoàn thành việc xây dựng, bao gồm:
+ Chi phí cho công tác chuẩn bị mặt bằng như đào đắp, san nền, đường sá (không tính chi phí giải phóng mặt bằng)
+ Chi phí các hạng mục công trình xây dựng: móng, nền, tường, trần, mái, tường ngăn
+ Giá trị các công trình tạm phục vụ thi công như kênh dẫn nước, đê bảo vệ, hệ thống chiếu sáng
+ Chi phí chạy thử máy móc, thiết bị mới 100% (nếu được bảo hiểm)
Trong trường hợp chi phí phát sinh làm tăng giá trị bảo hiểm, người đươợ bảo hiểm phải khai báo kịp thời và nộp thêm phí bảo hiểm, người được bảo hiểm phải khai báo kịp thời và nộp thêm phí bảo hiểm. Nếu không người bảo hiểm sẽ áp dụng quy tắc tỷ lệ như đối với trường hợp bảo hiểm dưới giá trị.
Giá trị trang thiết bị máy móc phục vụ xây dựng
Tài sản sẵn có hoặc xung quanh công trường
Chi phí dọn dẹp tổn thất (5-10% hợp đồng xây dựng)
Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm của một công trình xây dựng bao gồm hai phần chính: phí bảo hiểm tiêu chuẩn và phụ phí mở rộng
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn: là mức phí bảo hiểm cho các rủi ro tiêu chuẩn (rủi ro tiêu chuẩnlà các rủi ro được bảo hiểm trong đơn bảo hiểm tiêu chuẩn của Munich Re đang được áp dụng ở nước ta hiện nay) bao gồm các rủi ro thiên tai, các rủi ro bất ngờ và các rủi ro khác như tay nghề kém, thiếu kinh nghiệm Phí bảo hiểm tiêu chuẩn có ba phần chính là phí cơ bản tối thiểu, phụ phí rủi ro động đất và phụ phí rủi ro lũ lụt.
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn gồm phí cơ bản và phụ phí tiêu chuẩn
+ Phí cơ bản tối thiểu: là mức phí tối thiểu tính cho từng loại công trình xây dựng theo thời gian xây dựng tiêu chuẩn, được tính bằng tỷ lệ phần nghìn trên giá trị bảo hiểm của công trình.
+ Phụ phí cho rủi ro động đất: được tính căn cứ vào độ nhạy cảm của công trình và khu vực xây dựng công trình.
+ Phụ phí cho rủi ro bão và lũ lụt: tỷ lệ phí (% giá trị công trình theo năm) được tính căn cứ vào tính chất từng loại công trình. Trong trường hợp cụ thể mức phí còn lại được điều chỉnh theo thời gian thi công (mùa mưa hay mùa khô) và mực nước biển, sông hồ kề cận.
Phụ phí mở rộng, gồm có:
+ Phụ phí bảo hiểm cho chi phí dọn dẹp sau tổn thất
+ Phụ phí cho tài sản trên và xung quanh khu vực công trình được xác định bằng tỷ lệ phí tiêu chuẩn của công trình nhân giá trị bảo hiểm cho tài sản.
+ Phụ phí cho trang thiết bị máy móc phục vụ cho công trình được tính bằng tỷ lệ phí tiêu chuẩn nhân với giá trị bảo hiểm của máy móc.
Nội dung cơ bản của bảo hiểm lắp đặt
Đơn bảo hiểm lắp đặt cung cấp sự bảo vệ về mặt tài chính cho các chủ thầu và những người được bảo hiểm khác trong quá trình thực hiện các hợp đồng hay công trình trên công trường đối với các tổn thất hay thiệt hại của những tài sản được bảo hiểm gây ra bởi những sự cố bất ngờ và không lường trước được.
Người được bảo hiểm
Trong bảo hiểm lắp đặt, tất cả các bên liên quan và có quyền lợi trong công trình lắp đặt và được nêu tên hay chỉ định trong bản phụ phục bảo hiểm đều có thể là người được bảo hiểm:
Chủ đầu tư
Nhà thầu chính
Nhà thầu phụ
Nhà cung cấp (nếu liên quan đến lắp đặt)
Các kiến trúc sư, nhà thiết kế hoạt động liên quan đến công trường
Các kỹ sư tư vấn hoạt động liên quan đến công trường
Ngoài ra, các tổ chức cho vay (ví dụ như các ngân hàng) cũng là những người được bảo vệ một cách gián tiếp bởi hợp đồng này
Đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm lắp đặt là bảo hiểm cho những tổn thất, thiệt hại do một sự cố bất ngờ gây ra hoặc phát sinh từ trách nhiệm của người chủ công trình trong quá trình lắp đặt máy móc, thiết bị cho một công trình
Đối tượng bảo hiểm lắp đặt được hiểu là các máy móc được lắp đặt, trang thiết bị phục vụ cho công tác lắp đặt và một số công việc, hạng mục liên quan tới công việc lắp đặt. Đối tượng bảo hiểm được phân loại như sau:
Các máy móc, dây chuyền đồng bộ trong một xí nghiệp hay trong khi tiến hành lắp đặt các máy móc thiết bị đó.
Các máy móc, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho lắp đặt
Các phần việc xây dựng phục vụ cho công tác lắp đặt
Trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba
Chi phí dọn dẹp vệ sinh
Phạm vi bảo hiểm
Rủi ro được bảo hiểm
Những rủi ro chính được bảo hiểm trong đơn bảo hiểm lắp đặt được chia làm ba loại chính:
Các rủi ro thiên tai bao gồm động đất, động biển gây ra sóng thần, gió mạnh (do bão, gió xoáy, cuồng phong), mưa lớn, lũ, lụt, ngập lụt, đóng băng, sét đánh, cháy do sét đánh hay do hoạt động của núi lửa, đất đá lúng, sụt, lở.
Các hiểm hoạ tổn thất gây ra bởi hoạt động của con người trên công trường như: thiếu kinh nghiệm hay kỹ năng lỗi của con người, bất cẩn, trộm cắp, hành động ác ý, phá hoại, vận chuyển, khuân vác nguyên vật liệu, lỗi thiết kế, tập trung cao độ hay cường độ công việc cao do thời gian xây dựng lắp đặt quá ngắn, phối hợp công việc thiếu hợp lý, trông nom, bảo vệ công trường không tốt, thiếu những biện pháp ngăn ngừa tổn thất, lỗi vận hành, lỗi người vận hành máy.
Các rủi ro kỹ thuật, vận hành bao gồm áp suất ép quá lớn (nổ vật lý), chân không (nổ bên trong), nhiệt độ quá lớn (đoản mạch), lực li tâm, lỗi nguyên, vật liệu, mất kiểm soát phản ứng hoá học (nổ hoá học), lỗi của hệ thống hay thiết bị điều hành hay điều khiển.
Các rủi ro loại trên
Trong đơn bảo hiểm lắp đặt các rủi ro loại trừ được chia làm ba loại chính:
Loại trừ chung: áp dụng cho cả phần bảo hiểm thiệt hại vật chất và phần bảo hiểm trách nhiệm. Các rủi ro bị loại trừ chính bị loại trong phần này là:
+ Chiến tranh;
+ Những rủi ro hạt nhân;
+ Các hành vi có tính vi phạm của người được bảo hiểm;
+ Gián đoạn công việc.
Các loại trừ đặt biệt áp dụng cho phần thiệt hại vật chất:
+ Các khoản miễn thường;
+ Mọi tổn thất hậu quả;
+ Lỗi thiết kế, khuyết tật nguyên vật liệu;
+ Hao mòn và xé rách,v v
+ Các tổn thất về hồ sơ, bản vẽ, tài liệu, v.v
+ Các tổn thất phát hiện vào thời điểm kiểm kê (mất cắp, mất tích).
Các loại trừ áp dụng đối với phần thiệt hại về trách nhiệm:
+ Các khoản miễn thường;
+ Những chi tiêu hay chi phí sửa chữa có liên quan đến sửa chữa những thiệt hại được bảo hiểm trong phần bảo hiểm vật chất;
+ Trách nhiệm đối với thương tật của con người/công nhân tham gia vào quá trình thi công công việc;
+ Tổn thất và thiệt hại đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hay chăm sóc, quản lý của bất cứ người được bảo hiểm nào;
+ Tổn thất gây ra bởi xe cơ giới, tàu (biển, sông), máy bay;
+ Bất cứ khoản bồi thường nào vượt quá phạm vi bảo vệ qui định trong hợp đồng bảo hiểm.
Thời hạn bảo hiểm
Tuỳ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên mà thời hạn bảo hiểm được ghi rõ trong đơn bảo hiểm và có thể bao gồm một phần hoặc toàn bộ các thời gian:
Lưu kho trước khi lắp đặt;
Giai đoạn lắp đặt;
Chạy thử (không tải và có tải);
Giai đoạn bảo hành.
Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm
Trong bảo hiểm lắp đặt, GTBH được tính cho từng hạng mục bảo hiểm
GTBH đối với thiết bị được lắp đặt: Được tính bằng giá trị thay thế mới của bất kỳ một máy móc hay thiết bị mới tương đương, gồm: Giá mua, chi phí kỹ thuật, cước phí vận chuyển, thuế hải quan, chi phí lắp đặt, phí kho bãi.
GTBH của các máy móc, trang thiết bị phục vụ cho công tác lắp đặt (tương tự như máy móc, trang thiết bị xây dựng).
GTBH đối với chi phí dọn dẹp vệ sinh.
GTBH của các tài sản có sẵn trên và xung quanh công trường lắp đặt thuộc quyền quản lý, sở hữu của người được bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm: được xác định dựa vào các hạng mục vừa nêu ở trên và sự thoả thuận của hai bên. Thông thường STBH trong bảo hiểm lắp đặt bằng GTBH.
Đối với phần bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba thì STBH hoàn toàn dựa vào sự thoả thuận giữa các bên.
Đối với các công trình xây dựng dân dụng và lắp đặt hỗn hợp: Nếu giá trị lắp đặt lớn hơn 50% tổng STBH thì công ty bảo hiểm cấp đơn bảo hiểm lắp đặt. Trên thực tế, tuỳ vào yêu cầu cụ thể sẽ có các sửa đổi bổ sung phù hợp cho từng đơn cấp ra.
Phí bảo hiểm
Có một số nhân tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm như:
Loại công trình xây dựng, lắp đặt
Khu vực xây dựng, lắp đặt theo điều kiện khí hậu, điều kiện sinh thái
Loại rủi ro, nhóm rủi ro (bao gồm các rủi ro cơ bản, rủi ro bất ngờ, rủi ro phụ)
Số tiền bảo hiểm
Mức độ đảm bảo của bảo hiểm (phụ thuộc vào sự thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm)
Ngoài ra còn có một số nhân tố ảnh hưởng đến tăng giảm phí như kinh nghiệm của nhà thầu, tay nghề lao động v.v
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn bao gồm (quy định theo từng loại công trình lắp đặt theo thời gian lắp đặt tiêu chuẩn), bao gồm phí bảo hiểm cơ bản và phụ phí bảo hiểm cho rủi ro động đất, lũ lụt
Phí bảo hiểm cơ bản được tính bằng tỷ lệ phần nghìn trên số tiền bảo hiểm của công trình theo thời gian tiêu chuẩn
Phụ phí rủi ro động đất được tính bằng tỉ lệ phần nghìn
Hợp đồng bảo hiểm trong bảo hiểm XD LĐ
Hợp đồng bảo hiểm là một văn bản pháp lý qua đó bên bảo hiểm sẽ cam kết bồi thường cho bên được bảo hiểm là chủ các công trình xây dựng, lắp đặt khi có rủi xảy ra gây ra tổn thất, ngược lại bên được bảo hiểm cam kết trả khoản phí phù hợp với mức trách nhiệm và rủi ro mà bên bảo hiểm đã nhận.
Như vậy trong hợp đồng bảo hiểm xây dựng, lắp đặt sẽ có hai bên: bên bảo hiểm chính là các công ty bảo hiểm chi trả bảo hiểm; bên được bảo hiểm để thiết lập quỹ tài chính và chịu trách nhiệm chi trả bảo hiểm; bên được bảo hiểm (là chủ đầu tư,chủ thầu các công trình) có thể hiểu bao gồm người tham gia bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm kí kết và nộp phí bảo hiểm. Các hợp đồng bảo hiểm có thể được kí kết một cách trực tiếp giữa người tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm hoặc kí kết gián tiếp thông qua môi giới, đại lý.
Các chủ thể trong hợp đồng
+ Người được bảo hiểm: là tổ chức hoặc cá nhân có đầy đủ tư cách pháp nhân được nhà nước cho phép tiến hành hợp đồng bảo hiểm, được thu phí để lập ra quỹ bảo hiểm và chịu trách nhiệm bồi thường cho bên được bảo hiểm khi đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro, nó có thể là một công ty bảo hiểm hoặc hội bảo hiểm.
+ Người tham gia: là người ký kết hợp đồng bảo hiểm nhằm tham gia bảo hiểm cho chính mình và người thụ hưởng, đồng thời là người chịu trách nhiệm nộp phí khai báo rủi ro và thông báo thời hạn. Người tham gia trong hợp đồng bảo hiểm xây dựng, lắp đặt là các chủ thầu, chủ đầu tư công trình.
+ Người được bảo hiểm: là người có tính mạng, tình trạng sức khoẻ, tài sản có thể bị rủi ro đe doạ hoặc phần trách nhiệm dân sự có thể bị phát sinh và được bảo hiểm bằng việc kí kết hợp đồng bảo hiểm (là chủ đầu tư hoặc chủ thầu công trình).
+ Người thụ hưởng: là người được chỉ định trong hợp đồng bảo hiểm nhận sự trợ giúp và bồi thường từ người bảo hiểm, người thụ hưởng có thể được chỉ định đích danh hoặc không đích danh (chủ đầu tư hoặc chủ thầu công trình hoặc bên thứ ba).
Trách nhiệm các bên trong hợp đồng bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
Hợp đồng bảo hiểm được ký kết bởi người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm và các bên trong hợp đồng bảo hiểm xây dựng, lắp đặt có trách nhiệm ràng buộc chủ yếu sau:
Đối với người bảo hiểm là trách nhiệm chính là giải quyết bồi thường chi trả khi có rủi ro bảo hiểm xảy ra gây thiệt hại cho người được bảo hiểm.Việc thanh toán phải nhanh chóng, kịp thời và hợp lý. Khi soạn thảo hợp đồng người bảo hiểm phải đảm bảo tính trung thực để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên.
Người tham gia bảo hiểm là các chủ thầu, chủ đầu tư công trình: phải đảm bảo trả phí đầy đủ đúng kì hạn. Khi khai báo rủi ro người bảo hiểm đưa ra một cách trung thực chính xác. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có những thay đổi nào liên quan đến đối tượng được bảo hiểm như gia tăng giá trị, phát hiện bệnh truyền nhiễm v.v mà có thể ảnh hưởng xấu đến xác suất xảy ra rủi ro hoặc việc bồi thường thì phải thông báo kịp thời cho người được bảo hiểm.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG KHAI THÁC NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XÂY DỰNG LẮP ĐẶT TRÊN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM
2.1 Những thuận lợi và khó khăn trên thị trường Bảo hiểm xây dựng lắp đặt Việt Nam
2.1.1 Thuận lợi
- Nền kinh tế đất nước có nhiều tiến triển, đặc biệt nước ta đã gia nhập WTO, có nhiều nhà đầu tư vào Việt Nam, có nhiều công trình xây dựng và dự án đầu tư mới. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao và ổn định, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2005 đạt 7,79%, 2006 đạt 8,43 %, 2007 đạt 8,44% và 9 tháng đầu năm 2008 là 6,52%. Nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam ngày càng lớn kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài năm 1988 đến nay, lượng vốn thu hút được trong năm 2007 khoảng 19 tỷ USD. Lượng vốn ngày sẽ được tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, là điều kiện thuận lợi để phát triển nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng - lắp đặt.
- Sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng là động lực cho nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt phát triển. Xu thế hội nhập, toàn cầu hoá cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước xích lại gần nhau cùng đạt mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó còn có sự gia nhập thị trưởng bảo hiểm Việt Nam của rất nhiều công ty và các tập đoàn bảo hiểm quốc tế làm cho thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng sôi động. Hơn nữa các công ty bảo hiểm trong nước cũng chủ động liên kết với các công ty nước ngoài nên hoạt động nhận và tái bảo hiểm, từ các công ty bảo hiểm trong nước cho các công ty bảo hiểm nước ngoài được thuận lợi hơn.
- Hệ thống chính sách và pháp luật của nhà nước ngày càng tạo điều kiện cho bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt nói riêng. Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng và Nhà nước ta đã xác định con đường mới, phát triển kinh tế theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng tương ứng với sự phát triển kinh tế là một yêu cầu cấp thiết. Bên cạnh đó, nhà nước đã có chính sách tạo điều kiện cho tư nhân tham gia vào các lĩnh vực xây dựng và lắp đặt mà trước đây chỉ có nhà nước độc quyền. Mặt khác, luật đầu tư nước ngoài mới được ban hành đã thu hút một số lượng lớn các nhà đầu tư vào Việt Nam, điều này kéo theo cơ hội lớn cho sự phát triển của nghiệp vụ xây dựng, lắp đặt.
- Nhận thức của các nhà đầu tư, các chủ thầu xây dựng về tác dụng của bảo hiểm đối với công trình xây dựng ngày càng được nâng cao. Các nhà đầu tư ý thức sâu sắc được lợi ích khi tham gia bảo hiểm xây dựng lắp đặt, quyền lợi và nghĩa vụ khi họ tham gia bảo hiểm. Các nhà đầu tư thoả thuận với các chủ thầu khi quyết định tham gia bảo hiểm. Điều này làm cho việc khai thác bảo hiểm xây dựng lắp đặt dễ dàng hơn.
2.1.2 Khó khăn
- Việc gia nhập WTO đã mở cửa thị trường, các công ty nước ngoài vào thị trường bảo hiểm cũng có những tác động bất lợi đối với công ty bảo hiểm trong nước và khả năng quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này.
- Đối tượng của nghiệp vụ Bảo hiểm XD LĐ rất đa dạng và phức tạp. Vì thế sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý, tổ chức, giám định tổn thất, bồi thường và các công tác khác có liên quan.
- Hiện nay trên thị trường vẫn còn biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh. Các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đua nhau giảm phí. Đặc biệt trên thị trường dịch vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt, tình trạng cạnh tranh bằng cách giảm phí đang diễn ra một cách đáng lo ngại, thậm chí còn giảm tới dưới mức sàn mà các công ty bảo hiểm nước ngoài đưa ra. Điều này rất nguy hiểm, vì không tái bảo hiểm được thì các doanh nghiệp này sẽ phải gánh chịu toàn bộ rủi ro nếu có, khi tổn thất lớn sẽ vượt quá khả năng thanh toán của công ty.
2.2 Tình hình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở Việt Nam
2.2.1 Kết quả kinh doanh của nghiệp vụ Bảo hiểm xây dựng lắp đặt trong những năm qua
Năm 2004: Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt doanh thu đạt 271,8 tỷ đồng (giảm 3%), Bảo Việt Việt Nam dẫn đầu với doanh thu 113,4 tỷ đồng.
Năm 2005: Doanh thu đạt 491 tỷ đồng tăng 80% so với năm 2004. Dẫn đầu là Bảo Việt Việt Nam 185 tỷ đồng, PVI 149,5 tỷ đồng, PTI 23,5 tỷ đồng.
Năm 2006: Doanh thu đạt 670 tỷ (tăng 36,5% so với năm 2005)
Năm 2007: Doanh thu đạt 760 tỷ đồng, tăng 13,4% so với 2006. Dẫn đầu doanh thu Bảo hiểm xây dựng lắp đặt là PVI 327 tỷ đồng, Bảo hiểm Bảo Việt 181 tỷ đồng, PJICO 46 tỷ đồng, GIC 40 tỷ đồng, BIC 36 tỷ đồng, Samsung Vina 34 tỷ đồng
Bồi thường bảo hiểm theo nghiệp vụ: Bồi thường bảo hiểm gốc (Direct insurance claims): 227,494 tỷ đồng; Thu bồi thường nhượng TBH trong nước (Domestic Reinsurance Recovery): 34,098 tỷ đồng; Thu bồi thường nhượng TBH ngoài nước (Overseas Reinsurance Recovery): 134,266 tỷ đồng; Chi bồi thường nhận TBH trong nước (Domestic Reinsurance Assumed claims): 8,886 tỷ đồng; Chi bồi thường nhận TBH ngoài nước (Overseas Reinsurance Assumed claims): 8,112 tỷ đồng. Thực chi bồi thường (Net claims paid): 101,304 tỷ đồng.
Tỷ lệ bồi thường: Tổng doanh thu phí bảo hiểm (Total Premium): 772,185 tỷ đồng; Tổng bồi thường (Total claims): 235,606 tỷ đồng. Tỷ lệ bồi thường chung toàn nghiệp vụ (Combined loss ratio): 30,51%.
Năm 2008: 9 tháng đầu năm: Bảo hiểm xây dựng lắp đặt đạt 899 t ỷ đồng, tăng 67% so với 2007. Dẫn đầu doanh thu Bảo hiểm xây dựng lắp đặt là PVI 296 t ỷ đồng, Bảo hiểm Bảo Việt 160 t ỷ đồng, Bảo Minh 147 t ỷ đồng, PJICO 78 t ỷ đồng, BIC 40 t ỷ đồng.
2.2.2 Tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt Việt Nam
Số lượng các công ty bảo hiểm gốc trong thị trường được bổ sung thêm đáng kể như bảo hiểm Toàn Cầu, Bảo Tín, Bảo Nông, bảo hiểm Quân đội, bảo hiểm Hàng không, bảo hiểm Hùng Vương góp phần tăng cường khai thác các rủi ro mới. Sự ra đời và hoạt động của những thành viên mới này hứa hẹn mang lại cho thị trường bảo hiểm kỹ thuật nói chung và bảo hiểm xây dựng lắp đặt Việt Nam nói riêng một luồng sinh khí mới.
Nằm trong lộ trình mở cửa ngành bảo hiểm, từ ngày 1/1/2008, DN bảo hiểm nước ngoài 100% vốn tại Việt Nam sẽ được tham gia đầy đủ dịch vụ bảo hiểm mà các DN trong nước đang tham gia, trong đó có nhiều sản phẩm bảo hiểm bắt buộc; DN bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài cũng được phép bán bảo hiểm cho cán bộ, nhân viên trong các DN nhà nước.
Trên thực tế, các DN bảo hiểm nước ngoài sẽ xâm nhập vào mảng bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm cháy nổ trong các DN FDI, bảo hiểm kỹ thuật cao có giá trị lớn. Với mục tiêu tăng trưởng cao trong năm 2008, nền kinh tế Việt Nam hấp thụ một lượng vốn lớn từ FDI, ODA (khoảng 5,4 tỷ USD) Vốn đầu tư vào nhiều, các công trình mọc lên sẽ trở thành một thị trường tiềm năng cho các công ty bảo hiểm nước ngoài
Nét nổi bật nhất của thị trường bảo hiểm xây dựng lắp đặt Việt Nam trong thời gian qua là tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có bước nhảy vọt cả về lượng lẫn về chất. Nguyên nhân chủ yếu là vị thế của nước ta được nâng tầm đáng kể từ sau hội nghị APEC 2006 và việc nước ta trở thành thành viên chính thức của tổ thức thương mại thế giới WTO. Đầu tư nước ngoài gia tăng là một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của thị trường bảo hiểm xây dựng lắp đặt của nước ta.
Do đà tăng trưởng vượt bậc của FDI vào Việt Nam trong năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 thị trường tiếp tục phát triển bằng việc khai thác và cấp một số đơn bảo hiểm mới. Ngoài một vài dự án lớn như nhà máy sản xuất nhựa Dung Quất (174 triệu USD), cảng quốc thế SP – Sunnylon giai đoạn I (205 triệu USD), Samsung Electronics (173 triệu USD), các công trình khác được triển khai chủ yếu ở mức độ trung bình như Khu công nghiệp Kenmark (68 triệu USD), thủy điện Nậm Na (30 triệu USD)
Trong số những dự án được cấp mới trong thời gian qua một vài dự án lớn vẫn duy trì được điều kiện bảo hiểm theo tiêu chuẩn quốc tế do yêu cầu đấu thầu phải có xác nhận của nhà nhận tái bảo hiểm được xếp hạng theo S&P và rủi ro bảo hiểm ở mức độ phức tạp. Đối với những dự án khác (số tiền bảo hiểm nhỏ/ rủi ro đơn giản như xây toà nhà cao tầng, làm đường, xây các khu công nghiệp) tình hình cạnh tranh quyết liệt giữa các công ty bảo hiểm vẫn đang diễn ra bằng các hình thức:
+ Tỷ lệ phí giảm mạnh ( tỷ lệ phí cho xây dựng các toà nhà trong thành phố xuống thấp dưới 0,1% trong khi số liệu thống kê về tỷ lệ tổn thất của những loại rủi ro này tại thị trường Việt Nam là khá cao).
+ Phạm vi bảo hiểm được mở rộng hoặc điều kiện bảo hiểm không tương ứng với rủi ro (ví dụ như việc đưa ra điều kiện bảo hiểm đối với những rủi ro ẩm ướt như hồ chứa nước, kè, cầu cảng hoặc những rủi ro ngầm)
+ Một số công ty bảo hiểm mới ra đời chưa có kinh nghiệm nhiều trong khai thác bảo hiểm cũng như chưa cập nhật được hết thông tin về rủi ro trong thị trường. Thậm chí việc nhiều nhân viên ngành bảo hiểm còn chưa hiểu hết hoặc chưa hiểu đúng nội dung các điều kiện bảo hiểm sẽ dẫn tới nhiều tranh chấp giữa khách hàng và công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm trong khâu giải quyết bồi thường, đặc biệt với những tổn thất của các công trình lớn trong bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Bảo hiểm xây dựng - lắp đặt được quy định bắt buộc tại Thông tư số 76/2003/TT-BTC ngày 04/8/2003 và quyết định số 33/2004/QĐ-BTC ngày 12/4/2004 của Bộ Tài chính, áp dụng đối với các dự án đầu tư có sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên từ tháng 4-2007, Bộ Tài chính quyết định thay việc phải mua BH XD bắt buộc bằng tự nguyện. Tính trói buộc không còn nên các doanh nghiệp đầu tư thường bỏ qua chi phí này.
Trong bối cảnh đó, thị trưởng bảo hiểm xây dựng và lắp đặt với doanh thu năm 2007 đạt 760 tỷ đồng, tăng 13,4% so với 2006. 9 tháng đầu năm 2008: doanh thu đạt 899 t ỷ đồng, tăng 67% so với 2007 vẫn là con số đạt mức tăng trưởng khá ấn tượng.
Về phương diện tái bảo hiểm, năng lực nhận rủi ro từ các công ty nói chung đều tăng do quy định chặt chẽ của Bộ Tài Chính về vốn điều lệ của công ty bảo hiểm cũng như nhờ khả năng tài chính vững mạnh của các công ty qua một thời gian hoạt động. Tuy nhiên việc gia tăng nhận, nhượng trực tiếp giữa các công ty bảo hiểm gốc trong thị trường cũng cần phải được các công ty nhìn nhận khách quan và tỉnh táo. Nhìn chung năng lực này cũng chưa đáp ứng được những đơn bảo hiểm có số tiền lớn (tuỳ thuộc vào loại đơn bảo hiểm cũng như điều kiện bảo hiểm). Hơn nữa do tình hình tổn thất của nghiệp vụ ngày đang có chiều hướng ngày càng phức tạp thì vai trò của các nhà Tái bảo hiểm có uy tín càng trở nên quan trọng. Đồng thời, việc tuyên truyền về mức trách nhiệm của các nhà nhận tái bảo hiểm cũng đã được các khách hàng bảo hiểm đặc biệt chú ý ( thể hiện qua tiêu chí lựa chọn năng lực của công ty bảo hiểm trong các đợt đấu thầu).
Trên thị trường dịch vụ bảo hiểm xây dựng, lắp đặt, tình trạng cạnh tranh bằng cách giảm phí đang diễn ra một cách đáng lo ngại. Theo quy định, để thực hiện một hợp đồng dịch vụ bảo hiểm xây dựng cho các công trình có vốn đầu tư trên 50 triệu USD, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước (nhà bảo hiểm gốc) buộc phải thu xếp việc tái bảo hiểm với các doanh nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài có mức độ tín nhiệm nhất định nhằm đảm bảo an toàn tài chính cho dự án. Hiện đã có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đã chào phí thấp hơn cả mức phí của công ty tái bảo hiểm. Tình trạng này dẫn đến nguy cơ nếu có các sự cố dẫn đến các doanh nghiệp phải bồi thường, các nhà tái bảo hiểm có thể sẽ từ chối thanh toán do hợp đồng của nhà bảo hiểm gốc với khách hàng không đúng tiêu chuẩn. Điều này khiến cả khách hàng và công ty bảo hiểm gốc có thể sẽ phá sản.
2.2.3 Đánh giá chung
Tình hình khai thác trên thị trường bảo hiểm xây dựng lắp đặt Việt Nam thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định như đã nêu trên. Do đà tăng trưởng vượt bậc của FDI vào Việt nam trong năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 thị trường vẫn tiếp tục phát triển bằng việc khai thác và cấp một số đơn bảo hiểm mới. Tình hình cạnh tranh giảm phí ngày càng quyết liệt, ngược lại với nó là chi phí khai thác dịch vụ, tần suất tổn thất, giá trị tổn thất đều tăng lên nhiều lần. Do đó, để thúc đẩy sự khai thác trên thị trường bảo hiểm xây dựng lắp đặt một cách hiệu qủa nhất cần phải có những giải pháp cụ thể cho từng doanh nghiệp và toàn thị trường.
CHƯƠNG III:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHAI THÁC NGHIỆPVỤ BẢO HIỂM XÂY DỰNG LẮP ĐẶT
3.1 Đối với nhà nước
Trong những năm vừa qua, sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước đã tạo cho bảo hiểm nói chung và bảo hiểm xây dựng lắp đặt nói riêng điều kiện rất thuận lợi để phát triển. Để tiếp tục tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm, nhà nước cần:
Có các chính sách thông thoáng hơn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động được dễ dàng và thuận lợi.
Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời năm 2000 đã tạo một môi trường pháp lý rất tốt cho hoạt động của thị trường bảo hiểm song vẫn còn một số điểm bất cập. Nhà nước cần nhanh chóng có những sửa đổi bổ sung hợp lý hơn nữa để hoàn thiện luật kinh doanh bảo hiểm.
Cần có chính sách để bảo vệ thị trường bảo hiểm Việt Nam trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài
Bảo hiểm xây dựng - lắp đặt quan trọng đối với đất nước ta bởi nước ta đang trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhu cầu xây dựng rất nhiều. Nhà nước cần tạo điều kiện hơn nữa để bảo hiểm xây dựng - lắp đặt thực sự phát triển, bảo vệ cho công trình xây lắp trong nước.
3.2 Đối với Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam và các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ để cùng nhau nắm bắt thông tin tận dụng thời cơ từ thị trường, thông tin về các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng để các công ty bảo hiểm có thể cùng nhau hợp tác khai thác hợp đồng, chia sẻ thị trường vì một thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển lành mạnh
Mặt khác doanh nghiệp và hiệp hội cũng cần phối hợp thực thi những quy tắc đạo đức nghề nghiệp và đào tạo nguồn nhân lực, bên cạnh đó có những hình thức xử phạt thoả đáng đối với các cán bộ nhân viên vi phạm quy tắc, có những việc làm, hành vi trái với đạo đức nghề nghiệp. Nhất là trong một nghiệp vụ lớn như nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt rất dễ có sự câu kết trục lợi giữa nhân viên khai thác và các chủ đầu tư, chủ thầu.
Hiệp hội cần nhạy bén nhanh nhạy hơn và đề ra những quy tắc cho hoạt động bảo hiểm, để theo kịp với sự phát triển của thị trường, vừa đảm bảo yêu cầu hội nhập tạo một thị trường bảo hiểm phát triển bình đẳng nhưng vẫn có sự trợ giúp nhất định đối với các công ty bảo hiểm còn non trẻ trong nước.
3.3 Đối với bản thân doanh nghiệp bảo hiểm
Ổn định tổ chức, tập trung phát triển nguồn nhân lực: Hoàn thiện chiến lược về đào tạo nhân lực, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp. Ưu tiên cho các chương trình đào tạo chất lượng cao, chuyên sâu đồng thời duy trì các hình thức đào tạo bổ sung và nâng cao thường xuyên.
Tiến hành nghiên cứu thị trường, đưa ra các chiến lược khai thác hợp lý. Thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm xây dựng lắp đặt nói riêng ở Việt Nam hiện nay vẫn còn đang rất tiềm năng. Vì vậy bản thân môi doanh nghiệp bảo hiểm cần tiến hành nghiên cứu thị trường qua nhiều kênh thông tin khác nhau. Ngày nay công nghệ thông tin rất phát triển, việc tìm kiếm thông tin và liên lạc trở nên rất dễ dàng và thuận tiện. Đây là một điều kiện rất thuận lợi cho kinh doanh bảo hiểm, cán bộ khai thác cần biết khai thác triệt để điều này để phục vụ hiệu quả cho việc khai thác thông tin về nhu cầu bảo hiểm.
Xây dựng mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp phù hợp với sự phát triển của toàn doanh nghiệp. Phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm sẽ góp phần làm tăng hiệu quả khai thác nghiệp vụ của doanh nghiệp.
Tăng cường quan hệ hợp tác với thị trường bảo hiểm xây dựng lắp đặt nước ngoài. Chủ động làm việc với các nhà đứng đầu nhận tái bảo hiểm quốc tế để thu xếp các chương trình bảo hiểm có hiệu quả.
Bên cạnh đó, yếu tố quan trọng là mỗi doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình trong từng khâu đề phòng gạn chế tổn thất, giám định tổn thất, giải quyết bồi thường, khiếu nại và điều chỉnh tỷ lệ hoa hồng, mức phí bảo hiểm hợp lý. Tránh tình trạng đua giảm phí, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm.
KẾT LUẬN
Trong xu thế phát triển đất nước như hiện nay, nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng sẽ là một nhu cầu tất yếu. Vì thế nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt sẽ ngày càng trở thành một nghiệp vụ có vai trò quan trọng đối với toàn xã hội nói chung và đối với những tổ chức, cá nhân có liên quan.
Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về tình hình khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt giúp em ngày càng thấy được vai trò của việc phát triển nghiệp vụ bảo hiểm này trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay. Bảo hiểm xây dựng lắp đặt không những góp phần ổn định tài chính cho người được bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra, có thể mang lại doanh thu và lợi nhuận cho công ty bảo hiểm mà còn góp phàan đảm bảo sự an toàn trong xã hội. Vì vậy, bảo hiểm xây dựng lắp đặt là nghiệp vụ hứa hẹn một tiềm năng rất lớn đối với các công ty bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình bảo hiểm: chủ biên: TS Nguyễn Văn Định (nxb Thống kê – 2005);
www.vnexpess.net;
www.vinare.com.vn;
www.webbaohiem.net;
Luận văn, chuyên đề tốt nghiệp kinh tế bảo hiểm K45, 46.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5979.doc