Mục Lục
Lời nói đầu 2
Phần 1. Rủi Ro- Các Loại Rủi Ro 4
1. Nguyên nhân gây ra rủi ro: 4
2. Các loại rủi ro: 4
Phần 2. RỦI RO TÍN DỤNG 6
1.Bản chất 6
2.Nguyên nhân của rủi ro tín dụng 7
2.1.Nguyên nhân thuộc về người vay 7
2.2.Nguyên nhân thuộc về ngân hàng 7
3.Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng 8
3.1.Nợ quá hạn 8
3.2.Các chỉ tiêu khác: 9
4.Những thiệt hại từ rủi do tín dụng. 10
5. Thực trạng rủi ro tín dụng tại các ngân hàng Việt Nam : 11
6.Quản lí rủi ro tín dụng 21
6.1.Hạn chế các khoản tín dụng có vấn đề,nợ quá hạn,nợ khó đòi 22
6.2.Quản lí nợ quá hạn,nợ khó đòi,các khoản nợ có vấn đề. 23
Phần 3. Rủi ro lãi suất 24
1.Khái niệm 24
2. Ví dụ về rủi ro lãi xuất 24
2.1. Tình trạng tái tài trợ 24
2.2. Tình trạng tái đầu tư (kì hạn của tài sản nhỏ hơn nguồn tài trợ) 25
2.3. Kết luận 25
3.Nguyên nhân rủi ro lãi suất 26
4. Các nhân tố phản ánh rủi ro lãi suất 26
4.1. Khe hở lãi suất (interest rate gap): 26
4.2. Sự thay đổi của lãi suất thị trường: 26
4.3. Các diễn biến của rủi ro lãi suất: 27
5. Các biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất. 28
5.1. Duy trì sự phù hợp về kì hạn của nguồn và tài sản: 28
5.2. Thực hiện trao đổi lãi suất: 29
5.3. Áp dụng lãi suất thả nổi 31
5.4. Sử dụng các hợp đồng kì hạn 32
Bảng: So sánh các biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất: 32
6. Thực trạng rủi ro lãi suất ở Việt Nam những năm gần đây, nguyên nhân và giải pháp: 34
6.1. Thực trạng rủi ro lãi suất ở Việt Nam: 34
6.2. Nguyên nhân: 36
6.3. Các giải pháp tham khảo: 37
Danh Sách Nhóm 9- TCDN 47A 39
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1686 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất và tình hình quản lý hai loại rủi ro này tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g khối ngân hàng cổ phần có tỷ trọng nợ xấu là 1.96% giảm so với năm 2005 (2.15%). Mặc dù tỷ trọng nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng dưới 5% tổng dư nợ cho vay nhưng vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực (trên dưới 2%).
Năm 2006, Thị trường bất động sản đóng băng, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nên nợ xấu của ngân hàng có nguy cơ tăng cao, hệ thống ngân hàng thương mại trên địa bàn TP Hồ Chí Minh đã đầu tư vào thị trường bất động sản số vốn gần 26.000 tỉ đồng (tương đương 15%/tổng dư nợ cho vay), trong khi đó BĐS đóng băng nên sẽ khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi khoản vốn này. Và tình hình nợ xấu tại các ngân hàng thương mại năm 2006 tăng lên một cách đáng kể.
Sau đây là một báo cáo về tình hình hoạt động của khối ngân hàng thương mại :
TT
Chỉ tiêu
Q2/2005
Q1/2006
Q2/2006
Tăng/
giảm so với Q1/2006
Tăng/
giảm so với QII/2005
1
Tổng tài sản có
723.187.217
872.062.870
938.010.842
7,56%
29,71%
2
Tài sản có sinh lời
625.324.117
803.096.004
864.473.549
7,64%
38,24%
3
Tổng dư nợ
494.671.524
540.886.878
573.449.764
6,02%
15,93%
4
Nợ xấu
10.133.536 Số liệu lấy theo chỉ tiêu Nợ quá hạn
18.134.371
17.251.823
-4,87%
Không áp dụng so sánh
5
Vốn huy động từ cá nhân, tổ chức kinh tế
477.501.820
593.575.355
641.678.955
8,10%
34,38%
6
Tỉ lệ Vốn huy động từ cá nhân, tổ chức kinh tế/Tổng nguồn vốn
66,03%
66,00%
68,41%
2,41%
2,38%
7
Vốn huy động từ thị trường liên ngân hàng
95.291.348
112.697.323
123.883.374
9,93%
30,00%
8
Tỉ lệ Vốn huy động từ thị trường liên ngân hàng/Tổng nguồn vốn
13,00%
13,00%
13,21%
0,21%
0,21%
9
Kết quả kinh doanh
6.765.105
6.298.418
9.424.799
Không áp dụng so sánh
39,31%
10
Số lượng các NHTM tham gia bảo hiểm tiền gửi
66
67
71
5.97%
7.58%
11
Số lượng NH lỗ lũy kế
3
3
3
0
0
Chất lượng tín dụng là yếu tố các ngân hàng thương mại cần quan tâm. Nợ xấu chiếm 3,4% trong tổng dư nợ. Tổng giá trị các khoản nợ xấu có giảm so với quý I nhưng vẫn ở mức cao (hơn 17 nghìn tỷ).
Nợ xấu của các ngân hàng thương mại chiếm 3,4% tổng dư nợ. Nợ xấu tập trung vào các NHTM Nhà nước. Có ý kiến cho rằng tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại còn cao hơn rất nhiều do phương pháp phân loại và việc thực hiện phân loại, đánh giá nợ tại mỗi ngân hàng. Tổng giá trị các khoản nợ xấu tính đến quý 2 năm 2006 mặc dù có giảm so với quý 1/2006 nhưng vẫn ở mức cao (khoảng hơn 17 nghìn tỷ). Theo thông báo của Ngân hàng nhà nước, cuối năm 2005, tỷ lệ nợ xấu tổng hợp toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại là 4.4%. Đây là kết quả đánh giá là có bước tiến gần với các chuẩn mực quốc tế trong phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro. Cuối năm 2006, đầu năm 2007, tỷ lệ nợ xấu là 3.2% (tỷ lệ này là trên 7% đối với ngân hàng thương mại nhà nước). Tuy vậy, theo dự tính của IMF thì tỷ lệ nợ xấu của cả nội bảng và ngoại bảng cao hơn rất nhiều. Báo cáo của ngân hàng thế giới cuối năm 2006 cho biết “các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại nhà nước chủ yếu được xử lý bằng cách xóa nợ và tái cấp vốn cho các ngân hàng này mà không phụ thuộc vào việc các ngân hàng này có cải cách mạnh mẽ hay không?”. Do vậy, tình trạng nợ xấu và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam là vấn đề mà các ngân hàng cần đặc biệt quan tâm và cần có biện pháp xử lý kịp thời.
Thực hiện quy định mới về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro phù hợp dần theo thông lệ quốc tế thì một số ngân hàng thương mại lại phát sinh các khoản nợ quá hạn mới do phải chuyển nợ quá hạn theo cơ chế. Đặc biệt là các khoản nợ cho vay các DN xây dựng cơ bản, thi công các dự án giao thông, s vay các nhà máy chế biến mía đường,... Bên cạnh đó việc xử lý nợ xấu cũ và nợ quá hạn mới, nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại đang gặp một số vấn đề nan giải, chủ yếu là do khách quan. Các DN, tập trung là DN nhà nước có nợ vay thanh toán công nợ đều chờ Nhà nước có hướng xử lý xoá nợ, nên cố ý chây ỳ, không có thiện chí trả nợ. Nhiều DN đang thực hiện chuyển đổi, nên phải chờ kết quả chuyển đổi để tiếp tục đòi nợ. Trong khi đó một số DN nhà nước tiếp nhận DN khác sáp nhập vào mình, đến nay chưa đồng ý tiếp tục trả nợ cho DN sáp nhập.
Các ngân hàng thương mại thu hồi nợ đọng thông qua con đường khởi kiện vẫn còn mất thời gian chờ đợi vào xét xử, sau đó lại bị kéo dài thời gian thi hành án, nên kết quả thu hồi nợ rất thấp. Đối với các hộ gia đình, hộ kinh doanh do làm ăn thua lỗ, mất mùa liên tiếp do thiên tai, dịch bệnh, giá cả thị trường, bị lừa đảo,... nên nhiều năm không có nguồn thu trả nợ ngân hàng.
Đối với tài sản đảm bảo tiền vay là đất đai, nhà ở tại các vùng nông thôn, ven đô thị rất khó phát mãi do khách hàng vay vốn thiếu thiện chí hợp tác với ngân hàng thương mại, với cơ quan pháp luật để xử lý tài sản...
Mặt khác, tình hình nợ xấu hệ thống ngân hàng (đặc biệt là các ngân hàng thương mại nhà nước) gia tăng do chịu nhiều yếu tố rủi ro từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan như trong số các doanh nghiệp nhà nước có vay vốn từ ngân hàng thì nhiều doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, thua lỗ, không trả nợ đúng hạn cho ngân hàng; Thị trường bất động sản có ấm lên nhưng vẫn chưa đủ thoát khỏi tình trạng đóng băng trong khi dư nợ cho vay đầu tư bất động sản của các ngân hàng thương mại còn khá nhiều; Một số khoản cho vay theo chỉ định của Chính Phủ nằm trong chương trình mục tiêu phát triển kinh tế của Chính phủ không bảo đảm hiệu quả; Năng lực thẩm định cho vay của các cán bộ tín dụng và công tác quản trị, kiểm soát, điều hành một số ngân hàng thương mại còn bất cập.
Hiện nay các ngân hàng thương mại vẫn tiếp tục nỗ lực chủ quan để xử lý nợ xấu. Theo các chuyên gia, cần quan tâm hơn nữa trong việc giải quyết những khoản nợ của các DNNN hoạt động kinh doanh thua lỗ, đẩy nhanh tiến độ sắp xếp lại các DNNN, có biện pháp kiên quyết hơn đối với các nhà máy mía đường không có khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng. Đối với các khoản nợ tồn đọng nhóm III thực tế các con nợ còn tồn tại nhưng kinh doanh sản xuất không hiệu quả, không cókhả năng trả nợ vay đề nghị Chính phủ có cơ chế xử lý như đối với nợ tồn đọng nhóm II. Tức là nợ tồn đọng không có tài sản đảm bảo và không còn đối tượng để thu hồi nợ, cần được xử lý theo cơ chế đặc thù.
5.1.3. Quản lý rủi ro tín dụng ở các NHTM nhà nước:
Hiện nay, nguồn thu của các NHTM, đặc biệt là các NHTM nhà nước, chủ yếu từ các nghiệp vụ tín dụng truyền thống. Các NHTM nhà nước chủ yếu cho vay các tổng công ty nhà nước mà thực lực tài chính rất yếu kém. Thực trạng cho vay với mức dư nợ tới 35 - 40% vào một nhóm khách hàng đang báo động “đỏ” về chất lượng tín dụng. Trong đó, điển hình là các tổng công ty thuộc ngành xây dựng, giao thông vận tải với công nợ lên tới 11 ngàn tỷ đồng mà trong đó, theo báo cáo của Bộ Tài chính, có trên 90% khoản nợ nói trên thuộc vốn vay của NHTM. Nhiều chương trình kinh tế, mà chính sách cho vay của các NHTM buộc phải hướng theo, nhưng kết cục không hiệu quả như đánh bắt xa bờ, mía đường, cà phê Arabica... Hai vụ doanh nghiệp FDI phá sản đột ngột ở thành phố Đà Nẵng trong năm 2006 và tháng 5/2007 vừa qua đã cảnh báo có dấu hiệu lợi dụng chính sách “buôn” dự án; vay và chiếm dụng vốn ngân hàng. Đó là vụ Công ty Kim Khánh Nguyên của Đài Loan với số vốn thực tế chỉ 5.000 Đài tệ, nhưng đã được cấp giấy phép đầu tư 2,5 triệu USD. Giấy phép đầu tư này như vật bảo chứng, tín chấp để Công ty vay vốn ngân hàng với kẻ hở “Thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay”. Với vụ này, các ngân hàng có nợ khó đòi trên 20 tỉ đồng. Hậu quả để lại của vụ việc trên chưa kịp giải quyết xong thì tháng 5/2007, sau gần 3 năm đầu tư, được miễn giảm hầu hết các loại thuế và hưởng nhiều chính sách ưu đãi, dự án sản xuất đĩa compact của Công ty TNHH ODVD 100% vốn Malaysia đã đóng cửa, để lại khoản vay ngân hàng hơn 2,5 triệu USD chờ phát mại Công ty để trả nợ (Báo Lao Động số ra ngày 23/07/2007).
Do đó, những rủi ro tín dụng rất dễ xảy ra nếu khối NHTM nhà nước không có những biện pháp quản lý rủi ro hiệu quả. Đa phần các ngân hàng đều có tiêu chí xếp loại và phân loại nợ theo nhóm khách hàng để phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng. Nợ của khách hàng nhóm A được coi có rủi ro thấp nhất, còn nợ khách hàng nhóm C được coi là có khả năng mất vốn cao nhất.
Theo Quyết định (QĐ) 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về việc ban hành Quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng (TCTD) và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 493, nợ của các NHTM được chia thành 5 nhóm: với nợ từ loại 3 đến 5 là nợ xấu; còn nợ nhóm 1 - nợ thông thường - trích dự phòng 0%; nợ nhóm 2 - nợ cần chú ý - trích dự phòng 5%. Đây là một bước tiến mới với cách phân nhóm nợ theo QĐ 493 đã tiến gần tới những chuẩn mực quốc tế, đó là các loại nợ với mức rủi ro khác nhau đã gắn liền với tỷ lệ trích dự phòng khác nhau, bước đầu tạo nên quĩ dự phòng đủ lớn để xử lý tổn thất. Cũng theo QĐ này, nợ xấu (nhóm 3,4,5) chiếm tỷ lệ khoảng từ 2 - 5%, một tỷ lệ chấp nhận được.
Hiện nay, các NHTM nhà nước đã bước đầu thống kê nợ xấu theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN và dư nợ cho vay nhóm khách hàng theo Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN và Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/01/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 457. Tuy nhiên khó có ai thống kê được đâu là nợ xấu do phải thực hiện cho vay theo chỉ thị của các cấp lãnh đạo. Các khoản nợ xấu từ chương trình mía đường, dâu tằm tơ, bò sữa (Tuyên Quang)… đang gây ra gánh nặng to lớn cho các NHTM nhà nước. Theo báo cáo năm 2005 của các NHTM nhà nước là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Công thương, Ngoại thương, Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, nợ quá hạn của cả bốn đều dưới 2% tổng dư nợ. Tuy nhiên, theo một đánh giá gần đây của NHNN, nợ quá hạn của các TCTD Nhà nước là 7,7% tổng dư nợ. Con số 7,7% là dựa theo các tiêu chí của Quyết định 493. Các tiêu chí của Quyết định 493 đã tiếp cận khá gần tiêu chuẩn quốc tế nhưng vẫn còn một khoảng cách phải vượt qua. Nếu tính toán theo chuẩn quốc tế, nợ quá hạn của một số NHTM Nhà nước sẽ gấp đôi con số chính thức, tức khoảng 15% tổng dư nợ.
Liên quan đến vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong thời gian gần đây, Thống đốc NHNN đã ban hành các chỉ thị: Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN ngày 20/04/2005 về việc nâng cao chất lượng tín dụng, tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn và kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống; Chỉ thị số 02/2006/CT-NHNN ngày 23/05/2006 v/v tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các TCTD. Đặc biệt, trong những tháng đầu năm 2007, khi vốn tín dụng có xu hướng tăng trưởng ở mức cao hơn so với cùng kì năm trước và mục tiêu cả năm, có thể ảnh hưởng không thuận lợi đối với kiểm soát lạm phát trong năm nay và các năm tới; chất lượng tín dụng đối với một số ngành, lĩnh vực chưa cao; cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán có nguy cơ rủi ro cao, do thị trường chứng khoán biến động; việc thu thập thông tin từ thị trường để đánh giá, quản trị rủi ro còn bất cập, ngày 28/05/2007, Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là những biện pháp và chỉ dẫn cần thiết để các TCTD tập trung nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường phòng ngừa, hạn chế rủi ro và đảm bảo an toàn hệ thống trong điều kiện hiện nay.
5.2. Một số giải pháp tham khảo đối với vấn đề quản lý rủi ro tín dụng ở các Ngân Hàng:
Thứ nhất, NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính hoàn thiện và khẩn trương ban hành hệ thống kế toán theo chuẩn mực kế toán quốc tế. Xây dựng các giải pháp hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các TCTD phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Hoàn thiện hệ thống giám sát ngân hàng theo hướng: nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và hệ thống cảnh báo sớm những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD; phát triển và thống nhất cách thức giám sát ngân hàng trên cơ sở lí luận và thực tiễn; xây dựng cách tiếp cận hoạt động đánh giá chất lượng quản lí rủi ro trong nội bộ các TCTD. Triển khai mạnh hơn nữa các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường tiền tệ như quyền chọn (option), hoán đổi (swap), kì hạn (forward), tương lai (future)...
Thứ hai, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng, nợ xấu, lành mạnh hóa tình hình tài chính, làm sạch bảng cân đối tiền tệ của các NHTM; đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa khối NHTM nhà nước để tăng năng lực cạnh tranh, giảm bớt yếu tố can thiệp trực tiếp của nhà nước, minh bạch hóa hệ thống tài chính theo chuẩn mực quốc tế, từ đó tăng năng lực tự giám sát và quản lý rủi ro nội bộ.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện chiến lược, chính sách quản trị rủi ro (trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến rủi ro tín dụng) phù hợp. Thành lập bộ phận chuyên trách về quản lí rủi ro (Uỷ ban quản lí rủi ro - Risk Management Committee), độc lập với kinh doanh, tiến tới thực hiện quản lí rủi ro theo ngành dọc, giảm dần mức độ uỷ quyền theo hàng ngang. Nâng cao chất lượng các công cụ lượng hoá rủi ro và tiếp tục áp dụng các công cụ đo lường mới, giúp các nhà lãnh đạo ngân hàng lượng hoá mức độ rủi ro, phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro, nhận biết chính xác các nguyên nhân chủ yếu gây ra rủi ro để có giải pháp kịp thời và hữu hiệu.
Vào thời điểm hiện nay, những minh hoạ chính xác và chi tiết của công nghệ quản lí và hạn chế rủi ro tín dụng trong đa số trường hợp là “know - how” của các ngân hàng và công ty tư vấn. Một ví dụ phổ biến nhất đó là công nghệ Risk Management do các chuyên gia của Chase Manhattan Bank xây dựng. Công nghệ dựa trên mô hình thống kê mô tả thị trường, cho phép đánh giá biến động của rủi ro trong tương lai dựa trên mô hình phép tính gần đúng các đại lượng thống kê - các mối tương quan và các độ lệch chuẩn của các đại lượng thị trường.
Thứ tư, hoàn thiện quy trình cho vay, quy chế hoá mọi hoạt động trong ngân hàng, đảm bảo được các nguyên tắc hạn chế rủi ro (như nguyên tắc phân tách chức năng, nguyên tắc “hai tay bốn mắt”, nguyên tắc tuân thủ hạn mức...) ở mọi khâu trong ngân hàng. Thường xuyên xem xét lại quy trình theo định kì, đảm bảo mọi công việc được xử lí một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và đúng thẩm quyền. Tuân thủ Quy định về các tỉ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD, ban hành theo Quyết định số 457; Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các TCTD, ban hành theo Quyết định số 493; 3 chỉ thị gần đây của NHNN về nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Thứ năm, thực hiện minh bạch và công khai hoá thông tin. Đây là tiền đề cơ bản để nâng cao chất lượng quản lí rủi ro. Việc minh bạch và công khai thông tin không chỉ được thực hiện giữa các NHTM với NHNN, trong nội bộ NHTM mà còn giữa NHTM với các nhà đầu tư, với công luận.
Thứ sáu, bảo hiểm có vị trí đặc biệt trong hệ thống quản lí rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cơ sở của bảo hiểm ngân hàng là các nghĩa vụ chi trả bảo hiểm cho các ngân hàng khi gặp sự cố rủi ro, được biết đến trên thế giới như Bankers Blanket Bond (BBB), lần đầu tiên được Hiệp hội các nhà bảo lãnh Mỹ đưa vào áp dụng đối với các ngân hàng Mỹ. Sau này, bảo hiểm ngân hàng được mô phỏng có tính đến pháp luật địa phương (và quá trình này đang tiếp tục diễn ra) để sử dụng ở nhiều nước, và hiện nay, nó đã trở thành phổ biến trên thế giới. Quản lí rủi ro tín dụng và bảo hiểm là các bộ phận không thể thiếu trong quan điểm an ninh kinh tế và ổn định kinh doanh. Bảo hiểm ngân hàng là một trong những sản phẩm chuẩn đối với các ngân hàng trên thị trường quốc tế.
Thứ bảy, một công cụ hiệu quả trong quản lí rủi ro tín dụng là các phái sinh tín dụng trong các nghiệp vụ tự phòng vệ. Phái sinh tín dụng là các công cụ phái sinh được sử dụng để quản lí rủi ro tín dụng. Chúng cho phép tách rủi ro tín dụng với các loại hình rủi ro khác vốn có trong mỗi công cụ cụ thể và chuyển rủi ro này từ người bán rủi ro (người mua sự bảo vệ tín dụng) đến người mua rủi ro (người bán sự bảo vệ tín dụng). Các phái sinh tín dụng chủ yếu có thể nêu lên là “total return swap”, “credit default swaps”, các giấy tờ phái sinh gắn với rủi ro tín dụng (credit linked notes). Khả năng tách rủi ro tín dụng khỏi các tài sản Có và tài sản Nợ làm cho phái sinh tín dụng trở nên hấp dẫn trong sử dụng. Nhờ các công cụ này, các TCTD có thể tự bảo vệ mình khỏi các rủi ro tín dụng, đảm bảo đa dạng hoá các rủi ro này.
Thứ tám, xây dựng một nền tảng công nghệ hiện đại, đảm bảo các yêu cầu về quản lý nội bộ của ngân hàng, thỏa mãn yêu cầu phát triển của các giao dịch kinh doanh ngày càng đa dạng, yêu cầu quản lý rủi ro, quản lý thanh khoản, có khả năng kết nối với các ngân hàng khác. Phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại trên cơ sở đảm bảo phòng chống được rủi ro, bảo mật và hoạt động an toàn.
Thứ chín, đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực ngân hàng với những tiêu chí như năng lực, trình độ, khả năng hội nhập, hiệu quả công tác và phẩm chất đạo đức tốt.
Thứ mười, từng bước xây dựng và định vị thương hiệu của ngân hàng, chú trọng phát triển những sản phẩm, dịch vụ mới, tăng thu phí dịch vụ, giảm dần tỷ lệ thu từ các sản phẩm dịch vụ tín dụng truyền thống.
6.Quản lí rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất trong ngân hàng thưong mại bao gồm hai mặt sinh lời và rủi ro.Phần lớn các thua lỗ của các ngân hàng là từ hoạt động tín dụng.Song ở đây không có cách gì loại trừ RRTD hoàn toàn mà phải quản lí cẩn thận. Đứng trứơc quyết định cho vay,cán bộ ngân hàng phải cân nhắc mâu thuẫn giữa sinh lời và rủi ro.Vì vậy nội dung quản lí RRTD được coi là nội dung quản lí quan trọng của ngân hàng thương mại.Quản lí RRTD bao gồm:
6.1.Hạn chế các khoản tín dụng có vấn đề,nợ quá hạn,nợ khó đòi
Nội dung này đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải cẩn thận khi cho vay và đặt giá,thực hiện đa dạng hoá.
6.1.1.Thực hiện các quy định về an toàn tín dụng được ghi trong luật các tổ chức tín dụng và trong các nghị định của ngân hàng Nhà nước.
Các quy định nêu rõ trường hợp cấm các ngân hàng không được tài trợ, điều kiện ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ.Ví dụ,cho vay 1 khách hàng không được vượt quá tỷ lệ phần trăm trên vốn của chủ sở hữu,không đựơc cho vay đối với các thành viên của chính hội đồng quản trị của ngân hàng…
6.1.2Xác định danh mục các khoản tài trợ với các mức rủi ro khác nhau.
Các loại khách hàng khác nhau,các đối tượng cho vay khác nhau…sẽ có rủi ro khác nhau.
Tín dụng thương mại:Rủi ro liên quan tới khả năng đánh giá tình trạng kinh doanh,tài chính của người vay.Ngân hàng cần thu thập thông tin cả trong quá khứ lẫn tương lai.Tuy nhiên, khía cạnh tương lai của công ty quan trọng hơn quá khứ.Những khách hàng truyền thống có mối liên hệ tốt với ngân hàng có mức rủi ro thấp hơn.Rủi ro trong cho vay thương mại chủ yếu là do tác động của thị trường đối với người vay(gái bán hàng giảm sút,giá nguyên liệu tăng cao,thiên tai,chiến tranh,..)
Cho vay đối với người tiêu dùng:Rủi ro liên quan tới thu nhập của người vay và khả năng kiểm soát thông tin về người vay:Thông tin thường ít,ngân hàng khó kiểm soát người vay và khó thu nợ,công ăn việc làm của người vay không ổn định…
Cho vay đối với các trung gian tài chính khác như các ngân hàng thương mại,các tổ chức tài chính phi ngân hàng.Phần lớn các khoản cho vay này là không có đảm bảo,do vậy,nếu các tổ chức đi vay bị phá sản thì ngân hàng cho vay sẽ bị mất.Vì vậy ,rủi ro liên quan tới vị thế của tổ chức tài chính đi vay.
Cho vay đối với nhà nước: Độ an toàn cao.Tuy nhiên trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu hoặc khu vực,thì các khoản cho vay đối với nhà nước cũng bị ảnh hưởng.
6.1.3.Xây dựng chính sách tín dụng và quy trình phân tích tín dụng.
Hoạt động tín dụng liên quan tới nhiều bộ phận trong ngân hàng, đòi hỏi phải có sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua chính sách,qui tắc và sự kiểm soát chung.
Chính sách tín dụng với mục tiêu chính là mở rộng tín dụng đồng thời hạn chế rủi ro tín dụng nhằm nâng cao thu nhập cho ngân hàng.Chính sách tín dụng nhằm hạn chế rủi ro như:chính sách tài sản đảm bảo,chính sách bảo lãnh,chính sách đồng tài trợ….
Quy trình phân tích tín dụng do ban giám đốc ngân hàng quyết định, được xây dựng một cách chi tiết và quán triệt xuống từng chi nhánh ngân hàng,từng cán bộ ngân hàng.Quy trình phân tích tín dụng thể hiện những nội dung mà cán bộ tín dụng phải thực hiện khi cho vay nhằm hạn chế rủi ro như phân tích tình hình sản xuất kinh doanh,thẩm định dự án vay,lịch sử của người vay,mục đích vay,kiểm soát trong khi cho vay…
Bên cạnh chính sách và quy trình nhằm hạn chế rủi ro tín dụng,ngân hàng còn xây dựng qui chế kiểm tra ,phân định trách nhiệm và quyền hạn, khen thưởng và kỉ luật đối với các nhân viên tind dụng.
6.1.4.Xác định dấu hiệu của các khoản cho vay có vấn đè,giới hạn tín dụng và đa dạng hoá.
Xác định các khoản cho vay có vấn đề.
Xác định tỉ trọng các khoản cho vay khác nhau.
Xay dựng chiến lược đa dạng hoá.
6.2.Quản lí nợ quá hạn,nợ khó đòi,các khoản nợ có vấn đề.
Rủi ro là tất yếu của quá trình kinh doanh.Do vậy,ngân hàng luôn xây dựng chính sách chung sống cùng rủi ro:hạn chế rủi ro,chấp nhận rủi ro,khai thác hoặc quản lí nợ quá hạn,nợ có vấn đề hoặc các khoản nợ khó đòi.
Ngân hàng phân loại nợ quá hạn,nợ khó đòi,nợ có vấn đề.Phân tích nguêyn nhân ,thực trạng,khả năng giải quyết.
Trong trường hợp người vay có khó khăn tài chính tạm thời song vẫn còn khả năng và ý chí trả nợ,ngân hàng áp dụng chính sách hỗ trợ như cho vay thêm,gia hạn nợ,giảm lãi…
Trong trường hợp người vay lừa đảo,chây ì,không có khả năng trả,ngân hàng áp dụng chính sách thanh lí như bán tài sản thế chấp,phong toả tiền gửi trên tài khoản.
Xây dựng quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất.Dựa trên tỉ lệ rủi ro chấp nhận và danh mục các khoản cho vay rủi ro,ngân hàng xây dựng quỹ dự phòng.Quỹ này không có tác dụng làm giảm rủi ro mà để chống đỡ cho vốn của chủ khi tổn thất xảy ra.
Phần 3. Rủi ro lãi suất
1.Khái niệm
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến gắn với thay đổi lãi suất và nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kì hạn của tài sản và nguồn, qui mô và kì hạn các hợp đồng kì hạn…
2. Ví dụ về rủi ro lãi xuất
Ví dụ: Giả sử ngân hàng A đang có nhu cầu cho vay 100 triệu có thời hạn 1 năm với lãi suất cố định là 10%/năm. 100 triệu có thời hạn 2 năm, với lãi suất cố định là 11% năm. Ngân hàng A tìm kiếm nguồn bằng cách vay trên thị trường ngân hàng 200 triệu với lãi suất cố định là 6% năm, nếu vay 1 năm và 7 %, nếu vay hai năm.
2.1. Tình trạng tái tài trợ
Giả sử ngân hàng vay trên thị trường kì hạn 1 năm. Sau 1 năm, 100 triệu cho vay được trả và 200 triệu tiền đi vay phải trả: khoản gốc thu được chỉ đủ trang trải 50% nhu cầu chi trả (ảnh hưởng của lãi coi như bằng không). Đối với khoản cho vay 1 năm ngân hàng thu được: Chênh lệch lãi suất = 10% - 6% = 4%
Để có tiền trả 100 triệu còn lại, NH cần vay thêm 100 triệu trên thị trường liên ngân hàng. Như vậy, ngân hàng phải tài trợ khoản cho vay 2 năm bằng một khoản vay vào năm thứ hai. Cách tài trợ như trên được gọi là tái tài trợ: Là tình trạng trong đó kì hạn của tài sản dài hơn kì hạn của nguồn tiền. Chênh lệch lãi suất mà ngân hàng thu được phụ thuộc vài lãi suất mà ngân hàng phải trả khi tái tài trợ. Nếu lãi suất trên thị trường liên ngân không đổi, chênh lệch lãi suất thu được của khoản cho vay 2 năm là: Chênh lệch lãi suất = 11% - 6% = 5%
Ngân hàng sẽ thu được 5%/năm, trong cả hai năm. Khi lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm, chênh lệch lãi thu được năm thứ hai sẽ lớn hơn 5% và khi ãi suất tăng, chênh lệch lãi suất thu được sẽ giảm, thậm chí có thể ngân hàng còn bị lỗ.
Năm 1: Chênh lệch lãi suất thu được từ 200 triệu cho vay là:
Năm 2: Giả sử lãi suất trên thi trường giảm 1%. Do khoản cho vay với lãi suất cố định nên ngân hàng vẫn chỉ thu được lãi suất như năm 1. Kì hạn đi vay trên thị trường liên ngân hàng chỉ là một năm, do vậy, vào năm thứ hai, lãi suất được đặt lại, chỉ còn 5%, vậy chênh lệch lãi suất thu được năm thứ hai: Chênh lệch lãi suất = 11% - 5% = 6%
Bình quân mỗi năm ngân hàng thu được chênh lệch:
Giả sử lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng them 4%, chênh lệch lãi suất năm thứ hai là: 11%-10% = 1%
Bình quân mỗi năm ngân hàng thu được chênh lệch là:
Tại sao ngân hàng lại dung nguồn có kì hạn ngắn để cho vay với kì hạn dài hơn? Một lí do là ngân hàng kì vọng sẽ thu được chênh lệch lãi suất cao hơn. Nếu ngân hàng cho vay với kì hạn dài như huy động, chênh lệch lãi suất thu được là: 10% - 6% = 4%.
Khi thay đổi kì hạn ngân hàng thấy rằng chênh lệch lãi suất năm 1 chắc chắn sẽ cao hơn, đạt 4,5%, tuy nhiên, chênh lệch lãi suất năm 2 lại chưa chắc chắn, tuỳ thuộc vào mức độ và xu hướng thay đổi của lãi suất thị trường.
Ngân hàng sẽ thay đổi kì hạn nếu nhà quản lí dự đoán rằng lãi suất trên thị trường liên ngân hàng sẽ giảm, hoặc tăng song mức tăng sẽ không vượt quá tỷ lệ làm cho chênh lệch lãi suất bình quân 2 năm nhỏ hơn 4%.
Chênh lệch lãi suất năm 2 an toàn cho ngân hàng:
= (4% x 2 – 4,5%) = 3,5%
Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng an toàn:
= 11% - 3,5% = 7,5%.
Nếu lãi suất trên thị trường liên ngân hàng năm thứ 2 tăng tới 7,5%, thì chênh lệch lãi suất năm 2 chỉ còn 3,5%, giảm 1% so với năm 1. Kết cục chung, chênh lệch lãi suất bình quân 2 năm đạt 4%. Nếu lãi suất tăng quá dự tính (quá 7,5%), sẽ gây ra tổn thất cho ngân hàng.
2.2. Tình trạng tái đầu tư (kì hạn của tài sản nhỏ hơn nguồn tài trợ)
Các giả thiết tương tự như trên song nguồn vay 2 năm với lãi suất cố định 7%/năm. Sau 1 năm, 100 triệu được hoàn trả, thu được chênh lệch lãi suất là 3%. Ngân hàng có thể cho vay một khoản mới tái đầu tư khoản cho vay vừa hoàn trả. Nếu lãi suất cho vay không đổi chênh lệch lãi suất thu được là 3%. Khi lãi suất cho vay tăng hoặc giảm chênh lệch lãi suất sẽ tăng hoặc giảm.
2.3. Kết luận
Trong hai trường hợp trên đều có sự không phù hợp về tài sản và nguồn vốn trong điều kiện các hợp đồng huy động và tài trợ với lãi suất cố định. Tình trạng này được kết hợp với thay đổi lãi suất ngoài dự kiến trên thị trường làm nảy sinh tổn thất trong ngân hàng. Như vậy rủi ro lãi suất là khả năng giảm chênh lệch lãi suất khi lãi suất thị trường thay đổi.
3.Nguyên nhân rủi ro lãi suất
(1) Sự không phù hợp về kì hạn của nguồn và tài sản
(2)Sự thay đổi của lãi suất thị trường khác với dự kiến của ngân hàng
(3)Ngân hang sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng
4. Các nhân tố phản ánh rủi ro lãi suất
4.1. Khe hở lãi suất (interest rate gap):
Được sử dụng bởi các nhà quản lý ngân hàng như là một chỉ tiêu đo khả năng thu nhập giảm khi lãi suất thay đổi.
Mức độ giảm thu nhập của ngân hàng sẽ tỷ lệ thuận với qui mô khe hở lãi suất.
Khe hở lãi suất được hình thành do chênh lệch tài sản và nguồn nhạy cảm (là các loại mà số dư nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thay đổi). Các nhân tố ảnh hưởng tới qui mô của nguồn và tài sản nhạy cảm gồm:
Nhu cầu về kì hạn của người sử dụng
Khả năng về kì hạn của người gửi và cho vay
Chuyển hoán kỳ hạn của nguồn
Kì hạn để phân loại tài sản và nguồn nhạy cảm không phải là kì hạn danh nghĩa mà là kì hạn tài sản và nguồn được xác định lại lãi suất (Ví Dụ: 1 nguồn tiền huy động 2 năm với lãi suất 10%/năm, song đã duy trì được 1 năm 10 tháng. Vậy, vào thời điểm tính toán, nguồn này chỉ còn 2 tháng là đến hạn. Nếu lãi suất thị trường thay đổi, nguồn này sẽ được đặt lại giá.
Tuy nhiên, ngân hàng không cần thiết duy trì sự phù hợp tuyệt đối về kì hạn giữa các nguồn và các loại tài sản khác nhau trong mọi thời kì vì:
Kì hạn trên thường là do khách hàng đi vay và gửi tiền quyết định.
Sự thay đổi của các loại lãi suất khác nhau và mức độ nhạy cảm của nguồn vốn và tài sản đối với lãi suất cũng khác nhau
Sự khác biệt về nguồn và tài sản nhạy cảm có thể tạo thu nhập cao hơn cho ngân hàng. Khi duy trì khe hở nhạy cảm khác 0, nếu lãi suất thay đổi theo hướng phù hợp, thu nhập của ngân hàng sẽ tăng.
4.2. Sự thay đổi của lãi suất thị trường:
Trạng thái tài sản và nguồn (tạo nên khe hở lãi suất) không phải là yếu tố duy nhất gây nên rủi ro lãi suất. Trạng thái trên được kết hợp với thay đổi của lãi suất ngoài mong muốn của nhà quản lý ngân hàng sẽ gây nên rủi ro lãi suất. Do khả năng dự đoán thay đổi lãi suất là có hạn trước thay đổi của môi trường kinh doanh nên khe hở lãi suất trở thành yếu tố đo rủi ro lãi suất tiềm năng. Nếu khe hở lãi suất càng lớn, rủi ro càng lớn.
Khe hở nhạy cảm= TS nhạy cảm- NV nhạy cảm.
Thu nhập từ lãi suất tăng (giảm)= Khe hở nhạy cảm x mức gia tăng của lãi suất
Chênh lệch lãi suất tăng hoặc giảm=
4.3. Các diễn biến của rủi ro lãi suất:
4.3.1. Lãi suất thay đổi không cùng mức độ:
Các mức lãi suất trên thực tế có sự mức độ thay đổi khác nhau. Sự thay đổi lãi suất theo các mức độ khác nhau cũng gây ra rủi ro lãi suất cho dù độ lớn và dấu của khe hở lãi suất như thế nào
Ví Dụ: Một ngân hàng với số dư bình quân kì, lãi suất bình quân:
Tài sản
Số dư
Lãi suất
Nguồn vốn
Số dư
Lãi suất
Tài sản nhạy cảm
Chứng khoán ngắn hạn
Tiền gửi tại các NH
Cho vay ngắn hạn
Tài sản kém nhạy cảm
80
20
10
50
120
4
2
6
7
Nguồn nhạy cảm
Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi kì hạn ngắn
Tiết kiệm ngắn
Nguồn kém nhạy cảm
120
30
30
60
80
3
4
5
6
Hiện tại, chênh lệch thu chi từ lãi suất của ngân hàng là:
20x4% + 10x2% + 50x6% + 120x7% - 30x3% - 30x4% - 60x5% - 80x6% = 2.5
Chênh lệch lãi suất của ngân hàng là: (2.5x100):200=1.25%
Khi lãi suất tăng cùng mức độ, do khe hở lãi suất âm, thu nhập từ lãi sẽ giảm. Song nếu mức lãi suất thay đổi không giống nhau thì tổn thất có thể rất lớn hoặc ngân hàng cũng có thể được lợi
Giả sử lãi suất thị trường thay đổi nhu sau:
Chứng khoán ngắn hạn tăng 0.3%
Tiền gửi tại các NH tăng 0.2%
Cho vay ngắn hạn tăng 0.8%
Tiền gửi thanh toán tăng thêm 0.3%
Tiền gửi có kì hạn tăng thêm 0.6%
Tiền gửi tiết kiêm ngắn tăng 0.9%
Vậy, chênh lệch thu chi từ lãi dự tính trong kì tới của ngân hàng là: 2.14%
Chênh lệch lãi suất dự tính của NH là: (2.14x100):200=1.07% (giả sử qui mô cấu trúc tài sản không đổi)
4.3.2. Mức độ nhạy cảm lãi suất:
Kì hạn nguồn và tài sản quyết định độ lớn của khe hở lãi suất. Khi lãi suất thày điỉu trong một khoảng thời gian dự tính, tỷ lệ các tài sản và nguồn nhạy cảm được đặt giá lại cũng khác nhau. Ví dụ, khi lãi suất tăng, 100% tiền gửi thanh toán được chuyển sang lãi suất mới chỉ trong 1 ngày, trong khi chỉ có 1 phần của tiền gửi 3 tháng được chuyển sang lãi suất mới trong vòng 1 tháng. Do vậy, nhà quản lí cần kết hợp qui mô và kì hạn các biệt của từng loại tài sản và nguồn để tính kì hạn trung bình của tài sản và nguồn, nghiên cứu mức độ nhạy cảm của chúng đối với lãi suất.
Nguồn và tài sản có kì hạn trên 1 năm với lãi suất cố định được gọi là kém nhạy cảm với lãi suất. Song mức độ nhạy cảm của mỗi loại cũng khác nhau và đều tác động tới khe hở lãi suất.
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp vay lớn có quyền thay lãi suất khi lãi suất trên thị trường giảm. Các doanh nghiệp này có thể trả trước hạn, vay ngân hàng khác để trả, thỏa thuận lại với ngân hàng để giảm lãi suất ghi trong hợp đồng… Khi tình trạng cho vay trở nên khó khăn, các ngân hàng buộc phải chấp nhận yêu cầu của khách hàng và do đó gây tổn thất cho ngân hàng.
5. Các biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất.
Để hạn chế rủi ro lãi suất thường có các biện pháp sau đây:
Duy trì sự phù hơp về kì hạn của nguồn và tài sản
Thực hiện trao đổi lãi suất
Áp dụng lãi suất thả nổi
Sử dụng các hợp động kì hạn
5.1. Duy trì sự phù hợp về kì hạn của nguồn và tài sản:
Là biện pháp các ngân hàng tìm kiếm các nguồn có kì hạn phù hợp với kì hạn của tài sản để duy trì khe hở lãi suất càng thấp càng tốt như vậy sẽ giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi theo chiều hướng không có lợi cho ngân hàng . Tuy nhiên hạn chế của biện pháp này là ngân hàng sẽ không thu được khoản thu khi lãi suất thay đổi phù hợp với dự đoán của ngân hàng. Hơn nữa , với các ngân hàng nhỏ có các khoản vay thường là ngắn hạn thì việc sắp xếp các nguồn phù hợp với tài sản để hạn chế rủi ro là tương đối đơn giản vì vậy có thể sử dụng biện pháp này được, nhưng đối với các ngân hàng lớn do nhu cầu đầu tư trung và dài hạn thương lớn hơm nhiều các nguồn tương ứng cho nên rất khó thực hiện biện pháp này.
5.2. Thực hiện trao đổi lãi suất:
Là biện pháp các ngân hàng do đặc điểm sản xuất kinh doanh buộc phải duy trì khe hở lãi suất dương có thể hoán đổi rủi ro ( hoặc sinh lời ) với ngân hàng có khe hở với ngân hàng có khe hở lãi suất âm thông qua một hợp đồng theo đó mỗi bên cam kết thanh toán cho bên kia khoản tiền lãi tính theo lãi suất thả nổi hay lãi suất cố định trên cùng một khoản nợ gốc trong cùng một khoảng thời gian.
Có 2 phương pháp để trao đổi lãi suất giữa các ngân hàng đó là :
Trao đổi trực tiếp giữa 2 ngân hàng với nhau
Trao đổi lãi suất qua ngân hàng trung gian
Để hiểu thêm về trao đổi lãi suất giữa các ngân hàng ta xét các ví dụ sau
VD 1: Hoán đổi lãi suất trực tiếp giữa hai Ngân hàng
Hai bên thỏa thuận hoán đổi lãi suất cố định X%.
NHA: Nhận từ danh mục cho vay: 7.25%
Trả cho NHB: X%
Nhận từ NHB: LIBOR
Trả cho danh mục huy động vốn: LIBOR – 0.5%
Lãi suất ròng: 7.75 – X
NHB: Nhận từ danh mục cho vay: LIBOR + 0.5%
Trả cho NHA: LIBOR
Nhận từ NHA: X
Trả cho danh mục huy động vốn: 8%
Lãi suất ròng: X – 7.5
Hoán đổi đem lại lợi ích 2 bên nên phần chênh lệch lãi suất phải được chia đều cho cả 2, là (7.75 – 7.5)/2 = 0.125%
Rút ra: 7.75 – X = 0.125 & X – 7.5 = 0.125
X = 7.625%
Đến kỳ thanh toán, A trả cho B số tiền lãi trên 100 triệu USD với lãi suất 7.625%, ngược lại B trả cho A số tiền tính lãi trên 100 triệu USD với lãi suất thả nổi LIBOR.
VD 2: Hoán đổi lãi suất qua Ngân hàng trung gian
Cũng với ví dụ trên, nhưng thay vì A & B hoán đổi cho nhau thì NHC đứng ở giữa thực hiện hoán đổi cho A & B.
NHA: Nhận từ danh mục cho vay: 7.25%
Trả cho NHC: X%
Nhận từ NHC: LIBOR
Trả cho danh mục huy động vốn: LIBOR – 0.5%
Lãi suất ròng: 7.75 – X
NHB: Nhận từ danh mục cho vay: LIBOR + 0.5%
Trả cho NHC: LIBOR
Nhận từ NHC: Y
Trả cho danh mục huy động vốn: 8%
Lãi suất ròng: Y – 7.5
NHC: Nhận từ A: X%
Trả cho A: LIBOR
Nhận từ B: LIBOR
Trả cho B: Y%
Lãi suất ròng: X – Y
Hoán đổi làm hài hòa lợi ích 3 bên, nên phần chênh lệch (7.75 – 7.5) = 0.25% được chia cho 3 bên trên cơ sở thương lượng. Giả sử thương lượng C nhận 20% chênh lệch
C nhận 0.25% x 20% = 0.05
A nhận 0.25 x (1 – 20%)/2 = 0.1%
B nhận 0.25 x (1 – 20%)/2 = 0.1%
Rút ra: X – Y = 0.05
7.75 – X = 0.1
Y – 7.5 = 0.1
X = 7.65% & Y = 7.6%
Trao đổi lãi suất bằng phương pháp trung gian giúp các ngân hàng không phải tốn thời gian công sức cho việc tìm ngân hàng phù hợp để thực hiện trao đổi nhưng đổi lại ngân hàng lại phải mất 1 khoản phí cho bên trung gian
Ở nước ta việc giao dịch hoán đổi lãi suất được thực hiện theo quyết định số 62/2006/QĐ-NHNN của ngân hàng nhà nước ban hành.
5.3. Áp dụng lãi suất thả nổi
Là biện pháp ngân hàng sử dụng chế độ thả nổi lãi suất , theo đó lãi suất cho vay sẽ thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi của lãi suất nguồn trên thị trường. Biện pháp sử dụng phổ biến nhất là việc quy định lãi suất thả nổi được điều chỉnh trong vòng 6 tháng 1 lần. Phương pháp này giúp các ngân hàng ngăn chặn rủi ro bằng cách trút rủi ro từ ngân hàng sang người đi vay . Nhưng nó không thể thay thế cho lãi suất cố định vì phần lớn người gửi tiết kiệm thường yêu cầu lãi suất cố định thay cho lãi suất thả nổi vì nó ít rủi ro với họ hơn, các khách hàng vay trung và dài hạn thường yêu cầu lãi suất cố định để dự tính được hiệu quả của dự án.
5.4. Sử dụng các hợp đồng kì hạn
Là biện pháp ngân hàng sẽ bán các hợp đồng kì hạn ( được áp dụng đối với chứng khoán ngắn hạn và khoản tiền gửi tại ngân hàng nhà nước )để có thể tự bảo hộ đề phòng rủi ro lãi suất . Ngân hàng thực hiện bán các hợp đồng kì hạn của mình theo các bước sau
Bước 1 : Kí hợp đồng bán chứng khoán với giá hiện tại song đựợc thực hiện tại thời điểm tương lai.
Bước 2: đến hạn hợp đồng trên sẽ tiến hành mua chứng khoán trên thị trường với giá đã được xác định tại bước 1
Như vậy , việc sử dụng biện pháp này thì khi lãi suất tăng lên làm giá chứng khoán sẽ tạo ra khoản thu nhập cho ngân hàng , thu nhập này có thể bù đắp tổn thất do thay đổi lãi suất. Biện pháp này có chi phí giao dịch thấp hơn với các hợp đồng trao đổi lãi suất nên sẽ tiết kiệm chi phí cho ngân hàng. Tuy nhiên các hợp động này được chuẩn hóa từ trước khi nó được thực hiện nên không thể sửa chữa khi cần thiết.
Bảng: So sánh các biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất:
1. Duy trì sự phù hơp về kì hạn của nguồn và tài sản
2.Thực hiện trao đổi lãi suất
Áp dụng lãi suất thả nổi
Sử dụng các hợp động kì hạn
1. Đặc điểm
ngân hàng tìm kiếm các nguồn có kì hạn phù hợp với kì hạn của tài sản để duy trì khe hở lãi suất càng thấp càng tốt
các ngân hàng do đặc điểm sản xuất kinh doanh buộc phải duy trì khe hở lãi suất dương có thể hoán đổi rủi ro ( hoặc sinh lời ) với ngân hàng có khe hở với ngân hàng có khe hở lãi suất âm thông qua một hợp đồng theo đó mỗi bên cam kết thanh toán cho bên kia khoản tiền lãi tính theo lãi suất thả nổi hay lãi suất cố định trên cùng một khoản nợ gốc trong cùng một khoảng thời gian.
ngân hàng sử dụng chế độ thả nổi lãi suất , theo đó lãi suất cho vay sẽ thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi của lãi suất nguồn trên thị trường
ngân hàng sẽ bán các hợp đồng kì hạn ( được áp dụng đối với chứng khoán ngắn hạn và khoản tiền gửi tại ngân hàng nhà nước )để có thể tự bảo hộ đề phòng rủi ro lãi suất
2. Ưu điểm
giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi theo chiều hướng không có lợi cho ngân hàng
Trao đổi lãi suất bằng phương pháp trung gian giúp các ngân hàng không phải tốn thời gian công sức cho việc tìm ngân hàng phù hợp để thực hiện trao đổi
giúp các ngân hàng ngăn chặn rủi ro bằng cách trút rủi ro từ ngân hàng sang người đi vay
khi lãi suất tăng lên làm giá chứng khoán sẽ tạo ra khoản thu nhập cho ngân hàng , thu nhập này có thể bù đắp tổn thất do thay đổi lãi suất
chi phí giao dịch thấp hơn với các hợp đồng trao đổi lãi suất
3. Nhược điểm
ngân hàng sẽ không thu được khoản thu khi lãi suất thay đổi phù hợp với dự đoán của ngân hàng
khó áp dụng với các ngân hàng lớn cần nhiều vốn trung và dài hạn
TĐ LS trung gian: ngân hàng lại phải mất 1 khoản phí cho bên trung gian
không thể thay thế cho lãi suất cố định vì phần lớn người gửi tiết kiệm thường yêu cầu lãi suất cố định thay cho lãi suất thả nổi vì nó ít rủi ro với họ hơn
các khách hàng vay trung và dài hạn thường yêu cầu lãi suất cố định để dự tính được hiệu quả của dự án.
các hợp động này được chuẩn hóa từ trước khi nó được thực hiện nên không thể sửa chữa khi cần thiết.
6. Thực trạng rủi ro lãi suất ở Việt Nam những năm gần đây, nguyên nhân và giải pháp:
6.1. Thực trạng rủi ro lãi suất ở Việt Nam:
Một trong những loại rủi ro đặc thù của NHTM là rủi ro lãi suất. Khi lãi suất thị trường thay đổi, những nguồn thu chính từ danh mục cho vay và đầu tư chứng khoán cũng như chi phí trả lãi đối với tiền gửi và các nguồn vay của ngân hàng đều bị tác động. Những thay đổi của lãi suất thị trường có thể tác động tiêu cực tới lợi nhuận ngân hàng do làm tăng chi phí nguồn vốn, giảm thu nhập từ tài sản, hạ thấp giá trị vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Vì vậy, sự biến động của lãi suất tác động đến toàn bộ bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập của ngân hàng. Nếu không có sự quan tâm thích đáng đến việc quản lý rủi ro lãi suất, không dự đoán được xu hướng biến động của lãi suất thì các ngân hàng có thể bị thiệt hại nặng nề từ loại rủi ro này, thậm chí đẩy ngân hàng vào tình trạng mất khả năng thanh toán, dẫn đến phá sản.
Thực tế này đã từng xảy ra tại Mỹ vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khi lãi suất thị trường tăng cao ở mức kỷ lục thì nhiều ngân hàng Mỹ đã phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề do các ngân hàng này sử dụng vốn huy động tiền gửi tiết kiệm để cho vay bất động sản với mức lãi suất cố định. Hơn một ngàn các ngân hàng nhỏ và các tổ chức nhận tiết kiệm và cho vay lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, đòi hỏi phải có sự trợ giúp và không ít trong số những ngân hàng này đã phải ngừng hoạt động do phá sản. Các ngân hàng này đã lỗ liên tiếp trong hai năm mặc dù trong suốt thập kỷ trước đó, họ luôn kinh doanh có lãi. Chính sự không cân xứng về kỳ hạn do sử dụng các nguồn vốn huy động ngắn hạn với lãi suất thường xuyên thay đổi để cho vay dài hạn với lãi suất cố định, kết hợp với sự tăng lãi suất thị trường đột biến đã gây nên hậu quả nặng nề cho nhiều ngân hàng và gây sự bất ổn trong hệ thống ngân hàng Mỹ. Ngoài ra, những biến động lớn về lãi suất trên thị trường tín dụng quốc tế trong những thập kỷ gần đây đã buộc các ngân hàng phải đối mặt với một môi trường hoạt động hoàn toàn mới và không thể dự báo trước. Một ví dụ rõ nét khác về những thua lỗ nặng nề gây ra bởi rủi ro lãi suất là trường hợp First Bank System Inc of Mineapolis. Các nhà quản lý First Bank dự đoán lãi suất giảm vào cuối thập kỷ 80 nên đã mua một lượng trái phiếu chính phủ lớn đến bất ngờ. Không may, giá trái phiếu giảm mạnh do lãi suất tăng, First Bank công bố khoản lỗ 500 triệu USD và buộc phải bán tòa nhà trụ sở chính của Ngân hàng này.
Trong những năm gần đây, các NHTM và các cơ quan quản lý tại nhiều quốc gia trên thế giới đã giành nhiều thời gian và công sức để phát triển hệ thống giám sát và quản lý rủi ro lãi suất nhằm tách biệt danh mục tài sản có, tài sản nợ và lợi nhuận của ngân hàng khỏi ảnh hưởng tiêu cực của những biến động lãi suất. Dù lãi suất thay đổi, các ngân hàng luôn mong muốn đạt được thu nhập dự kiến ở mức tương đối ổn định và đây chính là mục tiêu của ngân hàng trong công tác quản lý rủi ro lãi suất.
Quản lý rủi ro lãi suất là việc ngân hàng tổ chức một bộ phận nhằm nhận biết, định lượng những tổn thất đang và sẽ gây ra từ rủi ro lãi suất để từ đó có thể giám sát và kiểm soát rủi ro lãi suất thông qua việc lập nên những chính sách, chiến lược sử dụng các công cụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro lãi suất từ các hoạt động kinh doanh của ngân hàng một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục.
Quản lý rủi ro lãi suất của các NHTM Việt Nam
Đối với các NHTM Việt Nam, quản lý rủi ro lãi suất còn là vấn đề khá mới mẻ. Trong một thời gian dài các ngân hàng hầu như không quan tâm đến vấn đề này vì với cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), lãi suất trên thị trường tương đối ổn định, ít có sự biến động và ít gây tác động đến ngân hàng. Gần đây, khi lãi suất thị trường có nhiều biến động, các ngân hàng mới nhận thấy mình đang đứng trước nguy cơ rủi ro và bước đầu thực hiện một số biện pháp nhằm hạn chế rủi ro lãi suất. Biện pháp được sử dụng phổ biến nhất là việc quy định lãi suất thả nổi, được điều chỉnh trong vòng 6 tháng hoặc mỗi khi lãi suất thị trường biến động trong các hợp đồng cho vay trung- dài hạn. Mặt khác, các ngân hàng cũng chấp hành quy định của NHNN về giới hạn tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung- dài hạn, một mặt hạn chế rủi ro thanh khoản, mặt khác duy trì tương đối sự cân xứng về kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ của ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro lãi suất. Tuy nhiên, những biện pháp này chỉ giúp các NHTM hạn chế được phần nào rủi ro lãi suất và hiện tại, công tác quản lý rủi ro của ngân hàng vẫn còn những mặt hạn chế cơ bản như sau:
Một là, chưa có sự quan tâm toàn diện về quản lý rủi ro lãi suất của bộ máy lãnh đạo các ngân hàng. Sự thiếu quan tâm thể hiện ở chỗ ngân hàng chưa xây dựng một chính sách quản lý rủi ro lãi suất, chưa có những quy định cụ thể những nội dung cần thực hiện trong quá trình quản lý rủi ro,... Trong thời gian qua, mặc dù lãi suất tại thị trường Việt Nam có nhiều biến động, nhưng thực tế, mức độ dao động không quá lớn nên những thiệt hại do rủi ro lãi suất của ngân hàng chưa nhiều. Tuy nhiên, kinh nghiệm tại một số quốc gia cho thấy, những cú sốc lớn về lãi suất có thể gây nên những hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với các NHTM và nền kinh tế nói chung. Nếu không nhận thức đầy đủ về loại rủi ro này, các NHTM Việt Nam có thể sẽ không có những chuẩn bị cần thiết, tạo cho mình khả năng chống đỡ trước những biến động lớn của thị trường, đặc biệt trong xu thế hội nhập kinh tế, tài chính quốc tế hiện nay.
Hai là, trong nhận thức về rủi ro lãi suất, các NHTM Việt Nam mới chỉ dừng lại ở nhận định là ngân hàng có rủi ro lãi suất khi lãi suất thị trường thay đổi, nhưng chưa đo lường, đánh giá cụ thể mức rủi ro là bao nhiêu, lãi suất biến động theo chiều hướng nào sẽ gây thiệt hại cho ngân hàng,... Hiện nay, các NHTM tại nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng nhiều phương pháp, mô hình để lượng hóa rủi ro lãi suất phù hợp với trình độ của từng ngân hàng và quy định của cơ quan quản lý ở từng nước. Mặc dù mỗi mô hình đo lường rủi ro lãi suất đều có những mặt hạn chế nhất định, nhưng việc sử dụng những mô hình này có thể giúp các NHTM xác định một cách cụ thể những thiệt hại cả trong quá khứ, hiện tại và dự tính thiệt hại trong tương lai mỗi khi lãi suất thị trường biến động. Những tính toán này sẽ là cơ sở cần thiết để ngân hàng áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm hạn chế thấp nhất những tổn thất có thể xảy ra. Tuy nhiên, do chưa thực hiện việc lượng hóa rủi ro lãi suất vì chưa có đủ điều kiện cần thiết nên các biện pháp mà các NHTM Việt Nam đã sử dụng để kiểm soát loại rủi ro này mới chỉ dựa trên cảm tính và chưa hiệu quả.
Ba là, các NHTM Việt Nam chưa thực hiện một cách toàn diện những biện pháp cần thiết để phòng ngừa rủi ro lãi suất. Cụ thể, về các biện pháp nội bảng, chủ yếu ngân hàng mới chỉ dừng lại ở việc áp dụng chính sách lãi suất thả nổi trong cho vay trung- dài hạn mà chưa có những biện pháp tích cực để duy trì sự cân xứng về kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ. Về các biện pháp ngoại bảng, cho đến nay, hầu hết các ngân hàng hoàn toàn chưa ứng dụng các nghiệp vụ phái sinh trong phòng ngừa rủi ro lãi suất.
Hiện nay, NHNN đã ban hành Quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, trong đó quy định những điều kiện cụ thể đối với các tổ chức tín dụng thực hiện giao dịch hoán đổi. Tuy nhiên, các NHTM Việt Nam vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ những điều kiện này. Chẳng hạn, một trong những điều kiện quy định trong quy chế là các tổ chức tín dụng phải “xây dựng quy trình thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất, trong đó gồm cả biện pháp phòng ngừa rủi ro” thì hiện nay mới được xúc tiến tại 1 số các NHTM Việt Nam.
6.2. Nguyên nhân:
Một là, các ngân hàng thương mại mỗi ngân hàng theo đuổi mục tiêu riêng của mình (phát triển khách hàng, tăng trưởng tín dụng, dịch vụ...). Chưa có sự liên kết thống nhất trong việc xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro, chia sẻ các thông tin. Những chuẩn mực kế toán kiểm toán, các tiêu chí đánh giá, đo lường mức độ rủi ro theo uỷ ban Basel chưa được các NHTM áp dụng thực hiện một cách hoàn chỉnh.
Hai là, hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro của ngân hàng nhà nước cũng như của các NHTM chỉ mới có tác dụng thống kê (nhưng cũng chưa thật đầy đủ), chưa phát huy tác dụng chức năng cập nhật, thông tin cảnh báo và đưa ra các giải pháp ngăn ngừa và hạn chế các loại rủi ro và đang xuất hiện trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ba là, đội ngũ cán bộ chuyên môn còn bất cập, dù trong quá trình hoạt động, thực hiện hiện đại hoá ngân hàng, các ngân hàng đều có quan tâm đến việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ của mình. Do đó vẫn còn một số bộ phận cán bộ chuyên môn chưa tinh thông trong lĩnh vực mình đảm nhiệm (như các tiêu chuẩn định mức tiêu hao nguyên vật liệu, dây chuyền công nghệ, xu hướng phát triển của ngành nghề trong tương lai...), vì vậy khó có thể đề xuất những cảnh báo, biện pháp phòng ngừa rủi ro một cách khoa học và chuẩn xác trong quyết định cấp tín dụng. Bốn là, Ngân hàng Nhà nước chưa thực hiện hiệu quả chức năng quản lý nhà nước ở lĩnh vực là đầu mối soạn thảo và ban hành các văn bản thống nhất về quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế, tuân thủ những tiêu chí hướng dẫn trong hệ thống quản lý rủi ro của uỷ ban Basel, những tiêu chí đang được hầu hết các ngân hàng thương mại trên thế giới áp dụng. Bên cạnh đó Ngân hàng nhà nước trên cơ sở nghiên cứu cập nhật số liệu báo cáo thống kê từ các ngành, để đưa ra dự báo về xu hướng phát triển, rủi ro có thể gặp của các ngành kinh tế từ đó các ngân hàng thương mại có định hướng đầu tư một cách hiệu quả hạn chế được rủi ro.
6.3. Các giải pháp tham khảo:
Một là, các ngân hàng thương mại cần thống nhất trong nhận thức về sự cần thiết và tầm quan trọng của việc xây dựng hệ thống quản lý rủi ro. Sẵn sàng phối hợp san sẻ thông tin, sử dụng các công cụ, tiêu chí xác định và đo lường rủi ro một cách khoa học như các NHTM ở các nước phát triển đang áp dụng.
Hai là, hệ thống thông tin khách hàng, hệ thống phòng ngừa rủi ro trong hệ thống ngân hàng cần được nâng cấp để hoạt động hiệu quả hơn, trở thành một nguồn thông tin thống nhất, chuẩn xác mà khi cần các NHTM đều có thể khai thác dễ dàng. Muốn vậy từng NHTM phải đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tăng cường trang bị các trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác thu thập và xử lý thông tin.
Ba là, không ngừng nâng cao công tác tuyển chọn và đào tạo cán bộ. Cần tránh đào tạo nghiệp vụ chung chung mà chú trọng vào đào tạo tập trung chuyên sâu từng lĩnh vực nghiệp vụ cụ thể. Đặc biệt quan tâm đến các loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại có xu hướng phát triển mạnh trong thời gian tới. Mục tiêu của việc đào tạo là làm cho các cán bộ tác nghiệp không chỉ am tường khai thác, phục vụ khách hàng mà còn có khả năng phát hiện, ngăn ngừa và hạn chế các rủi to trong lĩnh vực mình phụ trách.
Bốn là, ngân hàng nhà nước tăng cường quan tâm chỉ đạo và hỗ trợ cho công tác quản trị rủi ro của các NHTM thông qua việc cập phổ biến kinh nghiệm về quản lý rủi ro của các ngân hàng trong và ngoài nước, ban hành các văn bản thống nhất về quản lý rủi ro và có biện pháp chế tài nghiêm túc các NHTM không tuân thủ các quy định này. Hỗ trợ các NHTM trong việc đào tạo, tập huấn cho cán bộ nghiệp vụ...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B1107.DOC