Phân tích tài chính doanh nghiệplà sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát
triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và vô cùng cần thiết.
68 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1014 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình tài chính doanh nghiệp và sự cần thiết của việc phân tích tài chính doanh nghiệp ở công ty TNHH An Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông nghệ như sau:
Nghiền nhỏ dưới dạng
hạt+ một số hóa chất
Tấm
gỗ ép
éP ở nhiệt độ
áp suất lớn
Gỗ
Phủ lớp
Melamin
Xuất phát diểm của qui trình là gỗ thông nhưng chỉ sử dụng thân cây. Nó khác với những loại gỗ ép từ cao su sử dụng cả thân và lá . Sau đó được nghiền nhỏ thành dạng bột rồi trộn thêm hóa chất chông mọt,cong vênh và có khả năng phù hợp với sự thay đổi thời tiết rồi đem ép dưới áp suất và nhiệt độ cao sau khi đã phủ một lớp melamin.việcphủ mộtlớp melamin lên bề mặt gỗ không chỉ giúp cho tấm gỗ ép có vân và màu sắc mà còn có khả năng chống cháy nhẹ và không ngấm nước. Sở dĩ như vậy là do Melamin là một dạng hóa chất ở dạng lỏng , nếu được phủ lên bề mặt gỗ dưới tác động của áp suất và nhiệt độ cao thì nó đặc biệt bám rất chắc , không bị bong mà còn tạo màu sắc và vân gỗ .
-Thứ hai về khả năng thích ứng: bề mặt các sản phẩm đồ gỗ Singapore có thể thích ứng với mọi chất tảy rửa như cồn , xăng, dầu hỏa,... cũng như không bay màu ở cường độ ánh sáng cao. NgoàI ra sản phẩm còn có khả năng chịu ẩm tốt rất phù hợp với đIều kiện khí hậu nước ta.
Vị trí của các cửa hàng rất thuận tiện cho khách hàng tham quan và mua hàng. Hai cửa hàng của công ty thương mại An Dương đều được bố trí ở trung tâm thành phố, trên những trục đường giao thông chính, đông người qua lại và xung quanh không có các cửa hàng của các đối thủ cạnh tranh. Nhận thức rõ đây là vị trí có ưu thế thương mại lớn nên năm 1999 công ty đã tăng diện tích kinh doanh của cửa hàng số 1 từ 200 lên 800 m2, tại đây sản phẩm được trưng bày và bố trí hài hòa tạo cho khách hàng có cảm giác ẩm cúng. Đặc biệt tại cửa hàng số 1 cũng là nơi công ty đặt trụ sở chính. Còn cửa hàng số 2 diện tích 200m2 không chỉ nằm ngay cạnh siêu thị thương mại Cát Linh mà còn là nơi tập trung nhiều cửa hàng chuyên cung cấp vật liệu xây dựng.
Kết quả của các chiến dịch quảng cáo và chương trình kích thích tiêu thụ hiệu quả đối với các mặt hàng chủ yếu cùng với đội ngũ nhân viên bán hàng có hiệu quả.
Tất cả những đIều này đều cùng đến làm cho doanh thu của công ty Khách hàng
Cửa hàng số 2
Các phòng ban của công ty
Công ty khác
Công ty thương mạI An Dương
Công ty khác
Công ty SERRANO-Việt Nam LTD
tăng lên.
Ta có đơn giá một số sản phẩm của công ty như sau:
Bộ giường tủ:
-SER 10 + SVW8N 10.500.000 đ
-SER 9 + SVW23 13.500.000 đ
-SB 9 + SVW23 16.200.000 đ
-SER 307 + SVW8N 9.500.000 đ
-SER 304 + SVW8N 9.500.000 đ
Tủ gia đình:
-SVW23 4.725.000 đ
-SVW8N 3.300.000 đ
-SVW28 3.750.000 đ
-SVW38 5.250.000 đ
Giường ngủ:
-MB4 4.275.000 đ
-MB1 3.675.000 đ
-SBB9 4.875.000 đ
-89B 3.825.000 đ
Lưu ý: -Một bộ giường tủ gồm: một giường ngủ, một bàn phấn, một tủ áo ba hoặc bốn cánh, hai táp đầu giường (không bao gồm đệm, ga, gối )
II.Tình hình tài chính và phân tích tài chính doanh nghiệp của công ty An Dương:
2.2.1 Tình hình tài chính của công ty An Dương:
Để xem xét tình hình tài chính của công ty thương mại An Dương trước hết chúng ta có các thông tin từ các báo cáo tài cính sau:
Báo Cáo Kết Quả Kinh Doanh, công ty thương mại An Dương trong một số năm qua (giai đoạn 2000-2003):
BCKQKD:
Đơn vị: 1000 đ
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
Doanh thu thuần
8.542.300
9.346.723
11.555.782
13.457.321
Giá vốn
7.913.200
8.658.336
10.704.698
12.466.189
Chi phí quản lý kinh doanh
184.531
201.889
239.604
290.677
Chi phí khác
27.000
25.432
29.040
31.000
LNTT&lãi
417.587
461.066
582.440
669.455
Lãi vay
146.990
162.295
240.424
168.702
LNTT
270.597
298.771
342.016
500.753
Thuế thu nhập doanh nghiệp
86.591
95.606
109.445
160.241
Lợi nhuận sau thuế
184.006
203.165
232.571
340.512
Nguồn : phòng TC-KT công ty thương mại An Dương
Bảng cân đối kế toán công ty thương mại An Dương (giai đoạn 2000-2003):
BCĐKT:
Đơn vị: 1000 đ
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
I. Tài sản lưu động:
- Tiền mặt
- Tiền gửi ngân hàng
- Phải thu khách hàng
- Phải thu khác
- VAT khấu trừ
- Hàng tồn kho
II. Tài sản cố định:
- TSCĐ ( nguyên giá)
- Khấu hao
- TSCĐ ( giá trị còn lại)
2.099.697
6.761
851.327
68.143
7.678
137.845
1.027.943
147.345
3.678
143.667
2.397.450
7.719
972.051
77.807
8.152
157.392
1.174.392
172.347
4.200
168.147
2.792.510
8.992
1.132.229
90.628
8.235
183.328
1.369.098
200.000
7.532
192.468
3.451.802
11.115
1.399.540
112.024
11.400
226.611
1.691.112
212.000
8.047
203.953
Tổng TS
2.243.364
2.565.597
2.984.978
3.655.755
I. Nợ phải trả:
- Nợ ngắn hạn
- Nợ dài hạn
II. Vốn chủ sở hữu
1.280.815
1.139.925
140.890
962.549
1.429.048
1.236.133
192.915
1.136.549
1.648.429
1.415.171
233.258
1.336.549
2.088.956
1.831.553
257.403
1.566.799
Tổng NV
2.243.364
2.565597
2.984.978
3.655.755
Nguồn : phòng TC-KT công ty thương mại An Dương
Đánh giá khái quát tình hình tài chính của công ty:
Sự phát triển của công ty được thể hiện qua tốc độ gia tăng của vốn năm 2000 nguồn vốn của công ty là 2.243.364.000 đồng năm 2001 là 2.565.597.000 đồng (tăng 14,3% so với năm 2000) ...đến năm 2003 tổng nguồn là 3.655.755.000 đồng (tăng 62,9% so với năm 2000) . Công ty thương mại An Dương đã khai thác tốt các nguồn huy động, tuy nhiên vốn tăng lên chủ yếu là do vay ngắn hạn. trong đó tỷ trọng vốn chủ sở hữu qua các năm như sau: năm 2000 là 42,9% ; năm 2001 là 44,3% ... năm 2003 là 42,8%. Điều này, cho ta thấy công ty có xu hướng sử dụng nợ vay để tài trợ cho các tài sản của mình hơn là sử dụng vốn chủ sở hữu.Điều này, giúp công ty có khả năng gia tăng nhanh lợi nhuận nhưng vẫn nắm được quuyền kiểm soát công ty. Tuy nhiên nó cũng mang lại rủi ro, đó là làm giảm khả năng thanh toán của công ty.
Tổng tài sản công ty không ngừng tăng, nhưng chủ yếu là do tài sản lưu động tăng lên, đặc biệt là hàng tồn kho tăng mạnh điều này là do sản xuất tăng lên.
Qua các báo cáo trên có thể thấy doanh thu của công ty liên tục tăng qua các năm, cụ thể: doanh thu năm 2000 đạt 8.542.300.000 đồng, năm 2001 là 9.346.723.000 đồng (tăng 9,4% so với năm 2000).Đến năm 2002 là 11.555.782.000 đồng (tăng 23,6% so với năm 2001) và đến năm 2003 doanh thu tăng thêm 16,4% so với năm 2002.
Doanh thu của công ty đã tăng đột biến vào năm 2002 và vẫn tăng ở mức cao vào năm 2003, điều này là do nhiều yếu tố mang lại. Những chiến lược kinh doanh mà công ty triển khai đã bắt đầu phát huy hiệu quả, lượng khách hàng tăng nhanh, thương hiệu công ty đã bắt đầu trở nên quen thuộc với khách hàng.
Bên cạnh đó công ty đã khai thác rất tốt khả năng huy động vốn vay với tỷ số nợ/tổng tài sản qua các năm như sau: năm 2000 đạt 57,1% ; năm 2001 đạt 55,7% ; ...năm 2003 đạt 57%. Tác dụng việc này là gia tăng nhanh lợi nhuận cho công ty, nhưng chủ sở hữu vẫn nắm quyền kiểm soát công ty, tuy nhiên việc để tỷ số này ở mức cao chưa hẳn là hoàn toàn tốt, việc này chúng ta sẽ xem xét trong phần sau.
Ngoài ra, còn có nguyên nhân khách quan tác động tới vấn đề này. Đó là, do nền kinh tế nước ta đã và đang phát triển mạnh, thu nhập tăng cao so với trước, đời sống nhân dân được cải thiện, nhu cầu và ước muốn của xã hội ngày càng phát triển theo xu hướng gia tăng cấp độ và mức độ. Mặt khác, xu hướng xây dựng nhà không chỉ đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu sử dụng mà còn đem lại giá trị thẩm mỹ và giá trị tinh thần phục vụ cho nhu càu tự thể hiện bản thân đã làm thay đổi một cách căn bản phần trang trí nội thất bên trong hướng vào những mặt hàng đồ gỗ cao cấp. Cầu về những mặt hàng này tăng lên, số lượng và doanh số bán của các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng này cũng tăng lên. do vậy, công ty thương mại An Dương tăng doanh thu cũng là kết quả tất yếu.
Doanh thu tăng, trong khi đó tốc độ gia tăng của chi phí không cao do đó, lợi nhuận của công ty cũng không ngừng tăng lên, năm 2000 LNST đạt 184.000.000 đồng, năm 2001 là 203.165.000 đồng ... đến năm 2003 đạt mức 340.513.000 đồng.
2.2.2 Vấn đề phân tích tài chính của công ty An Dương:
Dựa vào các báo cáo tài chinh của công ty thương mại An Dương, đưa vào phân tích theo các công cụ đã đưa ra, chúng ta thu được những kết quả sau:
Bảng thuyết minh một số chỉ tiêu phân tích tài chính :
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
Khả năng TTHH
1,8420
1,9400
1,9730
1,8850
Khả năng TTN
0,9410
0,9894
1,0050
0,9613
Khả năng TT lãi vay
2,8400
2,8410
2,4200
3,9700
Vòng quay dự trữ
8,30
7,95
8,44
7,96
DT/VLĐR(%)
95,91
96
96,2
96
Nợ/ TTS(%)
57,1
55,7
55,2
57
ROE (%)
19,1
17,8
17,45
21,7
ROA (%)
8,2
7,91
7,8
9,3
Từ bảng trên ta thấy, các chỉ tiêu đều tương đối ít biến động qua các năm, một số chỉ tiêu hầu như không thay đổi ( Dự trữ / Vốn lưu động ròng). Điều này cho thấy công ty đang ở trong chu kỳ phát triển tưong đối ổn định, tuy nhiên đi vào chi tiết chúng ta sẽ thấy một số vấn đề cần quan tâm đối với tình hình tài chính của công ty :
- Doanh thu tăng lên trong các năm qua, trong khi đó khả năng thanh toán hiện hành luôn ở mức cao (năm 2000 là 1,842 ; năm 2001là 1,94 ; năm 2002 là1,973 ; năm 2003 là 1,885) trong khi nợ ngắn hạn cũng không ngừng tăng lên điều này cho thấy sản xuất không ngừng gia tăng qua các năm. Vì vậy có thể nói, công ty vẫn đáp ứng được khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của mình. Nhưng, cùng với việc đáp ứng được khả năng thanh toán thì công ty cũng sẽ làm giảm bớt lợi nhuận của mình vì chi phí quản lý của công ty sẽ tăng lên.
- tỷ số khả năng thanh toán nhanh lần lượt qua các năm như sau, năm 2000 là 0,941 ; năm 2001là 0,9894 ; năm 2002 là 1,005 ; năm 2003 là 0,9613. Có thể nhận ra là tốc độ gia tăng nợ ngắn hạn là tương đối nhanh qua các năm. tuy dự trữ có thể đảm bảo cho các khoản nợ ngắn hạn nhưng, có thể sẽ rất nguy hiểm khi thị trường đạt được sự bảo hòa, hàng hóa ứ đọng nhiều. Chi phí của công ty sẽ tăng cao, rất dễ dẫn tới mất khả năng thanh toán có thể kéo theo là việc phá sản.
- tỷ số Nợ / tổng tài sản, qua bảng trên ta nhận thấy tỷ số này là tương đối cao vì vậy công ty sẽ khó huy động thêm vốn trong thời gian tới. Tỷ số này cao đồng nghĩa với công ty có lợi nhiều hơn, nhưng cũng có nhiều trách nhiệm hơn đối với các chủ nợ.
- ngoài ra, các chỉ tiêu khác như khả năng thanh toán lãi vay như trên thể hiện, khả năng thanh toán của công ty là chưa cao so với những gì mà công ty đã thể hiện. Tỷ số Dự trữ / vốnlưu động ròng, không thay đổi nhiều nhưng ở mức cao . tức là, dự trữ đang trở thành gánh nặng cho tài sản lưu động, vì vậy tỷ số này cần được giảm xuống nhằm nâng cao khả năng tài trợ cho dự trữ của công ty.
-Về nhóm chỉ tiêu doanh lợi, có thể thấy doanh lợi vốn chủ sở hữu ( ROE) năm 2001 và 2002 có giảm nhưng không đáng kể, đến năm 2003 lại tăng mạnh điều này có thể nói đã làm thỏa mãn các chủ sở hữu. tuy nhiên Doanh lợi tài sản (ROA), thì chưa cao.
-Qua tất cả những phân tích trên, có thể thấy tình hình tài chính của công ty là rất sáng sủa, công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước, chấp hành kỷ luật thanh toán với các đối tác kinh doanh và tiếp tục có lãi. Tuy nhiên cũng qua đó, ta nhận thấy vì công ty đang ở trong một chu kỳ phát triển tốt cho nên những yếu kém về quản lý tài chính chưa bộc lộ rõ ràng, nhưng luôn tiềm sự nguy hiểm có thể xảy ra bất cứ lúc nào. từ đó có thể nhận thấy việc phân tích tài chính là rất cần thiết đối với công ty, nhằm đảm bảo cho hoạt động của công ty được an toàn. tránh tình trạng chủ quan, phiến diện, sự tồn tại và phát triển của công ty phải dựa trên những cơ sở khoa học, đấy mới là sự phát triển thực sự của một công ty. Và mặc dù trong những năm qua, công ty An Dương đã chú ý nhiều tới vấn đề này nhưng chưa quán triệt, thậm chí đôi lúc còn coi phân tích tài chính như là một công việc của kế toán. chính vì vậy trong công tác phân tích tài chính ở công ty không tránh khỏi tồn tại nhiều hạn chế.
III.Những ưu điểm và tồn tại của công ty an An Dương:
2.3.1 Những ưu điểm:
qua quá trình hoạt động và phát triển, công ty thương mại An Dương đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Doanh thu liên tục tăng, thị phần ngày càng mở rộng, hàng hóa của công ty ngày càng trở nên quen thuộc với khách hàng... có được điều này là do khả năng nắm bắt xu hướng thị trường tốt của bộ máy lãnh đạo. đội ngũ nhân viên có năng lực, khả năng làm việc tập thể rất tốt, không khí làm việc sôi nổi đoàn kết, nhưng không thiếu tính cạnh tranh, những điều này giúp cho công ty đạt được hiệu suất công việc cao.
Công ty liên tục có sự đổi mới về sản phẩm, không ngừng nâng cao chất lượng đa dạng về mẫu mã. chủng loại mặt hàng của công ty được mở rộng về chiều dài. Dịch vụ sau bán cũng như công tác bảo hiểm được công ty quan tâm triệt để, công ty hoạt động hướng tới việc tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu, nghĩa là chỉ cung cấp cho khách hàng những sản phẩm đã qua kiểm tra, đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật. Trong cuộc chiến thương hiệu, công ty đã dần dần khẳng định được vị thế của mình trước các đối thủ cạnh tranh.
Bên cạnh đó công ty đã đạt được những bước tiến nhảy vọt, nhờ vào khả năng huy động vốn và sử dụng vốn tương đối hiệu quả. Lợi nhuận của công ty không ngừng tăng lên qua các năm,thu nhập công nhân viên của công ty ngày càng tăng trong khi đó công ty cũng luôn thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với nhà nước, qua việc nộp thuế, và các loại phí và lệ phí. Tuy nhiên công ty cũng còn tồn tại nhiều hạn chế mà chúng ta sẽ bàn tới trong phần sau.
2.3.2 Những tồn tại trong việc quản lý tài chính và phân tích tài chính
Quản lý dự trữ còn yếu kém
Cơ cấu vốn chưa hợp lý
Công tác phân tích tài chính chưa được chú trọng
2.3.2.1 Quản lý dự trữ còn yếu kém:
điều thể hiện ở một số chỉ tiêu đã được phân tích ở trên, như chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành hay chỉ tiêu thanh toán nhanh, nhưng phản ánh rõ nhất chính là chỉ tiêu tỷ số Dự trữ / Vốn lưu động ròng, (với chỉ tiêu này năm 2000 là 95,91% ; năm 2001 là 96%; năm 2002 : 96,2% ; năm 2003: 96%) và chỉ tiêu vòng quay Dự trữ, ta có thể thấy chỉ tiêu DT / VLĐR của công ty là tương đối cao còn chỉ tiêu vòng quay dự trữ lại thấp. điều này chứng tỏ sự bất hợp lý và kém hiệu quả trong hoạt động quản lý của công ty, vì vậylàm gia tăng chi phí cho doanh nghiệp tức gián tiếp làm giảm lợi nhuận của công ty. Ngoài ra, dự trữ cao còn có thể dẫn tới làm đình trệ sản xuất, quay vòng vốn chậm làm cho công ty có thể sẽ mất đi những cơ hội đầu tư mới. Vì vậy công ty cần giảm chỉ tiêu tỷ số DT / VLĐR xuống cũng như xem xét lại khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhằm đưa ra những giải phãpử lý đúng đắn
2.3.2.2 cơ cấu vốn chưa hợp lý:
Một công ty muốn hoạt động hiệu quả, phải có được một cơ cấu vốn tối ưu nhất. Nhưng, như thế nào là một cơ cấu vốn tối ưu? rõ ràng rất khó có câu trả lời chính xác cho câu hỏi này, và người ta cũng nhận ra rằng chỉ có thể tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý cho từng hoàn cảnh, ngành nghề trong mỗi thời điểm nhất định mà thôi.
Trở lại với tình hình của công ty thương mại An Dương, có thể thấy rằng mặc dù công ty đang trong giai đoạn phát triển của một chu kỳ kinh tế, nhưng cơ cấu vốn của công ty là còn tồn tại nhiều bất cập. đó là việc công ty sử dụng nguồn vốn vay tương đối cao, với tỷ số Nợ /Tổng tài sản, qua các năm đều trên 55% ,tỷ lệ này cho thấy công ty sẽ được lợi vì gia tăng nhanh lợi nhuận, mà vẫn nắm quyền kiểm soát công ty . tuy nhiên, nếu việc sử dụng tỷ lệ nợ cao là còn dao hai lưỡi nó có thể làm cho công ty mất khả năng thanh toán, cũng như việc huy động thêm vốn rất khó khăn điều này làm mất tính chủ động trong ứng phó của công ty khi xảy ra các tình huống xấu trong nền kinh tế . không những thế, khả năng thanh toán lãi vay của công ty là chưa cao, điều này thể hiện khả năng sinh lợi của tài sản thấp.
2.3.2.3 Công tác phân tích tài chính chưa được chú trọng:
cũng giống như đa số các công ty trong nước, công ty TNHH An Dương chưa thực sự quan tâm đến công tác phân tích tài chính . mà chủ yếu nắm bắt tình hình tài chính của công ty thông qua các báo cáo tài chính được báo cáo bởi các kế toán trưởng.
Có một ưu điểm nổi bật của công ty TNHH An Dương là đã tuyển chọn được một đọi ngũ kế toán không chỉ có bằng cấp (đại học và sau đại học) mà thực sự là những kế toán vững vàng về nghiệp vụ, sổ sách minh bạch, lưu trữ cẩn thận, sắp xếp khoa học.khi lập các báo cáo tài chính họ đã tuân thủ nghiêm chỉnh khâu kiểm tra, đối chiếu số liệu kế toán giữa các sổ sách có liên quan, do đó số liệu trên các báo cáo tài chính đảm bảo tính chính xác. đây thực sự là một thuận lợi của công ty trong qúa trình tiến hành phân tích tài chính của công ty.
Tuy nhiên, mặc dù công tác phân tích tài chính ở công ty TNHH An Dương đã được đề cập đến nhưng chưa được coi trọng điều này thể hiện qua những hạn chế sau:
Công ty chưa lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ hàng năm. do vậy lãnh đạo công ty gặp khó khăn trong việc đánh giá khả năng tạo ra luồng tiền trong kỳ tiếp theo, sự biến động của tài sản, và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu tài chính của công ty mới chỉ được so sánh giữa các nămvới nhau mà chưa được đối chiếu với các chỉ tiêu cùng loại của các công ty kinh doanh đồ gỗ khác, cũng chưa đối chiếu với mức trung bình ngành để thấy được vị thế của công ty An Dương trong ngành kinh doanh đồ gỗ nội thất.
Ngoài ra, phân tích tài chính tại công ty chỉ dựa chủ yếu vào các số liệu kế toán của các báo cáo tài chính, mà chưa sử dụng các thông tin khác về bối cảnh kinh tế trong nước cũng như quốc tế.
Phân tích tài chính của công ty An Dương mới chỉ được tiến hành trên cơ sở tính toán một số chỉ tiêu tài chính theo phương pháp tỷ lệ kết hợp với phương pháp so sánh, nhằm xem xét xu hướng biến động của từng chỉ tiêu qua các năm qua các năm từ 2000 đến năm 2003. Rõ ràng nếu chỉ làm như thế thì chưa phong phú. Trong mỗi nhóm chỉ tiêu còn cần phải sử dụng thêm một số phương pháp khác thì mới có thể đánh giá chính xác tình hình tài chính của công ty.
Công ty chưa phân tích đầy đủ các nội dung, và với mỗi nội dung được phân tích những đánh giá những nhận xét còn chưa sâu sắc. công ty chú ý nhiều vào các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi mà xem nhẹ các chỉ tiêu khác phản ánh khả năng thanh toán, khả năng hoạt động, tình hình cơ cấu vốn. đối với nhà quản lý doanh nghiệp, khả năng sinh lợi là quan trọng nhưng cũng không thể xem nhẹ các yếu tố khác trong hoạt động của mình. Vì khả năng sinh lợi chỉ được cải thiện vững chắc khi khả năng thanh toán và tình hình cơ cấu vốn được đảm bảo hợp lý, tình hình sử dụng vốn và nguồn vốn hiệu quả.
Phân tích tài chính tại công ty An Dương còn những hạn chế trên là do những nguyên nhân sau:
Nguyên nhân chủ quan
- lập và tổ chức công tác phân tích tài chính chưa được tốt
Phân tích tài chính của công ty mới dừng ở dạng thuyết minh báo cáo tài chính. Phân tích tài chính là công tác khoa học nên rất khó, được làm ra để lãnh đạo sử dụng có kết quả vào công việc lên kế hoạch kinh donh, điều chỉnh các hoạt động trong doanh nghiệp. Vì thế người làm phân tích tài chính ngoài các nghiệp vụ còn phải rất có kinh nghiệm. Tuy nhiên công ty An Dương chưa có cán bộ chuyên trách về phân tích tài chính (việc phân tích tài chính do nhân viên phòng tài chính kế toán kiêm nhiệm.
Trình độ cán bộ làm phân tích taì chính còn hạn chế
Các nhân viên Phòng Tài chính - Kế toán của công ty đều làm tốt công
tác kế toán và có tâm lý chỉ tập trung vào công tác kế toán. Còn phân tích tài chính tuy ai cũng nhận thức được đó là một công tác rất quan trọng, nhưng quan trọng với lãnh đạo công ty thôi. Có lẽ vì thế nên khi lập báo cáo tài chính và phân tích tài chính từ các số liệu của kế toán tài vụ và kế toán tổng hợp người ta chưa dốc sức làm kỹ càng, cứ theo lối mòn đã có mà làm, một số chỉ tiêu tài chính rất cần cho phân tích tài chính luôn bị thiếu vắng. Ngoài ra còn do các phương pháp phân tích luôn được bổ sung và đổi mới mà các nhân viên Phòng Tài chính - Kế toán chưa tiếp cận được nên bỏ qua; một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính bị bỏ qua do thiếu thông tin bên ngoài ( như các số liệu thuộc các công ty khác cùng ngành hàng ).
Thông tin sử dụng trong phân tích còn thiếu
Lãnh đạo công ty tuy coi trọng phân tích tài chính nhưng lại chưa thấy hết tầm quan trọng của các thông tin, nhất là thông tin từ bên ngoài. Phân tích tài chính đòi hỏi thông tin phải chính xác, đầy đủ, kịp thời trên nhiều lĩnh vực. Rõ ràng để kinh doanh có hiệu quả, nhất là trong mối trường cạnh tranh như hiện nay, thị trường có nhiều biến đống không chỉ từng thán mà có khi là từng ngày, thì việc thu thập thông tin từ bên ngoài là rất quan trọng, trong đó có thông tin giá cả, tỷ giá, các thông tin về các công ty kinh doanh cùng ngành hàng như : Nhà Xinh, Nhà Đẹp, Tâm Tụ, Kim Quy. . . Còn phải kể đến các thông tin về thị trường tiêu thụ. Chính vì vậy, thu thập thông tin, xử lý thông tin, có những thông tin do Chính Phủ cung cấp, có thông tin phải mua hoặc truy cập qua Internet là rất cần thiết. ấy vậy mà đến nay công ty An Dương vẫn chưa có được nhân viên đặc trách công tác thông tin.
Các chỉ tiêu phân tích tài chính chưa đầy đủ
Lãnh đạo công ty có ý thức coi trọng công tác phân tích tài chính, nhưng đê mất quá nhiều thời gian cho việc nghiên cứu và đánh giá các báo cáo tài chính, các phân tích tài chính do kế toán trưởng trình lên. Giám đốc ít khi yêu cầu phải cung cấp thêm các chỉ tiêu tài chính mà báo cáo tài chính được trình lên để giám đốc hoàn thiện việc phân tích tài chính.
Nguyên nhân khách quan
- Công tác kế toán chưa hoàn thiện nên phân tích tài chính chưa được đầy đủ, chính xác. Báo cáo tài chính của các công ty không được công khai, do đó khi tiến hành phân tích tài chính công ty không thể biết được các chỉ tiêu tài chính tương tự ở các doanh nghiệp khác trong cùng ngành và chưa có cơ quan nào chính thức đứng ra cung cấp mức trung bình của ngành một cách đầy đủ, kịp thời để công ty tiến hành so sánh, xác định vị thế của công ty.
- Trong công tác kế toán, việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ chưa phải là yêu cầu bắt buộc nên công ty không lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ, do đó nguồn thông tin sử dụng trong phân tích tài chính là chưa đầy đủ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ lại là một tài liệu rất quan trọng cung cấp các thông tin về luồng tiền vào, ra trong chu kỳ của công ty, là cơ sở để công ty có chính sách quản lý ngân quỹ hợp lý. Nhiều thuật ngữ sử dụng trong các văn bản pháp quy còn chưa thống nhất và chưa chính xác dễ gây nhầm lẫn.
- thị trường tiền tệ, thị trường vốn của Việt Nam chưa phát triển nên phân tích tài chính chưa được quan tâm đúng mức. Khi các thị trường này được xây dựng hoàn chỉnh và hoạt động đầy đủ thì nhà đầu tư mới có cơ hội đầu tư vào các doanh nghiệpvà do đó họ cần phải biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp trước khi quyết định đầu tư, tức là họ phải phân tích tài chính doanh nghiệp và đến lúc đó, các công ty sẽ phải công khai hóa các báo cáo tài chính và có công ty kiểm toán thẩm định lại tính chính xác của các báo cáo này, nhờ đó công tác phân tích tài chính sẽ được thực hiện có hiệu quả hơn. trong khi đó, hiện nay ở Việt Nam thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt độngnên chưa hoàn thiện, số lượng công ty tham gia niêm yết ít, số người tham gia giao dịch nhỏ và không chuyên nghiệpnên vai trò của phân tích tài chính chưa được coi trọng, việc phân tích còn mang tính đối phó.
- đặc thù kinh doanh của công ty: đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty phụ thuộc vào dân cư, tình trạng của nền kinh tế hay nói khác đi là phụ thuộc vào mức thu nhập của dân cư, do đó, dù cố gắng hết sức thì tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận... còn phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Chương III:
Một số kiến nghị nhằm khắc phục tồn tại trong công tác quản lý tài chính và phân tích tài chính của công ty TNHH An Dương
III.1. Những giải pháp chủ yếu trong công tác quản lý tài chính và phân tích tài chính của công ty TNHH An Dương:
3.1.1 Nâng cao hiệu quả trong hoạt động quản lý dự trữ của công ty TNHH An Dương và xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý:
3.1.1.1 Nâng cao hiệu quả trong hoạt động quản lý dự trữ của công ty:
Trong mỗi doanh nghiệp, dự trữ thường đóng vai trò quan trọng trong chiến lược hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mức dự trữ tại mỗi thời điểm của doanh nghiệp được phản ánh trên bảng BCĐKT , dự trữ được xem là TSLĐ quan trọng nhất của doanh nghiệp , thể hiện được khả năng tài chính của công ty.
Chính vì vậy, hoạt động quản lý dự trữ luôn được xem là hoạt động quan trọng nhất, nhưng cũng rất phức tạp của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy bên cạnh những đòi hỏi về cơ sở vật chất (nhà kho, bến bãi...) đảm bảo, hoạt động này còn đòi hỏi trình độ nghiệp vụ cao về quản lý tài chính, và hiểu biết sâu sắc về hoạt động kinh doanh, cũng như hiểu biết về thị trường.
Trở lại với công ty TNHH An Dương, có thể thấy mặc dù công ty trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng hoạt động quản lý dự trữ là chưa tốt chính vì vậy đã tạo ra những sự lãng phí trong kinh doanh và sự thiếu linh hoạt trong hoạt động của công ty. Có một số chỉ tiêu thể hiện rõ sự yếu kém này tuy nhiên ở đây ta xêm xét hai chỉ tiêu quan trọng là tỷ số Dự trữ / Vốn lưu động ròng (DT?VLĐR) và Vòng quay dự trữ (VQDT):
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
DT/VLĐR
95,91%
96%
96,2%
96%
VQDT
8,3
7,958
8,44
7,96
Qua bảng trên ta nhận thấy, trong khi là gánh nặng cho khả năng tài trợ của TSLĐ thì hiệu quả hoạt động lại không thuyết phục, mặc dù đây là giai đoạn phát triển của công ty.
Một số ý kiến bản thân
Để khắc phục có nhiều cách, tuy nhiên đối với trường hợp của công ty TNHH An Dương, cần có một số biện pháp trước mắt cũng như lâu dài. Trước hết cần tìm cách giảm lượng dự trữ xuống nhằm đạt được tỷ trọng cần thiết, làm việc này tức là sẽ có sự tác động tới cả hoạt động sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm. Có thể công ty sẽ phải giảm sản lượng sản xuất, gia tăng chi phí cho các hoạt động marketing , quảng cáo... nhằm đẩy mạnh quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Bên cạnh đó công ty cần tiến hành nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý dự trữ, cũng như tạo điều kiện cho họ nắm bắt được những thông tin thị trường và tình hình tài chính của công ty một cách tốt nhất. Thúc đẩy công tác phân tích tài chính, nhằm mục đích nắm bắt tình hình công ty được tốt hơn. nếu công ty làm được những điều này không những doanh thu của công ty không giảm, mà qua việc này chi phí lưu kho, bến bãi... chi phí tài trợ, chi phí tài chính...qua đó sẽ giảm xuống, tức là lợi nhuận công ty sẽ tăng lên. không những vậy, công ty cũng có được sự linh hoạt trong các chính sách đầu tư của mình, cũng như việc đối phó với những tình huống bất lợi mà thị trường đem lại. Cũng qua đó cơ cấu vốn của công ty cũng đạt được sự hợp lý cần thiết.
3.1.1.2 Xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý:
Trước hết để đưa ra những giải pháp cho một cơ cấu vốn hợp lý ở công ty TNHH An Dương, chúng ta cần xem xét nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn của công ty như tỷ số Nợ / Tổng tài sản (hệ số nợ), khả năng thanh toán lãi vay( số lần có thể trả lãi)
Biểu:
Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2003
Hệ số nợ
57,1%
55,7%
55,2%
57%
KNTTLV
2,84
2,841
2,42
3,97
Điều dễ dàng nhận thấy qua các chỉ tiêu trên là công ty sẽ không thể huy động thêm vốn trong thời gian tới bởi vì hệ số nợ cao trong khi đó việc thanh toán lãi của công ty cho các chủ nợ là thấp.
Với việc hệ số nợ cao, công ty có điều kiện gia tăng nhanh lợi nhuận nhưng vẫn đảm bảo toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Tất nhiên các chủ sở hữu công ty TNHH An Dương để tỷ số này ở mức cao cũng không nằm ngoài mục đích này. Tuy nhiên phần lớn các khoản nợ của công ty là nợ ngắn hạn, điều này là rất không nên, bởi vì một cơ cấu vốn như vậy là rất mạo hiểm, nó có thể đưa công ty tới chỗ mất khả năng thanh toán, và dẫn tới phá sản công ty nếu công ty gặp bất trắc trong hoạt động trên thương trường, điều này là thường xuyên xảy ra trong nền kinh tế thị trường đầy rẫy những biến động phức tạp.
Một số ý kiến cho một cơ cấu vốn hợp lý ở công ty TNHH An Dương:
Để đưa ra một cơ cấu vốn hợp lý là rất khó khăn, với điều kiện hạn chế về thông tin, cũng như cơ cấu công ty, em chỉ xin đưa ra một số ý kiến trong cơ cấu vốn của công ty nhằm giảm bớt những rủi ro tài chính cho công ty. Trước hết công ty cần giảm các khoản tài trợ từ vay nợ nhắn hạn, khi đó đồng thời tiến hành đầu tư về chiều sâu, gia tăng tài sản thông qua tài trợ bằng các nguồn vốn góp bổ sung của các chủ sở hữu (vì công ty đang trong giai đoạn phát triển cho nên không thể thay đổi cơ cấu vốn qua việc cắt giảm đầu tư). không những vậy, công ty cần tìm kiếm và sau đó thay đổi các nguồn tài trợ nhằm tạo ra được sự đa dạng trong danh mục tài trợ để giảm thiểu rủi ro. Hệ số nợ tốt nhất chỉ nên đạt dưới 50% trong khi đó khả năng thanh toán lãi vay phải tối thiểu đạt mức 5.
Về công tác quản lý cơ cấu vốn, luôn gắn liền với công tác phân tích tài chính, vì vậy bên cạnh việc nâng cao năng lực quản lý tài chính của cán bộ viên chức, thì cần quan tâm đúng mực đối với công tác phân tích doanh nghiệp.
Qua việc đưa ra những ý kiến về các vấn đề trên, sau khi đã phân tích một cách khoa học các báo cáo tài chính của công ty TNHH An Dương. Điều em muốn nêu bật lên không chỉ là những tồn tại về hoạt động quản lý tài chính của công ty mà em còn muốn nêu lên tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp đối với công ty TNHH An Dương. Những khiếm khuyết về tài chính của công ty đã được nêu rõ mà nếu chỉ nhìn vào số liệu kế toán đơn thuần sẽ không thể phát hiện hết được. Chính vì vậy công tác phân tích tài chính ở công ty TNHH An Dương cần được hoàn thiện hơn, và công ty nên giành sự quan tâm nhiều hơn cho công tác này trong thời gian tới.
3.1.2 Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty TNHH An Dương :
Mục tiêu của phân tích tài chính là phản ánh tình hình tài chính của công ty làm cơ sở cho các quyết định và giúp lập kế hoạch tài chính cho tương lai. Tuy nhiên, với những nội dung như hiện tại, phân tích tài chính của công ty chưa thể đạt đến mục tiêu đó. Vì vậy, giải pháp đưa ra gồm:
3.1.2.1 Lập và tổ chức tốt công tác phân tích tài chính tại công ty:
Công tác phân tích tài chính của công ty TNHH An Dương đã được triển khai nhưng chưa được thực hiện một cách có bài bản, dựa trên một hệ thống cơ sở lý luận vững chắc, phương pháp phân tích hoàn chỉnh. điều này gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước nói chung và cho các nhà quản lý doanh nghiệp nói riêng trong việc đưa ra các quyết định quản lý phù hợp. Vì vậy để khắc phục những hạn chế đó, công ty nên thực hiện phân tích theo một quy trình hoàn chỉnh với đầy đủ nội dung phân tích, phương pháp và thông tin sử dụng, đảm bảo tốt chất lượng nhân sự cho công tác phân tích. Cụ thể công ty nên tiến hành phân tích theo các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị cho công tác phân tích
- Phải xác định được mục tiêu chính cần phân tích, từ đó lập kế hoạch phân tích (thời gian tiến hành, số lượng nhân sự và phân công chi tiết).
- Thông báo cho các bộ phận để có kế hoạch phối hợp thực hiện phân tích.
- Thu thập, xử lý sơ bộ các thông tin: từ thông tin bên ngoài cho đến thông tin nội bộ, mà quan trọng hơn hết là thông tin kế toán.
Bước 2: Tiến hành phân tích
Tiến hành phân tích đầy đủ các nội dung theo quy định của nhà nước và theo yêu cầu chung của công ty. Trên cơ sở đó, tùy theo mục tiêu nghiên cứu, ứng dụng cụ thể sẽ đi sâu vào phân tích các nội dung có liên quan.
Bước 3: Báo cáo kết quả phân tích
Tổng hợp số liệu để đưa ra các nhận xét, đánh giá về kết quả kinh doanh của công ty trong kỳ phân tích trên cơ sở so sánh với kỳ trước, với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Dựa vào đó, đưa ra các giải pháp để phát huy những thành công đã đạt được và khắc phục các hạn chế còn tồn tại, lập kế hoạch tài chính chung cho năm tới và đưa ra các dự báo tài chính cụ thể.
Tuy nhiên để đảm bảo chất lượng phân tích, khi tiến hành phân tích theo quy trình trên, thì trước hết công ty cần phải nâng cao chất lượng nhân sự phân tích tài chính, thông tin, phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính, hoàn thiện các chỉ tiêu đánh giá công tác phân tích tài chính và nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty.
3.1.2.2 Nâng cao trình độ cán bộ phân tích tài chính:
Chất lượng phân tích tài chính phụ thuộc rất nhiều vào trình độ cán bộ thực hiện công tác phân tích. Hiện nay, các nhân viên phòng Tài chính - Kế toán hầu hết đều tốt nghiệp đại học, có kiến thức khá vững chắc về kế toán. Mặc dù vậy, với những thay đổi mang tính chất thường xuyên của hệ thống kế toán, pháp luật Việt Nam, trước mắt công ty cần có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ kế toán để nâng cao chất lượng kết quả phân tích tài chính.
Công ty nên tổ chức các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ kế toánbằng cách mời các chuyên gia có kinh nghiệm đến dạy hoặc cử nhân viên tham gia các lớp học về kế toán do Bộ Tài Chính mở.
Hơn nữa, trong tình hình hiện nay, các doanh nghiệp phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng quản lý. Chính vì vậy, tầm quan trọng của phân tích tài chính ngày càng được khẳng định và đòi hỏi doanh nghiệp phải có một đội ngũ cán bộ phân tích tài chính giỏi về chuyên môn, hiểu biết sâu rộng về đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, về môi trường kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính của nhà nước, chính sách thuế, những xu hướng biến động của nền kinh tế trong nước và quốc tế...
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra hiện nay là công ty An Dương cũng như nhiều công ty kháckhông có cán bộ chuyên trách về phân tích tài chính, công việc này do các nhân viên phòng Tài chính - Kế toán thực hiện, mà cũng mới chỉ thực hiện dưới hình thức thuyết minh báo cáo tài chính, không đủ cơ sở để đánh giá toàn diệntình hình tài chính của cônh ty. Vì vậy, về lâu dài, công ty bên cạnh việc cử nhân viên đi bồi dưỡng nghiệp vụhàng năm cũng cần phải tuyển thêm một người chuyên trách phân tích tài chính của công ty hoặc cắt cử một người có năng lực trong số nhân viên của công ty, để đào tạo chỉ thực hiện công tác phân tích tài chính của công ty.
Công ty cũng cần tổ chức hướng dẫn, cập nhật cho các cán bộ quản lý nói chung và cán bộ phân tích nói riêng về việc áp dụng các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực sản xuất kinh doanh của công ty, mới được ban hành.
3.1.2.3 Sử dụng đầy đủ thông tin và phương pháp phân tích:
Để công tác tài chính đạt được kết quả chính xác, đánh giá đúng thực trạng bức tranh tài chính của doanh nghiệp, yêu cầu nhà phân tích phải kết hợp đồng bộ nhiều nguồn thông tin.
Với nguồn thông tin bên ngoài:
- Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành: đây là hệ thống chỉ tiêu tham chiếu quan trọng của công ty. Nhìn chung, đến nay hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành đã có nhưng chưa đầy đủ và thường không chính xác, cập nhật. Hiện nay, theo quy định của Nhà Nước, mỗi năm các doanh nghiệp phải gửi báo cáo tài chính của mình cho cơ quan tài chính, cơ quan thuế, cơ quan thống kê và Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư nếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, đối với một số doanh nghiệp, theo quy định của nhà nước phải công bố công khai một số tỷ lệ tài chính. Vì vậy, các cơ quan nói trên hoàn toàn có thể cung cấpcác chỉ tiêu trung bình ngành cho công ty khi công ty yêu cầu. Tuy nhiên, một thực trạng hết sức phổ biến ở các doanh nghiệp hiện nay là khâu hạch toán thường làm để đối phóvới các cơ quan thuế vụ và cấp trên. không hiếm trường hợp một doanh nghiệp tồn tại ba loại sổ sách hạch toán riêng: một cho mình, một cho cấp trên, một cho cơ quan thuế vụ. Chính vì vậy, các chỉ tiêu trung bình ngành thường sai lệch so với thực tế. Mặt khác, hoạt động phân tích tài chính ở nước ta chưa trở thành việc làm thường xuyên và hệ thống thông tin chưa hoàn hảo nên các chỉ tiêu trung bình ngành dù quan trọng nhưng hiện tại, công ty An Dương chỉ nên xem đó là tiêu chuẩn để tham khảo. do đó, các cán bộ phân tích giỏi về chuyên môn, am hiểu thị trường mới là quan trọng. Nguồn thông tin bên ngoài còn bao gồm những thông tin về tình hình trong nước và quốc tế có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, do đó, cán bộ phân tích tài chính của công ty cần thực hiện theo các giải pháp sau:
+ Theo dõi sự biến động của lãi suất ngân hàng một cách thường xuyên bởi nó ảnh hưởng đến số lãi vay ngân hàng của các khoản nợ ngắn và dài hạn, đến các khoản đầu tư tài chính của công ty.
+ Thu thập các thông tin về sự thay đổi chỉ số giá các yếu tố đầu vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh để kết hợp trong phân tích, có các giải pháp hợp lý trong trường hợp khan hiếm nguyên liệu đầu vào hay trường hợp chỉ số giá biến động thất thường.
+ Tìm hiểu về chiến lược kinh doanh của các đối thủ để có biện pháp đối phó kịp thời vì nó ảnh hưởng đến doanh thu, lợi nhuận của công ty.
+ Các chủ trương, chính sách của Nhà Nước liên quan đến xuất nhập khẩu, đặc biệt các chính sách liên quan đến lĩnh vực đồ gỗ cần được quan tâm.
để có được nguồn thông tin này các cán bộ phân tích có thể theo dõi trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, internet... đặt mua các văn bản pháp luật mơi có liên quan đến lĩnh vực hoạt động của công ty. Trên cơ sở đó, cán bộ phân tích sử dụng những thông tin này để dự toán nhu cầu tài chính doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho năm tới.
Với nguồn thông tin bên trong:
Công ty cần thu thập tất cả các số liệu kế toán cần thiết để lập đầy đủ các báo cáo tài chính, nguồn thông tin chủ yếu cho việc phân tích tài chính. Các thông tin này phải được cung cấp một cách kịp thời, cập nhật, đầy đủ để công tác phân tích đạt hiệu quả.
Hiện nay, công ty chưa tiến hành lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ và đây quả là một thiếu sót của công ty, mặc dù biết rằng vẫn biết rằng báo cáo lưu chuyển tiền tệ tạm thời chưa được quy định là bắt buộc đối với các doanh nghiệp nhưng nó vẫn được khuyến khích lập và sử dụng. Bởi thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tễe có được những thông tin rõ nét về việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ, người sử dụng có thể đánh giá khả năng tạo tiền, sự biến động tài sản thuần của doanh nghiệp, khả năng thanh toán và dự đoán luồng tiền trong kỳ tiếp theo. Mặt khác, báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn cung cấp các thông tin để tạo ra các tài sản tương đương tiền và nhu cầu của doanh nghiệp trong việc sử dụng các khoản tiền, cung cấp các thông tin về nguồn hình thành từ các lĩnh vực hoạt động kinh doanh, đầu tư tài chính, hoạt động bất thường... để đánh giá ảnh hưởng của các hoạt động đó đối với tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, việc lập đủ các báo cáo tài chính sẽ tạo ra một ấn tượng tốt về về sự quy củ trong quản lý tài chính của công ty trước các đối tác, tạo nên lợi thế cho công ty trong cạnh tranh trong thời gian tới.
Sử dụng thông tin phải kết hợp với yêu cầu thông tin sử dụng phải có tính chính xác. do đó, kế toán trưởng nên chỉ đạo công tác kiểm toán nội bộ trong công ty để đảm bảo thông tin được sử dụng là thông tin “ sạch “ . bên cạnh đó, công ty cũng nên khuyến khích sự phân tích, đề xuất của cán bộ công nhân viên về tình hình sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hóabởi đây cũng là nguồn thông tin bổ sung quan trọng, góp phần làm tăng thông tin cho công tác phân tích.
Kết hợp các phương pháp phân tích :
Phương pháp phân tích tỷ lệ cho phép nhà phân tích đánh giá , so sánh các chỉ tiêu tài chính đặc trưng qua các thời kỳ để thấy được tình hình tài chính của công ty mạnh yếu thế nào. Còn phương pháp Dupont lại giúp đánh giá mối quan hệ tác động qua lại giữa các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của công ty. Vì vậy, để có được bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính doanh nghiệp, đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các phương pháp tài chính.
ROE = LNST/VCSH = LNST/DT x DT/TS x TS/VCSH
Qua phương trình này ta thấy được tác động của doanh thu tiêu thụ, hiệu suất sử dụng tài sản, nghịch đảo của hệ số cơ cấu nguồn vốn đối với sự biến động của doanh lợi vốn chủ sở hữu.
LNST
LNST LNST TS ROA
ROE = = = =
VCSH Tài sản -Nợ TS - Nợ 1- Hệ số nợ
TS
Sự phân tích các thành phần của doanh lợi vốn chủ sở hữu cho thấy khi hệ số nợ tăng lên thì doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng cao hơn. tuy nhiên, nợ lại là công cụ có tính hai mặt: một mặt nó khuyếch đại tỷ suất lợi nhuận nếu doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, các dự án đầu tư từ vốn vay đem lại tỷ lệ hoàn vốn cao hơn chi phí lãi vay và phần chênh lệch bổ sung cho lợi nhuận của chủ sở hữu; mặt khác vay nợ có thể làm thua lỗ thêm nặng nề mếu doanh nghiệp đang thua lỗ hoặc lợi nhuận thấp thì phải đeo gánh nặng chi phí lãi.
Trên đây là những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác chính của công ty TNHH An Dương, cùng một số kiến nghị của bản thân . Em hy vọng rằng những điều đó cũng giúp ích một phần nào đấy cho sự phát triển của công ty trong tương lai.
III.2. Những tiền đề để thực hiện các giải pháp đã nêu:
Bên cạnh những nổ lực từ phía các doanh nghiệp, thì Nhà Nước cũng phải có những sự đổi mới nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát huy được hết khả năng của mình. Vì vậy, em xin có một số kiến nghị với Nhà Nước như sau:
3.2.1 Hoàn thiện chế độ kế toán:
Nền kinh tế nước ta trong hơn một thập kỷ qua đã có nhiều biến chuyển với sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Chế độ kế toán Việt Nam qua đó cũng liên tục được đổi mới cho phù hợp. Trong những năm tới , xu hướng hòa nhập sẽ ngày một phát triển mạnh mẽ hơn, do đó Nhà Nước cần phải tiếp tục có các giải pháp cụ thể để hoàn thiện hơn nữa chế độ kế toán của Việt Nam nhằm đảm bảo chế độ này luôn phù hợpvới mọi thành phần kinh tế và nguyên tắc thông lệ có tính phổ biến của kế toán ở các nước phát triển. Đồng thời Nhà Nướcluôn phải chú ý đến những vướng mắc về chế độ kế toán có thể phát sinh để xử lý kịp thời. Pháp lệnh kế toán việt nam ra đời trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang từng bước chuyển sang kinh tế thị trường nên còn nhiều tồn tại, bất cập. Vì vậy, Nhà Nước nên sớm xây dựng luật kế toán Việt Nam nhằm tạo ra nền tảng và cơ sở pháp lý hoàn chỉnh về kế toán và kiểm toán, tránh để không xảy ra tình trạng nhiều cơ quan cùng có những quy định khác nhau về cùng một lĩnh vực hoạt động doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong thời gian trước mắt, bộ Tài Chính cần có quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhằm cung cấp các thông tin về luồng tiền vào, ra trong kỳ, phản ánh trạng thái động của doanh nghiệp để bổ sung cho các tài liệu khác như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh khi đánh giá về hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, nên có quy định cụ thể về vấn đềcác doanh nghiệp phải thực hiện công khaibáo cáo tài chính để làm cơ sổ cho việc quản lý doanh nghiệp và phân tích tài chính được dễ dàng, thuận lợi, chính xác hơn. Hiện nay chỉ có bản thân doanh nghiệp và các cơ quan quản lý doanh nghiệplà có đủ tài liệu để phân tích tài chính còn những người ngoài doanh nghiệp chưa thể tìm hiểu cụ thể về doanh nghiệp mà mình quan tâm. Ngoài ra, cần tiến tới yêu cầu các doanh nghiệp phải thực hiện phân tích tài chính để tự đánh giá hoạt động của mình và báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên. phân tích tài chính vẫn còn mới mẻ đối với các doanh nghiệp nên Bộ Tài Chính cần có sự hướng dẫn cụ thể và các biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện phân tích tài chính tại doanh nghiệp mình.
3.2.2 Tăng cường vai trò của công tác kiểm toán:
Công tác kiểm toán ở Việt nam tuy mới ra đời và phát triển nhưng đã có địa vị pháp lý vững chắc, công tác kiểm toán nội bộ của nhiều doanh nghiệp đã được thực hiện, trong những năm qua là một bước tiến quan trọng trong công tác quản lý tài chính của các doanh nghiệp này. Trên thực tế, phạm vi và mục đích của kiểm toán nội bộ thường biến động và phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu của doanh nghiệp cũng như yêu cầu của các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp. Vì thế, một mặt để đảm bảo tính khách quan của công tác kiểm toán, mặt khác để tăng cường sự kiểm tra của Nhà nước về tính thích hợp của chế độ kế toán, tình hình tài chính doanh nghiệp và việc thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà Nước thì các cơ quan kiểm toán của Nhà Nước như: kiểm toán Nhà Nước , kiểm toán bộ Tài Chính... cần thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình, đảm bảo công tác kiểm toán của các cơ quan này tiến hành tại các doanh nghiệp được thực hiện đúng thời gian quy định, đầy đủ các nội dung nghiệp vụ, báo cáo kịp thời lên bộ Tài Chính những bất hợp lý phát sinh. Qua đó thúc đẩy tính chuyên nghiệp, quy củ trong công tác quản lý tài chính nói chung và phân tích tài chính nói riêng ở các doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua đó cung cấp thông tin cho bộ Kế Hoạch và Đầu Tư nắm bắt được những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để có hướng giải quyết, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, thu hút vốn đầu tư. Đồng thời giúp cho cơ quan thuế phát hiện được tình trạng chốn thuế của các doanh nghiệp.
3.2.3 Tiến tới hoàn thiện việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành:
Hiện nay hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành đã có nhưng chưa đầy đủ và không kịp thời. Cho dù không phải bất cứ một doanh nghiệp nàođạt được các chỉ tiêu theo hệ thống này là rất hiệu quả, bởi còn nhiều yếu tố cần được xem xét để mang lại kết luận chính xác nhưng hệ thống này rõ ràng là một căn cứ quan trọng giúp cho các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp tự đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Vì vậy, đề nghị Nhà Nước sớm có những văn bản cụ thể hơn về việc xây dựng và cung cấp hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành nhằm góp phần mang lại hiệu quả cả ở tầm vi mô và vĩ mô. Các cơ quan đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực này như tổng cục Thống Kê, bộ Tài Chính cần được tăng cường thêm một số quyền hạn cần thiết và phải đảm bảo thực hiện tốt, khắc phục được những nhược điểm đã nói ở trên.
3.2.4 Một số kiến nghị khác:
- Nhà Nước cần có chính sách đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ phân tích quản lý tài chính, hình thành nên đội ngũ chuyên viên tài chính để công tác phân tích tài chính và quản lý tài chính doanh nghiệp có hiệu quả. Đồng thời xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát tình hình tài chính ở doanh nghiệp, nghiêm khắc xử lý những hiện tượng làm thay đổi số liệu tài chính với các mục đích mờ ám.
- Nhà Nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh:
+ Lĩnh vực ngân hàng cần có những điều chỉnh về cơ chế tín dụng hợp lý theo hướng kết hợp giữa thế chấp và tín chấp để các doanh nghiệp có thể dễ dàng vay vốn ngân hàng, giảm bớt các thủ tục hành chính phiền hà trong khi vay và cần có thái độ hợp tác với khách hàng...
+ Nhà Nước cần có những điều chỉnh hợp lý đối với chính sách thuế theo hướng sắp xếp lại các sắc lệnh thuế cho phù hợp với tính chất của từng loại thuế, phù hợp với tiến trình hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cần xem xét lại cách đánh thuế, tránh tình trạng chồng chéo, không phản ánh được bản chất của mỗi loại thuế (chẳng hạn như việc thu thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa vừa nhập về chưa có tác động gì), quy định cụ thể nhóm mặt hàng chịu thuế và thuế suất với từng mặt hàng... để tránh tình trạng thông đồng giữa doanh nghiệp và cán bộ thuế, gây thất thoát cho Nhà Nước, khuyến khích các doanh nghiệp tích lũy vốn mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Nhà Nước cần có những điều chỉnh về thủ tục hành chính và pháp lý đối với các đối tác nước ngoài như: xóa bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, xóa bỏ quy định doanh nghiệp phải xin phép điều chỉnh vốn điều lệ và vốn đầu tư , mà nên quy định doanh nghiệp chỉ cần đăng ký thay đổi vốn điều lệ và vốn đầu tư với Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư... để họ mạnh dạn bỏ thêm vốn vào liên kết, liên doanh, hợp tác đầu tư.
Khi các doanh nghiệp mạnh dạn bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh, Nhà Nước sẽ có các điều kiện tiền đề để từng bước xây dựng các chính sách nhằm hoàn thiện và phát triển thị trường tiền tệ, thị trường vốn.thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các công ty tài chính, các quỹ đầu tư ... để hòa nhập thị trường vốn trong nước với khu vực và thế giới. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trường chứng khoán, qua đó có thể tự huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu, có điều kiện và nhu cầu thực hiện phân tích tài chính nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.
Kết Luận:
Như em đã trình bày, từ những gì đã được học, khi đến thực tập tại công ty TNHH An Dương em càng thấy rõ hơn tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính của một doanh nghiệp.
Và với những cố gắng nhằm nêu bật lên sự cần thiết của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, mà công ty TNHH An Dương là môi trường nghiên cứu, em đã cố gắng đưa ra những kiến giải của mình, và em rất hy vọng những ý kiến đóng góp nhỏ này của mình sẽ có ích cho công ty TNHH An Dương nói riêng và cho công tác quản lý tài chính doanh nghiệp nói chung. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng khả năng có hạn nên chuyên đề này không tránh còn tồn tại nhiều thiếu xót, vì vậy em rất mong nhận được chỉ bảo từ phía công ty cũng như các thầy cô giáo.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn những gì mà công ty, nhà trường và đặc biệt là thầy giáo Lục Diệu Toán đã giúp đỡ em trong thời gian qua, để em có thể hoàn thành bản chuyên đề này.
Tài liệu tham khảo:
1.Giáo trình Tài chính doanh nghiệp ( NXB Giáo dục - 2002 )
TS. Lưu Thị Hương
2. Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp ( NXB Thống kê - 2000 )
PTS. Vũ Duy Hào - Đàm Văn Huệ - Vũ Long
3. Phân tích các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp ( NXB Tài chín 2000 )
TS. Nguyễn Thế Khải
4. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh ( NXB Giáo dục - 2001)
5. Lập, đọc, phân tích báo cáo tài chính và dự đoán nhu cầu tài chính doanh nghiệp ( NXB Tài chính - 2001 )
6. Lập, đọc, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính ( NXB Tài chính - 2000)
7. Quản trị marketing.
8. Tác động kinh tế xã hội của đổi mới trong lĩnh vực nhà ở đô thị.
9. Niên giám thống kê ( NXB Thống kê Hà Nội )
10. Số liệu thống kê nông lâm thủy sản Việt Nam 1996-2001 .
11. Niên giám công thương Hà Nội-Hải Phòng-TP Hồ Chí Minh .
12. Các báo: Thời báo kinh tế Việt Nam, tạp chí Tài Chính, tạp chí Ngân Hàng năm 2001, năm 2002, 2003.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5617.doc