Nhà máy thực hiện đa dạng hoá sản phẩm theo nhiều phương thức khác nhau, thực hiện xen kẽ để đảm bảo tính đồng đều vừa phát huy điểm mạnh của từng phương thức lại vừa hạn chế các điểm yếu kém của chúng trên cơ sở tận dụng hết những gì sẵn có và dựa trên khả năng, nguồn lực của mình.
Từ năm 1993, nhà máy thực hiện đa dạng hoá sản phẩm bằng cách đầu tư bổ sung và thực hiện đổi mới chủng loại sản phẩm, loại bỏ những sản phẩm kém sức cạnh tranh trên thị trường (các loại chỉ may), đưa vào danh mục sản phẩm những sản phẩm mới (mới tương đối) như: sợi Kachiboshi (trắng xuất khâủ), chỉ Polynozic, chỉ may nội địa. Với những sản phẩm này, nhà máy tận dụng năng lực sản xuất máy móc thiết bị sẵn có, huy động tối đa công suất và tăng hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị. Mặt khác, các sản phẩm này được cấu thành bởi cùng loại nguyên vật liệu, nên đầu vào nhà máy không phải lo lắng, thị trường tiêu thụ lại khá rộng, vấn đề chỉ còn là ở chỗ công tác tổ chức sản xuất sao cho hợp lý. Nhà máy thực hiện đầu tư mới, đưa thêm dây chuyền sản xuất máy móc thiết bị côngnghệ mới vào sản xuất các loại sản phẩm theo hướng thoát ly sản phẩm gốc như: sợi PE 100%, sợi Visco. Đây là những mặt hàng đang được ưa chuộng trên thị trường. Chúng có quy trình công nghệ sản xuất khác với các sản phẩm chỉ may, chỉ thêu, chỉ ren của nhà máy, nguyên vật liệu cấu thành nên sản phẩm cũng hoàn toàn khác.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình thực hiện đa dạng hóa sản phẩm tại nhà máy chỉ khâu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gợi của nhiều khách hàng trong nước, họ rất thích loại hàng này. Tuy nhiên, sản phẩm này chỉ tiêu thụ được trong nước, không thể xuất khâủ ra nước ngoài dù là gián tiếp bởi các khách hàng ngoại quốc họ rất khó tính, rất sành điệu. Vì vậy, nhu cầu sản xuất và tiêu thụ mặt hàng này rất thấp so với các mặt hàng khác.
Biểu số 20:Tình hình sản xuất và tiêu thụ chỉ nội địa: Đơn vị: kg
Năm
1997
1998
1999
Sản xuất
710,7
41,2
196,8
Tiêu thụ
145,3
323,4
172,4
Sản phẩm chỉ Polynozic có khả quan hơn:
Biểu số 21: Tình hình sản xuất và tiêu thụ chỉ Polynozic. Đơn vị: kg
Năm
1997
1998
1999
Sản xuất
337,2
306,4
1167,8
Tiêu thụ
261,7
326,6
1197,8
1.2.1.2.Sản phẩm mới trên cơ sở đầu tư mới:
Năm 1992, sau khi sát nhập với công ty dệt Phong Phú, phải bỏ dần dần nhiều mặt hàng chỉ may là một khó khăn đối với nhà máy, máy móc thiết bị nhàn rỗi.
Năm 1993, công ty quyết định đầu tư thêm một dây chuyền công nghệ mới sản xuất mặt hàng sợi PE 100%, đồng thời mở thêm một phân xưởng may gia công quần áo bảo hộ phục vụ thị trường EU. Mở rộng quy mô sản xuất, nhà máy giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Sợi PE 100% với nhiều tính năng, công dụng trội hơn hẳn các loại chỉ cotton. Sợi PE 100% chắc, dai, dùng làm chỉ may rất bền, dùng đê rdệt vải thì mềm, mát, phong phú về màu sắc, chủng loại, có thể làm vỏi bóng, mờ, lịch sự nhã nhặn, phù hợp cho những người đi làm công sở và thời trang cuộc sống. Tuy nhiên, việc sản xuất và tiêu thụ mặt hàng này phụ thuộc vào công ty dệt Phong Phú và liên doanh Coast Tootal Phong Phú. Nhà máy chỉ được phép bán ra ngoài những mặt hàng kém chất lượng, hàng lỗi, hỏng... hoặc khi tồn đọng nhiều. Mặt hàng này được các nhà sản xuất rất ưa chuộng nhu cầu tiêu thụ rất lớn, đem lại hiệu quả kinh doanh cao. Với mặt hàng này, nhà máy có nhiều đối thủ cạnh tranh, nhưng sức cạnh tranh của nhà máy về mặt hàng này không kém họ.
Thực tế, nhà máy chỉ gia công cho công ty mẹ và liên doanh nên giá bán không cao, bù lại khối lượng sản xuất nhiều nên doan thu cao, chiếm 62,5% tổng doanh thu.
Biểu số 22:Tình hình sản xuất và tiêu thụ sợi PE 100%:
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
KH
TH
KH
TH
KH
TH
KH
TH
(dự kiến)
Sản xuất
372000
390602
450000
478495
507000
543774
792000
797375
892000
Tiêu thụ
-
386051
-
502361
-
547187
-
861001
-
Năm 1995, sợi Visco có xu hướng phát triển nhanh trên thị trường Việt Nam cũng như thế giới. Sợi Visco có chất lượng tốt hơn hẳn so với sợi PE 100% về độ bền, dai, độ bóng, nếu sử dụng để dệt vải sẽ rất mát và không nhăn, ăn màu, khó phai... Ngoài ra, sợi Visco còn có tính năng khác hơn hẳn sợi PE 100%, đó là: sợi Visco có thể sử dụng để làm chỉ thêu, chỉ ren rất bóng và mềm mại...
Sợi Visco có thị trường rất rộng, có quy trình công nghệ sản xuất một phần giống sợi PE 100%, một phần giống quy trình sản xuất các loại chỉ thêu, chỉ ren.
Nhận thấy các tính năng ưu việt của sợi Visco, năm 1998, nhà máy quyết định đưa mặt hàng này vào danh mục sản phẩm của nhà máy. Năm 1998, nhà máy dự kiến sản xuất 215 tấn sợi Visco Ne 30/1. Với đơn giá 30.000 đồng/kg, dự kiến doanh thu là 6.450 triệu, chiếm 20% tổng doanh thu của nhà máy.
Với sợi Kachiboshi, nhà máy gặt hái được nhiều thành công lớn thì với sợi Visco Ne 30/1, nhà máy lại thất bại thảm hại. Dự kiến sản xuất 215 tấn sợi Visco nhưng nhà máy chỉ thực hiện được 2.273,5 kg và tiêu thụ được 1.300 kg.
Nguyên nhân của sự thất bại này là do nhà máy không nghiên cứu kỹ quy trình công nghệ sản xuất. Khi đưa vào sản xuất, chất lượng sợi Visco không đạt như mong muốn, khách hàng không chấp nhận, không tiêu thụ được, nhà máy phải cho ngừng sản xuất loại nặt hàng này. Thất bại này là một bài học lớn đối với nhà máy. Phải ngừng sản xuất, nhà máy tự kiểm điểm lại, tìm cách khắc phục điển yếu, nâng cấp máy móc thiết bị, hoàn thiện lại quy trình công nghệ, nghiên cứu kỹ từng công đoạn sản xuất và các loại nguyên vật liệu, đào tạo công nhân sản xuất với khát khao có thể đưa sản phẩm này trở lại sản xuất.
Sau một thời gian dài tìm tòi nghiên cứu, đến tháng 3/2000, nhà máy quyết định sản xuất trở lại sản phẩm sợi Visco Ne 30/1, 40/1 với khối lượng 40 tấn. Trên dây chuyền sản xuất, sợi Visco không còn bị đứt, không còn các lỗi ngoại quan trên thân sợi.
Trên cơ cấu sản phẩm, ta thấy các loại chỉ thêu, chỉ ren, chỉ may đang mất dần vị trí nhưng nhà máy quyết không từ bỏ nặt hàng này. Bởi đó là tâm huyết của nhà máy, nhà máy vẫn chờ một cơ hội trong tương lai, sản phẩm này sẽ phát triển mạnh mẽ.
1.2.2.Đa dạng hoá bằng cách kéo dài danh mục sản phẩm:
Một vấn đề được đặt ra đối với người quản lý loại sản phẩm là chiều dài tối ưu của loại sản phẩm.
Các loại sản phẩm đều có xu hướng phát triển dài thêm sau một thời gian. Sản phẩm của nhà máy Chỉ khâu Hà Nội cũng vậy, nó được kéo dài thêm dần qua các năm. Nhìn vào bảng cơ cấu sản phẩm của nhà máy, ta có thể thấy rõ điều đó: Năm 1993, sợi PE 100% chỉ có 4 loại: Ne20/2, 20/3, 40/2, 40/3; đến năm 1994, nó được bổ sung thêm các chi số: Ne 50/3, 60/3; Năm 1999, có thêm Ne 20/4, 20/6, 20/9... Kông chỉ dừng lại ở việc sản xuất sợi PE 100% xơ bóng, nhà máy tiến hành sản xuất xơ mờ với các chi số trên. Đến năm 1999, nhà máy đã sản xuất sợi PE 100% với 13 loại chi số khác nhau, cả loại xơ bóng và xơ mờ. Chủng loại sợi PE 100% hiện nay rất phong phú. Nhà máy cũng nhận gia công các loại sợi PE 100% theo yêu cầu của khách đặt nhằm học hỏi, tích luỹ thêm kinh nghiệm. Tuy nhiên cho đến nay, nhà máy vẫn gặp phải khó khăn trong sản xuất các loại Ne 20/9, 60/9... Trong quá trình sản xuất các chi số này, do sợi to nên dễ trùng, dễ quấn vào nhau và đứt trên dây chuyền.
Việc kéo dài danh mục sản phẩm không những đã mở rộng làm phong phú chủng loại sản phẩm của nhà máy mà còn tạo động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng doanh số, tăng lợi nhuận, nâng cao tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm cho cán bộ công nhân viên, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, cố gắng lấp chỗ hổng để ngăn ngừa các đối thủ cạnh tranh, mở rộng thị phần.
Thường thì việc kéo dài sản phẩm sẽ bị xem là quá mức nếu nó gây thiệt hại và làn cho khách hàng phân vân, khó nhận biết từng loại sản phẩm. Vì vậy, nhà máy phải đảm bảo những sản phẩm mới có một điểm khác biệt để dễ nhận biết.
Kéo dài sản phẩm, nhà máy thực hiện từng bước, từng loại chi số chứ không kéo dài toàn bộ ngay lập tức. Cách làm từng phần cho phép nhà máy xem xét thái độ của khách hàng và các đại lý của mình đối với mẫu mã mới. Thực hiện từng phần sẽ đỡ thất thoát lưu kim của nhà máy. Điểm bất lợi chủ yếu của nó là ở chỗ nó cho phép các đối thủ cạnh tranh thấy được những thay đổi đó và cũng bắt đầu thiết kế lại sản phẩm của mình.
Đối với các loại chỉ thêu, chỉ móc, nhà máy quyết định chỉ sản xuất một loại chi số chỉ thêu Ne 30/2, chỉ ren Ne 20/3. Những năm đầu, chỉ thêu chỉ có 30 loại màu, đến nay nhà máy đã phổ quang trên 500 loại màu sắc khác nhau:
-Màu đỏ có trên 30 loại với mức độ đậm nhạt khác nhau: đỏ đun, đỏ đậm hút, đỏ tía...
-Màu xanh có trên 70 loại bao gồm cả xanh lơ, xanh nõn, xanh lục, lam, xanh lá...
-Màu vàng có vàng chanh, vàng nghệ, vàng cam...
-Màu trắng có trắng đục, trắng ngà, trắng xanh...
-Màu đen có: đen tuyền, đen bóng, đen mờ...
Ngoài ra còn có các gam màu: hồng cánh sen, màu lông chuột, nâu hạt dẻ...
Nhà máy cũng khai thác màu sắc từ cỏ cây, hoa lá, đất đá... trong thiên nhiên, từ lá chàm, củ nâu, củ nghệ, phèn chua, than, bồ hóng, bùn ao, đá màu, đất đồi... Từ những màu sắc nguyên thuỷ đó, nhà máy pha chế thành vô số gam màu khác nhau để nhuộm, chiết màu...
Phổ trên 500 màu sắc là nhiều đối với nhà máy. Nhưng theo em được biết, khoa học công nghệ hiện nay rất phát triển và ở Việt Nam, người ta đã có thể phổ được trên 2000 loại màu sắc khác nhau, bên liên doanh Coast Tootal Phong Phú đã phổ được trên 1000 màu sắc các loại. Vì vậy, nhà máy Chỉ khâu sẽ cố gắng hết sức để theo kịp. Tuy nhiên, điều này là khó thực hiện. Bởi lẽ đến nay, nhà máy vẫn không có dụng cụ đo dộ tán sắc, công việc nhuộm màu vẫn chỉ dừng lại ở việc phân biệt bằng mắt thường.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc nhuộm màu như: độ ẩm không khí, ánh sàng, nhiệt độ, thuộc nhuộm, thời gian... Nhiệt độ chỉ cần quá một chút hay yếu hơn một chút là màu sẽ đậm hoặc nhạt hơn so với yêu cầu. Các yếu tố khác cũng vậy: ánh sáng chiếu vào với cường độ lhác nhau cũng sẽ khiến mắt không phân việt được chính xác độ đậm nhạt của màu sắc. Do không có dụng cụ này, các khách hàng thường than phiền rằng nhà máy nhuộm hơi khác hoặc rất khác so với mẫu nhuộm họ đưa đến.
2.Kết quả đạt được từ việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội:
Khi mới thành lập, nhà máy chỉ sản xuất một số loại sản phẩm truyền thống như: chỉ may cotton, chỉ may công nghiệp, Pêco, chỉ bò... Năm 1986, nhà máy đưa sản phẩm mới: chỉ thêu, chỉ ren vào sản xuất. Và đến năm 1993, nhà máy tiếp tục mở rộng sản xuất, đầu tư một dây chuyền sản xuất mới để sản xuất sợi PE 100%. Năm 1997 là một bước ngoặt đối với nhà máy,đánh dấu bước phát triển vượt bậc về mọi mặt. Nhà máy đưa nhiều loại sản phẩm vào sản xuất như: sợi đơn cotton, sợi Visco, sợi Kachiboshi, chỉ Polynozic, chỉ nội địa, thoả mãn nhu cầu của thị trường, nâng cao đời sống công nhân viên (lương bình quân tăng từ 437.874 đồng lên 813.920 đồng, tăng 1,9 lần). Cơ cấu sản phẩm, phạm vi hoạt động của nhà máy được mở rộng lên gấp nhiều lần.
Sau đây là cơ cấu sản phẩm của nhà máy:
Cơ cấu
sản phẩm
của
nhà máy
sản phẩm
truyền thống
Chỉ may cotton
chỉ may công nghiệp 40/2
chỉ Pêco
sản phẩm mới
Chỉ thêu
chỉ ren
sợi PE 100%
sợi Kachiboshi
sợi Visco
chỉ Polynozic
Sợi đơn cotton
Các loại khác
sản phẩm mới tương tự
chỉ thêu
chỉ nội địa chỉ ren
chỉ may
sản phẩm
gia công
sợi PE 100%
sợi Kachiboshi
sợi Visco...
Qua bảng trên ta thấy: cơ cấu sản phẩm của nhà máy đã biến đổi mạnh, phong phú, đa dạng cả về chiều rộng chiều dài, chiều sâu cũng như mức độ liên kết giữa chúng.
Cũng như tất cả các doanh nghiệp công nghiệp ra đời trong cơ chế tập trung quan kiêu bao cấp, ngay từ những ngày đầu thành lập, nhà máy Chỉ khâu Hà Nội được trang bị máy móc thiết bị và đào tạo đội ngũ lao động chỉ để sản xuất sản phẩm chuyên môn hóa: chỉ may.
Năm 1986, nhà máy tách khỏi nhà máy dệt 8/3, tự thân vận động bước vào nền kinh tế thị trường với bao sự lo âu, ngỡ ngàng. Sản phẩm của nhà máy chất lượng tốt nhưng không đáp ứng được nhu cầu thị trường, tư nhân cạnh tranh ác liệt, trì trệ, kém hiệu quả, đời sống công nhân viên khó khăn, vấn đề tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất còn non kém. Toàn ngành Dệt may có nguy cơ suy thoái, nhiều doanh nghiệp phải giải thể. Bao khó khăn chồng chất, nhà máy tưởng chừng như không thể đứng vững trên thị trường. Thế nhưng, cho đến nay, có thể nói đoạn đường suy thoái ấy đã lùi lại phía sau, mở ra phía trước một tương lai rộng mở, tràn đầy hi vọng. Đạt được điều đó là nhờ nhà máy đã kịp thời điều chỉnh lại cơ cấu tổ chức sản xuất và quản lý, tận dụng mọi tiềm năng, giải pháp có thể đạt được trong tầm tay của mình để phục hồi và phát triển, khẳng định lại vị trí của mình trong ngành Dệt may. Nhìn lại chặng đường đã đi qua, tổng kết, đánh giá lại quá trình hoạt động của nhà máy từ khi đổi mới cơ chế cho đến nay, ban lãnh đạo nhà máy cũng như công ty dệt Phong Phú đưa đến một nhận định thống nhất rằng: phương châm đa dạng hoá sản phẩm là một quyết định đúng đắn, tạo sự tăng trưởng đáng kể về mọi mặt: doanh thu, lợi nhuận, thu nhập bình quân...
2.1.Về doanh thu, lợi nhuận:
Nhờ thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, trong những năm gần đây, nhà máy đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt. Từ chỗ là một nhà máy làm ăn trì trệ, kém hiệu quả, đến nay, nhà máy đã là một gương mặt tiêu biểu của ngành Dệt may nói riêng và của nền công nghiệp Việt Nam nói chung. Trong giai đoạn bế tắc, hoạt động bấp bênh, có nguy cơ trượt dốc, nhà máy đã tìm ra cho mình một hướng đi, một giải pháp hiệu quả không những phù hợp với năng lực của nhà máy mà còn phù hợp với định hướng phát triển chung của Đảng và Nhà nước. Nhờ đó mà giá trị tổng sản lượng mỗi năm một tăng.
Từ đó, nhà máy thực hiện tích luỹ nội bộ từ sản xuất kinh doanh để tiếp tục đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu, nhằm hoàn thiện hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy, trang bị thêm máy móc thiết bị hiện đại và nâng cấp máy móc thiết bị, nâng công suất và hiệu quả hoạt động của máy móc thiết bị, năng suất lao động, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận.
2.2.Về uy tín:
Nếu trong những năm bao cấp, không mấy ai biết đến một phân xưởng nhỏ nhoi của nhà máy dệt 8/3 thì đến năm 86 khi tách khỏi nhà máy dệt 8/3 ra hoạt động độc lập, nhà máy được nhiều người biết đến với cái tên nhà máy Chỉ khâu Hà Nội- chuyên sản xuất các loại chỉ thì nay nhà máy đã nổi tiếng nhờ các sản phẩm: chỉ thêu, chỉ ren, sợi PE 100%... Phục hồi và phát triển, nhà máy càng khẳng định vị trí của mình trong lòng người tiêu dùng. Sản phẩm của nhà máy sản xuất ra được giới thiệu đến tận tay người tiêu dùng, giảm bớt được khâu trung gian. Vì vậy, người tiêu dùng đã biết và am hiểu hơn về sản phẩm của nhà máy, tin tưởng hoàn toàn vào công ty và sẵn sàng tiêu dùng khi có nhu cầu.
2.3.Về đời sống công nhân viên:
Góp một phần đáng kể vào thành tích chung của toàn nhà máy phải kể đến một phần sự nỗ lực vượt bậc của đội ngũ cán bộ công nhân viên nhà máy. Vì vậy, khi doanh nghiệp đạt được sự tăng trưởng lớn về doanh thu cũng như uy tín, việc đầu tiên doanh nghiệp phải làm đó là quan tâm sâu sắc, không ngừng cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên. Lương bình quân của cán bộ công nhân không ngừng tăng lên qua các năm (biểu 14- trang 40)
Đồng thời, nhà máy tiếp tục hoàn thiện chế độ thưởng phạt với nhiều hình thức khác nhau: thưởng hoàn thành vượt mức kế hoạch, thưởng ngày công lao động, thưởng tiết kiệm vật tư, thưởng chất lượng sản phẩm, thưởng sáng kiến cải tiến kỹ thuật nhằm khuyến khích cán bộ công nhân viên hăng say lao động, gắn lợi ích của công nhân với lợi ích của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các điều kiện sinh hoạt và làm việc cũng được nâng cấp.
3.Những tồn tại và nguyên nhân trong quá trình thực hiện đa dạng hoá sản phẩm:
3.1.Những tồn tại:
Đa dạng hoá sản phẩm đã đem lại cho nhà máy những thành công to lớn, đã thay đổi bộ mặt của nhà máy, từ một doanh nghiệp làm ăn bấp bênh, kém hiệu quả, đời sống công nhân viên khó khăn, nay đã có vị trí xứng đáng trên thương trường, có doanh thu, lợi nhuận cao, nộp ngân sách Nhà nước đầy đủ... Tuy nhiên, quá trình đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần được xem xét và khắc phục:
3.1.1.Sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu sản phẩm:
Mang tên nhà máy Chỉ khâu Hà Nội, những năm đầu mới thành lập, nhà máy thực hiện đúng chức năng của mình là sản xuất chỉ may phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Nhưng từ năm 1992, sau khi sát nhập với công ty dệt Phong Phú, cơ cấu sản phẩm của nhà máy đã thay đổi, tỉ trọng chỉ may các loại giảm dần và đến năm 1999 chỉ còn 2,1% về khối lượng và 6,26% về giá trị, sợi PE 100% trở thành mặt hàng chủ lực của nhà máy (chiếm 81,72% về khối lượng và 66,38% giá trị), sợi Kachiboshi đứng thứ 2 (9,47% khối lượng và 11,93% giá trị).
Biểu số 23: Cơ cấu sản phẩm của nhà máy năm 1999:
Tên sản phẩm
% khối lượng
% giá trị
Sợi PE 100%
81,72
67,38
Chỉ móc 20/3
1,89
5,82
Chỉ thêu 30/2
1,25
4,02
Chỉ may công nghiệp 40/2
1,99
5,97
Sợi Kachiboshi
9,47
11,93
Chỉ nội địa
0,02
0,04
Chỉ Polynozic
0,11
0,25
Loại khác
3,55
4,59
3.1.2.Khâu thiết kế sản phẩm còn kém:
Những năm qua, nhà máy đã sản xuất được nhiều loại sợi, chỉ với những mẫu mã mới đa dạng, phong phú về màu sắc, chủng loại, kích cỡ, bao bì. Tuy nhiên, các sản phẩm này chủ yếu dựa trên các mẫu mã có sẵn trên thị trường hoặc mẫu mã nhận gia công. Từ đó, điều chỉnh cho phù hợp với khả năng của nhà máy. Còn thực tế cho đến nay, nhà máy chưa tự thiết kế một sản phẩm nào mới hoàn toàn. Phòng kỹ thuật chỉ nghiên cứu các mẫu mã có trên thị trường và các nhu cầu hàng đặt. Trên cơ sở đó, xây dựng quy trình sản xuất và tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật cho các sản phẩm đó. Còn tự mình thiết kế sản phẩm mới và đem chào hàng là điều mà nhà máy chưa thể thực hiện. Nhà máy vẫn còn thiếu vắng những người có chuyên môn, kinh nghiệm thiết kế mỹ thuật cho nhà máy, hệ thống trang thiết bị cho phòng kỹ thuật còn sơ sài, không có máy thử độ bền, độ dai, độ đứt, máy kiểm tra màu sắc.
3.1.3.Công tác đổi mới công nghệ tuy đã được quan tâm và bước đầu có hiệu quả nhưng còn chậm và chưa toàn diện:
Phòng kỹ thuật vốn không có những máy móc thiết bị kiểm tra độ dai, bền, dứt, các lỗi trên thân sợi... Ngay đến cả phân xưởng II là phân xưởng chỉ chuyên sản xuất các loại chỉ may, chỉ thêu, chỉ ren cũng không có máy đo màu sắc, máy tán sắc...
Việc nhuộm chỉ vẫn chỉ được thực hiện bằng mắt thường, do đó, độ chính xác về màu sắc bị sai lệch nhiều, thường không đúng yêu cầu của khách hàng nhưng phần lớn được khách hàng thông cảm và bỏ qua. Tuy nhiên, không thể để tình trạng này kéo dài, nhà máy cần có giải pháp khắc phục. Bởi lẽ, nhà máy tiếp xúc với thị trường chủ yếu thông qua các mặt hàng chỉ thêu, chỉ ren, sợi Kachiboshi, chỉ nội địa... đều là những mặt hàng đòi hỏi màu sắc, mẫu mã phong phú.
Mặc dù nhu cầu thị trường về sợi Visco ngày càng cao, thị trường rộng, năm 1998, nhà máy đã quyết định đưa vào sản xuất. Nhưng trong quá trình thực hiện, nhà máy gặp nhiều vấn đề, trong đó, chủ yếu là do máy móc thiết bị công nghệ không đảm bảo chất lượng cho sợi visco, hay bị đứt gãy trên dây chuyền nên mới sản xuất được 1,057% kế koạch đặt ra, nhà máy đã phải dừng sản xuất để tiếp tục nghiên cứu sản phẩm, nâng cấp máy móc thiết bị, quyết tâm đưa sản phẩm mày vào danh mục sản phẩm.
3.2.Nguyên nhân:
3.2.1.Vấn đề tổ chức nghiên cứu thị trường còn hạn hẹp:
Vấn đề tổ chức nghiên cứu thị trường còn hạn chế, chưa có chương trình cụ thể, rõ ràng. Mạng lưới đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm của nhà máy tuy phát triển rộng rãi nhưng mới chỉ có tác dụng một chiều là giới thiệu sản phẩm tới các tổ chức, cá nhân, còn những thông tin phản hồi từ phía khách hàng lại rất chậm, không đầy đủ, thậm chí không chính xác.
Bộ phận Marketing chuyên trách nghiên cứu theo dõi thị trường không có, bộ phận kinh doanh đảm đương quá nhiều chức năng, nhiệm vụ. Vì thế, nhà máy đã bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh trên thị trường dẫn đến thất bại trong kinh doanh. Điển hình là sản phẩm sợi Visco dự kiến kế hoạch sản xuất là 215 tấn đến khi thực hiện lại chỉ sản xuất được 2,2 tấn mà chất lượng không đạt yêu cầu.
Việc nghiên cứu, tìm hiều các loại sản phẩm thay thế trên thị trường hầu như không có. Trên thị trường, hiện có rất nhiều loại chỉ, sợi nhà máy không nắm bắt được hết, thậm chí không quan tâm đến trong khi nhu cầu về các loại sản phẩm đó rất cao như:
Nguồn thu thập thông tin quá ít ỏi. Hiện nay, nhà máy chỉ đặt các báo, tạp chí: giá cả thị trường, thời báo kinh tế, phụ nữ, sức khoẻ và đời sống, an ninh, Hà Nội mới, nhân dân... tạp chí Dệt May Việt Nam chỉ đặt cho giám đốc, các phòng khác không có và đặc biệt các báo Công nghiệp, tạp chí Công nghiệp -Thương Mại, Diễn đàn doanh nghiệp... cũng không có. Do đó, các thông tin về thị trường xuất khẩu khăn bông, sợi... nhà máy không nắm rõ.
Vì thế, đây là một hạn chế lớn khiến cho việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm chưa đạt kết quả như mong đợi.
Mặt khác, nhà máy chỉ nghiên cứu nhu cầu thị trường thông qua các khách hàng của mình, thông qua các đơn đặt hàng có thể có của khách hàng. Doanh nghiệp chưa chủ động đi tìm kiếm bạn hàng và mời chào hàng.
3.2.2.Trình độ cán bộ công nhân viên:
Nhà máy chưa thực sự khuyến khích sự tìm tòi, sáng tạo của cán bộ công nhân viên nên có thể dẫn đến hiện tượng chảy máu chất xám, kìm hãm sự phát triển của nhà máy.
Cán bộ công nhân viên còn nhiều hạn chế về sự nhận thức, trình độ hiểu biết và ý thức trách nhiệm cũng như khả năng bắt kịp tiến độ công nghệ.
Các nhân viên phòng kỹ thuật chủ yếu là những người làm việc lâu năm, tự đúc rút kinh nghiệm và làm về định mức nguyên vật liệu, tiết kiệm nguyên vật liệu... là chính, công tác nghiên cứu sản phẩm quá hạn hẹp cả về nhân lực và vật lực.
Nhà máy chưa có chính sách đào tạo, tuyển dụng nhân viên thiết kế sản phẩm chính thức. Vì vậy, việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm bị hạn chế nhiều.
Có thể nói, đây là một vấn đề hết sức quan trọng và quyết định đến sự thành bại của nhà máy.
phần III:
Một số ý kiến góp phần hoàn thiện đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội
I.Thuận lợi và khó khăn:
1.Thuận lợi:
Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, nhà máy Chỉ khâu Hà Nội có nhiều thuận lợi.
Thứ nhất, nhà máy đã hoạt động 25 năm trên thị trường, đã có chỗ đứng, có danh tiếng, thế lực, được nhiều doanh nghiệp sản xuất và người tiêu dùng từ Bắc tới Nam biết đến.
Thứ hai, chất lượng sản phẩm nhà máy được bảo đảm, giá cả hợp lý, công nghệ sản xuất phù hợp với yêu cầu.
Thứ ba, nhà máy được sự hậu thuẫn của công ty mẹ- công ty dệt Phong Phú và sự giúp đỡ của liên doanh Coast Tootal Phong Phú, nên được công ty tư vấn, hướng dẫn tỷ mỉ cách thực hiện và tạo mọi điều kiện về vật lực, không phải lo về đồng vốn và các vấn đề đầu tư máy móc thiết bị. Về thị trường tiêu thụ, công ty và liên doanh Coast Tootal Phong Phú là hai khách hàng lớn nhất của nhà máy. Ngoài ra, công ty cũng tìm kiếm khách hàng cho nhà máy. Vì vậy, sản phẩm đa dạng hoá của nhà máy khi đưa ra thị trường không bị ế ẩm mà nhanh chóng được sự chấp nhận của khách hàng. Đơn đặt hàng ngày càng nhiều hơn.
Thứ tư, nhà máy có đội ngũ kỹ sư năng động, nhạy bén, ham học hỏi, luôn tìm tòi, sáng tao, tìm ra những sản phẩm mới phù hợp với năng lực của nhà máy, đảm bảo nhà máy có thể tiến hành sản xuất trong điều kiện hiện tại.
Thứ năm, đầu vào của nhà máy khá ổn định. Thị trường nguyên vật liệu tuy có lúc biến động ghê gớm, giá cả tăng vọt nhưng rồi dần dần cũng ổn định trở lại. Trong lúc đó, nhà máy cũng có nhiều biện pháp khắc phục, đón trước sự thay đổi của thị trường, hạn chế được rủi ro xảy ra.
Mặt khác, xu hướng thị trường hiện nay đang thiên về các loại chất liệu cotton, polyeste nền nã, lịch sự...
2.Khó khăn:
Đối với nhà máy, thuận lợi cũng nhiều mà khó khăn cũng chồng chất. Đối với các sản phẩm sợi PE 100% và sợi Kachiboshi, sợi Visco... đối thủ cạnh tranh rất lớn.
Mặc dù công ty dệt Phong Phú và liên doanh Coast Tootal Phong Phú là hai khách hàng lớn và tiêu thụ phần lớn sợi PE 100% cho nhà máy nhưng trong tương lai, nhà máy không thể cứ thụ động trông cậy vào đó. Nhà máy phải tự lực vươn lên, phải tự tiếp xúc với thị trường. Còn đối với sản phẩm chỉ thêu, chỉ móc các loại, không có doanh nghiệp nào là đối thủ cạnh tranh, có thể nói, doanh nghiệp đang độc quyền sản xuất mặt hàng này, tư nhân cạnh tranh mạnh với doanh nghiệp nhưng về chất lượng, họ không thể bằng. Cho đến nay, nhu cầu về mặt hàng này còn ít, khiến cho số lượng tiêu thụ không nhiều.
Trong những năm qua, nhà máy đã tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công nhân viên. Tuy nhiên, tỷ lệ đào tạo chưa ngang tầm với đòi hỏi.
Một vấn đề khó khăn nữa là thị trường đầu vào (bông xơ) năm 2000 giá cả sẽ tăng do một loạt các nhân tố. Trước tiên là sự gia tăng mạnh mẽ của nhu cầu. Theo uỷ ban tư vấn bông Quốc Tế, kinh tế thế giới phục hồi nhanh hơn dự đoán, đặc biệt là ở Châu á đã khuyến khích tiêu thụ hàng dệt may tăng trưởng. Điều này làm cho tiêu thụ xơ bông tăng nhanh ở những nước xuất khâủ, cung tăng không kịp cầu.
Hình thức làm hàng giả là vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, sử dụng nhãn mác, bao bì của hàng thật hoặc nhái theo kiểu dáng, mẫu mã của hàng thật, chất lượng sản phẩm không đúng yêu cầu. Tuy nhiên, tâm lý người tiêu dùng lại vẫn chấp nhận hàng giả vì vẫn đáp ứng nhu cầu lại hợp khả năng kinh tế.
Hiện nay, Trung Quốc đang là thách thức chính trong cạnh tranh phát triển của các doanh nghiệp dệt-may Việt Nam. Hàng dệt-may Trung Quốc có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới và có ưu thế vượt xa dần so với Việt Nam...
Nhìn chung, giá trị sản lượng của Việt Nam có xu hướng tăng lên đáng kể cả về số tuuệt đối lẫn số tương đối. Điều này cho thấy, năng suất lao động trong ngành dệt-may Việt Nam có những bước đột phá khả quan.
Hiện nay buôn lậu dệt-may Trung Quốc vào Việt Nam tràn lan gây khó khăn không nhỏ cho ngành dệt-may Việt Nam. Trong khi đó, các chính sách hành chính chống buôn lậu đã không mấy thành công. Theo nhiều chuyên gia kinh tế, thách thức từ Trung Quốc phải được xem trên bình diện sâu xa là sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam. Bởi phải thấy rằng cạnh tranh với Trung Quốc hay bất cứ một đối thủ nào cũng mang yếu tố tích cực, ở một mức độ nào đó khuyến khích công nghiệp dệt-may Việt Nam phát triển lên bình diện cạnh tranh với Quốc Tế...do đó đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam, giành lại phần thị trường đã mất.
Công nghiệp dệt-may Việt Nam đã đạt được những thành công gây ấn tượng trong thập kỷ qua. Ngành đã góp phần tạo thành công trong việc chuyển đổi từ một nền kinh tế chỉ huy gắn chặt với các nước trong hội đồng các nước tương trợ kinh tế (COMMECOM) sang một nền kinh tế mở, hoà nhập vào cộng đồng thế giới.
Thách thức lớn hiện nay là tiến trình cải cách cần được thực hiện với tinh thần đổi mới, nhờ đó công nghiệp dệt-may có sức cạnh tranh Quốc Tế, cùng đất nước hội nhập kinh tế khu vực.
II. Một số ý kiến góp phần hoàn thiện đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội
1.Tổ chức nghiên cứu thị trường làm cơ sở phát triển đa dạng hoá sản phẩm:
1.1.Cơ sử lý luận:
Xã hội càng phát triển, cạnh tranh càng mạnh đòi hỏi các doanh nghiệp phải bám sát nhu cầu thị trường, đón trước những thay đổi của thị trường nhất là những nhu cầu nằm trong khả năng doanh nghiệp có thể đáp ứng.
Mục đích chủ yếu của công việc nghiên cứu thị trường là xác định khả năng tiêu thụ của một sản phẩm hay một nhóm sản phẩm nào đó của công ty. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, công ty nâng cao khả năng thích ứng với thị trường của các sản phẩm do mình sản xuất ra và tiến hành sản xuất, tiêu thụ những sản phẩm hàng hoá mà thị trường đòi hỏi. Đồng thời cũng trên cơ sở đó công ty xác định được các hướng đa dạng hoá sản phẩm thích hợp nhất.
Thông qua nghiên cứu thị trường, công ty tự xác định cho mình đâu là thị trường mục tiêu, đâu là thị trường tiềm năng của công ty. Quy mô, cơ cấu và sự vận động của từng thị trường để có những chính sách điều chỉnh kịp thời.
Nghiên cứu thị trường là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng và trực tiếp quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Khách hàng là những người rất tinh ý, nhạy cảm và khó tính. Họ sẽ xem xét, tìm hiểu và chuyển sang tiêu thụ sản phẩm của đối thủ cạnh tranh có thể không đạt yêu cầu về kỹ thuật và độ chính xác như của doanh nghiệp nhưng bù lại giá rẻ hơn và do đó sẽ tiết kiệm được một khỏan tiền không nhỏ.
Vì vậy, nghiên cứu thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng là một vấn đề cần thiết và hết sức cụ thể đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên thực tế, điều này đã được chứng minh. Thời kỳ đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà máy phải đối nặt vơi những khó khăn tưởng chừng như không có lối thoát. Đặc biệt, thị trường sản phẩm triuền thống: chỉ may các loại khó tiêu thụ, làm ăn bấp bênh. Trước thách thức đó, nhà máy đã cử nhiều đoàn cán bộ đi điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường, kí kết các hợp đồng sản xuất và quyết định đưa 2 mặt hàng chỉ thêu, chỉ ren vào sản xuất.
Bên cạnh đó, nhờ nhanh nhạy nắm bắt thời cơ, nhà máy đã đầu tư thêm một dây chuyền máy móc thiết bị để sản xuất sợi PE 100%.
Không cỉ dừng lại sở đó, nhà máy tiếp tục nghiên cứu thị trường và lần lượt đưa các mặt hàng sợi Kachiboshi, chỉ nội địa, chỉ Polynozic, sợi Visco...
Như vậy, nhờ bám sát nhu cầu thị trường, nhà máy đã cung cấp nhanh và đúng những sản phẩm mà thị trường cần và nhà máy có khả năng sản xuất mà dần dần nhà máy vượt qua giai doạn khó khăn nhất và tiến từng bước vững chắc giành được sự mến mộ của khách hàng.
Tuy nhiên, công tác này còn manh mún, thiếu sự chỉ đạo thống nhất từ trên xuống và chủ yếu còn mang tính hình thức, các thông tin thu thập được thường đi sau thị trường nên nhiều khi nhà máy rơi vào thế bị động.
Vì vậy, trong thời gian tới, nhà máy cần tập trung nghiên cứu thị trường sâu hơn, xác định cụ thể dung lượng thị trường và đề ra chính sách sản phẩm hợp lý để nâng cao hiệu quả kinh tế hơn nữa.
1.2.Nội dung của biện pháp:
Dự báo nhu cầu chỉ thêu, chỉ ren:
Sau khi nghiên cứu và phân tích thị trường, khách hàng, phòng kinh doanh nhận thấy: Năm 1999, trên thị trường đã xuất hiện các loại tranh thêu giá bán từ 600.000 đến 6.000.000 đồng. Nhà máy dự đoán: đời sống nhân dân Việt Nam cũng như khu vực và quốc tế tăng nhanh không ngừng, người ta chuyển sang ưa chuộng các loại sản phẩm có giá trị về tinh thần. Các tranh thêu nghệ thuật, các tấm rèm, khăn trải bàn, ga giường, gối thêu...sẽ tăng nhanh. Vì vậy, nhu cầu về sản phẩm chỉ thêu chỉ ren cũng gia tăng đáng kể...
-Năm 2000, dự đoàn nhu cầu về chỉ thêu, chỉ ren sẽ tăng nhanh, vì vậy nhà máy dự kiến sản xuất 36 tấn chỉ ren và 24 tấn chỉ thêu (gấp 2 lần so với kế hoạch sản xuất năm 1999)
-Năm 2001-2003: nhu cầu về chỉ thêu, chỉ ren tăng tương đối đều, nhu cầu chỉ thêu tăng với tốc độ khoảng 1,15 và chỉ ren tăng với tốc độ gần 1,2.
-Năm 2004-2005: nhu cầu chỉ thêu tăng nhanh chủ yếu phục vụ thêu nghệ thuật, các tranh thêu nghệ thuật với đủ các chủ đề, giá bán dao động trong khoảng 600.000-15.000.000 đồng thậm chí cao hơn nữa.
Biểu số 24: Nhu cầu chỉ thêu của nhà máy Chỉ khâu Hà Nội:
Đơn vị: kg
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Nhu cầu
24.000
27.600
31.600
37.000
60.000
85.000
Biểu số 25: Nhu cầu chỉ ren của nhà máy Chỉ khâu Hà Nội:
Đơn vị: kg
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Nhu cầu
36.000
43.200
52.000
75.000
100.000
150.000
Như vậy, cùng với sự sôi động của nhịp sống, thị trường sản phẩm chỉ thêu, chỉ may cũng rộng mở và tiến bước song song với nó là những đòi hỏi, yêu cầu ngày càng khắt khe về chất lượng, mẫu mã, màu sắc, và các tiêu chuẩn kỹ thuật khác.
Dự báo nhu cầu sợi Kachiboshi:
Ngành dệt-may nước ta phát triển đã lâu, nhưng từ thập niên 90 trở lại đây mới thực sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động ngoại thương nói riêng. Trong suốt 4 năm qua (1996-1999), kim ngạch xuất khâủ hàng dệt-may luôn đạt hơn 1 tỷ USD/năm và trở thành mặt hàng xuất khâủ chủ lực của Việt Nam. 6 thàng đầu năm 2000, khăn bông, găng trượt tuyết xuất khâủ sang các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, EC, Châu Âu gia tăng mạnh:
Công ty dệt Hải Phòng: 6 tháng đầu năm 2000 xuất khâủ 130 tấn khăn dệt các loại sang Nhật Bản, tăng 61,5% so với cùng ký năm 1998.
Công ty dệt Hà Nội: tháng 1/2000, xuất khâủ 130 tấn khăn sang Hàn Quốc và một số nước trong khu vực.
Sản phẩm khăn bông của công ty dệt-may 28/3 Đà Nẵng bước đầu xâm nhập thị trường Nhật Bản, khối lượng xuất khâủ tăng hàng năm trên 20%.
...
Thị trường Trung Đông, Nga là những bạn hàng truyền thống, hiện nay nền kinh tế của họ đang phục hồi và có những dấu hiệu khả quan. Các doanh nghiệp Việt Nam đã nhanh chóng nắm bắt thời cơ này và thâm nhập thị trường Trung Đông, Nga. Đồng thời, Mỹ từ trước đến nay vẫn là một nước có mức nhập khẩu hàng dệt-may lớn nhất nên các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang raó riết tiến hành thăm dò, tìm kiếm.
Với một cơ hội thị trường rộng mở như vậy, nhiều doanh nghiệp đã khẳng định: “Không có thị trường khó, chỉ sợ không giám tìm tòi”.
Tháng 3/2000, công ty dệt Hoà Thọ mới đưa xưởng may II và xưởng dệt vào hoạt động với quy mô hiện đại gồm 150 máy may công nghiệp và một số thiết bị chuyên dùng khác, xưởng dệt khăn xuất khâủ gồm 80 máy dệt Trung Quốc vào dây chuyền sản xuất. Điều đáng quan tâm ở đây là toàn bộ máy móc thiết bị này do công ty dệt Phong Phú chuyển giao và bao tiêu sản phẩm. Bởi vậy, trong tương lai, nhà máy Chỉ khâu Hà Nội sẽ có thêm bạn hàng mới tiêu thụ sản phẩm sợi Kachiboshi và sợi PE 100%
Biểu số 26: Dự báo nhu cầu sợi Kachiboshi:
Đơn vị: kg
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Nhu cầu
180.000
340.000
680.000
900.000
1.200.000
1.440.000
Dự báo nhu cầu sợi PE 100%:
Biểu số 26: Nhu cầu sợi PE 100%:
Đơn vị: tấn
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Nhu cầu
732
892
1200
1400
1650
1900
2200
Bóng
650
750
950
1100
1300
1450
1650
Mờ
80
142
250
300
350
450
550
Dự báo nhu cầu chỉ may công nghiệp 40/2:
Biểu số 27: Nhu cầu chỉ may công nghiệp 40/2 của nhà máy Chỉ khâu:
Đơn vị: kg
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Nhu cầu
25.000
32.000
38.000
48.000
60.000
75.000
1.3.Điều kiện thực hiện biện pháp:
Hiện nay, phòng kinh doanh gồm 4 nhân viên: trong đó có 1 nhân viên phụ trách về mảng thị trường đầu vào; 1 nhân viên phụ trách bán hàng, nhận đơn đặt hàng; 1 nhân viên làm kế hoạch và nghiên cứu thị trường; 1 trưởng phòng kinh doanh kiêm phụ tá giám đốc. Như vậy, việc nghiên cứu thị trường đã co một người đảm nhiệm mà khối lượng công việc nhiều nên sẽ bị hạn chế về thời gian và mức độ chính xác của nguồn thông tin cũng như độ xác thực của dự báo.
Vì thế trông thời gian tới, nhà máy cần phải tổ chức một phòng chuyên trách về Marketing, thực hiện công tác nghiên cứu dự báo nhu cầu thị trường và tổ chức các đợt thăm dò thị trường.
Phòng sẽ gồm 6 nhân viên, được phân công giao nhiệm vụ cụ thể, phụ trách từng mảng thị trường cho mỗi loại sản phẩm.
Nhóm 1: gồm 2 nhân viên, phụ trách nghiên cứu thị trường chỉ thêu, dhỉ móc...
Nhóm 2: gồm 2 nhân viên, phụ trách nghiên cứu thị trường sợi PE 100%, sợi Visco.
Nhóm 3: gồm 2 nhân viên, phụ trách nghiên cứu thị trường sợi Kachiboshi, chỉ may công nghiệp 40/2 (tức nghiên cứu thị trường khăn bông xuất khâủ, thị trường găng tay xuất khâủ, hàng may mặc xuất khâủ...)
Bộ phận Marketing có nhiệm vụ chủ yếu là: phân tích thị trường khu vực và quốc tế (Hàn Quốc, Nhật Bản, Italia, EU, EC, Châu Âu...) về khối lượng, chủng loại, chất lượng, các yêu cầu kinh tế kỹ thuật...để từ đó dự đoán được nhu cầu thị trường trong nước và dự đoán khối lượng sản xuất của nhà máy.
-Dự báo sự xuất hiện nhu cầu sản phẩm mới
-Dự báo sự thu hẹp của các loại sản phẩm nhà máy hiện đang sản xuất để có đối sách kịp thời.
-Đánh giá các đối thủ cạnh tranh cùng các tiềm năng của họ.
Nghiên cứu thị trường là một công việc phức tạp, phải trả lời chuẩn xác các câu hỏi: Doanh nghiệp nên sản xuất sản phẩm gì? nên mở rộng loại sản phẩm nào và thu hẹp sản phẩm nào? bán với giá bao nhiêu? Bán cho ai? Bán với hình thức nào? sản phẩm đó có chu kỳ sống là bao lâu?
Để có thể thực hiện được phương án này, nhà máy cần tuyển dụng 5 nhân viên, trong đó gồm cả người có kinh nghiệm lâu năm và cả người mới vào nghề, sinh viên mới ra trường để có thể khai thác các yếu tố: sáng kiến, sự năng nổ, nhiệt tình và cả kinh nghiệm...
Nhà máy cần tăng cường đầu tư hơn nữa cho mỗi đợt khảo sát, nghiên cứu thị trường.
Nhà máy cũng cần trang bị thêm cả máy móc phục vụ cho công tác nghiên cứu dự báo thị trường như máy vi tính, máy in, máy photocopy và các loại tạp chí, sách báo có liên quan, có quan hệ mật thiết với các trung tâm nghiên cứu, đào tạo...
3.4.Hiệu quả của giải pháp:
Chi phí cho phương án này là rất lớn nhưng nó sẽ trở thành nhỏ bé so với những hiệu quả có thể và sẽ đạt được trong tương lai như:
-Thông qua việc nghiên cứu thị trường, nhà máy có thể nắm bắt nhanh nhất nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, của thị trường, đánh giá hoạt động của nhà máy trong thời gian qua trên những thông tin hiện có, từ đó xác định được sản phẩm của mình đang nằm ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống để có phương sách kéo dài hoặc thu hẹp chu kỳ sống của nó.
-Mặt khác, thông qua nghiên cứu thị trường, nhà máy cũng thấy trước được các nguy cơ sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đe doạ nhà máy để có biện pháp khắc phục.
-Đồng thời cũng thấy trước được sự xuất hiện của những nhu cầu sản phẩm mới để làm cơ sở cho khâu thiết kế, hoàn thiện, sản xuất và tham gia cung ứng, góp phần thúc đẩy việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm.
Như vậy, nghiên cứu thị trường sẽ giúp nhà máy đánh giá được hoạt động của mình trên những thị trường hiện có, phát hiện thị trường tiềm năng và qua đó mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
2.Tổ chức tốt khâu thiết kế sản phẩm:
2.1.Cơ sở lý luận:
Đối với một doanh nghiệp công nghiệp, thiết kế sản phẩm là một khâu đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh, đến mục tiêu và kết quả của doanh nghiệp. Hình dáng, kích thước, mẫu mã, màu sắc của sản phẩm được hình thành thông qua khâu thiết kế sản phẩm.Vì thế, thiết kế sản phẩm là khâu không thể thiếu được, nó gắn liền với quá trình sản xuất. Sản phẩm có “bắt” mắt, có hợp thị hiếu và thoả mãn nhu cầu của khách hàng hay không, có tạo sự hấp dẫn đối với khách hàng hay không cũng là nhờ khâu thiết kế sản phẩm. Thiết kế sản phẩm tốt sẽ đem lại doanh thu, lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, mở rộng thị trường cho doanh nghiệp tiến bước.
Thiết kế sản phẩm là khâu đầu tiên của quá trình sản xuất, là nhiệm vụ đầu tiên doanh nghiệp phải thực hiện. Thông qua thiết kế, các định mức hao phí nguyên vật liệu, lao động, máy móc thiết bị... được dự kiến, các thông số về kỹ thuật, màu sắc, độ dai, độ bền, độ co dãn...
Thực tế trong những năm qua, khâu thiết kế sản phẩm ở nhà máy chưa được quan tâm triệt để. Sản phẩm của nhà máy chủ yếu là gia công thuê hoặc học hỏi kinh nghiệm các doanh nghiệp khác, cử người đi học cách sản xuất những sản phẩm đang thịnh hành trên thị trường. Sản phẩm của doanh nghiệp là những sản phẩm “đi sau thị trường”. Doanh nghiệp chưa thiết kế được các sản phẩm hoàn toàn mới đối với thị trường.
Vì vậy, khâu thiết kế sản phẩm cần được đầu tư hơn nữa để đem lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp.
2.2.Nội dung của biện pháp:
2.2.1.Đối với công tác thiết kế sản phẩm:
Yêu cầu chung đối với công tác thiết kế sản phẩm là mỗi cán bộ thiết kế phải nắm chắc nghiệp vụ, nắm vững mục tiêu của công tác nghiên cứu như: đảm bảo cho các sản phẩm thiết kế đạt các thông số về kỹ thuật (độ bền, độ dai, độ dây phai, độ sai chi số sợi...) cũng như các tiêu chuẩn về hình dáng, mẫu mã; các chỉ tiêu kinh tế: giá thành, doanh thu, lợi nhuận, năng suất, hiệu quả...
Dựa trên các bản báo cáo kết quả nghiên cứu thị trường của phòng kinh doanh, phòng kỹ thuật sẽ tiến hành phân tích, nghiên cứu, chế tạo loại sản phẩm thị trường ưa chuộng, đưa ra các phác thảo, tạo lập các phương án và chọn ra phương án tối ưu nhất, đem lại hiệu quả cao nhất.
Sau khi xem xét đầy đủ các yếu tố cần thiết phục vụ quá trình thiết kế, cán bộ thiết kế phải lập các tài liệu so sánh đặc điểm của mẫu mới với đặc điểm các sản phẩm nhà máy đã có hoặc đang tiến hành sản xuất. Nếu sự khác biệt không lớn thì cần thực hiện cải tiến, thay đổi các mẫu đó về màu sắc, kích thước, tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc chất lượng...
Cuối cùng, cán bộ thiết kế phải xây dựng các tài liệukhẳng định sự thích hợp của các mẫu thiết kế đó, lập hồ sơ xây dựng quy trình sản xuất sản phẩm và bản hướng dẫn sản xuất sản phẩm.
2.2.2.Đối với công tác nghiên cứu chế tạo thử sản phẩm.
Đây là khâu quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của sản phẩm mới. Thông qua khâu chế tạo thử nghiệm này, tất cả các ý tưởng của thiết kế mẫu được thực hiện trên cơ sở bản thiết kế và các thông số kỹ thuật, các chỉ tiêu kinh tế, hiệu quả... Chế thử mẫu đòi hỏi độ chính xác cao (cao hơn yêu cầu khi đưa vào sản xuất). Qua chế thử mẫu, những thiếu sót trong khâu thiết kế được phát hiện (sai sót về máy móc thiết bị, về sản phẩm, kỹ thuật...) và nhiều ý tưởng mới được hình thành. Từ đó tiếp tục hoàn thiện, sửa chữa phần sai sót và bổ sung những chi tiết mới để có thể tạo ra một sản phẩm hoàn thiện, với kết cấu theo đúng yêu cầu đặt ra.
Quá trình chế thử sản phẩm mới được lập lại nhiều lần để đảm bảo tính chính xác và để khẳng định một cách chắc chắn: sản phẩm mới không những đạt các yêu cầu về kiểu dáng, màu sắc...mà còn đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng mà bên thiết kế mẫu đưa ra.
Sau khi có được kết quả thử nghiệm đạt yêu cầu, nhà máy thực hiện sản xuất hàng loạt nhỏ trong điều kiện bình thường của sản xuất hàng loạt. Nếu đạt tiêu chuẩn cho phép thì kết quả sản xuất thử hàng loạt nhỏ sẽ được sử dụng để xây dựng quá trình sản xuất.
2.2.3.Xây dựng quá trình sản xuất:
Khi có kết quả của việc sản xuất thử, các cán bộ thiết kế kỹ thuật phải nhanh chóng xây dựng các quy trình công nghệ sản xuất, các định mức hao phí nguyên vật liệu, định mức hao phí lao động để phòng tổ chức có kế hoạch về nhân sự và phòng kinh doanh có kế hoạch mua sắm vật tư.
Việc xây dựng quy trình công nghệ sản xuất phải đảm bảo tính hợp lý giữa thiết kế, sản xuất và máy móc thiết bị nhằm mục đích tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành. Vì vậy, khi xây dựng quy trình sản xuất phải quán triệt các yêu cầu sau:
-Nâng cao trình độ cơ khí hoá và bán tự động quá trình sản xuất.
-áp dụng phong phú công nghệ tiên tiến nhằm tăng năng suất lao động và tiết kiệm nguyên vật liệu... thứ tự các bước công việc. Đối với mỗi bước công việc cần nêu rõ phương pháp thao tác thích hợp và có lợi, các công cụ và thiết bịcần thiết, mức tiêu hao vật tư và trình độ tay nghề, bậc thợ của công nhân.
-Quy trình công nghiệp vừa phải đảm bảo các yêu cầu kinh tế vừa phải đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng, kỹ thuật...
Sau khi xây dựng quy trình sản xuất, tiến hành sản xuất thử để xem xét tính hợp lý của quy trình sản xuất khắc phục sai sót (nếu có) để nhanh chóng đưa sản phẩm vào sản xuất bình thường.
Trong thời gian đầu, các cán bộ kỹ thuật, thiết kế sản phẩm phải thường xuyên theo dõi quy trình sản xuất để khắc phục các sự cố, trao đổi và hướng dẫn công nhân thực hiện.
2.3.Điều kiện thực hiện:
2.3.1.Về con người:
Con người là yếu tố then chốt quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Thế nhưng đến nay, vấn đề nhân sự của nhà máy còn nhiều bất cập. Nhà máy cần có các biện pháp khắc phục, xây dựng các chính sách đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ kỹ thuật, thiết kế. Cụ thể như:
-Gửi cán bộ đi học tại các khoá đào tạo ngắn- trung- dài hạn để nâng cao nghiệp vụ kỹ thuật chuyên môn.
-Cho tiếp xúc với những máy móc thiết bị công nghệ hiện đại của những nước có nền kinh tế phát triển mà tốc độ hiện đại của khoa học kỹ thuật phát triển nhanh, tạo điều kiện cho họ tiếp xúc với những công trình máy móc hiện đại, kỹ thuật tiên tiến của thế giới để mở mang tầm nhìn, mở rộng sự hiểu biết, kinh nghiệm.
-Thường xuyên cập nhật các thông tin khoa học công nghệ, các thông tin về sản phẩm mới.
-Đồng thời nhà máy cần tuyển dụng thêm những kỹ sư trẻ để bổ sung cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu, thí nghiệm, chế thử sản phẩm mới cho nhà máy đặc biệt là các kỹ sư thiết kế mĩ thuật, koá hữu cơ, hoá vô cơ chuyên ngành dệt-may, cơ khí... Đây chính là động lực có sức bật lớn về tư duy, sáng tạo, sự dột phá trong cách nghĩ, cách làm, là lớp kế cận thay thế cho lớp cán bộ đi trước.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện cơ giới hóa việc thiết kế mẫu, việc sử dụng máy vi tính để thiết kế mẫu trở nên phổ biến. Trong tương lai, nhà máy cần cố gắng để đạt được điều này.
2.3.2.Về máy móc thiết bị:
Mặc dù trong thời gian qua, nhà máy đã trang bị một hệ thống máy vi tính, máy fax, máy in và một số các công cụ dụng cụ phục vụ công tác thí nghiệm. Tuy nhiên, số máy móc thiết bị này chưa đủ, nhà máy cần trang bị thêm các máy vi tính và một số chương trình phần mềm. Đầu năm 2000, “Hội nghị chuyên ngành nhuộm hoàn tất đã khai mạc”. Đây là một cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp tiên tiến nhất. Trong các lần khai mác tới, nhà máy nên cử cán bộ tham gia để học hỏi thêm kinh nghiệm bởi lẽ khâu nhuộm của nhà máy còn nhiều yếu kém. Nhà máy cũng cần trang bị thêm các công cụ mới dùng cho các thông số màu.
Đầu năm 2000, hãng Macbeth Cheshire (Anh) đã chế tạo ra 2 phổ quang kế mới dùng đo và điều chỉnh màu sắc các vật liệu dệt-may...
-Mẫu Color Eye 2180 là dụng cụ com-pac (chắc, gọn) quy cách 23,818,137,5 cm.
-Mẫu Color Eye 580 là dụng cụ xách tay khối lượng 2,28 kg.
Các dụng cụ đều được cung cấp nguồn sáng xênon xung lượng (không gây ảnh hưởng đến các mẫu vật liệu đo). Việc sử dụng các dụng cụ này đặc biệt hợp lý khi đo các màu tối hoặc bão hoà (chúng có tính chất tái hiện nhanh các kết quả đo).
Đồng thời hãng còn giới thiệu một chương trình toán dùng kiểm tra màu các vật liệu. Các kết quả thử có thể được giới thiệu dưới dạng biểu đồ hoặc biểu hiện bằng biểu thức số.
Chương trình toán xác định độ bền ánh sáng của vật liệu, đảm bảo tiến hành 20 mẫu thử khác nhau. Chương trình đảm bảo tự động chọn và kiểm tra các kết quả thử: nhiệt độ, thời gian, tính liên tục của các thời kì mưa và chiếu ánh sáng mặt trời.
Viện nghiên cứu thiết bị dệt may và thí nghiệm đã chế tạo các Senso cho sức căng sợi chỉ...
Do sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật nên các thiết bị kỹ thuật rất nhanh trở nên lạc hậu. Đối với các thiết bị phục vụ công tác thiết kế lại càng nhanh bị lạc hậu hơn nên càng cần có sự cải tiến, đổi mới vì mỗi sự thay đổi của khách hàng lại tạo cho nó những tính năng mới hoàn thiện lơn giúp cho người sử dụng có thể thực hiện một cách hoàn hảo các thao tác theo những ý muốn và suy nghĩ của mình để tạo nên những mẫu sản phẩm mới.
Trong thời gian tới, nhà máy cần đầu tư hơn nữa cho lĩnh vực này để đảm bảo khâu đầu tiên của quá trình sản xuất được tiến hành tốt nhất.
2.4.Hiệu quả của giải pháp
Giải pháp này càng được thực hiện tốt và đồng bộ, sản phẩm thiết kế thử nghiệm sẽ càng đạt mức tiêu chuẩn cao. Các sản phẩm mẫu sẽ có tính thực tế cao hơn, dễ được người tiêu dùng chấp nhận.
Đồng thời, khâu thiết kế sản phẩm được thực hiện tốt thì công tác đa dạng hoá sản phẩm mới đạt hiệu quả cao, danh mục sản phẩm của nhà máy sẽ được mở rộng và kéo dài... thị trường hoạt động của nhà máy được mở rộng, mục tiêu (danh tiếng, uy tín, doanh thu, lợi nhuận...) của nhà máy được nâng cao.
Lời kết
Năm 2000 là năm bản lề giữa 2 thiên niên kỷ đang mở ra những thách thức và cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung và ngành công nghiệp nói riêng. Thách thức không tự mất đi, thời cơ không cho phép ta do dự, chần chừ. Những người làm công nghiệp quyết định bình tĩnh , tự tin, vượt qua thử thách, tận dụng thời cơ, cùng cả nước đưa sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước tới thành công.
Cánh cửa của năm 1999 đã khép lại để chúng ta chào đón năm 2000, năm có ý nghĩa đặc biệt vì là năm bản lề bước sang thiên niên kỷ mới, năm kết thúc việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 1991-2000 và kế hoạch 5 năm 1996-2000, một năm có những bước nhảy vọt vượt bậc.
Nhìn lại năm 1999, chúng ta có quyền tự hào về những thành tựu to lớn đã đạt được dù phải trải qua những thăng trầm- thử thách, khó khăn-thuận lợi do khách quan và chủ quan gây ra (cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vức cộng với thiên tai 1998 chưa khắc phục song, trận lũ thế kỷ tại Miền Trung ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế ...)
Phấn đấu các chỉ tiêu kế hoạch năm sau cao hơn năm trước trên cơ sở tốc độ tăng trưởng bình quân gia tăng, giá trị lợi nhuận trước thuế tăng, kế hoạch nộp ngân sách tăng, mức thu nhập bình quân của cán bộ công nhân tăng.
Định hướng bước đi mới của nhà máy được mở ra song diễn biến của từng bước đi lại không hề nóng vội, phản ánh tính kiên định , vững vàng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý trong từng khâu của dây chuyền sản xuất kinh doanh .
Mục lục:
Trang
Lời mở đầu 1
Phần thứ nhất: Đa dạng hoá sản phẩm - một khuynh hướng
phổ biến giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong
cơ chế thị trường 3
I.Đa dạng hoá sản phẩm và phân loại đa dạng hoá sản phẩm
1.sản phẩm 3
1.1.Khái niệm sản phẩm 3
1.2.Phân loại sản phẩm 4
2.Danh mục sản phẩm 6
3.đa dạng hoá sản phẩm 7
3.1.Khái niệm đa dạng hoá sản phẩm 8
3.2.Các hình thức đa dạng hoá sản phẩm 8
3.3.Phân loại đa dạng hoá sản phẩm 10
4.Tầm quan trọng của đa dạng hoá sản phẩm 14
4.1.Sự cần thiết khách quan của đa dạng hoá sản phẩm 14
4.2.Vai trò của đa dạng hoá sản phẩm 16
II.Nhân tố ảnh hưởng 19
1.Những nhân tố thuộc về bản thân doanh nghiệp 19
2.Nhân tố bên ngoài 22
III.Các chỉ tiêu đo lường mức độ đa dạng hoá sản phẩm
và đánh giá hiệu quả đa dạng hoá sản phẩm 25
1. Các chỉ tiêu đo lường mức độ đa dạng hoá sản phẩm
2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đa dạng hoá sản phẩm
Phần thứ hai: Thực trạng đa dạng hoá sản phẩm
tại nhà máy Chỉ khâu Hà Nội
I.Quá trình hình thành , phát triển và một số đặc điểm kinh tế
kỹ thuật của nhà máy Chỉ khâu Hà Nội
1.Quá trình hình thành và phát triển
2.Đặc điểm kinh tế- kỹ thuật
2.1.Đặc điểm tổ chức quản lý
2.2.Đặc điểm tổ chức sản xuất
2.2.1.Đặc điểm sản phẩm
2.2.2.Đặc điểm nguyên vật liệu làm nên sản phẩm
2.2.3.Đặc điểm máy móc thiết bị công nghệ
3.Tình hình quản lý chất lượng sản phẩm
4.Tình hình sử dụng các yếu tố vật chất
5.Tình hình sử dụng vốn
6.Vấn đề lao động- tiền lương
7.Môi trường kinh doanh
II.Tình hình thực hiện đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu.
1.Thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại nhà máy
1.1.Hệ thống sản phẩm truyền thống của nhà máy
1.2.Hệ thống sản phẩm đa dạng hoá
1.2.1.Đa dạng hoá sản phẩm bằng cánh đưa ra thị trường
những sản phẩm mới
1.2.2.Đa dạng hoá bằng cách kéo dài danh mục sản phẩm
2.Kết quả đạt dược từ việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm
3. Những tồn tại và nguyên nhân trong quá trình thực hiện
đa dạng hoá sản phẩm
3.1.Những tồn tại
3.1.1.Sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu so
3.1.2.Khâu thiết kế sản phẩm còn yếu kém
3.1.3.Công tác đổi mới công nghệ tuy đã được quan tâm
và bước đầu có hiệu quả nhưng còn chậm và chưa toàn diện
3.2.Nguyên nhân
3.2.1.Vấn đề nghiên cứu thị trường còn hạn hẹp
3.2.2.Trình độ cán bộ công nhân viên
Phần III.Một số ý kiến góp phần hoàn thiện đa dạng hoá sản phẩm
I.Thuận lợi và khó khăn
1.Thuận lợi
2.Khó khăn
II.Một số ý kiến góp phần hoàn thiện đa dạng hoá
sản phẩm tại nhà máy Chỉ khâu
1.Tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường
làm cơ sở phát triển đa dạng hoá sản phẩm
1.1.Cơ sở lý luận
1.2.Nội dung của biện pháp
1.3.Điều kiện áp dụng
1.4.Hiệu qủa của biện pháp
2.Tổ chức tốt khâu thiết kế sản phẩm
2.1.Cơ sở lý luận
2.2.Nội dung của biện pháp
2.3.Điều kiện áp dụng
2.4.Hiệu qủa của biện pháp.
Lời kết.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0267.doc