Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều thành tựu khoa học công nghệ đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất kinh doanh, điều này làm cho qui mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng mở rộng, giá trị tài sản của doanh nghiệp ngày càng lớn. Nếu chẳng may xảy ra hoả hoạn thì hậu quả thường rất lớn và để lại ảnh hưởng lâu dài không chỉ với chính doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới cả những cá nhân, doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên với doanh nghiệp.
Để khắc phục những tổn thất này, doanh nghiệp thường áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để bù đắp những tổn thất đó, vay ngân hàng và vay của các tổ chức tín dụng khác là một trong những biện pháp khá phổ biến, song biện pháp này lại có bất lợi lớn là mang lại gánh nặng nợ nần cho doanh nghiệp về lâu dài điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc phục hồi sản xuất. Nhưng có thể nói rằng ngoài biện pháp hiện nay đang được áp dụng rộng rãi, hiệu quả là tham gia bảo hiểm thì hầu hết các biện pháp còn lại đều chỉ là các biện pháp thụ động. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm đó.
86 trang |
Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1193 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình triển khai bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999 - 2003), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị hoả hoạn. Chúng ta có thể đơn cử ra một vài vụ hoả hoạn như sau:
- 3/11/2002 cháy tại xưởng máy nông cụ của công ty TNHH Nam Cường do sự cố về điện làm thiệt hại hơn 800 triệu.
- 5/1/2003 cháy kho chứa hàng điện lạnh của công ty TNHH Anh Tùng, con số thiệt hại lên đến hơn 1000 triệu đồng.
- 9/5/2003 cháy tại xưởng chế biến mỳ ăn liền xuất khẩu của công ty kinh doanh chế biến lương thực thực phẩm Hà Việt thiệt hại ước tính vào khoảng 4500 triệu đồng.
Chỉ tính riêng trong sáu tháng đầu năm 2003 trên địa bàn Hà Nội đã xảy ra 140 vụ hoả hoạn, giá trị tài sản thiệt hại ước tính 6.413.210 triệu đồng(Theo số liệu thống kê của công an thành phố Hà Nội).
Nhưng hầu hết các vụ cháy đều xảy ra ở những đơn vị kinh doanh không tham gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, có chăng cũng chỉ tham gia bảo hiểm hoả hoạn, nhưng những vụ hoả hoạn đó đã gióng lên những hồi chuông cấp báo về công tác phòng cháy chữa cháy.
Thực tế công tác giám định bồi thường tổn thất của Bảo Việt Hà Nội sau gần 10 triển khai nghiệp vụ mới trải qua 5 vụ tổn thất gây ra bởi các vụ hoả hoạn ước tính thiệt hại khoảng vài trăm triệu đồng/vụ, nhưng không vì thế mà công tác này không gặp phải một số khó khăn. Không giống như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy có đặc điểm riêng là sau khi tổn thất phải chờ một thời gian nhất định (giai đoạn bồi thường) người bảo hiểm mới có thể xác định được số thiệt hại thuộc trách nhiệm bồi thường. Do vậy hồ sơ giám định bồi thường không thể hoàn tất trong thời gian ngắn, mà thường kéo dài, điều này mang lại không ít khó khăn cho cán bộ Bảo Việt Hà Nội. Nhưng không thể phủ nhận rằng, cán bộ Bảo Việt Hà Nội đã có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn thành các biên bản giám định bồi thường khách quan vô tư, chính xác, nhằm chi trả bồi thường đúng, đủ, nhanh chóng cho khách hàng. Tình hình bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội đối với nghiệp vụ bảo hiểm này được thể hiện ở số liệu bảng 5.
Bảng 5: Tình hình bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003).
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
Số vụ BT (vụ)
1
2
2
0
0
STBT(Trđ)
10.20
382,6
76,4
0
0
STBTBQ/VỤ(Trđ)
10,20
191,13
38,22
0
0
DT phí BH(Trđ)
505
650
824
952
1224
Tỷ lệ BT(%)
2,0
58,86
9,27
0
0
(Nguồn số liệu : Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp Bảo Việt -Hà Nội)
Trong đó:
1. Số vụ BT Số vụ bồi thường
2. STBH Số tiền bồi thường
3. STBTBQ/VỤ Số tiền bồi thường bình quân/vụ
4. DT phí BH Doanh thu phí bảo hiểm
5. Tỷ lệ BT Tỷ lệ bồi thường
Qua bảng số liệu bảng trên ta thấy số vụ bồi thường phát sinh từ khi triển khai đến nay mới chỉ là 5 vụ, một con số quá nhỏ để có thể đưa ra một kết luận chính xác hiệu quả công tác này.
Năm 1999 phát sinh vụ bồi thường đầu tiên của Bảo Việt Hà Nội với số tiền bồi thường là: 10,20 triệu đồng tương đương với tỷ lệ bồi thường là 2%, một tỷ lệ bồi thường quá nhỏ so với tỷ lệ bồi thường của các nghiệp vụ bảo hiểm khác mà công ty đang triển khai.
Năm 2000 Bảo Việt Hà Nội phải đối mặt với hai vụ tổn thất lớn với số tiền bồi thường lên tới 425 triệu đồng, song nhờ vào khả năng tài chính vững mạnh và sự phối kết hợp sức mạnh của nhiều nghiệp vụ nên việc bồi thường nhìn chung không gặp khó khăn lớn về tài chính. Hai vụ tổn thất này dẫn tới tỷ lệ bồi thường bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy năm 2000 tăng vọt lên 58,86% .
Năm 2001 phát sinh hai vụ bồi thường khác với tổng số tiền bồi thường của hai vụ là: 76,4 triệu đồng tương đương với tỷ lệ bồi thường là 9,28%
Hơn nữa, cán bộ bảo hiểm của công ty đã và đang cố gắng hết sức để bồi thường thoả đáng cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt Hà Nội. Cụ thể là đối với nghiệp vụ bảo hiểm này, công ty đã bồi thường thoả đáng cho một số vụ bồi thường lớn và phức tạp như bồi thường B-Broun (2000) hay cho Melia hotel (2001).
Việc không phát sinh bồi thường nhữnh năm trước năm 1999 và các năm 2002, 2003 bên cạnh ưu điểm là không phát sinh trách nhiệm bồi thường, góp phần giảm chi, làm tăng lợi nhuận cho công ty không thể không đề cập tới khó khăn do nó mang lại. Một là, Bảo Việt Hà Nội gặp khó khăn trong việc nâng cao uy tín với khách hàng, khách hàng chưa thực sự nhìn thấy tác dụng của loại hình bảo hiểm này. Hai là cán bộ công nhân viên của Bảo Việt Hà Nội không có cơ hội để tích luỹ kiến thức thực tế để có thể hoàn thiện công tác giám định bồi thường cũng như công tác triển khai nghiệp vụ.
Bên cạnh những kết quả đạt được, không thể phủ nhận một thực tế là Bảo Việt Hà Nội cũng đã vấp phải không ít vướng mắc trong công tác giám định bồi thường tổn thất. Ví dụ như với vụ bồi thường cho Hà Nội Club năm 2001, việc công ty chỉ chấp nhận cho phần mất lợi nhuận do gián đoạn kinh doanh và phần chi phí gia tăng hợp lý sau khi trừ đi mức khấu trừ hai ngày mà không chấp nhận bồi thường phần chi phí làm ngoài giờ của nhân viên trong công ty nhằm rút ngắn thời gian gián đoạn kinh doanh đã gây ra bất đồng lớn giữa khách hàng và Bảo Việt Hà Nội. Về phía khách hàng họ cho rằng họ hoàn toàn có quyền đòi công ty bảo hiểm bồi thường cho họ chi phí bỏ ra để đưa công ty trở về tình trạng kinh doanh bình thường như trước khi xảy ra hoả hoạn. Còn về phía công ty, thì nhân viên chưa giải thích rõ lý do tại sao từ chối bồi thường. Nhưng xét cho cùng thì nguyên do sâu xa của điều này là do tính phức tạp trong việc tính toán số tiền bồi thường.
Tất cả các vụ bồi thường đều là bồi thường cho các đối tác nước ngoài, trong khi hầu hết cán bộ Bảo Việt Hà Nội chưa đủ trình độ ngoại ngữ để có thể trực tiếp giải thích với khách hàng mà thường phải thông qua phiên dịch những người không am hiểu nhiều về bảo hiểm, nên khó tránh khỏi việc truyền đạt sai lệch những thông tin cần truyền đạt, dẫn đến việc khách hàng hiểu lầm và mất lòng tin vào công ty.
Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai, số vụ khiếu nại bồi thường phát sinh chưa nhiều nên khó có thể đưa ra một kết luận chính xác. Tuy nhiên, vẫn còn một số vướng mắc trong công tác giám định - bồi thường trong thời gian tới, công ty cần đưa ra được những biện pháp hữu hiệu để khắc phục những mặt còn tồn tại nêu trên bên việc giải quyết vấn đề làm sao thu hút thêm nhiều khách hàng hơn để đảm bảo quy luật số lớn - chia sẻ rủi ro.
4. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh.
Như chúng ta biết, kết quả kinh doanh được xác định bằng chênh lệch giữa tổng các khoản thu và tổng các khoản chi. Song không giống như các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề kinh doanh khác, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm không chỉ dừng lại việc tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở tối thiểu hoá chi phí, mà hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm chính là thực hiện một cách đầy đủ các mục tiêu đề ra với mục tiêu cao nhất là bồi thường, hỗ trợ tài chính cho khách hàng tham gia bảo hiểm khi không may gặp rủi ro để đưa họ về tình trạng tài chính trước khi gặp tổn thất. Đối với một doanh nghiệp bảo hiểm, muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh thì cùng với việc phải tăng cường tổng thu còn phải chú ý tới các khoản chi sao cho việc chi phải tiết kiệm, chi đúng mục đích và theo đúng chế độ quy định của Bộ Tài Chính.
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Bảo Việt Hà Nội hiện nay, khoản thu chủ yếu là từ thu phí bảo hiểm, hoạt động đầu tư còn hạn chế nên nguồn thu từ hoạt động này hầu như không có. Do vậy các khoản thu có thể được thấy không khó thông qua doanh thu phí, còn việc tập hợp các khoản chi có vẻ phức tạp hơn. Các khoản chi thường được trích theo một tỷ lệ nhất định trên cơ sở phí thu được. Sau đây là bảng số liệu cho ta biết rõ hơn về việc thực chi cho nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội trong giai đoạn 1999-2003.
Bảng 6: Tình hình chi kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003).
Năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
1999
2000
2001
2002
2003
1.Tổng chi
Tr.đ
214,07
642
401,75
418,45
536,7
2. Chi bồi thường
So với tổng chi
Tr.đ
%
10,2
4,76
382,6
59,6
76,4
19,02
0
0
0
0
3. Chi hoa hồng
So với tổng chi
Trđ
%
60,60
28,4
78,00
12,15
89,5
22,28
119
28,44
153
28,5
4. Chi ĐP-HCTT
So với tổng chi
Trđ
%
1,87
0,88
2,4
0,38
3,05
0,76
3,5
0,84
4,5
0,84
5.Chi dự phòng
So với tổng chi
Trđ
%
101
47,18
130
20,25
164,8
41,02
210
50,19
269
50,12
6. Chi quản lý
So với tổng chi
Trđ
%
10.1
4,7
13
2,02
16,5
4,1
19,4
4,6
24,5
4,57
7. Chi khác
So với tổng chi
Trđ
%
30.3
14,15
36
5,6
51.5
12,82
66,64
15,93
85,68
15,96
(Nguồn số liệu : Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp Bảo Việt - Hà Nội)
Qua bảng số liệu ta thấy trong các năm thì khoản dự phòng khoản chi chiếm tỷ lệ chủ yếu. Định mức chi cho trích lập dự phòng là vào khoảng 20- 25% tổng phí thu của nghiệp vụ. Qua bảng ta thấy mức trích lập dự phòng có xu hướng tăng dần qua tương ứng với sự tăng lên của doanh thu phí. Riêng năm 2000 chi bồi thường tăng mạnh, do phát sinh hai vụ bồi thường gián đoạn kinh doanh lớn cho người tham gia bảo hiểm, đưa khoản trích lập dự phòng xuống hàng thứ hai ở mức 20,25% so với tổng chi trong khi năm 1999 khoản chi này chiếm tới 47,18% so với tổng thu. Sang tới năm 2002 và năm 2003 khoản chi này tăng mạnh, tỷ lệ trích lập dự phòng là 22% so với tổng phí thu, có điều này là do trong hai năm 2000 và 2001 đặc biệt là trong năm 2000 phát sinh những vụ khiếu nại bồi thường lớn. Không giống như các rủi ro được bảo hiểm khác rủi ro được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là rủi ro có tần suất không đều, không xảy ra thường xuyên như các rủi ro khác nhưng khi xảy ra thì tổn thất thường là tổn thất lớn, mang tính thảm hoạ. Do vậy công ty đặc biệt chú trọng tới công tác trích lập dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra trong tương lai.
Khoản chi hoa hồng là khoản chi lớn thứ hai, khoản chi này thường chiếm trên dưới 25% trong tổng chi của công ty trừ năm 2000 khoản chi này chỉ chiếm 12,15% do năm 2000 là năm có số chi bồi thường lớn. Tỷ lệ chi hoa hồng chiếm tỷ lệ cao như vậy chứng tỏ công ty rất quan tâm đến quyền lợi của đội ngũ cộng tác viên, đại lý những người trực tiếp tiến hành khai thác. Số chi hoa hồng tăng đều đặn hàng năm, đồng thời như kết quả khai thác chúng ta đã phân tích ở trên cho thâý số hợp đồng khai thác được hàng năm cũng tăng lên tương ứng, điều này cho thấy việc tăng khoản chi hoa hồng là hợp lý so với tốc độ tăng doanh thu. Song như chúng ta đã biết, theo thực tế triển khai nghiệp vụ, thì trong một vài năm trở lại đây, phần lớn các hợp đồng bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy khai thác được là do khách hàng tự yêu cầu bảo hiểm. Vậy số chi hoa hồng tăng tương ứng với doanh thu liệu có phải là dấu hiệu cho thấy Bảo Việt Hà Nội đã chi hoa hồng cho chính những người tham gia bảo hiểm?
Về khoản chi bồi thường ta dễ thấy, nhìn chung tỷ trọng số chi bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm này trong tổng chi là không cao nếu ta so sánh với các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Ví dụ như nghiệp vụ bảo hiểm cháy, tỷ trọng số chi bồi thường 5 năm gần đây chiếm khoảng trên dưới 30% trong tổng chi, trong khi đó tỷ lệ chi trung bình của bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy trong giai đoạn 1999-2003 tỷ lệ này chỉ chiếm 16,676% trong tổng chi. Riêng năm 2000 là năm có tỷ lệ chi bồi thường lớn nhất từ khi triển khai đến nay thì tỷ trọng này cũng chỉ là 59,6%, khá nhỏ khi so với tỷ lệ chi bồi thường cao nhất trong 5 năm gần đây của bảo hiểm cháy là vào khoảng 65%. Điều này chứng tỏ đây là nghiệp vụ bảo hiểm có tiềm năng mang đến lợi nhuận cao cho công ty.
Ngoài ra, trong các khoản chi thì khoản chi đề phòng hạn chế tổn thất tăng khá chậm qua các năm và có tỷ lệ nhỏ nhất trong tất cả các khoản chi thường chiếm chưa tới 1% trong tổng chi cụ thể như: 1999 chiếm 0,88%, 2002, 2003 chiếm 0,84 % đặc biệt năm 2000 khoản chi này chiểm chưa tới 0.5% so với tổng chi.
Các khoản chi quản lý và chi khác cũng có mức tăng tương ứng với mức tăng của doanh thu. Định mức chi của chi quản lý là 2% chi khác là không vượt quá 9% doanh thu phí thu được.
Nhưng sẽ là khiếm khuyết nếu đánh giá hiệu quả hoạt động của cả một nghiệp vụ bảo hiểm mà không đi so sánh phân tích thu và chi của nghiệp vụ đó. Do vậy, cần phải có một bảng so sánh sau.
Bảng 7: Kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội( 1999-2003).
Năm
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
1. Doanh thu (Trđ)
505
650
824
925
1224
2. Tổng chi (Trđ)
214,07
642,00
401,75
418,45
536,68
3. Lợi nhuận (Trđ)
290,93
8,00
440,25
533,55
687,32
4. DT/CP (Trđ/Trđ)
2,359
1,012
2,051
2,274
2,281
5. LN/DT (Trđ/Trđ)
0,574
0.012
0.534
0,560
0,562
6. LN/CP (Trđ/Trđ)
1,35
0,012
1,096
1,275
1,280
(Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp Bảo Việt Hà Nội )
Trong đó :
4. DT/CP Doanh thu/Chi phí
5. LN/DT Lợi nhuận/Doanh thu
6. LN/CP Lợi nhuận/Chi phí
Qua bảng số liệu chúng ta thấy:
- Nhìn chung qua các năm doanh thu và chi phí đều tăng nhưng chi phí tăng chậm hơn dẫn đến lợi nhuận có xu hướng tăng trừ năm 2000 do phát sinh chi bồi thường lớn lên lợi nhuận của nghiệp vụ giảm mạnh. Trong khi lợi nhuận thu được năm 1999 là 290,93 triệu thì tới năm 2000 lợi nhuận giảm chỉ còn 8 triệu. Sang tới năm 2002, 2003 do không phát sinh khiếu nại bồi thường nên lợi nhuận tăng mạnh, lợi nhuận thu được qua các năm lần lượt là: 533,55 và 687,32 triệu đồng, lợi nhuận năm 2003 tăng gấp hơn hai lần lợi nhuận đạt được năm 1999.
- Ta thấy chỉ tiêu doanh thu/chi phí qua các năm đều lớn hơn 1, như vậy chỉ tiêu này đạt hiệu quả.
- Năm 1999 thì cứ một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 2,359 đồng doanh thu.
- Năm 2001 cứ một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 2,051 đồng doanh thu.
- Năm 2002, 2003 cứ một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 2,274 và 2,280 đồng doanh thu. Nhưng vào năm 2000 chỉ tiêu này giảm mạnh chỉ là 1,012 tức cứ một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 1,012 đồng doanh thu. Xét về chỉ tiêu này thì năm 1999 là năm hiệu quả nhất, năm 2000 là năm kém hiệu quả nhất.
- Về chỉ tiêu lợi nhuận/chi phí thì năm 1999 là năm có hiệu quả nhất cứ một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 1,35 đồng lợi nhuận, đứng thứ hai là năm 2003 cứ một đồng chi phí bỏ ra tạo ra 1,28 đồng lợi nhuận. Mặc dù năm 2002 và năm 2003 là hai năm không phát sinh khiếu nại bồi thường nhưng chỉ tiêu này lại kém hơn so với năm 1999 năm phát sinh vụ khiếu nại bồi thường đầu tiên là do đặc điểm riêng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Không giống như các doanh nghiệp khác lợi nhuận của hoạt động kinh doanh được tính bằng tổng thu trừ tổng chi mà doanh nghiệp bảo hiểm còn phải tiến hành trích lập dự phòng cho tổn thất có thể xảy ra trong tương lai. Vì thế, mặc dù năm 2002 và 2003 không phát sinh khiếu nại bồi thường, doanh thu phí và số hợp đồng khai thác được đều tăng nhưng chỉ tiêu lợi nhuận lại không cao hơn năm 1999. Năm 2000 là năm chỉ tiêu này kém hiệu quả nhất. Một đồng chi phí bỏ ra chỉ tạo ra 0,12 đồng doanh thu.
Xét về hiệu quả xã hội, ta biết số lượng khách hàng được phục vụ ngày càng nhiều, uy tín của công ty cũng ngày một được nâng cao, đó thực sự là một lợi thế lớn của công ty triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này.
Còn xét về góc độ kinh tế thì doanh thu phí cũng như lợi nhuận thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm này ngày càng tăng thực sự là một tín hiệu đáng mừng cho một nghiệp vụ non trẻ như nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy.
Qua phân tích bốn khâu như trên chúng ta thấy rằng nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ đầy tiềm năng để phát triển và có khả năng mang lại doanh thu cũng như lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Và vấn đề nổi cộm hiện nay của nghiệp vụ bảo hiểm này tại Bảo Việt Hà Nội tập chung chủ yếu ở khâu khai thác. Vì vậy, trong quá trình được tiếp xúc với thực tế triển khai khai nghiệp vụ bảo hiểm này tại Bảo Việt Hà Nội, với mong muốn đóng góp một số ý kiến nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo hiểm gián doạn kinh doanh sau cháy tại công ty, chương III của chuyên đề thực tập này sẽ đề cập tới một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội.
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN
KINH DOANH SAU CHÁY TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI.
I. MỘT SỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI TIẾN HÀNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI.
1. Một số thuận lợi.
Bắt đầu từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 12/1986 ) , chúng ta thực hiện mở cửa giao lưu với bên ngoài trên nguyên tắc: “Tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào nội bộ của nhau và đảm bảo hai bên cùng có lợi”, trong nước thì thực hiện CNH-HĐH đất nước, nền kinh tế chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và sở hữu đa dạng đã tạo điều kiện cho chúng ta nhanh chóng xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, sự kiện Mỹ xoá bỏ cấm vận kinh tế vào Việt Nam (1/1/1995) cùng với sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của khối ASEAN (28/7/1995) đã tạo cho chúng ta nhiều cơ hội để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực.
Trong những năm gần đây, tốc độ phát triển kinh tế khá cao, đặc biệt là Hà Nội có tốc độ tăng trưởng khá, với sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế, tốc độ đầu tư tăng nhanh đặc biệt là đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức. Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng lớn, cùng với quá trình đô thị hoá ngày càng nhanh, Hà Nội đã đang và sẽ xây dựng nhiều trụ sở thương mại, khách sạn, nhà hàng lớn giá cả khá ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức hai con số, đời sống nhân dân thủ đô được nâng cao cả về mặt vật chất và tinh thần. Đây thực sự là môi trường thuận lợi để ngành bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng phát triển .
Bên cạnh đó, việc đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện giao vốn cho các doanh nghiệp nên công tác bảo toàn và phát triển vốn nặng nề hơn trước. Để làm tốt công tác này thì theo thông tư số 82/TCCN ngày 31/12/1991 của bộ Tài Chính hướng dẫn thực hiện chỉ thị số 332/HĐBT về bảo tồn vốn với các doanh nghiệp Nhà nước ghi rõ: “Các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho những thiệt hại. Khoản chi phí mua bảo hiểm sẽ được hạch toán vào giá thành hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không cho ghi giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất do những rủi ro mà các công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai những loại hình bảo hiểm tương tự ..”. Đây thực sự là một yếu tố thuận lợi cho việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm mới và khó như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Việc đổi mới cơ chế quản lý khiến nhiệm vụ bảo toàn vốn của các doanh nghiệp Nhà nước trở nên khó khăn hơn.Trước kia các doanh nghiệp Nhà nước thường nhận được sự trợ giúp của nhà nước nên không có nhu cầu mua bảo hiểm, nhưng giờ đây sự sự bảo trợ của nhà nước không còn tất yếu dẫn tới nhu cầu mua bảo hiểm tăng. Thêm vào đó, nhận thức của khách hàng ngày càng được nâng cao, họ đã thấy được rõ hơn tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm nên tham gia nhiều hơn, mạnh dạn tham gia những nghiệp vụ bảo hiểm mới.
Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức có hiệu lực là một thuận lợi lớn cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm nói chung và Bảo Việt Hà Nội nói riêng. Sự kiện này không chỉ đưa ra cơ sở pháp lý cho hoạt động của các công ty bảo hiểm, chấm dứt thời kì hoạt động không có cơ sở pháp lý rõ ràng, mà còn có tác dụng xoá bỏ các hoạt động khai thác, môi giới tái bảo hiểm trái phép của các văn phòng đại diện nước ngoài. Tạo sân chơi cạnh tranh lành mạnh cho các công ty bảo hiểm.
Nghị định 100/CP của chính phủ ban hành ngày 18/2/1993 và Nghị định 74/CP ban hành ngày 14/6/1997 đã cho phép các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã tạo ra sự cạnh tranh mãnh mẽ giữa các công ty bảo hiểm thúc đẩy thị trường bảo hiểm phát triển.
2. Một số khó khăn.
Trình độ dân trí còn thấp, nhân dân chưa có tập quán mua bảo hiểm cho mọi đối tượng cần thiết phải tham gia bảo hiểm như: con người, tài sản, trách nhiệm. Rất nhiều người còn hiểu sai lệch về bảo hiểm coi bảo hiểm là lừa đảo, một số người do bất bình với bảo hiểm y tế nên đã quay lưng lại với bảo hiểm thương mại. Hơn nữa, đời sống kinh tế xã hội nói chung còn thấp nên hoạt động bảo hiểm cá nhân đặc biệt đối với loại bảo nghiệp vụ bảo hiểm tài sản chưa nhiều. tham gia bảo hiểm đối với họ nói riêng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Sự chuyển đổi cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường làm cho nhiều doanh nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ không hiệu quả. Do vậy trên thực tế, mặc dù họ hiểu được tác dụng, sự cần thiết của việc tham gia bảo hiểm nhưng không có điều kiện tham gia bảo hiểm do không có khả năng chi trả. Mặt khác, do duy trì khá lâu cơ chế tập chung quan liêu bao cấp dẫn đến việc một số doanh nghiệp Nhà nước có thói quen trông chờ vào sự hậu thuẫn của Nhà nước khi gặp rủi ro nên mặc dù có khả năng chi trả nhưng họ vẫn không tham gia, họ chưa thấy rõ được trách nhiệm phải bảo toàn vốn nhất là bằng con đường tham gia bảo hiểm. Bên cạnh đó, một số dơn vị kinh doanh cũng như các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế tuy đã nhận thức được những khó khăn phức tạp của công tác bảo tồn và phát triển vốn nhưng lại không có hiểu biết nhất định về kinh doanh bảo hiểm nên họ chưa thực sự tin tưởng vào hoạt động của các cơ quan bảo hiểm nên họ chỉ tham gia một cách dè dặt ở mức tối thiểu, và thường không tham gia những nghiệp vụ bảo hiểm mới như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Trên thực tế, một số doanh nghiệp Việt Nam khi phải mua bảo hiểm đã coi đó như là một sự bắt buộc và luôn tìm cách trốn tránh.
Trong những năm gần đây, thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường bảo hiểm Hà Nội nói riêng có nhiều biến động đáng kể. Nghị định 100/CP ban hành ngày 18/2/1993 và Nghị định 74/CP ban hành ngày 14/6/1997 của chính phủ về việc cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kể cả các doanh nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh bảo hiểm đã phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt. Trên thị trường Hà Nội có 13 trong tổng số 14 công ty bảo hiểm phi nhân thọ triển khai hoạt động và chú trọng đầu tư, phát triển thị trường. Trong bối cảnh diễn biến phức tạp như vậy sự cạnh tranh và lôi kéo khách hàng trong cùng ngành và các công ty khác nhau đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới các nghiệp vụ bảo hiểm của Bảo Việt Hà Nội. Ngoài ra các công ty bảo hiểm nước ngoài thường đưa ra một mức phí bảo hiểm hợp lý, đa dạng hơn mức phí mà các công ty bảo hiểm trong nước đang áp dụng do các công ty này thường nhận được sự hỗ trợ về nghiệp vụ từ các công ty mẹ (như mức phí, kinh nghiệm trong khai thác, marketing, dự phòng, giám định bồi thường).
Là một công ty hoạt động chủ yếu trên địa bàn thủ đô, nơi tập trung nhiều công ty bảo hiểm trong và ngoài nước đã và đang cạnh tranh gay gắt gây không ít khó khăn cho công ty như:
Thứ nhất, hiện nay ở nước ta luật kinh doanh bảo hiểm mới ra đời , nên trên thị trường vẫn tồn tại một số hoạt động khai thác, môi giới, tái bảo hiểm trái phép của các văn phòng đại diện nước ngoài. Sự hoạt động của các văn phòng này đã làm cho không khí cạnh tranh trên thị trường càng thêm khốc liệt, gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực.
Thứ hai, là việc các công ty bảo hiểm khi khai thác nghiệp vụ đã trả hoa hồng ở mức cao và sai đối tượng quy định của Bộ Tài Chính.
Trong những năm gần đây cùng với chính sách mở cửa của nhà nước số lượng các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh tại Việt Nam ngày càng tăng. Trong điều 9 chương II luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam quy định rằng: “Tài sản của các xí nghiệp liên doanh được bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc các công ty bảo hiểm khác do hai bên thoả thuận”, cho nên nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia bảo hiểm tài sản của họ tại các công ty bảo hiểm nước ngoài mà họ tin tưởng hơn thay vì tham gia bảo hiểm tại một doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Điều này đã tạo cho các công ty bảo hiểm nước ngoài không phải vào Việt Nam mà vẫn thu được phí bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, khiến cho các công ty bảo hiểm trong đó có Bảo Việt Hà Nội bị thất thu phí ngay trên đất nước mình về các nghiệp vụ. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần phải có sự bảo hộ bằng luật đầu tư.
Theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự hạch toán kinh doanh chi phí mua bảo hiểm được tính và chi phí hoạt động kinh doanh, do vậy việc mua bảo hiểm có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả - hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên chủ doanh nghiệp chỉ mua các loại hình bảo hiểm bắt buộc ở mức tối thiểu. Đây thực sự là một trở ngại lớn cho việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Cuối cùng là những khó khăn từ phía Bảo Việt Hà Nội: Chất lượng phục vụ khách hàng đôi khi còn rất nhiều hạn chế, đôi khi còn tồn tại tình trạng tư vấn chưa chính xác đã gây không ít khó khăn cho công ty khi giải quyết bồi thường hay khi khách hàng thắc mắc giải thích chưa thoả đáng, thái độ chưa hoà nhã, khiêm tốn gây bất bình cho khách hàng. Bởi nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ mới và khó, khiếu nại bồi thường phần lớn là cho đối tác nước ngoài, trong khi số cán bộ có trình độ ngoại ngữ và làm tốt các khâu chưa nhiều, việc xác định số tiền bảo hiểm, số tiền thiệt hại về lợi nhuận gộp lại rất phức tạp.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHĂM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI.
Qua phân tích những thuận lợi và khó khăn trong triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm này.
1. Một số kiến nghị.
1.1. Một số kiến nghị với cơ quan nhà nước.
Ngày nay trong xu hướng hội nhập quốc tế, không một quốc gia nào có thể tự tách mình ra khỏi cộng động quốc tế và khu vực. Trong thời gian tới khi Việt Nam đã gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới đầy đủ hơn thì tiềm năng của thị trường còn lớn hơn rất nhiều đồng thời các tập đoàn bảo hiểm nước ngoài sẽ có thêm cơ hội thâm nhập sau hơn vào thị trường bảo hiểm Việt Nam làm cạnh tranh gay gắt hơn khi đó các công ty bảo hiểm trong nước phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh. Họ không chỉ có ưu thế về tiềm lực kinh tế mà còn hơn hẳn các công ty bảo hiểm trong nước về kinh nghiệm trong quản lý, khai thác cũng như công tác chăm sóc khách hàng. Nếu không được chuẩn bị chu đáo thì nghành bảo hiểm nước ta sẽ không tránh khỏi tình trạng khó khăn. Do vậy, trong giai đoạn trước mắt để giúp các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam tích luỹ kinh nghiệm và nâng cao khả năng cạnh tranh cần phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước .
- Thứ nhất là cần nhanh chóng triển khai có hiệu quả luật kinh doanh bảo hiểm.
- Thứ hai là tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý:
+ Luật kinh doanh bảo hiểm mới ra đời nên không tránh khỏi việc còn nhiều thiếu sót. Trong luật kinh doanh bảo hiểm hiện chưa có khoản mục nào đề cập đến trục lợi bảo hiểm. Do vậy, Nhà nước cần ban hành một văn bản dưới luật về vấn đề này cũng như thông tư hướng dẫn các bộ ban ngành có liên quan trong việc thực hiện nhằm đảm bảo tính khả thi của văn bản đó.
+ Ngoài ra, luật này hầu như chưa có quy định cụ thể về việc sử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp giữa các bên. Bộ tài chính cần dựa trên thực tế tình hình hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các công ty bảo hiểm để đưa ra sửa đổi bổ xung cho phù hợp, tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm còn non trẻ nước ta có thể hoàn thành vai trò quan trọng của nó với nền kinh tế. Bởi bảo hiểm không chỉ là một kênh huy động vốn quan trọng mà còn tạo tâm lý yên tâm cho các doanh nghiệp khác mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực rủi ro cao.
- Thứ ba là nhà nước cần hỗ trợ hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Nhà nước cần hỗ trợ hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua những chính sách phù hợp để khuyến khích doanh nghiệp bảo hiểm cũng như đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong giai đoạn đầu hội nhập.
- Thứ tư là cần phải lựa chọn thận trọng khi cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài vào Việt Nam trên cơ sở
Lựa chọn các công ty có khả năng tài chính mạnh, có kinh nghiệm và uy tín trên thế giới, có kế hoạch làm ăn lâu dài tại Việt Nam
Đề án hoạt động kinh doanh trong tương lai phải có tính khả thi
Hạn chế các công ty bảo hiểm nước ngoài ở Việt Nam thông qua việc hạn chế về các loại nghiệp vụ, phạm vi khách hàng.
1.2. Một số kiến nghị với Tổng công ty Bảo Việt.
Đề nghị Tổng công ty xây dựng các trung tâm hỗ trợ khách hàng toàn diện tại các thị trường lớn như Hà Nội
Đề nghị Tổng công ty tăng cường xây dựng thiết kế sản phẩm theo hướng linh hoạt để có thể đáp ứng được với nhu cầu của thị trường. Đề nghị chú trọng đến sản phẩm phục vụ khối các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đề nghị Tổng công ty thuê hoặc tuyển nhân viên giỏi để đảm nhận công tác tính xác suất rủi ro gián đoạn kinh doanh từ đó đưa ra mức phí hợp lý
Đề nghị Tổng công ty có hướng chỉ đạo thống nhất hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đề nghị tổng công ty xây dựng hoàn chỉnh chương trình kế toán và quản lý nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ trên máy vi tính để đáp ứng yêu cầu kinh doanh và yêu cầu bảo mật.
Đề nghị Tổng công ty tập chung các chiến dịch quảng cáo mang tính thống nhất trong toàn hệ thống Bảo Việt để tạo nên sức mạnh tổng hợp.
Đề nghị Tổng công ty có đánh giá tổng kết mô hình tổ chức hiện tại của Bảo Việt Hà Nội để có công ty có định hướng hoàn thiện.
2. Các giải pháp
2.1. Các giải pháp về công tác khai thác.
“Dù cho phương án kinh doanh của bạn có khéo đến đâu, xin bạn nhớ cho rằng cái cuối cùng quyết định đến thành công là bạn phải bán được hàng, dù đó là vật phẩm tiêu dùng hay dịch vụ” đó là câu nói nổi tiếng của Bill Hewlette, người sáng lập ra công ty hàng đầu thế giới Hewlett Packard (HP) và thực tế cho thấy những hãng thành công trên thế giới như Dishy, IBM, hay Sony thường rất coi trọng khâu bán hàng.
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm công tác bán hàng (thể hiện chủ yếu ở các khâu khâu khai thác) có vai trò cực kì quan trọng do đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm không giống như các hàng hoá dịch vụ khác. Tuy nhiên như đã phân tích ở chương II, thì tại Bảo Việt Hà Nội khâu khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Đó có thể là một trong những nguyên nhân một nghiệp vụ có nhiều tiềm năng như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy vẫn chưa mang lại kết quả cao cho Bảo Việt Hà Nội? Chính vì vậy, Bảo Việt cần thực hiện ngay các biện pháp thiết thực để đưa sản phẩm của mình đến với khách hàng.
- Thứ nhất, Bảo Việt Hà Nội nên tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo, giới thiệu cho khách hàng biết về sản phẩm của mình. Bởi hiện nay số khách hàng biết về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cũng như tác dụng thực sự của nghiệp vụ chưa nhiều. Một số người còn cho rằng, mua bảo hiểm là mua lấy cái xúi quẩy về mình và tốt nhất là không nên mua. Thêm vào đó, một vài vụ tranh chấp trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm giữa khách hàng với người tham gia trong một vài năm trở lại đây đã gây không ít tai tiếng cho các công ty bảo hiểm, làm giảm lòng tin của khách hàng vào công ty. Vì vậy, trong thời gian tới công ty Bảo Việt Hà Nội cần coi trọng khâu xúc tiến quảng cáo bằng cách phối hợp nhiều biện pháp khác nhau như quảng cáo trên truyền hình, trên các phương tiện thông tin đại chúng khác, tổ chức hội chợ, hội nghị khách hàng, tài trợ cho các cuộc thi, cho thể thao Công ty cũng có thể đưa ra các thông số, hình ảnh về mức độ nguy hại cũng như hậu quả có thể phát sinh trong cuộc sống hàng ngày nếu mọi người không biết tự bảo vệ mình bằng những hành động cụ thể. Không giống như nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy có trừu tượng cao mọi con số thiệt hại chỉ là ước tính tương đối nên thường thiếu tính thuyết phục. Nên công tác quảng cáo, tuyên truyền cho nghiệp vụ bảo hiểm này phải được thực hiện kiên trì trong thời gian dài. Song, nhược điểm lớn của phương pháp này là chi phí quảng cáo tương đối lớn, dẫn tới hiệu quả hoạt động kinh doanh có thể giảm sút. Do vậy, Bảo Việt Hà Nội có thể kết hợp quảng cáo về nghiệp vụ bảo hiểm này với các nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm cháy để tiết kiệm chi phí và tạo nên sức manh tổng hợp.
- Thứ hai cùng với việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo, Bảo Việt Hà Nội cần đổi mới cách phong cách phục vụ, tiếp cận khách hàng. Bởi nếu như việc tuyên truyền quảng cáo được ví như màn mở đầu thì công việc tiếp cận khách hàng có thể coi là minh chứng cho những lý lẽ đã được đưa ra trong màn giới thiệu. Kinh nghiệm cho thấy công tác tuyên truyền quảng cáo phát huy tác dụng cao nhất vào thời điểm sản phẩm mới được tung ra thị trường, hoặc mới được cải tiến và người kinh doanh thực sự muốn giới thiệu cho người tiêu dùng biết về sản phẩm của mình. Sau đó, khi sản phẩm đã được biết đến trên thị trường thì chi phí quảng cáo nên giảm dần thay vào đó là những chi phí về dịch vụ bán hàng và sau bán hàng. Theo kết quả phân tích ở chương II, tại Bảo Việt Hà Nội các công tác phục vụ bán hàng diễn ra một cách tự phát, chưa được chú trọng đúng mức, đặc biệt là đối với bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thì hầu như không có các hoạt động tiếp cận khách hàng nào cả. Bảo Việt Hà Nội cần hoàn thiện phong cách phục vụ, tiếp cận khách hàng của đội ngũ khai thác như tạo thái độ vui vẻ, niềm nở, nhiệt tình chu đáo, quan tâm tới khách hàng, có thể gủi tặng khách hàng quà vào những ngày lễ, sinh nhật hay thường xuyên thăm hỏi Tuy có nhược điểm là phạm vi ảnh hưởng hẹp nhưng có nhiều ưu điểm như nhân viên triển khai hoạt động tiêu thụ có thể trực tiếp tiếp xúc với người tiêu dùng, có thể triển khai hoạt động tiêu thụ có mục đích, nắm bắt thông tin phản hồi từ khách hàng nhanh và chính xác, hiểu được mong muốn cũng như yêu cầu của khách hàng. Khó có thể so sánh hay đánh giá biện pháp này bởi đây là phương thức thúc đẩy tiêu thụ gián tiếp.
- Thứ ba, Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp cụ thể để quản lý và nâng cao chất lượng đội ngũ đại lý. Đại lý bảo hiểm là những người được doanh nghiệp uỷ thác nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm, việc tiêu thụ khối lượng sản phẩm nhiều hay ít sẽ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng đại lý nói chung và từng đại lý nói riêng. Do vậy công ty cần phải thiết lập chính sách tuyển chọn, đào tạo cũng như các phương pháp kiểm tra hoạt động của đại lý.
Về công tác tuyển chọn đại lý, công ty có thể đưa ra những tiêu chuẩn nhất định đối với vị trí đại lý như trình độ tối thiểu, khả năng giao tiếp, nhanh nhậy trên cơ sở đó tuyển chọn đại lý một cách khách quan, tránh tình trạng tuyển người không đúng nguyên tắc. Sau khi đã tuyển chọn công ty cần chú ý đào tạo ban đầu và đào tạo liên tục đối với đội ngũ này để họ nắm bắt kịp thời với những đổi mới trong việc triển khai nghiệp vụ cũng như phương thức bán hàng. Hàng tháng hoặc hàng quý, công ty có thể mời người có kiến thức nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm nghề nghiệp tổ chức những buổi hướng dẫn cho các đại lý. Thỉnh thoảng công ty cũng có thể trích quỹ phúc lợi để thực hiện các hoạt động ngoại khoá cho các đại lý giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau Ngoài ra công ty có thể thực hiện một số chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ đại lý như hỗ trợ về tài chính lúc ban đầu, trang bị các phương tiện hoạt động giúp người đại lý thấy tin tưởng vào khả năng phát triển nghề nghiệp của mình, từ đó yêu nghề hơn, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, việc quản lý đại lý hết sức phức tạp vì hoạt độngcủa đại lý không mang tính cố định nên công ty cần có mô hình tổ chức quản lý đại lý theo mô hình quản lý hình tháp và hàng tháng qui định những người chịu trách nhiệm quản lý phải có trách nhiệm gửi báo cáo hoạt động đại lý trong tháng cho cấp cao hơn.
- Công ty lên quan hệ rộng rãi, chặt chẽ với các thành phần trung gian như các công ty môi giới, các cộng tác viên vì chính họ là những người mang lại dịch vụ lớn cho công ty. Công ty có thể thực hiện chính sách hoa hồng thoả đáng trong hạn mức của bộ tài chính và những chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các tổ chức cá nhân mang lại cho công ty các dịch vụ. Hiện, công tác này ở Bảo Việt Hà Nội tuy có nhiều tín hiệu đáng mừng nhưng Bảo Việt Hà Nội cần tránh xu hướng cạnh tranh không lành mạnh trong việc cán bộ của công ty vì lợi ích kinh doanh mà chi hoa hồng cả cho người tham gia bảo hiểm, ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín của công ty. Như phân tích ở trên, thì phần lớn các hợp đồng giao kết được là do khách hàng tự yêu cầu, số khác thì thông qua môi giới song số chi hoa hồng lại có xu hướng ngày càng tăng.
- Thứ tư, tại Bảo Việt Hà Nội có thể sửa đổi một số công thức cũ để tạo ra một cơ hội kinh doanh mới. Thường thì bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội chỉ được bán kèm theo đơn bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt , Bảo Việt Hà Nội không bán bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tách rời khỏi bảo hiểm cháy. Song, thực tế là công ty hoàn toàn có thể bán tách rời nghiệp vụ bảo hiểm này cho bất cứ đơn vị kinh doanh nào đã tham gia bảo hiểm cháy và rủi ro đặc biệt ở một công ty bảo hiểm khác, điều này không đi ngược với nguyên lý khai thác trong kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm này. Làm điều này không chỉ giúp làm tăng số thu phí mà còn tạo ra cơ hội cho bảo hiểm cháy phát triển, lôi kéo được khách hàng quen tham gia bảo hiểm cháy ở các doanh nghiệp bảo hiểm khác tham gia bảo hiểm cháy tại Bảo Việt vào năm tiếp sau.
- Thứ năm: Bảo Việt Hà Nội nên có biện pháp khích lệ nhân viên toàn công ty tăng cường tiêu thụ sản phẩm. Việc tiêu thụ sản phẩm không những phụ thuộc vào những yếu tố như đã đề cập ở trên mà còn phụ thuộc vào chính sách phúc lợi của công ty đối với cán bộ. Như công ty có thể thúc đẩy côngtác bán hàng bằng cách khoán doanh số bán hàng cho nhân viên, thưởng cho những nhân viên có sáng kiến mới về tiếp thị, nhân viên có doanh số cao
- Thứ sáu: trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, công ty cần thiết phải xác định mục tiêu trước mắt và lâu dài để phát huy thế mạnh của mình . Một trong những phương hướng Bảo Việt Hà Nội đề ra trong thời gian tới là luôn nắm vững địa bàn, và làm chủ thị trường Hà Nội. Rõ ràng, khách hàng mà Bảo Việt Hà Nội muốn nhắm tới trong thời gian tới là tất cả các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh trên địa bàn. Tuy nhiên, để hoạt động kinh doanh có hiệu qủa thì ngoài việc củng cố quan hệ, giữ những khách hàng đang có, công ty còn cần phải đẩy mạnh công tác khai thác khách hàng tiềm năng. Để thực hiện tốt công tác này, Bảo Việt Hà Nội có thể phân chia vùng trên địa bàn, theo dõi só đơn vị hoạt động kinh doanh trên địa bàn, sau đó phân công cán bộ xâm nhập vào từng khu vực để khai thác. Sau khi tiếp cận được khách hàng, cán bộ công ty cần nêu rõ ưu điểm của các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm đang triển khai tại Bảo Việt Hà Nội như tính linh hoạt của biểu phí, chất lượng công tác giám định bồi thường Mặt khác, công ty cần chú trọng phục vụ nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một loại hình doanh nghiệp rất phổ biến hiện nay. Những doanh nghiệp này là những khách hàng mà các công ty bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường Việt Nam nói chung và thị trường Hà Nội nói riêng chưa thực sự chú trọng khai thác. Bảo Việt Hà Nội nên tận dụng tối đa khoảng trống này để lôi kéo những khách hàng nhỏ về mình, tích tiểu thành đại, nhiều khách hàng nhỏ có thể mang lại doanh thu không kém gì khách hàng lớn. Hơn nữa, cán bộ khai thác Bảo Việt Hà Nội có cơ hội hoàn thiện sản phẩm của mình.
Tuy nhiên khó có thể đưa ra một biện pháp tốt nhất cho công tác xúc tiến bán hàng bởi đây là một công tác có quá nhiều yếu tố kinh doanh biến động theo thị trường. Do đó, công ty cần phải ứng phó nhanh nhậy với nhu cầu thị trường, tiềm năng của các đối thủ cạnh tranh hay sự thay đổi của môi trường pháp lý .Để làm được điều này, yếu tố con người có thể được coi là quan trọng nhất, tức Bảo Việt Hà Nội cần có một đội ngũ cán bộ nhanh nhậy, giỏi chuyên môn cũng như các kỹ năng nghiệp vụ.
2.2. Nâng cao hiệu quả của công tác giám định và bồi thường.
Giám định bồi thường là một khâu có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác khai thác. Nếu công tác giám định bồi thường được thực hiện tốt sẽ có tác dụng lôi cuốn được khách hàng tham gia bảo hiểm. Tuy đối với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, số vụ tổn thất dẫn đến trách nhiệm bồi thường không nhiều nhưng không vì thế mà Bảo Việt Hà Nội xao nhãng công tác này trong quá trình triển khai nghiệp vụ.
Do công tác giám định nhiều khi chỉ mang tính chất tương đối, dễ dẫn đến việc phản ánh không chính xác con số thiệt hại thực tế. Vì vậy, các cán bộ làm công tác giám định ngoài yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao, có tư cách đạo đức nghề nghiệp còn phải khách quan trung thực để phản ánh đúng sự việc, nguyên nhân gây ra rủi ro. Để nâng cao chất lượng công tác này, Bảo Việt Hà Nội nên thương xuyên cử cán bộ tham gia các khoá học của Tổng công ty dể nâng cao trình độ chuyên môn, chất lượng phục vụ, đồng thời tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ với các công ty giám định các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực. Những vụ phức tạp nên phối kết hợp với Tổng công ty, nhờ vào mối quan hệ của tổng công ty để thực hiện tốt công tác giám định. Để tránh tình trạng cán bộ giám định “đồng loã’’ với người tham gia bảo hiểm để thực hiện hành vi gian lận bảo hiểm, kê khai số thiệt hại trong biên bản lớn hơn số thiệt hại thực tế công ty bảo hiểm cần phải chọn lựa những người so tư cách đạo đức tốt làm công tác này. Đồng thời, cử cán bộ thanh tra, kiểm tra theo dõi công tác giám định một số vụ nhất định.
Khách hàng chỉ thực sự thấy được tác dụng, ý nghĩa của việc tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải rủi ro dẫn tới thiệt hại.Việc nâng cao chất lượng phục vụ trong công tác bồi thường là rất cần thiết vì phục vụ khách hàng tốt ở khâu này là hình thức tuyên truyền hữu hiệu nhất chất lượng sản phẩm của công ty, là yếu tố tạo nên sự khác biệt với các công ty bảo hiểm khác. Trong số ít các vụ bồi thường tại Bảo Việt Hà Nội với nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy, việc cán bộ bảo hiểm chưa giải thích rõ cho khách hàng nguyên nhân từ chối bồi thường trong một số trường hợp vẫn tồn tại. Do đó, công ty cần thực hiện ngay những biện pháp cần thiết để nâng cao chất lượng công tác bồi thường như gửi cán bộ đi học những lớp nghiệp vụ do các chuyên gia giảng dạy, mở các lớp giáo dục về phong cách phục vụ, giới thiệu cách giải thích cho khách hàng trong một vài trường hợp điển hình có thể phát sinh từ thực tế bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm này
Ngoài ra, công ty cũng nên giảm bớt các thủ tục, giấy tờ rườm rà phức tạp, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng nhận tiền bồi thường. Công ty có thể in sẵn các tài liệu hướng dẫn khách hàng cụ thể phải làm ngay việc gì, phải nộp những giấy tờ gì? để người được bảo hiểm nhanh chóng nhận được tiền bồi thường, nhanh chóng ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.2.3. Thực hiện tốt công tác an toàn, đề phòng, hạn chế tổn thất.
Về việc đề phòng hạn chế tổn thất trong bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cần phải gắn kết với nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. Để thực hiện tốt công tác này, công ty cần phải gắn trách nhiệm của mình với khách hàng bằng cách thường xuyên cử cán bộ xuống cơ sở để kiểm tra, đôn đốc khách hàng thực hiện tốt công tác đề phòng hạn chế cháy nổ, đưa ra các biện pháp phòng cháy, chữa cháy hữu hiệu cũng như hỗ trợ một phần kinh phí giúp doanh nghiệp mua các trang thiết bị phòng chống cháy nổ. Bên cạnh đó, công ty có thể kết hợp chặt chẽ hơn với cảnh sát phòng cháy chữa cháy, các cấp chính quyền ở địa phương để kiểm tra tình hình thực hiện công tác phòng chống cháy nổ ở đơn vị. Khi không may xảy ra tổn thẩt, người tham gia bảo hiểm thường cảm thấy rất lúng túng không biết phải xử lý ra sao có mặt kịp thời nhanh chóng đưa ra các biện pháp hợp lý nhằm giảm thiểu tổn thất xảy ra thêm, giúp khách hàng nhanh chóng trở về tình trạng ổn định sản xuất kinh doanh.
2.2.4. Nâng cao công tác tổ chức nhân sự.
“Luôn luôn tự điều chỉnh và hoàn thiện mình” là một trong những phương châm hành động của toàn bộ hệ thống Bảo Việt trong bất kỳ giai đoạn nào. Vì vậy, đào tạo cán bộ giỏi và có đạo đức luôn là một vấn đề được Bảo Việt quan tâm.
Thực tế, trình độ cán bộ bảo hiểm trên địa bàn Hà Nội còn có những biểu hiện chưa đạt yêu cầu. Để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công ty Bảo Việt Hà Nội có thể thực hiện một số công tác như sau:
- Tổ chức các khoá học, các cuộc hội thảo, không chỉ trong nội bộ công ty mà cần phối hợp với Tổng công ty hay với các công ty bảo hiểm phi nhân thọ khác về các chuyên đề liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm.
- Cử cán bộ đi học (ngắn hạn hoặc dài hạn) ở nước ngoài để nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường.
- Phát hiện và nhìn nhận đúng năng lực của từng cán bộ, và có chính sách đãi ngộ thích đáng, để họ có thể toàn tâm toàn ý đóng góp công sức vào sự phát triển chung của công ty.
- Thường xuyên nâng cao tinh thần trách nhiệm và giáo dục đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ công nhân viên, không để xảy ra bất cứ sự việc tiêu cực nào, giải quyết côngviệc chính xác, trung thực và khoa học, đó chính là nền tảng để tạo lòng tin, thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm.
- Hướng dẫn cán bộ, công nhân viên trong công ty thực hiệnđúng các quy định, chính sách pháp luật của nhà nước.
- Tổ chức khen thưởng đối với những cán bộ công nhân viên làm được việc và sử phạt công minh đối với những cá nhân làm việc thiếu trách nhiệm ỷ lại, không chấp hành nội quy quy chế của công ty.
- Phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi cán bộ công nhân viên, từ đó khẳng định được sức mạnh của tập thể.
- Phân công chặt chẽ các khâu trong quản lý doanh nghiệp, tổ chức bộ máy điều hành gọn nhẹ, năng động.
- Bổ sung đầy đủ các cán bộ lãnh đạo nghiệp vụ bảo hiểm có đủ trình độ cho các phòng ban và các chi nhánh của công ty.
- Đào tạo về kĩ năng giao tiếp, cách tìm kiếm khách hàng, tổ chức những buổi gặp gỡ, thảo luận nhóm giữa các đại lý có kinh nghiệm và các đại lý mới để mọi người có cơ hội gặp gỡ và trao đổi kinh nghiệm trong khai thác.
2.2.5. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính.
Trong hoạt động kinh doanh của bất kì nghành nghề nào, thì công việc quản lý tài chính cũng đóng vai trò hết sức quan trọng, vì dù cho các hoạt động khác có tiến hành tốt đến đâu nhưng công tác quản lý tài chính lại không tốt thì công ty vẫn có thể phải đối mặt với nguy cơ kinh doanh không có lãi hoặc tệ hơn có thể là mất khả năng thanh toán.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một hình thức kinh doanh dịch vụ, trong đó quỹ tiền tệ dùng để chi trả bồi thường được hình thành từ việc đóng góp của người được bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Việc tính toán mức phí phải đảm bảo đủ để chi trả bồi thường, đảm bảo kinh doanh có lãi đồng thời phải đảm bảo được khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, ở Bảo Việt Hà Nội, hiện nay, phí bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy thường đều tính dựa vào tỷ lệ phí của các công ty bảo hiểm nước ngoài có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình cạnh tranh trên thị trường chứ không dựa trên cơ sở tính toán xác suất rủi ro thực tế. Điều này có thể gây ra những khó khăn không thể lường trước được trong tương lai có thể xảy ra cho hoạt động kinh doanh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Do đó Bảo Việt Hà Nội cần đề xuất với Tổng công ty thuê hoặc tuyển nhân viên giỏi để đảm nhận công tác tính xác suất rủi ro từ đó đưa ra mức phí hợp lý.
Song song với công việc trên, Bảo Việt Hà Nội nên quản lý tài chính dựa trên phương châm “Tiết kiệm chính là để giầu có trong tương lai”. Hiện nay ở hầu hết các công ty, doanh nghiệp nhà nước tình trạng cán bộ công nhân viên đều chịu ảnh hưởng của quan điểm “Cha chung không ai khóc” đã và đang sử dụng lãng phí các nguồn lực. Để tránh tình trạng này để nâng cao hiệu quả kinh doanh, Bảo Việt Hà Nội nên hun đúc một ý thức tiết kiệm trong toàn công ty, tiết kiệm từ việc xây dựng văn phòng trụ sở cho đến việc chi quản lý, giảm tối đa các chi phí hội họp, tiếp khách cũng như các lễ nghi không cần thiết.
KẾT LUẬN
Mặc dù, nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy mới triển khai chưa lâu nhưng những kết quả mà Bảo Việt Hà Nội thu được từ nghiệp vụ này trong thời gian qua là rất đáng khích lệ. Doanh thu phí và số hợp đồng khai thác được năm sau luôn cao hơn năm trước.
Tuy nhiên, ở một thị trường giầu tiềm năng như ở thị trường Hà Nội với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định so với tốc độ phát triển chung của cả nước thì Bảo Việt Hà Nội vẫn chưa thể hài lòng với kết quả đạt được Bảo Việt Hà Nội cần phải năng động hơn nữa trong công tác triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này nhăm đưa nghiệp vụ này sánh ngang tầm với các nghiệp vụ bảo hiểm “đàn anh đàn chị” khác.
Trong giai đoạn sắp tới, khi Việt Nam đã gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới một cách đầy đủ toàn diện hơn thì tiềm năng của thị trường còn lớn hơn rất nhiều đồng thời các tập đoàn bảo hiểm nước ngoài sẽ có thêm cơ hội gia nhập sâu hơn vào thị trường bảo hiểm Việt Nam làm cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.
Đề tài đã hệ trình bầy khái quát những điểm lý luận chính về nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Đánh giá được khái quát thực trạng tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội (1999-2003). Qua đó, đưa ra một kiến nghị và số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy. Hy vọng rằng nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy sẽ sớm trở thành một trong những nghiệp vụ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho Bảo Việt Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2400.doc