Đề tài Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Minh Hà Nội

Rủi ro do thiên tai: là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như biển động, bão, lốc, sét, thời tiết quá xấu mà con người không chống lại được. Cách phân loại này giúp cho các chủ hàng cũng như các công ty bảo hiểm dễ dàng nhận biết các loại rủi ro để đi đến ký kết hợp đồng bảo hiểm. Loại 2: Những rủi ro không được bảo hiểm: Loại này thường là rủi ro xảy ra do hành vi cố ý của thuyền trưởng, thuỷ thủ và những người có liên quan những hao hụt tự nhiên. Loại 3: Những rủi ro đặc biệt: chiến tranh, đình công, bạo loạn, cướp biển thường không được bảo hiểm, nhưng nếu chủ hàng có yêu cầu, sẽ được nhận bảo hiểm kèm theo rủi ro thông thường được bảo hiểm với điều kiện trả thêm phụ phí đặc biệt chứ không nhận bảo hiểm riêng cho các rủi ro đặc biệt. Các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất. Việc phân biệt nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp có vai trò rất quan trọng để xác định được rủi ro gây ra tổn thất có phải là rủi ro được bảo hiểm hay không. Những tổn thất nào có nguyên nhân trực tiếp là những rủi ro được bảo hiểm gây ra thì mới được bảo hiểm bồi thường.

doc75 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Minh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o với năm 2001 và năm 2003 tăng 140,54 triệu so với năm 2002, năm 2004 tăng 139,27 triệu so với năm 2003. Tỷ số giữa chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi thường và thực chi bồi thường của các năm là: năm 1999 bằng 4,39%, năm 2000 là 6,98%, năm 2001 là 9,40%, năm 2002 là 8,85%, năm 2003 là 10,55%, năm 2004 là 12,15%. Sở dĩ tỉ số này tăng từ năm 1999 đến năm 2004 là vì trước đây có một số vụ tự nhân viên của công ty thực hiện, do đó tính chất ngày một phức tạp của tổn thất đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian, tiền của hơn, phải bỏ thêm chi phí để thuê các chuyên gia giám định tổn thất nên chi phí thuộc bồi thường tăng lên. Đối với các khoản chi ngoài trách nhiệm bồi thường, đây là chi cho các vụ tổn thất có nguyên nhân là các rủi ro loại trừ. Ta thấy mức tăng của khoản chi này qua các năm 2000 và 2001 là không đáng kể và có sự giảm đi vào năm 2002 và 2003. Điều này chứng tỏ số vụ tổn thất ngoài trách nhiệm Bảo Minh đã dần ổn định. Do thực tế ở Công ty, số tiền giám định các vụ tổn thất thuộc trách nhiệm bồi thường được tính gộp vào tiền bồi thường nên có sự phân biệt giữa chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi thường và chi phí giám định không thuộc trách nhiệm bồi thường cũng như giữa chi phí thực bồi thường và tổng chi bồi thường. 2.3. Công tác giải quyết khiếu nại bồi thường. Trên tinh thần nguyên tắc tăng cường quyền hạn và ý thức trách nhiệm của công ty khu vực cũng như nhằm phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất, tổng công ty Bảo Minh đã quy định phân cấp bồi thường cho các công ty. Bảo Minh Hà Nội là công ty cấp I và cũng là công ty lớn nhất miền Bắc nên được Tổng công ty quy định hạn mức phân cấp bồi thường đối với nghiệp vụ này là 15.000 USD/vụ (tương đương VNĐ). Trong trường hợp có những hồ sơ vượt phân cấp, Công ty phải thu nhập đầy đủ hồ sơ bồi thường theo quy định khẩn trương làm báo cáo có ý kiến của đơn vị gửi về Tổng công ty để xem xét bồi thường. Quy trình giải quyết bồi thường ở Bảo Minh Hà Nội cũng được tiến hành theo các bước sau: a. Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại: Bộ hồ sơ khiếu nại đối với tổn thất hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển có: + Hợp đồng bảo hiểm và giấy sửa đổi bổ sung (nếu có) + Vận đơn đường biển (bản gốc) + Phiếu đóng gói (bản gốc) + Biên bản giám định (bản gốc) + Các chứng từ giao nhận hàng của cảng hoặc cơ quan chức năng. + Thông báo tổn thất + Hợp đồng vận chuyển + Hoá đơn biên lai các chi phí khác + Các chứng từ liên quan (nếu tổn thất phát sinh do lỗi của người thứ ba). b. Kiểm tra chứng từ: Khi tiếp nhận, cán bộ làm công tác giải quyết bồi thường của chi nhánh sẽ kiểm tra cẩn thận tính đầy đủ và hợp pháp của bộ chứng từ. Nếu có thiếu sót, nhầm lẫn thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung hoặc hiệu đính lại. c. Xác minh phí: Kiểm tra xem người được bảo hiểm có thực hiện và thực hiện đúng nghĩa vụ đóng phí của mình không, đây là một trong các biện pháp ngăn ngừa tình trạng gian lận trong bảo hiểm có ý đồ trục lợi cho riêng mình. Nói chung đối với mọi trường hợp (trừ khi có thoả thuận khác bằng văn bản) thì việc chưa đóng phí bảo hiểm theo hợp đồng vào thời điểm phát sinh khiếu nại đều đồng nghĩa với việc tổn thất nằm ngoài phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm. d. Giám định tổn thất: Lúc này cán bộ làm công tác bồi thường sẽ nghiên cứu những vấn đề sau: + Người khiếu nại có quyền lợi bảo hiểm không ? + Tổn thất xảy ra có trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm không ? + Tổn thất có phải do những rủi ro loại trừ gây ra không ? + Tổn thất có được bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm như đã thoả thuận không ? Chỉ cần không đáp ứng được một trong các câu hỏi trên thì có nghĩa là nó đã nằm ngoài phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Khi đó chi nhánh sẽ lập công văn gửi người khiếu nại (bằng fax hoặc gửi qua bưu điện) để từ chối việc bồi thường tổn thất mà anh ta yêu cầu. Trong công văn phải nêu tóm tắt sự việc và lý do khước từ trách nhiệm bảo hiểm sao cho có tình có lý nhất. Nếu tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì cán bộ xét bồi thường lúc này phải tính đến số tiền dự tính bồi thường, rồi làm tờ trình để trình lãnh đạo theo phân cấp bồi thường xem xét và cho ý kiến về việc bồi thường. Cách tính số tiền dự tính bồi thường của công ty cũng tuân theo phương pháp chung như đã giới thiệu ở Chương II. e. Thanh toán bồi thường. Giai đoạn cuối cùng trong quá trình giải quyết bồi thường là việc thanh toán bồi thường. Sau khi lãnh đạo xem xét và đồng ý phê duyệt bồi thường, cán bộ xét bồi thường phải gửi thông báo số tiền bồi thường để lấy ý kiến chấp nhận từ phía khách hàng đồng thời chuẩn bị hồ sơ để đòi người nhận tái bảo hiểm hay đòi người thứ ba nếu có. Khi nhận được ý kiến chấp nhận của khách hàng số tiền bồi thường sẽ được chuyển khoản theo số tài khoản của khách hàng. Bên cạnh hoạt động khai thác, thu phí thì xét giải quyết bồi thường cũng là một khâu then chốt tác động đến số lãi thực thu của chi nhánh nói chung và trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng, nếu hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại bồi thường nâng lên thì góp phần giảm khoản chi, từ đó tăng lợi nhuận và cũng là hiệu quả kinh doanh. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính về tình hình tổn thất lớn hàng hoá từ 1995 đến 1999, trong 27 vụ tổn thất, Bảo Minh có 12 vụ chiếm 44,4%, tổng số tiền bồi thường là 18.974.228 USD, trong đó Bảo Minh đã bồi thường 8.165.183 USD, bằng 43% tổng số tiền bồi thường, cao hơn rất nhiều so với Bảo Việt là 7.092.955 USD, PIJICO là 587.072 USD, Bảo Long là 1.973.867 USD và PVIC là 355.140 USD. Để hiểu rõ hơn kết quả chi bồi thường tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Bảo Minh Hà Nội, ta hãy nghiên cứu tình hình thực hiện công tác này qua bảng sau: Bảng 4: Tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển Năm Tổng thu phí (triệu đồng) Chi bồi thường (triệu đồng) Tỷ lệ bồi thường (%) 1999 8.041,08 4.582,50 56,98 2000 9.650,16 4.811,63 49,86 2001 11.773,2 5.196,56 44,13 2002 13.812,3 5.875,75 42,54 2003 15.011,2 6.262,67 41,72 2004 17.021,2 6.583,72 38,67 (Nguồn: Số liệu thống kê của Bảo Minh Hà Nội) Qua số liệu trên cho thấy tỉ lệ bồi thường có xu hướng giảm qua các năm: 56,98% năm 1999 xuống còn 38,67% năm 2004, nhưng số tiền thực chi bồi thường lại tăng lên qua các năm. Tốc độ tăng bồi thường nhỏ hơn tốc độ tăng của doanh thu phí bảo hiểm và kim ngạch bảo hiểm. Điều này không hàm ý rằng việc bồi thường của Công ty Bảo Minh Hà Nội là dây dưa nợ đọng, ở đây nó nói lên chất lượng của công tác đề phòng hạn chế tổn thất ngày càng tốt, đồng thời các công đoạn từ khai thác, giám định bồi thường được nâng cao, nó đảm bảo hợp lý quyền lợi của người được bảo hiểm, nâng cao uy tín cho Công ty cũng như Tổng Công ty và số lượng khách hàng đến với Tổng Công ty ngày càng nhiều. Nếu chỉ nhìn vào cột chi bồi thường thì thấy chi bồi thường tổn thất của Tổng Công ty tăng lên nhưng khi xem phần kim ngạch bảo hiểm thì thấy ngay việc tăng tổn thất của Công ty là do sự tăng lên của kim ngạch bảo hiểm. Từ đây cho thấy hiệu quả của công tác giám định bồi thường được nâng cao lên đảm bảo quyền hợp lý của khách hàng, nâng cao uy tín của Công ty cũng như của Tổng Công ty. 3. Kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội. Sau gần 6 năm hoạt động trên địa bàn Hà Nội từ tháng 6/1995, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Bảo Minh Hà Nội đã thu được nhiều kết quả. Nếu như 6 tháng cuối năm 1995 doanh thu của doanh nghiệp chỉ là 2004 triệu đồng, sang năm 1996 doanh thu đạt 6204,29 triệu, năm 1997 con số là 6415 triệu, năm 1998 là 8041,88 triệu và năm 2000 là 1173,20 triệu. Điều này chứng tỏ số lượng hàng hoá xuất nhập khẩu được bảo hiểm tại Công ty ngày càng tăng. Doanh thu từ nghiệp vụ mang lại chiếm 16-17% doanh thu từ tất cả các nghiệp vụ. Bảng 5: Kết quả và hiệu quả kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Minh Hà Nội Năm Doanh thu phí bảo hiểm Các khoản chi Lợi nhuận (tr. đ) DT/CP (%) LN/CP (%) Thực chi bồi thường (tr. đ) Chi hoa hồng (tr.đ) Chi đề phòng hạn chế tổn thất (tr.đ) Chi quản lý (tr. đ) Thuế (tr. đ) Chi giám định Tổng chi (tr. đ) Thuộc trách nhiệm bồi thường Thuộc trách nhiệm ngoài bồi thường Chi khác (tr. đ) 1998 8041,8 4582,5 102,96 69,12 643,34 321,67 201,64 39,52 8,04 6041,7 2000,63 1,33 0,33 1999 9650,8 4811,63 106,11 88,31 772,02 965,01 336,04 41,50 9,65 7299,38 2430,70 1,34 0,34 2000 11773 5196,56 159,78 126,14 1202,78 1177,3 488,32 45,24 10,70 8409,44 3363,76 1,40 0,40 2001 13800 4945,25 55,37 41,28 821,72 1208,8 320,64 42,13 6,26 7436,45 6363,55 1,86 0,86 2002 15000 3122,57 60,24 20,32 612,56 1850,5 160,27 42,37 8,34 5879,17 9131,83 2,25 1,25 2003 17020 3628,61 62,18 52,18 654,23 1968,6 172,3 38,64 10,8 6587,54 10433,46 2,5 1,58 2004 19000 4134,65 64,12 84,04 695,90 2086,7 184,33 42,01 13,26 7295,91 11735,09 2,60 1,61 Trước hết ta thấy khoản chi chủ yếu mà công ty chi cho doanh nghiệp vụ này là khoản chi bồi thường, tỷ lệ chi bồi thường của một số năm như sau: năm 1998 là 75,85%, năm 1999 là 65,92% và năm 2000 là 61,79%. Nhìn vào con số này ta thấy tỉ lệ chi bồi thường giảm rõ rệt, có thể nguyên nhân là do tỷ lệ chi cho các khoản khác tăng lên trong tổng chi. Cụ thể các khoản chi này được thể hiện trong bảng sau: Bảng 6: Cơ cấu các khoản chi của Công ty Bảo Minh Hà Nội Cơ cấu các khoản 1998 1999 2000 2001 2002 2003 1. Chi bồi thường 75,85 65,92 61,79 65,50 53,11 40,72 2. Chi hoa hồng 1,70 1,5 1,9 0,74 1,02 1,3 3. Chi quản lý + thuế + khác 17,32 26,19 28,43 27,32 42,07 56,82 4. Chi giám định 3,99 5,18 6,35 5,88 3,45 2,43 5. Chi đề phòng hạn chế tổn thất 1,14 1,21 1,52 0,56 0,35 0,21 (Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội) Trước kia là về các khoản chi hoa hồng cho đại lý và cộng tác viên cũng tăng lên: năm 1998, tỷ lệ chi hoa hồng là 1,70%, cho đến năm 2000 thì tỷ lệ này là 1,9% như vậy tỷ lệ hoa hồng cũng có ảnh hưởng đến sự giảm tỷ lệ chi bồi thường. Việc chi hoa hồng bảo hiểm cho các đại lý cộng tác viên, Công ty Bảo Minh Hà Nội đã áp dụng đúng quy định của Bộ Tài chính ban hành kèm theo Thông tư số 76/TC/TCNH ngày 25/10/1996 mức tối đa là 2% cho nghiệp vụ này. Thời gian qua để khuyến khích các đại lý và cộng tác viên công ty đã áp dụng mức cao nhất là 2%. Với tỷ lệ này có thể tính được doanh thu mà đại lý mang lại. Doanh thu đại lý = Doanh thu đại lý 1998 = = 5148 triệu đồng Doanh thu đại lý 1999 = = 5045,5 triệu đồng Doanh thu đại lý 2000 = = 7989 triệu đồng Doanh thu đại lý 2001 = = 2768,5 triệu đồng Doanh thu đại lý 2002 = = 3012 triệu đồng Doanh thu đại lý 2003 = = 3109 triệu đồng Doanh thu đại lý 2004 = = 3206 triệu đồng Nếu so sánh doanh thu đại lý mang lại với tổng doanh thu thì năm 1998 là 64,01% năm 1999 là 56,01%, năm 2000 tăng vọt lên 67,86%. Điều này chứng tỏ hệ thống đại lý và cộng tác viên của Công ty hoạt động tốt lên. Nhưng trong ba năm 2002, 2003 và 2004 doanh thu do đại lý mang lại có sự giảm sút lớn như vậy là vì tỷ lệ tái tục hợp đồng đối với khách hàng cũ là rất cao, như vậy không hẳn là sự hoạt động của các đại lý kém đi. Khoản chi thứ hai cũng chiếm tỷ trọng cao trong tổng phí là chi quản lý. Khoản chi này chiếm tỷ trọng lần lượt qua các năm là 10,64%; 10,57%; 14,3%; 16,3%; 16,19%; 31,48% và 38,07%. Đây là những khoản chi như trả lương cho công nhân viên, chi phí ký kết hợp đồng, chi phí theo dõi quản lý hợp đồng, thu phí. Việc tăng này có thể do sự tăng lên về kim ngạch bảo hiểm kéo theo tăng lên về chi phí quản lý. Tỷ lệ tăng lên của chi quản lý cũng góp phần làm giảm tỷ lệ chi bồi thường trong tổng chi. Từ việc áp dụng các biện pháp kinh doanh có hiệu quả cùng đội ngũ cán bộ phòng hàng hải trẻ, khoẻ, nhiệt tình, có chuyên môn cao, doanh thu phí của Tổng Công ty trong nghiệp vụ này đã có sự tăng trưởng vượt bậc. Năm 1999 tăng 20% so với năm 1998, năm 2001 tăng 17,22% so với năm 2000, năm 2002 tiếp tục tăng 8,77% so với năm 2001, năm 2003 tăng 8,51% so với năm 2002, năm 2004 tăng 8,63%. Đây là một sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ các cán bộ của Tổng Công ty vì ngày càng có sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm càng lớn. Cùng với sự tăng lên của doanh thu phí, tốc độ tăng lợi nhuận của chi nhánh cũng có cao. Sự tăng trưởng này có sự đột biến từ năm 2000 khi lợi nhuận của Công ty năm 2000 tăng 933,06 triệu đồng so với năm 1999, năm 2002 tăng 2999,79 triệu đồng so với năm 2001 về số tuyệt đối hay tăng 89,19%, năm 2003 tăng 2768,28 triệu đồng so với năm 2002 hay tăng 45,5% và năm 2004 tưng 2856,05 triệu đồng so với năm 2003 hay tăng 57,13%. Nhìn tổng quát ta thấy cả chi phí và doanh thu của Công ty đều tăng nhưng để đánh giá được hiệu quả của hoạt động kinh doanh thì ta căn cứ vào chỉ tiêu doanh thu trên chi phí và lợi nhuận trên chi phí. Qua các năm 1998, 1999, 2000 cứ một đồng chi phí bỏ ra thì lợi nhuận của Tổng Công ty thu được lần lượt là 0,33 đồng, 0,45 đồng và 0,51 đồng. Nhưng đến năm 2001 và 2002 thì Tổng Công ty đạt kết quả rất cao ở chỉ tiêu này. Năm 2001 cứ một đồng chi phí bỏ ra Tổng Công ty thu được 1,86 đồng doanh thu hay 0,86 đồng lợi nhuận. Năm 2002, cứ một đồng chi phí bỏ ra Tổng Công ty thu được 2,62 đồng doanh thu hay 1,62 đồng lợi nhuận. Năm 2003 cứ một đồng chi phí thu được 2,82 đồng doanh thu và 1,081 đồng lợi nhuận. Năm 2004 cứ một đồng chi phí thu được 2,92% đồng doanh thu và 1,091 đồng lợi nhuận. Để đạt được kết quả khả quan như trên thì Tổng Công ty cũng như Công ty đã tạo ra sự đoàn kết nhất trí và có một quyết tâm cao từ Ban giám đốc đến tất cả các đội ngũ cán bộ nhân viên trong Tổng Công ty. Tổng Công ty đã mạnh dạn giao nhiệm vụ, mở rộng quyền hạn và tin tưởng ở đội ngũ cán bộ của mình để tạo tâm lý tốt nhất giúp họ làm việc có năng suất và hiệu quả cao. Một điều kiện quan trọng hơn nữa để đạt được hiệu quả tăng trưởng cao như hiện nay là dựa vào chất lượng và thái độ phục vụ khách hàng chu đáo nhiệt tình của Công ty, từ đó tạo được lòng tin của khách hàng đối với công ty và Tổng công ty. Việc giải quyết khiếu nại đòi bồi thường tổn thất cho khách hàng cũng ngày một đơn giản và nhanh chóng. Những cố gắng này không chỉ thúc đẩy việc tái tục hợp đồng với các khách hàng cũ mà còn thu hút các khách hàng mới đến với Tổng Công ty. Điều này làm giảm các khoản chi và làm tăng lợi nhuận cho Tổng công ty, tạo những bước phát triển nhanh và vững chắc, dần dần khẳng định vị thế của Công ty trên thị trường bảo hiểm trong nước cũng như trên thế giới. Chương III Kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty Bảo Minh Hà Nội. 1. Những thuận lợi và khó khăn của Bảo Minh Hà Nội. 1.1. Những thuận lợi: Do Đảng và Nhà nước ta đã mở cửa nền kinh tế, hội nhập vào nền kinh tế thế giới nên kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh tạo cơ hội cho các doanh nghiệp bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Biểu 2: Tình hình xuất nhập khẩu toàn thị trường 2000-2004 (Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội ) Từ năm 2000 đến năm 2001, kim ngạch nhập khẩu đã đạt 11,6 tỷ USD. Năm 2002 kim ngạch nhập khẩu tăng 31% so với năm 2001, năm 2002 và năm 2004 tăng 20,6 % so với năm 2003. Hàng nhập khẩu chủ yếu tăng ở các mặt hàng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu. So với nhập khẩu, xuất khẩu tăng nhanh và dần dần đuổi kịp nhập khẩu. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu thấp: 9,3 tỷ USD. Năm 2002 xuất khẩu tăng mạnh kim ngạch đạt 14,3 tỷ USD, tăng 24% so với năm 2001. Năm 2003 tăng 5,5 % so với 2002 và năm 2004 tăng 9,47% so với năm 2003. Kim ngạch xuất khẩu tăng chủ yếu nhờ giá trị hàng gạo xuất khẩu, hàng dệt may, thuỷ sản, giầy dép. Tình hình xuất nhập khẩu khả quan đã đem lại cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp ban hành trong đó có Bảo Minh. Kim ngạch bảo hiểm của Tổng công ty đã không ngừng tăng lên trong giai đoạn 2000-2004. Tốc độ tăng kim ngạch bảo hiểm năm 2001 so với năm 2000 là 10%. Năm 2002 đạt 6564 tỷ VNĐ, tốc độ tăng so với năm 2001 là 21%. Năm 2003 đạt 8401,92 tỷ VNĐ, tăng 28% so với năm 2002 và năm 2004 đạt 10922,496 tỷ VNĐ tăng 30% so với năm 2003. Biểu 3: Kim ngạch bảo hiểm của Bảo Minh (Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội). Tiếp theo Nghị định 100/Chính phủ ngày 18/12/1993, luật kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 09/12/2000 và đặc biệt là quyết định chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần qua Nghị định số 64/2002/NĐ-Chính phủ ngày 19/6/2002 của Chính phủ. Đây là bước tiến quan trọng về luật pháp đối với kinh doanh bảo hiểm giúp các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và Bảo Minh nói riêng yên tâm khi kinh doanh. - Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam đã được thành lập và đi vào hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi và phát triển hợp tác của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, trong đó có Bảo Minh. - Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã được thông qua, điều này có nghĩa là hàng hoá của chúng ta thâm nhập vào thị trường Mỹ sẽ được hưởng mức thuế quan ưu đãi (khoảng 5-10% mức thuế quan trước đây) nhưng ngược lại Chính phủ Việt Nam cũng phải mở cửa và mở rộng các loại hình đầu tư của Mỹ vào Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, ngân hàng. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng sẽ chấp nhận một cuộc chơi có thể nói là không cân sức với các tập đoàn tài chính khổng lồ của Mỹ. Một điểm cần chú ý nữa là chúng ta đã tham gia vào chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn khổ tự do AFTA. Một trong những điều khoản cơ bản của CEPT mà các nước thành viên cam kết là sẽ cùng nhau giảm thuế quan đánh vào hàng hoá nhập khẩu được sản xuất ở bất kỳ một quốc gia thành viên nào trong trong khối xuống còn 0-5%. Đồng thời loại bỏ những hạn chế định lượng cũng như hàng rào phi thuế quan khác. Tất cả những điều trên cho thấy một tương lai rằng trong thời gian tới, khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ tăng lên mạnh mẽ. Đây chính là cơ hội cho các công ty bảo hiểm Việt Nam phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của mình. Mỗi doanh nghiệp bảo hiểm đều phải có chiến lược phát triển riêng cho mình dựa trên cơ sở phát huy những lợi thế cạnh tranh hạn chế nhược điểm của mình. Làm tốt điều này sẽ giúp cho các công ty nâng cao được hiệu quả kinh doanh, có đủ thế và lực đứng vững trong thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt bao gồm cả các công ty trong nước và các công ty nước ngoài. 1.2. Những khó khăn. Trong thời gian qua, mặc dù tình hình xuất nhập khẩu và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển của Việt Nam rất khả quan nhưng các công ty bảo hiểm Việt Nam chỉ bảo hiểm đượckhoảng 49% đến 45% kim ngạch nhập khẩu, và chỉ khoảng từ 3,83% đến 7% kim ngạch xuất khẩu. Bảng 7: Tỷ lệ hàng hoá được bảo hiểm trong kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam (2000-2004). Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Tỷ lệ bảo hiểm hàng xuất khẩu (%) 3.83 4.34 5.19 6.2 7.1 Tỷ lệ bảo hiểm hàng nhập khẩu (%) 19.12 18.96 35.98 40.12 45.21 (Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội). Thị phần bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam thấp là do khách hàng của doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam không thích mua bảo hiểm tại Việt Nam, đặc biệt là các khách hàng chủ yếu là Nhật, châu Âu hoặc các nước Đông Nam á khác. Người Nhật chỉ thích làm việc với người Nhật, chỉ mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm của Nhật. Còn khách hàng Tây Âu thường mua bảo hiểm tại các công ty được xếp hạng tốt trên thế giới. ở các nước Châu á khác, ví dụ Malaysia, Nhà nước có chính sách ưu đãi để các công ty mua bảo hiểm trong nước họ. Vì vậy, nâng cao thị phần bảo hiểm, giảm kim ngạch bảo hiểm rơi vào tay các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài là thách thức lớn đối với bảo hiểm Việt Nam nói chung và Bảo Minh nói riêng. Bên cạnh việc đưa ra những quy định cụ thể về kinh doanh bảo hiểm, Luật Kinh doanh bảo hiểm cũng cho phép các thành phần kinh tế khác nhau kể cả kinh tế tư nhân nước ngoài tham gia vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Do vậy, sự ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm đồng nghĩa với sự ra đời của nhiều đối thủ cạnh tranh gay gắt hơn. Trong thời gian qua, Bảo Minh đã gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam và nước ngoài có kinh doanh trong lĩnh vực phi nhân thọ như: - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) thành lập ngày 17/12/1964, vốn điều lệ khi thành lập năm 1996 là 692 tỷ đồng. - Công ty Cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) thành lập ngày 11/7/1995, vốn điều lệ 22 tỷ đồng. - Công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolomex (PJCO) thành lập ngày 21/6/1996, vốn điều lệ 55 tỷ đồng. - Công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC) thành lập ngày 23/01/1996, vốn điều lệ 2 triệu USD. - Công ty liên doanh bảo hiểm Quốc tế Việt Nam (VIA) thành lập ngày 05/08/1996, vốn điều lệ 6 triệu USD, liên doanh giữa Bảo Việt và doanh nghiệp bảo hiểm lớn nhất của Nhật Bản là Tokio Marine và Fine Marine Insurance Co.Ltd và doanh nghiệp bảo hiểm lớn của Anh là Commercial Union. - Công ty bảo hiểm Liên hiệp (UIC) thành lập ngày 1/11/1997 vốn điều lệ đã góp 4 triệu USD, liên doanh giữa Bảo Minh và Yasuda Fine anh Marine Insurance Co.Ltd và Mitsui Marine and Fine Insurance Co.Ltd. - Công ty liên doanh TNHH Bảo hiểm Việt – úc (BIDV-QBt) thành lập năm 1999, vốn điều lệ đã góp 8 triệu USD. - Công ty bảo hiểm Allianze – AGP, 100% vốn nước ngoài của Cộng hoà Liên bang Đức, vốn điều lệ 5 triệu USD. Ngoài những doanh nghiệp kể trên, hiện nay đã có tới hơn 40 doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm của Anh, Pháp, Đức, Nhật, Mỹ, Thuỵ Sĩ, úc, đặt văn phòng đại diện tại nước ta, tìm kiếm và lôi kéo khách hàng xuất nhập khẩu Việt Nam. Vì vậy, trong những năm qua, sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp bảo hiểm khác đã làm thị phần của Bảo Minh có nhiều thăng trầm, đe doạ vị trí thứ hai của Tổng công ty trên thị trường. Biểu 4: Thị phần của Bảo Minh (2000-2004) (Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội) Năm 2000, thị phần của Bảo Minh là thấp nhất 22,28%. Cố gắng nâng cao thị phần, Bảo Minh đã giảm phí liên tục và nới lỏng các quy định đối với khách hàng trong khai thác, nhờ đó thị phần năm 2001 tăng lên 24,37%. Tuy nhiên doanh thu phí bị ảnh hưởng, không những thế, tỉ lệ tổn thất cao làm chi bồi thường lớn, lợi nhuận thu vì thế thấp. Vì vậy, năm 2002 với việc thực hiện thị phần của Bảo Minh tăng là 24,6%. Năm 2003, thị phần của Bảo Minh vẫn tiếp tục tăng 25,9%. Năm 2004, thị phần của Bảo Minh tăng rất mạnh 28,1% do Bảo Minh đã nâng cao chất lượng sản phẩm của mình, đã quảng cáo mạnh mẽ trên các thông tin đại chúng. 2. Mục tiêu của Bảo Minh Hà Nội. Trước những thuận lợi và khó khăn đó, Bảo Minh Hà Nội đã đề ra mục tiêu: - Giữ vững vị trí thứ hai trên thị trường Bảo Hiểm Việt Nam và không ngừng mở rộng thị phần. - Khắc phục những mặt tồn tại của Công ty đồng thời củng cố, hoàn thiện bộ máy tổ chức, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. - Mở rộng quan hệ hợp tác đối ngoại, tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty bảo hiểm nước ngoài. Để đạt được mục tiêu đó, Bảo Minh Hà Nội phải giành được khách hàng quen mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp nước ngoài và cạnh tranh thành công với các doanh nghiệp khác của Hà Nội. 3. Kiến nghị: Việc luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09/12/2000 là một thành công của các nhà luật pháp. Tiếp theo đó là nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ Tài chính thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý đầy đủ cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động cũng như tạo sự bình đẳng, đảm bảo lợi ích chính đáng và hợp pháp giữa những người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, các văn bản pháp quy này phải đưa vào thực hiện một cách hoàn chỉnh. 3.1. Đối với Nhà nước: Cùng với việc mở cửa của thị trường bảo hiểm, sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy không dài nhưng mức độ và tính chất đã diễn ra rất gay gắt thậm chí nhiều lúc đã mang tính tiêu cực. Vì thế sự can thiệp của Nhà nước nhằm định hướng cho ngành bảo hiểm nước ta liên tục phát triển một cách bền vững và lành mạnh để có thể đủ sức cạnh tranh với các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết. Trước lúc nhận bảo hiểm phục vụ giám định hiện trường kịp thời, giảm thiểu nguy cơ, cơ hội tồn tại vấn đề trục lợi. Khi có sự tổn thất cần làm tốt các khâu: giám định hiện trường, giám định chính thức, bổ sung; giám định sửa chữa một cách chi tiết, cụ thể mẫn cán, trung thực. - Để tránh tình trạng hạ phí làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của thị trường, Nhà nước (cụ thể là Bộ Tài chính) cần đưa ra mức phí sàn đối với từng mặt hàng. Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường Việt Nam, đồng thời khuyến khích các công ty tái bảo hiểm ở trong nước trước khi tái ra nước ngoài. Một thực tế hiện nay là tỷ lệ tái bảo hiểm cho các công ty nước ngoài rất cao, phần tái bảo hiểm cho VINARARE hầu như chỉ vừa đủ theo quy định của Nhà nước. Thực trạng này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến: - Khi tái bảo hiểm Nhà nước ra nước ngoài, do tiềm lực tài chính của các công ty tái bảo hiểm nước ngoài rất mạnh nên các công ty bảo hiểm của Việt Nam tỏ ra yên tâm hơn, đồng thời khi tái bảo hiểm ra nước ngoài thì lợi nhuận công ty nhận được thông thường lớn hơn so với khi tái bảo hiểm trong nước. - Khi tái bảo hiểm ra nước ngoài, các công ty bảo hiểm còn có thể tranh thủ được công nghệ, kỹ thuật cao của các công ty đó. Đặc biệt những trường hợp xảy tổn thất có tính chất phức tạp hoặc tranh chấp liên quan đến phạm vi quốc tế thì việc giải quyết thông qua các công ty tái bảo hiểm đó thường hiệu quả hơn. Vì những lý do trên nên hiện nay tỷ lệ tái bảo hiểm ra nước ngoài trong nghiệp vụ hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở nước ta là rất cao, giải quyết vấn đề này cần có sự định hướng phát triển đúng đắn cũng như những chính sách nhất quán từ phía Nhà nước. Cải tiến cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước để giúp các doanh nghiệp này tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác, trong ngành bảo hiểm việc tố tụng hay xảy ra giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm, kiểm tra tính chính xác của việc giải quyết khiếu nại, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra kiện tụng còn xảy ra giữa người bảo hiểm với bên thứ ba, thường là chủ tàu. Vì vậy, tính chính xác của các bản án rất quan trọng đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. So với các luật khác, luật bảo hiểm vẫn còn chưa hoàn chỉnh. Mặc dù luật kinh doanh bảo hiểm ra đời là bước ngoặt quan trọng trong ngành bảo hiểm Việt Nam nhưng nó chỉ là điều chỉnh về mặt kinh doanh thành lập và kiểm tra của Nhà nước. Việc giải quyết các tố tụng trong bảo hiểm vẫn chưa được xét đến. - Pháp luật cần xác định rõ Toà án nào có thẩm quyền xét xử các vụ kiện trong bảo hiểm. Việc bắt giữ tàu nước ngoài gây thiệt hại cho doanh nghiệp bảo hiểm quá khó khăn, làm cho doanh nghiệp bảo hiểm không đòi lại được số tiền đã bồi thường. Do đó, Nhà nước cần xem xét bổ sung luật tố tụng trong bảo hiểm và có các chương trình đào tạo kiến thức về bảo hiểm cho quan toà. 3.2. Đối với Bảo Minh. a. Về mặt nghiệp vụ: (*) Công tác khai thác và dịch vụ chăm sóc khách hàng: Trước sức ép cạnh tranh từ phía các công ty bảo hiểm khác, thị phần của toàn Tổng công ty Bảo Minh sẽ bị san sẻ, nên Tổng công ty cần phải tìm kiếm thêm khách hàng cho mình. Sự an toàn trong hoạt động bảo hiểm phụ thuộc vào số phí thu được, mà số phí thu được lại phụ thuộc vào khả năng khai thác của các đại lý và các chính sách khách hàng. Chính sách khách hàng tại Tổng công ty Bảo Minh nói chung và Công ty Bảo Minh Hà Nội nói riêng được thực hiện như sau: - Hàng năm, hàng quý công ty có thể tổ chức hội nghị khách hàng. Đây là dịp tốt để công ty tạo nên ấn tượng của mình với khách hàng. Ngoài ra còn giúp góp phần hạn chế rủi ro trong kinh doanh. - Phân loại khách hàng thường xuyên để có những chính sách thích hợp, khuyến khích, ưu đãi khách hàng về phía có ưu tiên đối với những khách hàng lớn và khách hàng truyền thống của công ty. - Tuyên truyền phổ biến chính sách khách hàng đến tất cả các nhân viên trong công ty, có quy trình về trách nhiệm, có sơ kết, có đề xuất với lãnh đạo, để đưa công tác khách hàng không ngừng phát triển về chất lượng phục vụ. * Củng cố và phát triển đại lý, cộng tác viên. Hệ thống đại lý, cộng tác viên của Tổng công ty có đảm bảo thì Tổng công ty mới hoàn thành tốt được kế hoạch đề ra. Tổng công ty và Công ty Bảo Minh Hà Nội nhận thấy tầm quan trọng của hệ thống đại lý, cộng tác viên trong việc kinh doanh bảo hiểm nên đã không ngừng phát triển và mở rộng hệ thống đại lý, đồng thời nâng cao trình độ của các đại lý. Tổng công ty, Công ty Bảo Minh Hà Nội đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo các đại lý. Song cần tập trung vào việc xây dựng quy trình phát triển hệ thống đại lý mới. Các đơn vị trong toàn Tổng công ty cần phải thấy được tầm quan trọng của đại lý và thực sự quan tâm đến hoạt động của đại lý, cộng tác viên. Thực hiện tốt các quy định về quản lý tài chính đối với đại lý, cộng tác viên: ấn chỉ, hoá đơn, thu nộp phí * Chương trình tái bảo hiểm: Tái bảo hiểm cũng là một công việc quan trọng trong các nghiệp vụ bảo hiểm, nếu các công ty bảo hiểm tính toán đúng các phương thức và tỷ lệ tái không những sẽ giúp cho Tổng công ty tránh được phá sản khi có tổn thất quá lớn xảy ra mà còn giúp cho Tổng công ty tăng lợi nhuận. Đối với Bảo Minh và Công ty Bảo Minh Hà Nội các chương trình tái cũng đã được Tổng công ty quan tâm đáng kể nhưng cũng cần phải chú ý đến một số vấn đề sau: - Tập trung hướng dẫn giúp đỡ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ kế toán, thống kê của các địa phương nắm vững nội dung các chương trình tái, tỷ lệ nhượng tái, thu hoa hồng nhượng tái - Thông báo kịp thời tình hình tái cho các đơn vị để làm cơ sở tính toán hiệu quả. - Tăng cường trách nhiệm của phòng tái về đòi bồi thường hoa hồng từ tái bảo hiểm. b. Về mặt quản lý. (*) Về công tác cổ phần hoá và đổi mới doanh nghiệp. Theo định hướng chung của toàn quốc, đến hết năm 2005, tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước (trừ Bảo Việt) đều được tiến hành cổ phần hóa. Tổng công ty Cổ phần Bảo Minh đã được thành lập theo giấy phép thành lập và hoạt động số 27GP/KDBH ngày 8/9/2004 của Bộ Tài chính. Trong thời gian này, Tổng công ty đã thực hiện một số phương pháp quản lý mới như khoán lương 100% theo hiệu quả kinh doanh. Tổng công ty thuê những tư vấn giỏi để xây dựng chiến lược kinh doanh cho Tổng công ty trong tình hình mới. (*) Công tác kế hoạch thống kê: Thực hiện triệt để định hướng kinh doanh: Hiệu quả là mục tiêu hàng đầu, xây dựng chỉ tiêu doanh thu thuần và khoản định mức theo chỉ tiêu này. Tăng cường kiểm tra theo dõi công tác thực hiện kế hoạch và có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. (*) Công tác tài chính kế toán: - Nhanh chóng hoàn chỉnh và triển khai phần mềm quản lý tài chính kế toán FAST. Xây dựng và thực hiện tốt quy trình quyết toán tài chính cho các đơn vị quyết toán nhanh các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành. - Tăng cường công tác kiểm tra quản lý tài chính, hướng dẫn chi tiêu phù hợp tới sự đổi mới của Tổng công ty. Hướng dẫn các biện pháp tiết kiệm chi phí quản lý. (*) Phát triển bộ máy nhân sự: Sự thành công của việc kinh doanh bảo hiểm phụ thuộc phần lớn vào trình độ nghiệp vụ của các cán bộ trong Tổng công ty nói chung và trong từng đơn vị nói riêng. Các cán bộ trong từng công ty cần phải am hiểu tường tận các nghiệp vụ bảo hiểm, các điều luật liên quan và có khả năng phân tích mọi điều khoản của các bộ luật, các văn bản chuyên ngành và các văn bản liên quan phục vụ cho công việc như: phân tích cho khách hàng những thắc mắc của họ, giải quyết các yêu cầu của khách hàng đúng luật, tạo nên uy tín trong khách hàng về đội ngũ nhân viên am hiểu về nghiệp vụ và các vấn đề có liên quan. - Bổ sung thêm kiến thức cho nhân viên trong toàn công ty về các lĩnh vực như: tin học, ngoại ngữ, công nghệ mới trong các ngành. Công ty cần kiểm tra định kỳ các nhân viên của mình về kỹ năng nghiệp vụ của họ nhằm sắp xếp công việc phù hợp cho nhân viên của mình tạo năng suất và hiệu quả làm việc cao nhất. - Công ty nên có chế độ khen thưởng hợp lý đối với những nhân viên có thành tích tốt trong công tác, phải phê bình nghiêm khắc đối với các nhân viên vi phạm các quy chế của công ty, của Tổng công ty. Công ty có thể tổ chức một buổi họp khen thưởng và phê bình, điều này là rất tốt vì như thế sẽ thúc đẩy các nhân viên làm việc tốt hơn để đạt được những thành tích tốt trong công việc. - Tổng công ty và Công ty cần đặt ra chế độ thi tuyển nhânb viên rộng rãi khắp toàn quốc nhằm thu hút người tài, có năng lực về làm việc trong Tổng công ty, Công ty. - Công ty cần tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, cập nhật thường xuyên các kiến thức thông tin cho cán bộ. Tổ chức các lớp huấn luyện nghiệp vụ cho nhân viên giúp họ theo kịp yêu cầu của công tác mới. 4. Giải pháp 4.1. Về công tác khách hàng Đây là khâu quan trọng trong chiến lượcMarketing của doanh nghiệp nói riêng và trong cơ chế thị trường khi mà cung luôn vượt quá cầu. Mục tiêu thu hút khách hàng luôn đượcđặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm. Trước hết phải kể đến việc nghiên cứu thị trường và khách hàng. Đây là công việc cần làm trước khi hoạch định các chiến lược lược chính sách và đề ra kế hoạch cho năm nghiệp vụ, nhằm xác định được những bộ phận thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp có thể hoạt động với nhiều lợi thế nhất, mặt khác giúp doanh nghiệp hiểu rõ về khách hàng, đối thủ cạnh tranh, tình hình thị trường. Để làm được điều này hàng năm công ty cần phải có kế hoạch thu nhập các thông tin về hạn ngạch xuất nhập khẩu cho từng mặt hàng nắm được định hướng xuất nhập khẩu trong năm. Công ty cần cử các nhân viên xuống gặp gỡ với các công ty xuất nhập khẩu để có thể tư vấn cho họ về việc mua bảo hiểm của công ty mình. Mặt khác cũng thông qua tiếp cận với khách hàng tìm hiểu nhu cầu xuất nhập khẩu của từng đơn vị để phân chia khách hàng thành từng nhóm: nhóm khách hàng có nhu cầu thường xuyên, nhóm có nhu cầu không thường xuyên hay nhóm các khách hàng chuyên xuất mặt hàng gạo, nông thuỷ sản hoa quả, hàng thủ công mỹ nghệ nhóm khách hàng chuyên nhập các mặt hàng phục vụ cho sản xuất như xi măng, sắt thép, phân bón đồng thời căn cứ vào nhu cầu thực tế của từng đơn vị để có thể thành lập một bảng kế hoạch chi tiết trong đó có sự phân nhóm rõ ràng và kế hoạch tiếp cận, khai thác đối với từng đối tượng. Tổng công ty có thể phân chia khách hàng theo nhóm khách hàng truyền thống và nhóm khách hàng mới để có những chính sách ưu đãi phù hợp. Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường, khách hàng thì vấn đề cao chất lượng cũng là một điều cần bàn. Như chúng ta đã biết sản phẩm bảo hiểm là một dịch vụ tài chính vô hình khách hàng rất khó cảm nhận đượclợi ích của nó thông qua các giác quan. Chính vì vậy mà chúng ta phải nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để tăng tính hữu hình của sản phẩm. Cụ thể là Tổng công ty cần phải có những nội quy rõ ràng để hướng dẫn các nhân viên trong việc tiếp xúc khách hàng, giải quyết khiếu nại, thu phí. Mấy năm vừa qua vấn đề này được Bảo Minh Hà Nội quan tâm giải quyết, cho đến nay kết quả đã thấy rõ rệt. Một thực trạng trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá ở nước ta hiện nay chính là việc các doanh nghiệp tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá theo điều kiện CIF. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta giành quyền vận chuyển và bảo hiểm hàng hoá cho phía đối tác nước ngoài. Đây chính là nguyên nhân khiến cho hàng năm chúng ta làm thất thoát một khối lượng lớn ngoại tệ ra nước ngoài. Nhiệm vụ của doanh nghiệp bảo hiểm ở đây là tạo dựng cho khách hàng sự tin tưởng vào chất lượng phục vụ của tổng công ty, căn cứ vào tình hình thực tế của doanh nghiệp để tư vấn cho doanh nghiệp về các điều kiện xuất và nhập hàng, khuyến khích họ xuất khẩu theo giá CIF và nhập theo giá được đặt ra đối với FOB. Tất nhiên, trong tình hình thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, đây là một vấn đề khó khăn nhưng nếu không làm được như vậy thì hàng năm chúng ta vẫn phải chấp nhận một khối lượng khổng lồ hàng hoá xuất nhập khẩu của chúng ta tham gia bảo hiểm ở các công ty nước ngoài. Mặt khác, khách hàng luôn mong muốn được bồi thường khi tổn thất xảy ra đối với phí bảo hiểm thấp nhất. Vì vậy đôi khi họ mua bảo hiểm không phù hợp với hàng hoá. Bảo Minh Hà Nội cần tránh những vụ từ chối bồi thường đáng tiếc để đảm bảo lợi ích và tạo tin tưởng cho khách hàng. Thứ nhất: Lúc ký hợp đồng, cán bộ khai thác cần phải dựa trên tính chất, đặc điểm của hàng, cách đóng gói bao bì, cách thức xếp hàng trên tàu, khả năng xảy ra các rủi ro để tư vấn điều kiện thích hợp cho khách hàng. Ví dụ: - Các mặt hàng như quặng, gỗ, sắt, thép, xăng dầu chỉ cần bảo hiểm theo điều kiện C. - Loại hàng được vận chuyển trên boong tàu và loại hàng cồng kềnh như sắt thanh, gỗ tròn, than đá, bột và bắp nên được bảo hiểm theo điều kiện B. - Các mặt hàng quý có giá trị cao, dễ vỡ, như hàng điện tử, hàng dễ hư thiếu hụt như thuốc men, gạo, lúa mỳ, đường, hoá chất, phân bón phải bảo hiểm theo điều kiện A. Ngoài ra một số loại hàng không nhất thiết phải mua bảo hiểm theo điều kiện A mà có thể mua ban hành theo điều kiện C hay B rồi mua bảo hiểm thêm một số rủi ro phụ hay xảy ra đối với hàng đó. Ví dụ: - Bông thô: điều kiện A cộng với điều khoản hư hỏng từ nơi xuất xứ như hư hỏng gây ra do mưa, bùn trươc khi giữ hàng. - Than: do đặc tính dễ bắt lửa và tự bốc cháy, người được bảo hiểm nên mua điều kiện bảo hiểm C và cộng thêm điều kiện bảo hiểm nóng. Nếu trộm cắp hay xảy ra trên hành trình, khách hàng có thể mua thêm rủi ro trộm cắp, không giao hàng. Thứ hai: cần hướng dẫn khách hàng lập những chứng từ cần thiết chứng minh tổn thất và khiếu nại người thứ ba để đảm bảo quyền được bồi thường của khách hàng. 4.2. Mức phí bảo hiểm: Như chúng ta đã biết sản phẩm bảo hiểm là một loại hình dịch vụ đặc biệt đó là một cơ chế chuyển giao rủi ro với đặc tính là có hiệu quả rê dịch và có chu trình kinh doanh đảo ngược. Vì thế người mua khó nhận biết về lợi ích kinh doanh của nó, họ thường quan tâm tới mức phí (giá cả của sản phẩm bảo hiểm). Phí bảo hiểm không thể quá cao làm cho khách hàng tham gia bảo hiểm ở công ty khác, nhưng cũng không được quá thấp vì còn phải đủ để bồi thường các khiếu nại dự tính trong suốt thời gian bảo hiểm và trang trải các chi phí như: hoa hồng, chi phí quản lý, trích lập dự phòng nghiệp vụ, Tổng công ty cần phải có những chính sách giảm phí cho những khách hàng truyền thống, có kim ngạch bảo hiểm lớn. Phí bảo hiểm cần phải được xây dựng trên cơ sở thống kê rủi ro, tổn thất qua các năm từ đó xác định được phí thuần, sau khi cộng thêm một số chi phí như: chi phí ký kết hợp đồng, chi phí quản lý Ta sẽ được phí thương mại. Để có mức phí hợp lý công ty phải căn cứ vào một số yếu tố thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh rồi sau đó mới đưa ra được biểu phí cho khách hàng. Ngoài ra Công ty cần phải thường xuyên theo dõi ảnh hưởng của mức phí đến tâm lý khách hàng cũng như sự tương quan với mức phí của các công ty khác để có sự điều chỉnh kịp thời. 4.3. Về công tác phòng, hạn chế tổn thất. Với những đặc điểm của mình, vận tải đường biển thường gặp phải rất nhiều rủi ro bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì thế, để công tác đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả thì công tác này cần được thực hiện ngay từ khi xếp hàng lên tàu và tiếp tục duy trì trong suốt hành trình cho đến khi dỡ hàng tại cảng đến. Hiện nay việc đề phòng hạn chế tổn thất đang được công ty thực hiện bằng cách chỉ định một công ty khác của bảo hiểm tại bến cảng hoặc thuộc đơn vị chuyên trách tiến hành quá trình bốc xếp hàng hoá lên, xuống tàu nhằm ngăn chặn những công nhân bốc xếp không làm đúng quy cách hoặc dùng phương tiện không thích hợp trong việc bốc xếp hàng hoá. Từ những biện pháp này, công ty đã hạn chế số vụ tổn thất bồi thường của công ty trong thời gian qua. Công ty cũng tăng cường công tác đề phòng hạn chế tổn thất qua việc tăng chi cho công tác này. Năm 2002, công ty đã tăng chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất 1,53% trong tổng chi nghiệp vụ. Hiệu quả được thể hiện là trong năm 2003 và năm 2004, thực chi bồi thường của Tổng công ty đã giảm rõ rệt. Công ty nên tiếp tục phát huy và làm tốt hơn một số vấn đề như: Đối với luồng vận chuyển, từng chuyến hành trình Công ty vẫn nghiên cứu kỹ những đặc điểm của cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải, cảng lánh nạn (nếu có), những rủi ro có thể xảy ra Đồng thời với các con tàu vận chuyển cho từng chuyến hàng, công ty cũng cần xem xét, tìm hiểu các đặc tính như cấp hạn tàu, tuổi tàu cỡ hạn tàu, chủ tàu Trên cơ sở đó phòng hàng hải sẽ lập ra bản hướng dẫn đối với những khách hàng mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu bao gồm: Một bản chung áp dụng cho tất cả những khách hàng trong đó ghi thông tin về tất cả các đặc điểm của từng vận chuyển, từng nhóm tàu kèm theo là lời khuyên nên chọn nhóm tàu nào và biện pháp cho việc phòng tránh rủi ro. Một bản khác sẽ được sử dụng trong từng trường hợp cụ thể đối với từng khách hàng và hợp đồng cụ thể trên đó phân tích các đặc tính của tàu, của lô hàng tham gia bảo hiểm và kèm theo các khuyến cáo về phòng tránh rủi ro, tổn thất. Đối với khách hàng tham gia hợp đồng bảo hiểm bao, Bảo Minh Hà Nội nên đề nghị khách hàng thông báo gửi về cho công ty trước mỗi chuyến hành trình, phải ghi thật đầy đủ, cụ thể các đặc điểm của chuyến theo đó công ty sẽ thông báo lại cho khách hàng về con tàu nên thuê cách thức đóng gói, bốc, dỡ, chất xếp hàng cần làm Bên cạnh đó công ty cũng lên tham mưu cho khách hàng về các mặt: điều kiện bảo hiểm tốt nhất, chất lượng hàng, bao bì đóng gói, điều kiện bốc dỡ, đóng gói, tình trạng tàu, tình trạng tài chính của tàu. Nếu như lô hàng có giá trị lớn, số lượng nhiều, chiếm một khoảng không gian đáng kể trong hầm tàu thì chủ hàng nên đề nghị chủ tàu tiến hành việc nâng hàng và chăm sóc hàng ngay từ đầu. Trong trường hợp khách hàng lớn, thường xuyên tiến hành xuất nhập khẩu và hay bốc dỡ tại một cảng nào đó thì công ty cũng nên để khuyến cáo khách hàng cần có đề xuất với cảng chấp nhận phương án sau. Nếu trong một thời gian nhất định (có thể là một quý hoặc một năm). Các lô hàng hoá xuất nhập khẩu trong quá trình bốc xếp không may xảy ra mất mát, hao hụt, trả lại hoặc xảy ra nhưng với điều kiện nhỏ hơn mức độ ấn định thì cũng sẽ được thưởng một khoản tiền tương xứng. Còn nếu ngược lại thì các giá trị tổn thất xảy ra vượt quá mức cho phép thì cảng phải trả cho chủ hàng một số tiền tỷ lệ với giá trị tổn thất. Bằng cách này sẽ nâng cao được trách nhiệm của cảng đối với hàng hoá, qua đó có thể giảm được đáng kể các tổn thất khi bốc dỡ và xếp hàng. 4.4. Về công tác giám định. Qua số liệu tổng kết của công ty trong thời gian gần đây ta thấy khoản chi cho giám định hàng hoá tăng lên. Điều này có thể lý giải là do những năm đầu số vụ tổn thất còn ít nên hầu hết các vụ đều do cán bộ của Công ty hoặc của Tổng công ty giám định. Song càng về sau số vụ tổn thất càng tăng lên theo số lượng hợp đồng trong khi đó số lượng cán bộ phòng hàng hải của Bảo Minh là quá mỏng, lại phải đảm đương tất cả các khâu từ khai thác đến bồi thường nhiều nghiệp vụ: bảo hiểm, tàu biển, bảo hiểm tàu phà sóng biển, đồng thời tính chất phức tạp của tổn thất cũng tăng lên vì thế công ty phải thuê các chuyên gia giám định có uy tín để thực hiện. Do đó đã làm chi phí giám định tăng lên. Để tăng cường chất lượng công tác giám định đồng thời đảm bảo tiết kiệm chi phí, một mặt công ty cần phải không ngừng đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ giám định, mặt khác nên để chuyên môn hoá khâu giám định bằng cách mỗi cán bộ phòng hàng hải chịu trách nhiệm giám định cho một số mặt hàng cụ thể nào đó. Có như vậy thì mới có thể đi sâu nghiên cứu và chuyên môn hoá trong lĩnh vực của mình để nhằm hạn chế bớt các chi phí phát sinh và nâng cao hiệu suất của công việc. 4.5. Công tác bồi thường: Hiệu quả công tác bồi thường phụ thuộc rất lớn vào việc triển khai các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất và đơn giản hóa các thủ tục trong quá trình xét giải quyết khiếu nại, đòi bồi thường. Vì thế, để nâng cao chất lượng công tác này, Tổng công ty và Công ty không chỉ cần làm tốt các yếu tố trên mà còn phải có những biện pháp ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra trong quá trình khiếu nại đòi bồi thường. Để ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra tổn thất khi xem xét khiếu nại đòi bồi thường tổn thất, công ty cần tìm hiểu và xác định rõ các tổn thất. Kinh nghiệm thực tế và trình độ chuyên môn của các cán bộ của công ty nên đề ra những chuẩn mực và các điểm chú ý cần thiết trong quá trình giải quyết khiếu nại cho tất cả cán bộ phòng hàng hải của Tổng công ty. Mặt khác, tổng công ty cũng cần đề ra những yêu cầu đối với khách hàng về tinh thần trung thực cũng như thiện chí khi ký kết hợp đồng, đặc biệt là đối với những khách hàng mới. Nếu họ vi phạm những thoả thuận đó thì công ty có thể xử phạt tuỳ theo mức độ nặng nhẹ. Có thực hiện được như trên thì mới tạo được những hiệu quả thiết thực trong việc ngăn ngừa gian lận trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển, từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại bồi thường của Công ty cũng như Tổng công ty. 4.6. Về công tác cán bộ: Hiện nay ở công ty Bảo Minh Hà Nội, đội ngũ cán bộ công tác trong phòng hàng hải đều rất tâm huyết với công việc và có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Những cán bộ này được đào tạo các kiến thức về chuyên ngành bảo hiểm, hàng hải, ngoại thương, luật trong các trường đại học có uy tín. Ngoài ra hàng năm các cán bộ này còn tham gia nhiều khoá huấn luyện hội thảo trong nước cũng như ngoài nước (Anh, Mỹ, Hàn Quốc). Mặt khác đa phần trong số họ đều làm việc cho Tổng công ty ngay từ đầu thành lập nên rất am hiểu thực trạng của Tổng công ty, vị thế của Tổng công ty trên thị trường, các khách hàng truyền thống, đây có thể nói là những thuận lợi của công ty về mặt nhân sự, có ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của công ty trong thời gian qua. Tuy nhiên hiện nay cán bộ trong phòng hàng hải của Tổng công ty còn ít so với khối lượng đồ sộ của công việc và thường xuyên phải thực hiện những chuyến công tác dài ngày để giám định bồi thường tổn thất. Vì vậy xin đề nghị với Tổng công ty cũng như Công ty lưu tâm hơn đến chế độ đãi ngộ cũng như lương, thưởng đối với cán bộ phòng bảo hiểm để khuyến khích họ ngày càng làm việc tốt hơn và hiệu quả hơn. Kết luận Tài liệu tham khảo. 1. Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm, TS. Nguyễn Văn Định, NXB Thống kê - 2004 2. Giáo trình Quản trị kinh doanh Bảo hiểm, TS. Nguyễn Văn Định, NXB Thống kê - 2004 3. Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành (Insurance Principle and Practice) – Học viện Hoàng gia Anh. 4. Các tạp chí thông tin thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm, VINARE. 5. Tạp chí bảo hiểm. 6. Tài liệu của phòng bảo hiểm Hàng hải – Công ty Bảo Minh Hà Nội. 7. Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh của Bảo Minh Hà Nội các năm 1998 – 2004. 8. Báo cáo năng lực của Bảo Minh (12/2004). 9. Website: www.baominh.com.vn đề cương sơ bộ Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 1. Vai trò của vận tải biển và sự cần thiết của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. 1.1. Vai trò của vận chuyển bằng đường biển. 1.2. Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. 2. Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. 2.1. Các loại rủi ro 2.2. Các loại tổn thất 3. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. 3.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm a. Đối tượng bảo hiểm b. Phạm vi bảo hiểm 3.2. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm. a. Giá trị bảo hiểm. b. Số tiền bảo hiểm c. Phí bảo hiể 3.3. Điều kiện bảo hiểm a. Hệ điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1 b. Hệ điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1982. 3.4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. a. Khái niệm và tính chất của hợp đồng bảo hiểm. b. Các loại hợp đồng bảo hiểm Chương II: tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tạiCông ty Bảo Minh Hà Nội 1. Vài nét về Tổng công ty Bảo Minh và Công ty Bảo Minh Hà Nội 2. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội. 2.1. Công tác khai thác bảo hiểm. a. Kiểm tra chứng từ và đánh giá rủi ro b. Xem xét chấp nhận, từ chối bảo hiểm. c. Cấp đơn bảo hiểm. d. Thu phí và theo dõi sau khi cấp đơn bảo hiểm. 2.2. Công tác giám định hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Tổng Công ty bảo hiểm Bảo Minh. a. Nhận yêu cầu giám định: b. Tiến hành thực hiện việc giám định. c. Lập biên bản giám định. d. Cung cấp biên bản giám định và thu phí giám định. 2.3. Công tác giải quyết khiếu nại bồi thường. a. Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại: b. Kiểm tra chứng từ: c. Xác minh phí: d. Giám định tổn thất: e. Thanh toán bồi thường. 3. Kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội. 4. Những thuận lợi và khó khăn của Bảo Minh Hà Nội. 4.1. Những thuận lợi 4.2. Những khó khăn 5. Mục tiêu của Bảo Minh Hà Nội. Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty Bảo Minh Hà Nội. 1. Kiến nghị: 1.1. Đối với Nhà nước 1.2. Đối với Bảo Minh Hà Nội . a. Về mặt nghiệp vụ b. Về mặt quản lý 2. Giải pháp: 2.1. Về công tác khách hàng 2.2. Mức phí bảo hiểm: 2.3. Về công tác phòng, hạn chế tổn thất. 2.4. Về công tác giám định. 2.5. Công tác bồi thường: 2.6. Về công tác cán bộ:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3872.doc
Tài liệu liên quan