1. Lý do chọn đề tài
Người Việt Nam dù đi đâu nhưng tâm hồn vẫn hướng về cội nguồn “Cây đa, giếng nước, sân đình’’ là nơi người ta được cởi tấm lòng, vì lẽ đình làng là công trình kiến trúc cổ truyền mang những đặc điểm của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc trong sáng độc đáo, tính dân tộc phong phú đậm đà sắc thái dân gian ít chịu ảnh hưởng của ngoại lai hơn tất các loại hình nghệ thuật ở Việt Nam được xây dựng trong xã hội phong kiến xưa.
Hầu như ở mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình, nhất là vùng đồng bằng Bắc bộ, nó là sản phẩm chung của cộng đồng, do tất cả các thành viên góp công tạo dựng nên. Bởi vậy đình làng là mối quan tâm, là niềm tự hào của mọi người trong làng. Vì thế, ngôi đình làng càng to càng đẹp bao nhiêu càng chứng tỏ làng đó giầu có và phúc đức.Do đó, dù nghèo đói, dù phải ở nhà tranh vách đất, nhưng mọi người dân đều cố gắng góp tiền của, công sức, để cùng nhau xây dựng cho được một ngôi đình khang trang đẹp đẽ, ngôi đình trở thành bộ mặt cho cả làng, nó gắn chặt với đời sống tinh thần của cả cộng đồng. Cũng vì vậy, ngôi đình trở thành bộ phận dường như không thể thiếu trong cấu trúc tổng thể của bất cứ một làng quê lâu đời nào ở Việt Nam.
Đình làng là nơi sinh hoạt, hội họp, vui chơi của cả cộng đồng làng Những sinh hoạt của tình làng nghĩa xóm, tạo nên mối giao cảm gắn bó chung giữa những thành viên trong một cộng đồng. Đặc biệt, Đình cũng là một công trình, nơi biểu đạt tư tưởng tình cảm, những rung động của người thợ, những nghệ sĩ dân gian thể hiện cuộc sỗng muôn vẻ của làng quê thông qua nghệ thuật chạm khắc.
Mặc dù đình xuất hiện từ sớm trong lịch sử nhưng chạm khắc dân gian ở trong các ngôi đình chỉ thực sự rực rỡ trong giai đoạn cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII với không chỉ hành loạt tác phẩm đắc sắc và phong phú về đề tài mà còn thể hiện về ngôn ngữ, phong cách nghệ thuật độc đáo và hấp dẫn. ở đó người nghệ sĩ dân gian đã gửi gắm những tâm tư tình cảm của mình, ngoài những mảng hoa văn như một sự kế tiếp truyền thống trước đó, những đề tài như loài vật, thảo mộc đặc biệt là hình tượng con người với những sinh hoạt đời thường được thực sự trở thành những tác phẩm chạm khắc có giá trị, đóng góp to lớn vào kho tàng nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộ. Nó là sự kết tinh, thăng hoa của người nghệ sĩ dân gian trong khả năng biểu cảm thẩm mỹ một cách có ý thức trong cách xây dựng những đề tài sinh động của cuộc sống. Dù trau chuốt trong nét chạm hay sự mộc mặc khoẻ khoắn tất cả chỉ nhằm nắm bắt hiện thực một cách sống động nhất, gần gũi nhất và nói lên nhiều nhất cái ý, cái tình của mình được thể hiện trong các bức chạm khắc.
Bản thân tôi hiện đang là sinh viên Sư phạm Mỹ thuật, khi nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật dân tộc tôi nhận thấy mảng chạm khắc đình làng có những giá trị văn hoá, lịch sử vô cùng to lớn, với phong cách nghệ thuật độc đáo rất cần được gìn giữ và phát triển. Với việc sáng tác mỹ thuật thì sự học hỏi phong cách tạo hình, sắp xếp bố cục, cách tạo không gian, tả hình khối rất bổ ích cho sinh viên trong việc tìm hiểu tiếp thu nghệ thuật của cha ông. Đối với công tác giảng dạy mỹ thuật, đem những kiến thức của mình giúp cho học sinh say mê, tìm hiểu, học hỏi mỹ thuật dân tộc nói chung và nghệ thuật chạm khắc đình làng nói riêng là rất cần thiết, nó sẽ giúp các em không quên cái hồn của cha ông, cái tinh tuý của dân tộc.
Xuất phát từ những suy nghi trên, tôi mạnh dạn lấy tên đề tài là “tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng”.
2. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
- Giúp bản thân cảm nhận, nhìn nhận một cách đúng đắn về tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng.
- Hiểu biết, tiếp nhận giá trị hồn nhiên trong chạm khắc đình làng nhằm nâng cao chất lượng thực tế sáng tác mỹ thuật cũng như trong giảng dạy mỹ thuật.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ được tính hồn nhiên chạm khắc đình làng và khẳng định chạm khắc đình làng có giá trị to lớn, là nguồn cảm hứng cho các hoạ sĩ Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Tính hồn nhiên trong chạm khắc đình làng qua một số bức chạm khắc tiêu biểu ở các đình làng miền Bắc.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Tập trung vào một số đình làng tiêu biểu từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII, chủ yếu ở các tỉnh Hà Bắc, Hà Tây, Vĩnh Phúc, nơi hiện nay còn có những ngôi đình được coi là cổ nhất và có nhiều giá trị nghệ thuật nhất.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu qua tài liệu
- Nghiên cứu thực tiễn làm sáng tỏ vấn đề
- Đánh giá,phân tích rút bài học kinh nghiệm
5. Đóng góp của đề tài
- khẳng định tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng của người Việt. Có khả năng thâm nhập tâm tư tình cảm người dân mỗi làng quê và vẫn còn nguyên tác dụng của nó trong sáng tạo ngày nay.
- Góp phần bổ sung nguồn tư liệu cho nghiên cứu và giảng dạy bộ môn mỹ thuật.
6. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài được cấu trúc thành 2 chương.
Chương 1: Đình làng trong đời sống của người ViệtChương 2: Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng
33 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3883 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Người Việt Nam dù đi đâu nhưng tâm hồn vẫn hướng về cội nguồn “Cây đa, giếng nước, sân đình’’ là nơi người ta được cởi tấm lòng, vì lẽ đình làng là công trình kiến trúc cổ truyền mang những đặc điểm của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc trong sáng độc đáo, tính dân tộc phong phú đậm đà sắc thái dân gian ít chịu ảnh hưởng của ngoại lai hơn tất các loại hình nghệ thuật ở Việt Nam được xây dựng trong x• hội phong kiến xưa.
Hầu như ở mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình, nhất là vùng đồng bằng Bắc bộ, nó là sản phẩm chung của cộng đồng, do tất cả các thành viên góp công tạo dựng nên. Bởi vậy đình làng là mối quan tâm, là niềm tự hào của mọi người trong làng. Vì thế, ngôi đình làng càng to càng đẹp bao nhiêu càng chứng tỏ làng đó giầu có và phúc đức.Do đó, dù nghèo đói, dù phải ở nhà tranh vách đất, nhưng mọi người dân đều cố gắng góp tiền của, công sức, để cùng nhau xây dựng cho được một ngôi đình khang trang đẹp đẽ, ngôi đình trở thành bộ mặt cho cả làng, nó gắn chặt với đời sống tinh thần của cả cộng đồng. Cũng vì vậy, ngôi đình trở thành bộ phận dường như không thể thiếu trong cấu trúc tổng thể của bất cứ một làng quê lâu đời nào ở Việt Nam.
Đình làng là nơi sinh hoạt, hội họp, vui chơi của cả cộng đồng làng…Những sinh hoạt của tình làng nghĩa xóm, tạo nên mối giao cảm gắn bó chung giữa những thành viên trong một cộng đồng. Đặc biệt, Đình cũng là một công trình, nơi biểu đạt tư tưởng tình cảm, những rung động của người thợ, những nghệ sĩ dân gian thể hiện cuộc sỗng muôn vẻ của làng quê thông qua nghệ thuật chạm khắc.
Mặc dù đình xuất hiện từ sớm trong lịch sử nhưng chạm khắc dân gian ở trong các ngôi đình chỉ thực sự rực rỡ trong giai đoạn cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII với không chỉ hành loạt tác phẩm đắc sắc và phong phú về đề tài mà còn thể hiện về ngôn ngữ, phong cách nghệ thuật độc đáo và hấp dẫn. ở đó người nghệ sĩ dân gian đ• gửi gắm những tâm tư tình cảm của mình, ngoài những mảng hoa văn như một sự kế tiếp truyền thống trước đó, những đề tài như loài vật, thảo mộc…đặc biệt là hình tượng con người với những sinh hoạt đời thường đ• thực sự trở thành những tác phẩm chạm khắc có giá trị, đóng góp to lớn vào kho tàng nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộ. Nó là sự kết tinh, thăng hoa của người nghệ sĩ dân gian trong khả năng biểu cảm thẩm mỹ một cách có ý thức trong cách xây dựng những đề tài sinh động của cuộc sống. Dù trau chuốt trong nét chạm hay sự mộc mặc khoẻ khoắn …tất cả chỉ nhằm nắm bắt hiện thực một cách sống động nhất, gần gũi nhất và nói lên nhiều nhất cái ý, cái tình của mình được thể hiện trong các bức chạm khắc.
Bản thân tôi hiện đang là sinh viên Sư phạm Mỹ thuật, khi nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật dân tộc tôi nhận thấy mảng chạm khắc đình làng có những giá trị văn hoá, lịch sử vô cùng to lớn, với phong cách nghệ thuật độc đáo rất cần được gìn giữ và phát triển. Với việc sáng tác mỹ thuật thì sự học hỏi phong cách tạo hình, sắp xếp bố cục, cách tạo không gian, tả hình khối rất bổ ích cho sinh viên trong việc tìm hiểu tiếp thu nghệ thuật của cha ông. Đối với công tác giảng dạy mỹ thuật, đem những kiến thức của mình giúp cho học sinh say mê, tìm hiểu, học hỏi mỹ thuật dân tộc nói chung và nghệ thuật chạm khắc đình làng nói riêng là rất cần thiết, nó sẽ giúp các em không quên cái hồn của cha ông, cái tinh tuý của dân tộc.
Xuất phát từ những suy nghi trên, tôi mạnh dạn lấy tên đề tài là “tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng”.
2. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
- Giúp bản thân cảm nhận, nhìn nhận một cách đúng đắn về tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng.
- Hiểu biết, tiếp nhận giá trị hồn nhiên trong chạm khắc đình làng nhằm nâng cao chất lượng thực tế sáng tác mỹ thuật cũng như trong giảng dạy mỹ thuật.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ được tính hồn nhiên chạm khắc đình làng và khẳng định chạm khắc đình làng có giá trị to lớn, là nguồn cảm hứng cho các hoạ sĩ Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Tính hồn nhiên trong chạm khắc đình làng qua một số bức chạm khắc tiêu biểu ở các đình làng miền Bắc.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Tập trung vào một số đình làng tiêu biểu từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII, chủ yếu ở các tỉnh Hà Bắc, Hà Tây, Vĩnh Phúc, nơi hiện nay còn có những ngôi đình được coi là cổ nhất và có nhiều giá trị nghệ thuật nhất.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu qua tài liệu
- Nghiên cứu thực tiễn làm sáng tỏ vấn đề
- Đánh giá,phân tích rút bài học kinh nghiệm
5. Đóng góp của đề tài
- khẳng định tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng của người Việt. Có khả năng thâm nhập tâm tư tình cảm người dân mỗi làng quê và vẫn còn nguyên tác dụng của nó trong sáng tạo ngày nay.
- Góp phần bổ sung nguồn tư liệu cho nghiên cứu và giảng dạy bộ môn mỹ thuật.
7. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài được cấu trúc thành 2 chương.
Chương 1: Đình làng trong đời sống của người Việt
Chương 2: Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng
B. phần nội dung
Chương 1
Đình làng trong đời sống của người Việt
1. 1. Nguồn gốc và chức năng của đình làng
1.1.1. Nguồn gốc:
Mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình. Đó là nơi thờ Thành Hoàng làng (vị thần bảo trợ của làng ).Vào mỗi dịp lễ tết, đình trở thành trung tâm văn hoa của làng mà ở đó, tất cả kho tàng văn hoá tích luỹ từ đời này qua đời khác được thể hiện đầy đủ nhất.
Đình “Đình Bảng” (Từ Sơn, Bắc Ninh)
“Đình” theo nghĩa Hán tự là một ngôi nhà để chú ngụ, nghỉ tạm. Theo một số nhà nghiên cứu, từ “đình” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử Việt Nam là vào thế kỷ thứ II đến thứ III.Tuy nhiên giả thiết này còn thiếu cơ sở khoa học. Thời nhà Trần đình với tư cách là trạm nghỉ chân đ• được nghi trong Đại việt sử ký toàn thư “Thượng hoàng xuống chiếu rằng, trong nước ta phàm chỗ nào có đình trạm đều phải đặt tượng phật để thờ”. Thời nhà Mạc, từ chức năng ngôi nhà công cộng, đình trở thành công trình đa chức năng. Nó là nơi thờ thành Hoàng Làng và là nơi hội họp của làng x•. Điều này đ• được các nhà trong và ngoài nước ghi nhận, người đầu tiên khái quát tên là M.Giran “Đình là nơi thờ Thành Hoàng làng và là một ngôi nhà chung cho sinh hoạt cộng đồng. Nơi đây thường diễn ra các cuộc hôi họp của các hương l•o, chức sắc trong làng về việc công, hoặc phân sử kiện tụng, đồng thơì là nơi cúng lễ. Có thể nói nơi đ• xảy ra hết thảy các hoạt động của cuộc sống, x• hội người Việt”
Đình đ• xuất hiện ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam. Thời Mạc đ• xây dựng nhiều ngôi đình có quy mô lớn như đình Thổ Hà, Lỗ Hạnh- Bắc Giang, đình Tây Đằng –Hà Tây…sang thời Lê Trung Hưng xuất hiện nhiều ngôi đình nổi tiếng khác: đình Cao Thượng- Bắc Giang, đình Cổ Mễ, Phù Lao – Bắc Ninh, đình Ngọc Cảnh – Vĩnh Phúc…Các đình ở thế kỷ này có nhiều giá trị nhân văn về kiến trúc và điêu khắc.
Tới thế kỷ thứ XVIII việc xây dựng đình có nhiều giảm sút nhưng vẫn có những ngôi đình được xây dựng với quy mô lớn như đình Hồi Quan, đình Đình Bảng.
1.1.2. Chức năng:
Là một thiết chế văn hoá tín ngưỡng tổng hợp, theo các nhà nghiên cứu đình làng có 3 chức năng:Tín ngưỡng – Hành chính – Văn hóa.
* Chức năng tín ngưỡng.
Trong các đình làng Việt Nam, vị thần được thờ phụng là Thành Hoàng làng, vị vua tinh thần, vị thần hộ mệnh của làng.
Đình Phù Lưu (Bắc Ninh)
Nguồn gốc của Thành Hoàng làng cũng rất phức tạp. Trước hết là những vị thần tự nhiên (thiên thần hay nhiên thần) được thờ ở rất nhiều đình làng . Các vị thần này đều được “khoác áo” nhân thần với các tiểu sử rất thế tục. Được thờ khá phổ biến là Sơn tinh và Thuỷ thần.
Loại Thành Hoàng thứ hai là các nhân thần . Các nhân vật lịch sử như Lý Bí, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo …Chiếm số đông trong các nhân thần là những người ít nổi tiếng hơn như quan lại, Nho sĩ và đặc biệt là các bộ tướng của Hai Bà Trưng, nhất là các nữ tướng. Những vị thần này thực ra là những nhân vật truyền thuyết có tính “giả lịch sử” hơn
Loại Thành Hoàng thứ ba gắn liền với tín ngưỡng bản địa như tục thờ cây thờ đá thời nguyên thuỷ.
Thành Hoàng làng còn có thể là những người xuất thân hèn kém, có người chết vào giờ thiêng cũng được thờ làm thần. Ngoài ra, ở một số làng nghề thủ công người ta thờ các tổ làng nghề, được gọi là “tiên sư”
* Chức năng hành chính.
Đình làng thực sự trở thành trụ sở hành chính của làng,còn được gọi là “nhà việc”, nơi mọi việc thuộc về hành chính của làng đều được tiến hành ở đó, từ việc xét xử các việc tranh chấp phạt vạ, khao vọng, đến thu tô, thuế, việc bắt lính, thu dịch …
Các làng đều có hương ước riêng với nội dung cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, các hương ước thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Những quy ước về ruộng đất: Việc phân cấp công điền, công thổ theo định kỳ và quy ước về việc đóng góp (tiền và thóc)
- Quy ước về việc khuyến nông, bảo vệ sản xuất, duy tu đê đập, cấm lạp sát trâu bò, cấm bỏ ruộng hoang, chặt cây bừa b•i…
- Những quy ước về tổ chức x• hội và trách nhiệm của các chức dich trong làng. Việc xác định trách nhiêm của các chức dịch nhằm hạn chế họ lợi dụng quyền hành và thế lực để mưu lợi riêng.
- Những quy ước về văn hóa tinh thần và tín ngưỡng. Đó là những quy ước nhằm đảm bảo các quan hệ trong làng xóm,dòng họ, gia đình, láng giềng…được duy trì tốt đẹp. Quy định về việc sử dụng hoa lợi của ruộng công vào việc sửa chữa hoặc xây dựng đình, chùa, đền, quy định về thể lệ tổ chức lễ hội, khao vọng, lễ ra làng, lễ nộp cheo…
* Chức năng văn hóa.
Đình làng là trung tâm sinh hoạt văn hoá của cả làng. “Cây đa, bến nước, sân đình” đ• đi vào tâm hồn những người dân quê. Đỉnh cao của các hoạt động văn hóa diễn ra ở đình là lẽ hội. Làng vào hội cũng có nghĩa là làng vào đám, là hoạt động có quy mô và gây ấn tượng nhất trong năm đối với dân làng.
Những lễ hội truyền thống được dân làng thường xuên tổ chức vào các dịp lễ hội như: lễ hội xuống đồng, lễ hội mừng cơm mới, lễ cầu phúc… và cùng với những lễ hội này là những trò chơi cổ truyền nhằm biểu dương và ca ngợi tài trí của con người như: đánh cờ,đấu vật, kéo co, đấu đáo,đá cầu, làm xiếc, đua thuyền…Đây là những sinh hoạt văn hoá lành mạnh mang rõ dấu ấn bản sắc dân tộc và mỗi vùng đều có một bản sắc riêng như hội pháo ở làng Đồng Kỳ- Bắc Ninh, hát quan họ ở một số đình làng Bắc Ninh, bơi chải ở các đình làng dọc triền sông…
1.2. Khái quát về nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc đình làng.
1.2.1. Kiến trúc của ngôi đình trong tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống Việt Nam.
Đình làng là gương mặt của nền kiến trúc mà không chỉ là công trình oai nghiêm và đồ sộ nhất trong khung cảnh làng quê Vịêt Nam nghèo nàn thời quân chủ, mà còn là nơi bảo tồn khá trọn vẹn những đặc điểm của nền kiến trúc dân tộc.
Kiến trúc đình làng phát triển với sự đóng góp của quần chúng nhân dân và thực sự trở thành những công trình đầu tư sáng tác tập thể trong thi công kiến trúc và trang trí nội thất bên trong.Kiến trúc đình làng với đặc trưng cân bằng, ổn định và linh hoạt là hệ quả của thế ứng xử của cư dân đồng bằng Bắc Bộ đối với môi trường vừa chế ngự, hạn chế sự khắc nghiệt của thiên nhiên, vừa linh hoạt khôn khéo tận dụng những điều kiện thuận lợi để tồn tại và phát triển.
Hướng đình rất quan trọng, người ta tin rằng hướng dựng đình ảnh hưởng trực tiếp đến công việc làm ăn cuả cả làng. Đình thường được dựng trên b•i đất cao ráo, bằng phẳng rộng r•i và được xây dựng gần khu đông dân cư. Kiến trúc đình làng là công trình to lớn nhất ở làng, nhưng nó không vượt trội, phá vỡ cảnh quan xung quanh..Ngôi đình là nơi con người tìm thấy sự gắn bó, hoà điệu với thiên nhiên, cũng như tìm thấy sự đồng cảm của con người với con người . Xét về mặt tổng thể trước đình làng luôn là ao đình(tròn hoặc bán nguyệt), tiếp đến là sân đình với nhiều hàng cây cổ thụ .đây là yếu tố quan trọng tạo nên diện mạo của đình làng. Các cây cối cổ thụ thường được trồng phia sau và hai bên sân đình kết hợp với kiến trúc của ngôi đình tạo nên tính đăng đối. Tính đăng đối của đình cũng tác động đến cảm giác, tạo sự ổn định, bền vững, thể hiện nhu cầu thường ngày của cư dân nông nghiệp.
Đình Tây Đằng - Hà Tây (cũ)
-Đình kiến trúc theo dạng chủ yếu là chữ nhất, chữ tam, chữ đinh, chữ công. Hệ thống kết cấu gỗ, cột và bẩy, liên kết với mộng, tạo thế cân bằng vững chắc cho kiến trúc đình.các hàng cột lớn được kê lên trên hòn đá tảng không cần móng. Cột trong kiến trúc đình Việt Nam đều được làm bằng gỗ nguyên cây, không có cột nối, không sơn vẽ và được liên kết với nhau bằng các kiểu khác nhau đồng thời người ta có thể xoay hướng đình mà không cần tháo gỡ.
Toà đình đại đình của đình thường là một căn nhà lớn lợp ngói,mũi kiểu bốn mái xoè rộng ra ôm lấy đất. Thế nhưng, bốn tầu mái cao rộng đó không trở nên nặng nề nhờ bốn góc của bốn đầu đao cong vút như nâng các mái bay bổng.Kiểu mái này chính là đặc điểm nổi bật của kiến trúc truyền thống Việt Nam, khác hẳn với kiểu tầu hộp hay giả tầu của nền kến trúc Trung Hoa mà ta thường thấy trên hầu hết các mái nhà ở cố đô Huế. Kiến trúc đại đình có nét chung của nền kiến trúc gỗ Phương Đông, dựa trên sự liên kết của các bộ vì, kèo. Sức nặng của toà nhà do cột trong vì đảm nhiệm nên khi ấy, tường nhà không phải là cơ sở chịu lực mà chỉ làm nhiệm vụ ngăn che nắng mưa, gió b•o. Tuy nhiên, khác với các dân tộc khác, kiến trúc đình làng Việt ban đầu là một không gian mở, mỗi khi làng có viêc, cửa bích bàn bốn mặt đình được dùng làm bàn tiệc, khiến bốn mặt đình càng trở nên thông thoáng. ỏ đình làng, chúng ta rất rễ nhận ra hầu hết các thành phần kiến trúc đều được chạm khắc trang trí trên các vì kèo, đầu bẩy, đầu dư, ván nong, cốn…. Trang trí đình làng lấy gian giữa làm trung tâm nên được chạm khắc hình các vật như chúng ta vẫn thường thấy ở mỹ thuật cổ điển phong kiến Việt Nam như Long –Ly- Quy- Phượng, các loại hoa lá được cách điệu cao như Tùng- Cúc – Trúc- Mai…có thể nói gian giữa của đình được trang trí bằng lối mỹ thuật chính thống song có một nét riêng là rất gần gũi với người dân lao động. Từ gian giữa toả ra các gian bên là thường thể hiện những đề tài sinh hoạt của người dân có tính chất thoải mái, tự do và cả những những lời lên án chế độ quân chủ hà khắc thời phong kiến. Tất cả những điều ấy là dấu ấn tuyệt vời cho cấc thế hệ mai sau hiểu và cảm được không khí sinh hoạt của cộng đồng làng x• thời xưa. Đồng thời là bản sắc của nền kiến trúc Việt Nam- một bản sắc văn hoá và lịch sử sâu sắc nhất.
1.2.2. Nghệ thuật chạm khắc đình làng
ở làng x• của Việt Nam đình làng là nơi bảo lưu nhiều vốn nghệ thuật dân gian của dân tộc ta. Kiến trúc sư Trọng Hồi đ• nói trong trương trình “những sắc mầu không gian” “Đình làng là một bảo tàng sống của thời đại”
Đề tài phản ánh trong điêu khắc đình làng rất phong phú nhưng mỗi đình không thấy sự lặp lại, mỗi ngôi đình là một phong cách, mỗi bức chạm khắc là một độc bản, cũng một đề tài: Tùng, Cúc, Trúc, Mai …nhưng mỗi đình lại thể hiện khác nhau
Ngoài những cảnh sinh hoạt quen thuộc của người dân như mời rượu, đánh cờ, đấu vật, trẻ củi, gánh con trong thúng, làm xiếc trèo thuyền, trai gái đùa vui…nhiều ngôi đình còn chạm những cảnh ẩn dụ bất ngờ như rồng mẹ cầm quả trứng nở ra rồng con.Trong điều kiện các thành viên trong một cộng đồng cùng lao động và cùng nghĩ ngợi với nhau và cùng xúc động trước niềm vui hoặc nỗi buồn chung, cùng theo đuổi những ước mơ nhất định thì các sáng tạo của các cá nhân có tài đ• mang theo cá tính đặc trưng cho một người duy nhất. Thật vậy: Tất cả các hiện tựợng văn hóa dân gian, đều gắn bó chặt chẽ với thực tiễn sản xuất, sinh hoạt và chiến đấu sinh hoạt của nhân dân .Nghệ thuật tạo hình dân gian rõ đặc điểm nổi bật là gắn bó chặt chẽ với nhân dân lao đông. Các tác phẩm chạm khắc xuất phát từ cuộc sống bình dân và không câu nệ quy tắc nào cả.
Phần lớn các nghệ nhân trang trí đình là những người nông dân thực thụ, họ am hiểu tình cảm và con người của x• hội nông nghiệp hơn ai hết. Và những người dân ở đây, mỗi khi có hội làng, lễ lạt họ lại co điều kiện tiếp xúc thưởng thức, họ cũng chính là những người lao động trong đó hầu hết là nông dân. Trong quá trình xây dựng hình tượng, nghệ nhân không ràng buộc bởi những cái vụn vặt của hình mẫu. Từ những cái họ thường gặp đ• dần đọng lại trong đầu môĩ hình tượng không cụ thể nhưng thật tiêu biểu. Nghệ nhân cũng không bị lệ thuộc bởi những định luật, phép tắc, trường quy nào cả, họ được tự do sáng tác theo sự suy nghĩ và sự thôi thúc của tình cảm .Lý và tình đ• quyện vào nhau để cùng làm sáng tỏ chủ đề, tư tưởng bằng những hình tượng gây ấn tượng mạnh mẽ cho người xem.
Do khái quát cao, hình lại vừa hư vừa thực khiến người xem nhìn thuận mắt, nghĩ thuận tình và ngắm m•i không chán.
Các nghệ nhân làm ra những tác phẩm điêu khắc ấy không ở một trường lớp chính quy nào cả nhưng họ học suốt đời, học trong cuộc sống, lăn lộn với nghề từ nhỏ tiếp cận những kinh nghiệm của lớp người đi trước, chan hoà với quần chúng, tạo được sự đồng cảm với người thưởng thức, cái trường học thực tế ấy đ• giúp cho nghệ nhân nắm được cái “duyên” của nhân vật, cái “thần” của sự vật để các hình ảnh được tạo ra là “truyền thần” chứ không phải “truyền hình”thoát ra khỏi trạng thái giống một cách lạnh lùng.
Như trên đ• nói Đình là ngôi nhà chung, “là bảo tàng sống chứa đựng những tác phẩm nghệ thuật”. Giá trị của nó không tách khỏi kiến trúc ngôi đình và tất nhiên nếu chúng ta làm một thí nghiệm đem đình làng ra khỏi môi trường tự nhiên của nó đến môi trường khác chẳng hạn thì dù có sang trọng đến đâu cũng làm cho đình làng giảm hiệu quả về thẩm mỹ đi rất nhiều và sẽ bị trơ ra cùng chất liệu. Điều cơ bản là những bức chạm chưá đựng tính hồn nhiên, mộc mạc ấy không còn nữa .
Đầu bẩy. Đình Tây Đằng- Hà Tây (cũ)
ở chạm khắc đình làng những mảng chạm khắc trang trí làm đep cho công trình nhưng không tham gia chịu lực cho khung gỗ như đầu dư ở những cột cái, các vi kèo, xà, đầu bẩy….đựơc chạm trổ thành những cái đầu rồng…Sự trang trí của các mảng phù điêu trang trí không lấn át, xoá đường nét kết cấu, làm mờ vẻ đẹp của kiến trúc .Trái lại, những mảng chạm khắc làm cho ngôi kiến trúc đình làng trở nên đẹp đẽ, lộng lẫy nhưng vẫn giữ được sự đường bệ uy nghi, linh thiêng và thần bí.
Tượng tròn và phù điêu trang trí không những tô điểm cho khối kiến trúc trở nên đẹp hơn, mà làm cho ngôi đình làng trở nên mềm mại, nhẹ nhàng, uyển chuyển, làm giảm tải trọng của bộ mái với những dầm, xà đè nặng trên đầu. Với óc thẩm mỹ tinh tế, bàn tay khéo léo, các mảng chạm khắc trang trí lấp đầy khoảng trống giữa các cấu kiện gỗ, với các hình vuông, hình chữ nhật,hình tam giác… “nhiều thành phần kiến trúc do yêu cầu của kỹ thuật làm mộng, chốt nên bắt buộc phải dư thừa ra ngoài những khối gỗ cục mịch và nặng nề, nay được các nghệ nhân biến thành những đầu rồng ngậm ngọc với những bờm lửa dài sinh động và thú vị.
Chương 2
Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng
Cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ thứ XVIII, đình làng Việt Nam được xây dựng khá nhiều, gắn với kiến trúc các bức chạm khắc được trang trí với nhiều nội dung, đề tài phong phú, qua đó thể hiện được những tâm tư tình cảm của con người về x• hội đương thời, bộc lộ những khát khao về cuộc sống hạnh phúc yên bình, thịnh trị và vui vẻ, đồng thời các bức chạm cũng toát lên vẻ đẹp dung dị hồn nhiền, vẻ đẹp đó được thể hiện ở một số yếu tố sau:
2.1. Về đề tài
Đề tài phản ánh trong điêu khắc đình làng rất phong phú và vị trí để thể hiện các đề tài trong không gian của ngôi đình không giống nhau. Khi vào bên trong đình làng ta thường thấy gian giữa là nơi thờ Thành hoàng làng làm trọng tâm, không gian ở đây là không gian thiêng liêng, thần bí không dành cho con người do đó thường được trang trí bằng các đề tài mang tính chất trang nghiêm quy phạm như tứ quý: Sen, Cúc, Trúc, Mai. Tứ linh: Long, Ly, Quy, Phượng . Tứ linh và tứ quý thường gắn với phật giáo và có biểu tượng của sự cao quý, Sen, Cúc, Trúc, Mai có sức sống bền bỉ trước thiên nhiên khắc nghiệt và biểu hiện tinh thần ngay thẳng, trong sạch hay cũng chính là sự thể hiện tinh thần, phẩm chất của con người Việt Nam.
Từ gian giữa toả sang các gian bên, đề tài trang trí mang tính chất dân gian thoải mái hơn, ngay cả những đề tài mang tính chất chính thống cũng được dân gian hoá. Hình tượng những con vật linh thiêng trong tứ linh được thể hiện theo suy nghĩ cách cảm của người lao động. Những hình tượng đó cũng trở nên bình thường, gần gũi và hoà vào cuộc sống của con người như „Múa trên lưng rồng“ở đình Hỷ Canh – Hà Tây hay „Cô gái cưỡi phượng“Đình Thổ Hà- Bắc Giang. Các đề tài về sinh hoạt của con người, sinh hoạt làng x•, phong tục tập quán, lễ hội, về các con vật như ngựa, trâu, voi, lợn,… Những con vật gần gũi với người dân lao động.
Tắm đầm sen . Đình Đông Viên- Hà Tây (cũ)
Có thể thấy nội dung chạm khắc ở các gian bên đề cập đến mọi mặt của cuộc sống. Điều gì mà người dân yêu thích đều được đưa vào trong tác phẩm như uống rượu, hát ả đào, đánh cờ, kể cả các sinh hoạt tình cảm như trai gái đùa vui, tắm sen, cảnh tình tự…đều được thể hiện một cách đơn giản, sống động và chân thực.Cũng ở đó người dân bộc lộ những khát khao về cuộc sống hạnh phúc, yên bình và vui vẻ. Bên cạnh các đề tài phản ánh các sinh hoạt x• hội, ca ngợi về con người và cảnh vật của đất nước, các nghệ nhân còn chạm khắc những đề tài mang tính chất phê phán thói xấu trong x• hội của những kẻ thuộc tầng lớp trên, những cảnh quan quân cướp bóc, hà hiếp dân lành như „Cảnh quan quân cướp bóc“ở Đình Liên Hiệp- Hà Tây, „Đến hát nhà quan“Đình Ngọc Cảnh- Vĩnh Phúc hay „Quan trêu ghẹo phụ nữ“Đình Đệ Tam- Hà Nam. Các nghệ nhân còn chạm cả những đề tài nhắc nhở mọi người về cuộc sống lành mạnh, phê phán lối sống đa thê như cảnh đánh ghen.
2.2 Về bố cục
Bố cục trong chạm khắc đình làng mang tính độc đáo khác lạ do đó tạo sự cuốn hút, hấp dẫn người xem thể hiện ở ngay cách sắp xếp hình mảng, khối, ánh sáng...Đặc biệt người nghệ nhân đ• sử dụng lối bố cục không theo quy luật xa gần và thủ pháp nhiều điểm nhìn, họ lấy con mắt làm đồng cân mà họ cho rằng thuận mắt ta ra mắt người và không theo quy cách ước định nào, nó là những cảm hứng sinh động và giản dị của người lao động. Các nghệ nhân đ• chạm nhiều hình khối ngẫu hứng kết hợp với ánh sáng phong phú do đó tạo sự tương phản giữa khối lồi, khối lõm, bút pháp thô khoẻ nhưng vẫn tinh tế, các hình tượng di chuyển tự nhiên thoải mái có nhịp điệu.
Tác phẩm “Đánh cờ’’ ở Đình Hương Canh – Vĩnh Phúc, „Uống rượu’’ Đình Ngọc Canh- Vĩnh phúc, ... là một ví dụ .
(Đánh cờ. Đình Ngọc Canh- Vĩnh Phúc
Bố cục trong bức “Đánh cờ” là bố cục rất tự do,ở đây người nghệ sĩ đ• sử dụng lối bố cục không theo quy luật xa gần và thủ pháp “nhiều điểm nhìn” kết hợp với hình khối, đường nét, ánh sáng đ• khiến cho các bức chạm khắc được mở rộng khả năng biểu đạt thể hiện sự đa diện phức tạp của sự vật. Nếu như chúng ta học luật xa gần thì thấy khác, người nọ phải che khuất người kia, người gần thì lớn người xa thì nhỏ đi một chút và cái bàn cờ không phải là hình vuông nữa mà sẽ là hình bình hành. Nhưng ở trong bức chạm người gần thì nhỏ, người xa lại được diễn tả với tỉ lệ lớn nhất. Trong bức chạm, bàn cờ ở vị trí trung tâm có hình vuông như nhìn từ trên xuống, còn các nhân vật mặt quay ra ngoài như nhìn ngang theo phối cảnh. bốn người đầu quay về bốn hướng rất sinh động, những khuôn mặt bàn tay nét đục còn thô mộc nhưng đ• toát nên cảnh đánh cờ một cách say sưa đồng thời tạo nên bố cục đặc sắc, điều này cũng bộc lộ quan niệm tạo hình rõ ràng.
Nhìn vào bức chạm, ta thấy ván cờ đ• như đến hồi kết thúc( vì trên bàn cờ chỉ còn hai quân cờ), nhưng vẫn có sự đam mê của người chơi, vẫn như muốn níu kéo để quyết định thắng – thua, hai người bên ngoài tham gia vào cuộc chơi với động tác giống như cổ vũ cho người ma mình ủng hộ.Chính điều đó đ• làm cho “đánh cờ” có một sức sống kì lạ, cái vẻ hồn nhiên không tuân theo một quy luật nào cả, nghệ nhân xưa đục tác phẩm này chỉ theo một kinh nghiệm của thế hệ trước truyền lại, họ đục theo chách nhìn, cách hiểu của họ nhưng vẫn toát lên một vẻ đẹp thật giản dị, hồn nhiên,bố cục chặt chẽ rõ ràng,đơn giản mà không sơ sài, ngèo nàn. Tất cả đ• tạo nên thành công cho tác phẩm. Những điều tưởng chừng như bất hợp lý trong cách tạo hình lại làm người xem thấy hấp dẫn, hóm hỉnh và say sưa ngồi ngắm nhìn, bức chạm mang một nét đẹp riêng mà người nghệ sĩ hiện đại cần phải học hỏi.
Với lòng say mê hào hứng và vô tư trong nghề nghiệp cùng những khát vọng vươn tới tự do, các nghệ sỹ dân gian trong chạm khắc đình làng đ• tìm cho mình cách thể hiện giản dị, trong sáng với óc quan sát tinh tế, sự từng trải trong cuộc sống đ• làm nên những hình tượng nghệ thuật phù hợp với quy luật nhận thức và cảm thụ cái đẹp người dân Việt Nam từ thời xưa. Đó là một thành công rất lớn của nghệ thuật chạm khắc đình làng.
2.3. Hình khối
Như trên đ• nói, các nghệ nhân khi thực hiện các bức chạm khắc họ không bị lệ thuộc và bị ràng buộc bởi những cái vụn vặt của hình mẫu. Từ nhứng cái họ thường gặp đ• dần đọng lại trong đầu môĩ hình tượng không cá thể nhưng thật tiêu biểu, chính điều đó đ• tao nên cách tạo khối đơn giản, mộc mạc thể hiện một vẻ đẹp hồn nhiên.
Hình và khối được các nghệ nhân chạm khắc một cách khá đơn giản nhưng lại rất tinh tế. Hình và khối ở trong bức chạm như chỉ bằng những hình khối đơn giản, không quá cầu kỳ láng bóng. Hình của nhân vật được thể hiện với những quan niệm tạo hình dân gian giầu chất tuợng trưng và ước lệ. Hình được gạn lọc nhưng người xem vẫn hiểu rõ được tinh thần của tác phẩm.
Chuốc rượu. Đình Hoàng Xá- Hà Tây (cũ)
ở bức “Chuốc rượu”Đình Hoàng Xá ( Hà Tây) hai người đang uống rượu với thân hình nhiêng ngả. Nguời mời rượu, đầu và tay tạo thành một đường thẳng, với nét chạm sắc sảo, dứt khoát đ• thể hiện sự mạnh mẽ của động tác chuốc rượu, người kia từ chối một cách quyết liệt không kém. Anh ta từ chối với cả sức lực của mình. Cánh tay được các nghệ nhân tạo hình cong gập về phía sau. Với lối tạo hình khối đơn giản song đ• thể hiện đươc sự từ chối kiên quyết đó.Tác phẩm là sự cân đối hài hoà và hợp lý của bố cục, của hình khối, đường nét. Chính điều này đ• tạo nên vẻ đẹp độc đáo và giá trị nghệ thuật cho các tác phẩm chạm khắc đình làng.
2.4 Xây dưng nhân vật
Một đặc điểm quan trọng góp vào sự thành công của điêu khắc đình làng là một sự linh hoạt trong phép biến dạng hinh thể và xây dựng kết cấu.
Gánh con - Đình Tây Đằng - Hà Tây (cũ)
Để giải quyết ổn thoả mối quan hệ giữa hình tượng điêu khắc và cấu trúc của kiến trúc như: xà, giường, đầu, bẩy kẻ…cấu tạo này thường kéo dài thêm chiều dài, dọc và khung ngang, bề ngang (chiều dài) thì thưa, chiều cao(chiều rộng) lại thiếu .vậy lấy gì để hấp dẫn vào chỗ trống của chiều dài (ngang). Nếu để nhân vật tương đối với tỷ lệ đặt vào bố cục sẽ bị lo•ng, chứ không thể đẩy do những điêu khắc đình làng đ• có. Người nghệ nhân đ• tìm ra cách giải quyết thông minh: xử lý phép biến dạng hình thể rất táo bạo, nhiều khi xoá bỏ hẳn cái thông thường vốn có. Họ đ• đánh lùn chiều cao hình tượng con người chỉ còn khoảng 3 đầu, đồng thời mở rộng chiều ngang gấp đôi, gấp 3 lần với chuẩn mực có thể. Và chúng ta thấy nghệ nhân đ• làm cho hình tượng trở nên đẹp một cách ngộ nghĩnh, táo bạo, họ đơn giản hoá nhưng lại rất tinh tế. Thử hỏi, nếu các bức chạm khắc đình làng được thể hiện bằng nhũng nét đục kĩ xảo, hình vẽ đúng luật xa gần… liệu cái đẹp ấy có tồn tại được đến bây giờ không?
Ai đó đ• nói đại ý rằng:nhiều khi cái đúng chưa chắc đ• là cái đẹp, nhưng cái không đúng lại trở thanh cái đẹp. Vâng, cái chưa đúng về hình trong chạm khắc đình làng nhưng lại toát nên đuợc ý nghĩ cái thần của tác phẩm ngẫu nhiên nó laị trở thành cái đẹp. Cái đẹp hồn nhiên đáng trân trọng!
Danh họa Trần Văn Cẩn (1977) nhận định “xem trong nghệ thuật cổ truyền dân tộc, thì rõ ràng chính cái vốn về chạm trổ lại giầu có, độc đáo còn hơn cả vốn hội họa về những đức tính tạo hình rất sáng tạo của người xưa, đ• kết hợp nhuần nhuyễn tài tinh hai tính chất tưởng như không đi được với nhau: tính hiện thực với tính trang trí”
Tác phẩm “Chèo thuyền”,”Đình Tây Đằng, “Mẹ gánh con”, “Đuổi bắt hò”, là một sự thể hiện như thế .
2.5 Kỹ thuật chạm khắc
Nôi dung hình chạm khắc phong phú kết hợp vơí nhiều kỹ thuật chạm đ• tạo nên tiếng nói riêng và sự hấp dẫn cho những tác phẩm chạm khắc đình làng . Họ có thể tạo hình cho phù hợp với hình dáng và kích cỡ cuả xà, kèo, đâù cột và tính năng trang trí như chạm bong, chạm nổi, chạm lộng cũng tuỳ theo mà hình thành.. Sự kết hợp tài tình đó đ• tạo ra những hiêụ quả về khối và thẩm mỹ riêng cho từng tác phẩm . Trên các hoành phi, câu đối, tác phẩm lại được thể hiện với kỹ thuật chạm nông, chạm nổi, ở những vị trí khác trong kiến trúc các nghệ nhân lại sử dụng kỹ thuật chạm như chạm bong, kênh, chạm lộng…tạo cho các bức phù điêu có quả khối và không gian cao, tạo nhiêù tầng, nhiều lớp giống như bức tranh giầu sắc độ đậm nhạt
Chạm lộng trên cốn và đầu dư (Đình Chu Quyến)
Các nghệ nhân khi chạm khắc về các mảng đề tài sinh hoạt của con người thường sử dụng kỹ thuật chạm nổi, họ không quá cầu kỳ chau chuốt. Tác phẩm được được tạo nên bằng những hình khối đơn giản, những nhát đục thô sơ nhưng lại toát lên vẻ đẹp dung dị, hồn nhiên.như bức “Chèo thuyền”.
Chèo thuyền. Đình Tây Đằng- Hà Tây (cũ)
2.6 Phản ánh cái cảm cái thấy
Xuất phất từ thế giới quan triết học phương đông cổ, người nghệ sỹ làm đình xưa xây dựng tác phẩm mong đạt được cái ý, chứ không mong đạt được lý luận cao xa. Đối với cách cảm của người lao động, quan trọng nhất là truyền được cái thần của nhân vật, của tác phẩm, vượt lên trên mối quan tâm về tỉ lệ, vẽ hình sao cho giống thực.
Đề tài trong chạm khắc đình làng luôn đi thẳng vào đời sống của người dân lao động do đó nghệ sĩ dân gian luôn có sẵn trong đầu. Khi đục chạm chỉ cần hiện ra trong gỗ những gì mình đ• thuộc, đ• nhớ đến thuộc lòng. Cuộc sống ngoài đời rất động, sự gắn bó giữa các nhân vật khi chụp được khoảnh khắc điển hình mà họ đưa ra được cái thần, cái cảm, cái thấy. Trong “trai gái nô đùa” cái thấy rõ nét để bộc lộ cái cảm, rất vui vẻ, hóm hỉnh người ta thấy được âm hưởng cuộc sống thanh bình, trai gái tự do tìm hiểu. Họ muốn vươn lên trên những quy định khắt khe của chế độ phong kiến, vươn tới những tình cảm tự nhiên của con người. Bức „Trai gái đùa vui“. Đình Hương lộc- Nam Hà là một sự thể hiện như thế.
Trai gái vui đùa. Đình Hương Lộc – Nam Hà
Bốn nhân vật ở trong bức chạm với bốn trạng thái tình cảm khác nhau.Cùng là cười nhưng ở hai nhân vật nam mỗi người một nét cười không giống nhau, người thì cười thoải mái, người lại tủm tỉm. Hai cô gái ưu tư, sâu lắng song cũng được các nghệ nhân diễn tả mỗi người một vẻ, thể hiện sự tình tứ m•n nguyện. Dáng ngồi của bốn nhân vật thay đổi, góp phần thể hiện tâm trạng của từng người, khối hình đơn giản không cốt giống nhưng sống động tươi mát, hồn nhiên. Tác phẩm bộc lộ khát vọng yêu thương tự nhiên của con người khá rõ. Cái cảm, cái thấy ở đây là họ quan trọng cái tình hơn hết chứ họ không muốn đục, chạm theo cái thấy. Cái hồn nhiên, chân thực ấy càng được thể hiện rõ nét.
2.7. Không gian, ánh sáng
Ngôi đình làng hoà đồng và đối thoại với thiên nhiên . Ơ nhiều ngôi đình cổ thế kỷ XVI- XVII xung quanh thông thoáng để thiên nhiên ùa ào trong đình . Bộ mái đình lớn có tác dụng điều hoà khí hậu không gian đình, để ánh sáng tran hoà bên trong luồn lách, phản chiếu và làm nổi rõ những mảng chạm khắc trên các cấu kiện của kiến trúc, đồng thời tạo ra sự gắn bó giữa thiên nhiên trong nghệ thuật chạm khắc vơI thiên nhiên xung quanh ngôi đình.
Do ánh sáng của đình làng là ánh sáng tự nhiên, nhịp độ ánh sáng bên ngoài thay đổi thế nào thì bên trong lòng đình thay đổi như vậy. Trong khoảng thời gian như thế ta thấy có nhiều ánh sáng: ánh sáng từ trên cao, ánh sáng trong lòng đình. Hai loại ánh sáng này ảnh hưởng trực tiếp đến tác phẩm trên, ảnh hưởng trực tiếp đến các tác phẩm điêu khắc khác trong kiến trúc đình tạo cho tác phẩm dường như có màu sắc.
Những khối lớn do nhận được ánh sáng nhiều nhất trong bố cục, những khố vừa và các nét nhận được ít hơn các mảng trung gian…tuy vị trí đón nhận khác nhau mà độ lung linh hư ảo ở các tác phẩm trên cũng có sự thay đổi không giống nhau.
Trai gái vui đùa (Đình Phù L•o- Bắc Giang)
ánh sáng của đình khác hẳn với ánh sáng của chùa. ở đình là ánh sáng tự nhiên tràn vào, trong khi ánh sáng chùa chủ yếu là ánh sáng đèn nhang, nếu phát ra tạo cảm giác càng thâm u càng tốt cùng với các tượng phật linh thiêng làm cho chùa càng thâm nghiêm.
ánh sáng của đình lại càng khác xa ánh sáng của trang phục hưng bởi vì đó là ánh sáng trong nhà, còn ánh sáng tự nhiên trong đình luôn thay đổi khác hẳn với ánh sáng bất kiến trong tranh Phục Hưng.
Sở dĩ tôi đưa phần hình khối sáng tạo ánh sáng bởi ánh sáng cũng là yếu tố quan trọng tạo nên thành công của tác phẩm, tôi không nói ánh sáng là linh hồn trong chạm khắc nhưng nó cũng gần như thế.
2.8. Sự ảnh hưởng của giá trị chạm khắc đình làng với Mỹ thuật hiện đại
Nhà phê bình mỹ thuật Lê Quốc Bảo đ• khẳng định khi ông viết “về tài năng mỹ thuật trẻ”: “cái mới, cái đẹp trong nghệ thuật chỉ ra đời trên cơ sở truyền thốngvà tinh hoa nghệ thuật”.
Với tính chất vừa độ, không thái quá về số lượng cũng như kích thước, tỷ lệ đ• tạo nên sự hòa hợp nền n• của hợp thể tạo thành: kiến trúc và điêu khắc đình làng. cả hai vẻ đẹp đều được đảm bảo, cộng hưởng trở thành công trình nghệ thuật đầy đủ, mẫu mực. Như cố họa sỹ Tô Ngọc Vân đ• nói: “người nghệ sỹ tài hoa trong sáng tạo là người biết dừng lại đúng lúc cần…” Những tác phẩm khỏa thân, mình trần đóng khố, đấu vật, chèo thuyền, trai gái tình tự, uống rượu, đánh cờ…không kém phần hiện đại, thậm chí: “hiện đại tới mức là cho người hiện đại phải kinh ngạc thán phục.”
Chính vì ngày nay có rất nhiều người nghệ sỹ tạo hình yêu thích và khai thác tiếp thu cái đẹp trong điêu khắc đình làng. một trong những người tiên phong trong việc tìm hiểu và phát triển nghệ thuật điêu khắc đình làng và đạt được thành công lớn trong sáng tác tác phẩm phải kể đến họa sỹ Nguyễn Tư Nghiêm. một loạt tranh có tên “những điệu múa cổ” của ông là sự gới ý của điêu khắc đình làng. Ông từng quan niệm giữa hiện đại và quá khứ không có gì mâu thuẫn cả” và người thầy lớn nhất của ông trong nghiệp vẽ, chính là nét đẹp đình làng.
Qua chạm khắc đình làng, chúng ta thấy rằng nghệ thụât không những cần sự phân tích khoa học, chính xác còn cần hơn là yếu tố bản năng và năng khiếu của người nghệ sỹ. Chúng ta hiểu rằng nghệ thuật để tạo ra được cái thần cái tình khó hơn là để đạt được cái thực, cái đúng. Cẩn trọng, tỷ mỷ làm cho óng chuốt mộc mà cũng rất tốt nhưng cẩn trọng quá, nuột là tỷ mỉ quá dễ đi đến nhút nhát, rụt rè (dễ trở thành mặt hàng mỹ nghệ tinh luyện). Mà rụt rè, nhút nhát và tinh xảo của mỹ nghệ thì nghệ thuật không chấp nhận!
Trong điêu khắc đình làng, phải thừa nhận kỹ thuật chạm khắc khá hoàn hảo. Song ở đây ta không hề thấy sự phô diễn kỹ thuật. Cái tinh khéo ở đây hòa hợp trong cái thô mộc. Cái duyên cái đẹp lại chính ở trong cái tưởng như vụng về bản năng. Do đó, nếu chỉ thấy sự khoe khoang kĩ thuật, chắc hẳn cái thần của nhân vật cũng như cái phần hồn của người nghệ sỹ đ• không bộc lộ ra được?!
Ngày nay chúng ta thực hiện khẩu hiệu “dân tộc-hiện đại”là rất đúng đắn. Nhưng hiểu cho rõ ràng và tiếp thu khai thác vốn cổ nhu thế nào cũng không phải việc đơn giản. Chính vì sự hiểu biết không cặn kẽ mà một số họa sỹ đ• đưa vốn cổ vào tranh của mình như là một hành động “ăn sống nuốt tươi” họ sao chép, nệ cổ một cách khá sống sượng.
Tất nhiên cũng không nên quan niệm việc tìm hiểu khai thác vốn cổ một cách cứng nhắc. Một mặt, không nên đơn giản hóa dẫn tới việc sao chép, lệ cổ một cách sơ lược và công thức khô khan cho dù có thể đạt được về mặt thủ thuật, thủ pháp. Mặt khác, cũng không nên kỳ bí hóa dẫn đến thách đố, khó hiểu.
Thừa kế, phát huy vốn cổ phải có sự sáng tạo tìm tìm tòi để cho tác phẩm mang ngôn ngữ tạo hình của thời đại mới. Nếu bắt chước cử chỉ, dáng điệu hay ghép một số họa tiết cổ rồi thêm một vài nhân vật thì tác phẩm sẽ trở nên tầm thường. Phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và nâng những sản phẩm tinh thần đố lên ngang tầm với đời sống nghệ thuật đương đại.
Mỗi người họa sỹ có cách tiếp xúc và cảm nhận vốn cổ một góc độ khác nhau. Bởi vì đó là kho ngôn ngữ tạo hình gắn liền với tâm lý thị giác, thẩm mỹ thị giác mang ảnh hưởng tới tư tưởng và x• hội quyết định bản chất.
Nghệ thuật mỗi thời đại khác nhau, không nên chỉ nghiêm cứu mỹ thuật Viêt Cổ mà phải hiểu tâm lý và sản phẩm của vật chất của từng thời và ý thức đầy đủ việc tạo ra cơ chế hoạt động của thời đại đó. Nghiên cứu về mặt lịch sử x• hội, về tư tưởng hoàn cảnh, nhìn từ bên ngoài vào và nhìn từ bên trong ra. Hình thành và chuyển hóa vốn tiếng dân tộc và nhân nó lên ra sao là ý thức chủ quan riêng của từng nghệ sỹ.
Với truyền thống mỗi người nhìn lại quá khứ ở một khía cạnh không nên định ra như một công thức. chính đời sống tâm hồn cụ thể, sự va đập x• hội cụ thể là chất xúc tác cho sự nhìn lại quá khứ khác nhau. Nó có tính chất định hướngchứ không phải là sự chỉ định về ngôn ngữ cũng như về tâm lý và tư tưởng thẩm mỹ. Hơn nữa có những ngôn ngữ tạo hình không trùng lăp về tư tưởng tâm lý, thẩm mỹ truyền thống như một cái gốc phát triển ra nhiều cành lá xum xuê. Song vẫn từ cái gốc đó với người này trở thành uyên bác với người kia thì vẫn bình dân … Điều này còn phu thuộc vào kiến thức của mỗi người và khí chất của mỗi người có thể đánh thức phục sinh lại truyền thống đến mưc nào.
Do vậy,tranh của Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm và tượng của Nguyễn Hải, Lê Công Thành.. là những tấm gương tiếp thu truyền thống có phong cách riêng độc đáo, xứng đáng để lớp thế hệ sau noi gương.
Tìm hiểu, phân tích những nét đẹp trong điêu khắc đình làng sẽ có tác động tốt cho việc sáng tạo ra những tác phẩm hội hoạ Cũng như điêu khắc hiện đại.
Một số bức chạm khắc ở đình làng miền Bắc
Đấu vật. Đình Phù L•o- Bắc Giang
Người múa. Đình Thổ Hà- Hà Bắc
Người múa. Đình Thổ Hà- Bắc Giang.
Săn bắn. Đình Ngọc Canh – Vĩnh Phúc.
Uống rượu. Đình Ngọc Canh - Vĩnh Phúc
Chèo thuyền. Đình Hương Canh -Vĩnh Phúc
C. Kết Luận
Đình làng lớn nhất là đình làng ở miền Bắc là kho tàng hết sức phong phú của điêu khắc Việt Nam. Trong lịch sử điêu khắc cũng tồn tại ở chùa, ở đền, các kiến trúc tôn giáo khác, nhưng không ở đâu lại biểu hiện hết mình như ở đình.
Nghệ thuật chạm khắc đình làng là một loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc. Xuất phát từ khả năng quan sát tinh tế . Khiếu thẩm mỹ phong phú trí tưởng tuợng thông minh đồng thời khả năng sáng tạo rất cao của các nghệ nhân xưa thể hiện những cảnh sinh hoạt rất chân thực “Mẹ gánh con, đánh cờ, uống rượu, trai gái vui đùa”. Và đặc biệt là đuợc thể hiện một cách rất gần gũi mộc mạc, hồn nhiên thông qua bố cục và ý tuởng không gian, kết cấu xây dựng nhân vật và sự biến dạng của hình thể, thông qua sự phản ánh cái cảm, cái thấy, thông qua ý tưởng không gian, hình khối và sự tác động của ánh sáng.
Điêu khắc đình làng nói chung không đồ sộ như những dải phù điêu hàng trăm mét như các đền đài của ấn Độ. Song sự khiêm tốn về kích thước cũng không làm hạn chế được sự thành công về mặt nghệ thuật. Tính chất hoành tráng ở phù điêu đình làng không phải ở chỗ nó có quy mô lớn mà là ở cái không gian đồng hiện đa chiều đa hướng, đó là thành phần cơ bản để tạo nên giá trị nghệ thuật. Sự vừa độ không thái quá làm nên sự hài hòa với kiến trúc.
Lần đầu tiên hình tuợng con nguời được chọn làm đối tượng nghệ thuật trong điêu khắc đình làng đựơc thể hiện theo một thẩm mỹ dân gian với các ý nghĩa nhân văn không kém phần bác học nhưng vẫn thiết thực, chân thực và mộc mạc.
Có lẽ thế mà người Việt Nam dù có đi đâu,về đâu nhưng tâm hồn vẫn hướng về nguồn cội . “cây đa giếng nứơc sân đình” nên mới có câu ca dao thật tình tứ:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Đến cái hương đình cũng là biểu hiện thịnh suy của cả một làng:
“Toét mắt là tại hướng đình
Cả làng toét mắt chứ mình em đâu…”
Phải khẳng định đình làng là cả giá trị của một thời đại, chạm khắc đình làng đ• tạo nên loại hình nghệ thuật đặc sắc, là một nghệ thuật nguyên hợp (sự kết hợp nhiều yếu tố) hồn nhiên trong ý tưởng và mộc mạc trong thủ pháp…
Tất nhiên chạm khắc đình làng là chạm khắc đình làng, hội họa là hội họa. Song chạm khắc đinh làng có gì đó tương đồng về sự hồn nhiên ấy trừ độ tuổi, tâm lý, thời gian, không gian . Có chăng là mạch giống nòi thẩm thấu tự nguyện đến vậy?
Tìm hiểu nghệ thuật chạm khắc đình làng là một công việc hết sức bổ ích và lý thú cho những người làm nghệ thuật tạo hình nhất là giáo viên truyền đạt kiến thức cho những người học sinh. Muốn hiểu biết và đánh giá được nghệ thuật cổ của dân tộc khác trước hết nên hiểu cặn kẽ phương pháp tạo hình của dân tộc mình. Không biết cái cũ thì không thể sáng tạo ra cái mới.Đó là một nguyên lý trong công việc sáng tạo nghệ thuật.!
Ai đó tìm về với các ngôi đình cổ kính ở Hà Tây (Đình Tây Đằng), Đình Hương Canh (Vĩnh Phú), đình Hương Lộc (Hà Nam), và các đình ở các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang. Nếu “hồn quê máu Việt” trong bạn còn đậm, bạn sẽ tự hào với bao công trình, tác phẩm nghệ thuật tài hoa ý nhị vô cùng qúy giá của cha ông nhưng có lẽ cũng phải thực sự lo âu về tình trạng suy hoại dần của di sản đặc sắc ấy. Do thời gian mưa nắng d•i dầu và có phần không nhỏ do sự sao l•ng văn hóa của chúng ta hôm nay.
Tài liệu tham khảo
1. Đình làng Việt Nam – Hà Văn Tấn, Nguyễn Tiến Sự, Nxb Văn hoá
2. Đình làng Miền Bắc – Lê Thanh Đức, Nxb Mỹ thuật
3. Tạp chí Mỹ thuật – Hội Mỹ Thuật Việt Nam- số 94, 12/ 2003.
4. Luợc sử Mỹ thuật - Phạm thị Chỉnh, Nxb Đại học Sư phạm .
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên của Tiểu luận Tốt nghiệp, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy (cô) giáo trong Khoa Sư phạm Âm nhạc - Mỹ thuật đ• dạy dỗ tôi trong suốt 4 năm học vừa qua.
Đặc biệt tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành tới Thạc sĩ Phạm Đình Bình - Người thầy đ• tận tâm nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành Tiểu luận.
Trong khi thực hiện bài tiểu luận của mình, do thời gian có hạn, vốn kiến thức về chuyên môn còn hạn chế, bài tiểu luận tốt nghiệp của tôi còn có chỗ khiếm khuyết, kính mong thầy cô và các bạn đồng nghiệp góp ý xây dựng.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Mục lục
Trang
A. phần mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu 2
2.1 Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
3.1 Đối tượng nghiên cứu 3
3.2 Phạm vi nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Đóng góp của đề tài 3
7. Bố cục của tiểu luận 3
B. phần nội dung 4
Chương 1: Đình làng trong đời sống của người Việt 4
1. 1. Nguồn gốc và chức năng của đình làng 4
1.1.1. Nguồn gốc 4
1.1.2. Chức năng 5
1.2. Khái quát về nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc đình làng. 7
1.2.1. Kiến trúc của ngôi đình trong tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống Việt Nam. 7
1.2.2. Nghệ thuật chạm khắc đình làng 10
Chương 2: Tính hồn nhiên trong nghệ thuật chạm khắc đình làng 13
2.1. Về đề tài 13
2.2 Về bố cục 14
2.3. Hình khối 16
2.4 Xây dưng nhân vật 17
2.5 Kỹ thuật chạm khắc 19
2.6 Phản ánh cái cảm cái thấy 20
2.7. Không gian, ánh sáng 21
2.8. Sự ảnh hưởng của giá trị chạm khắc đình làng với Mỹ thuật hiện đại 23
C. Kết Luận 29
Tài liệu tham khảo 29
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên của Tiểu luận Tốt nghiệp, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy (cô) giáo trong Khoa Sư phạm Âm nhạc - Mỹ thuật đ• dạy dỗ tôi trong suốt 4 năm học vừa qua.
Đặc biệt tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành tới Thạc sĩ Phạm Đình Bình - Người thầy đ• tận tâm nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành Tiểu luận.
Trong khi thực hiện bài tiểu luận của mình, do thời gian có hạn, vốn kiến thức về chuyên môn còn hạn chế, bài tiểu luận tốt nghiệp của tôi còn có chỗ khiếm khuyết, kính mong thầy cô và các bạn đồng nghiệp góp ý xây dựng.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 5 năm 2009
Sinh viên
Đinh Thùy Chinh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chinh xong.docx