Đểkhắc phục những bất cập nói trên, 
theo chúng tôi cần xem xét lại toàn bộthực 
trạng, nghiên cứu kỹhơn đòi hỏi của đất 
nước và của thời đại vềhành trang văn hoá 
của thếhệtương lai. Trên cơsở đó có thể
phải xây dựng những hệgiải pháp đồng bộ, 
vừa có tầm chiến lược, lại phải cụthể, thiết 
thực nhằm nâng cao chất lượng và hiệu 
quảcác môn học, bài học vềvăn hoá-văn 
minh trong nhà trường nói chung và nhà 
trường đại học nói riêng. Một sốnguyên 
tắc chung có thể đềxuất làm cơsởcho 
công việc nói trên là: thứnhất, phải coi 
trọng việc trang bịtri thức toàn diện vềvăn 
hoá dân tộc cho sinh viên tất cảcác ngành, 
các hệ, trong đó không chỉlưu ý tới việc 
trang bịnội dung tri thức, mà chính là phải 
giới thiệu cho người học những cơsởlý 
thuyết, những cách tiếp cận khoa học về
văn hoá, tránh cái nhìn phiến diện, một 
chiều, võ đoán, kỳthịvềvăn hoá dân tộc 
và văn hoá nhân loại. Thứhai, dân tộc Việt 
Nam đã và luôn luôn là một dân tộc đa sắc 
tộc, đa tín ngưỡng và đa văn hoá. Vì vậy 
phải tạo điều kiện đểngười học khám phá 
tính thống nhất và tính đa dạng của văn 
hoá dân tộc
                
              
                                            
                                
            
 
             
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tính thống nhất và đa dạng văn hoá: giáo dục và vấn đề bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 
Trang 87 
TÍNH THỐNG NHẤT VÀ ĐA DẠNG VĂN HOÁ: GIÁO DỤC VÀ VẤN ĐỀ 
BẢN SẮC DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ 
Phạm Hồng Tung 
ĐHQG-HN 
TÓM TẮT:Tiếp cận từ khía cạnh văn hoá chính trị với quan niệm rằng bản sắc dân tộc 
là một phức hệ tâm linh của toàn thể cộng đồng dân tộc dựa trên những định hướng giá trị và 
được biểu hiện ra thông qua những đặc trưng, những biểu tượng và phương thức ứng xử văn 
hoá của cộng đồng dân tộc ấy, trong phần thứ nhất của bài viết này tác giả kiểm chứng lại 
bốn cách định nghĩa về dân tộc Việt Nam của các học giả nước ngoài được K.W Taylor tổng 
kết lại trong một bài nghiên cứu công bố từ năm 1998. Trong phần tiếp theo, tác giả phân tích 
và chỉ ra vai trò của giáo dục, nhất là giáo dục sử học, trong quá trình xã hội hoá phương 
thức hình dung về cộng đồng dân tộc Việt Nam đối với thế hệ trẻ. Theo tác giả, cần phải khắc 
phục cách trình bày lịch sử dân tộc phiến diện, một chiều, bởi lẽ cách giáo dục lịch sử như vậy 
không giúp cho người học hình dung đúng về bản sắc dân tộc Việt Nam với ý nghĩa là cái 
thống nhất trong những cái đa dạng. 
1. Đặt vấn đề 
Năm 1942, trong khi lãnh đạo Mặt trận 
Việt Minh và nhân dân Việt Nam chuẩn bị 
lực lượng cho cuộc vùng lên giải phóng 
dân tộc, Hồ Chí Minh đã soạn ra một tài 
liệu tuyên truyền có tên là: “Lịch sử nước 
ta”, mở đầu bằng câu: 
“Dân ta phải biết sử ta, 
Cho tường gốc tích nước nhà Việt 
Nam”1 
Cần phải nói ngay rằng Hồ Chí Minh 
không phải là người Việt Nam đầu tiên sử 
dụng lịch sử dân tộc như một phương tiện 
tuyên truyền hữu hiệu, nhằm đánh thức ý 
thức dân tộc của nhân dân Việt Nam trong 
các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và 
chống giặc ngoại xâm. Đầu thế kỷ 20, khi 
xướng ra phong trào Đông Du, mở đầu cho 
một trào lưu yêu nước kiểu mới, Phan Bội 
Châu đã soạn ra Việt Nam vong quốc sử,2 
đồng thời một số chí sĩ yêu nước khác 
cũng đã soạn ra nhiều bài thơ “kêu hồn 
nước” để thức tỉnh lòng yêu nước và ý 
thức giống nòi của người Việt Nam.3 Xa 
hơn nữa, ngay từ đầu kỷ nguyên độc lập 
(các thế kỷ thứ 10, 11) đã xuất hiện bài thơ 
“Nam quốc sơn hà” bất hủ, được lưu 
truyền rộng rãi trong nhiều thế hệ người 
Việt Nam. Như vậy, từ rất lâu ở Việt Nam 
giáo dục lịch sử dân tộc dưới các hình thức 
khác nhau đã được coi như một phương 
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 
Trang 88 
thức khơi dậy và củng cố ý thức dân tộc, 
nhất là trong những thời điểm sự tồn vong 
của dân tộc Việt Nam bị đe doạ hay thách 
thức bởi nguy cơ ngoại xâm. Kết quả là, 
như học giả phương Tây Alexander B. 
Woodside từng nhận xét: "Độ sâu sắc của 
ý thức về lịch sử và văn hoá dân tộc của 
nhân dân Việt Nam có thể làm cho các nhà 
dân tộc chủ nghĩa kém trí tưởng tượng 
hoặc những tín đồ tôn giáo Âu - Mỹ thực 
sự kinh ngạc."4 
Tuy nhiên, ý thức dân tộc, tình cảm 
dân tộc hay bản sắc dân tộc không chỉ bao 
gồm và không chỉ dựa trên ý thức về lịch 
sử dân tộc hay một thứ chủ nghĩa yêu nước 
chung chung nào đó, mà theo chúng tôi, thì 
bản sắc dân tộc (national identity) phải là 
một phức hệ tâm linh của toàn thể cộng 
đồng dân tộc dựa trên những định hướng 
giá trị và được biểu hiện ra thông qua 
những đặc trưng, những biểu tượng và 
phương thức ứng xử văn hoá của cộng 
đồng dân tộc ấy. 
Hiểu theo nghĩa đó, giáo dục thực sự 
có vai trò quan trọng đối với sự hình thành 
và biến đổi của hệ giá trị văn hoá, đạo đức, 
chính trị của các thế hệ người nối tiếp nhau 
của các cộng đồng dân tộc, và do đó có vai 
trò rất quan trọng đối với sự hình thành và 
biến đổi của bản sắc dân tộc, bởi lẽ thông 
qua giáo dục những giá trị văn hoá 
(cultural values), định hướng giá trị (value 
orientations) và hệ giá trị (value systems) 
được xã hội hoá (socialization) và được 
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. 
Do vậy, thông qua giáo dục mà các đặc 
tính dân tộc được khẳng định, duy trì hay 
biến đổi, các biểu tượng dân tộc được nhận 
biết và thừa nhận, các phương thức ứng xử 
văn hoá được chấp nhận và trở nên phổ 
biến. Câu thơ của Hồ Chí Minh trong bài 
"Dạ bán" nhận định về vai trò của giáo dục 
đối với sự hình thành tính cách con người, 
suy rộng ra cũng nghiệm đúng đối với sự 
hình thành tính cách dân tộc: 
"Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, 
Phần nhiều do giáo dục mà nên."5 
Bài viết này không có tham vọng đi 
sâu nghiên cứu và thảo luận kỹ về tất cả 
các vấn đề vốn hết sức phức tạp của một 
chủ đề rộng lớn là giáo dục và vấn đề bản 
sắc dân tộc và đa dạng văn hoá, mà trong 
chừng mực nhất định, xin đề xuất những 
kiến giải riêng về một số vấn đề cụ thể liên 
quan đến vấn đề giáo dục và bản sắc dân 
tộc Việt Nam mà thôi. Và cũng trong 
chừng mực nhất định, chúng tôi xin liên hệ 
tới vấn đề này ở khu vực Đông Á và Đông 
Nam Á. 
2. "Thống nhất trong đa dạng" và 
vấn đề bản sắc dân tộc Việt Nam 
Trong bài tham luận tại Hội nghị Quốc 
tế về Việt Nam học lần thứ nhất tại Hà Nội 
(1998) GS. Keith W. Taylor cho biết trong 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 
Trang 89 
suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh, giới Việt 
Nam học ở Mỹ đã tìm cách định nghĩa Việt 
Nam.6 Sau nhiều cuộc tranh luận, cuối 
cùng nhiều nhà khoa học Mỹ đã đề xuất 
định nghĩa Việt Nam theo 4 hướng tiếp 
cận: "Trước hết, một Việt Nam thực tế 
nhất thiết là một Việt Nam thống nhất; và 
sau đó, một Việt Nam thực tế là một Việt 
Nam làng xã; một Việt Nam Nho giáo và 
một Việt Nam cách mạng."6 Đây cũng là 
cách mà giới Việt Nam học ở nước ngoài 
thường tiếp cận để khám phá bản sắc dân 
tộc Việt Nam. Nhưng càng đi sâu nghiên 
cứu, họ càng tỏ ra lúng túng, thậm chí mất 
phương hướng. Tương tự như vậy, trong số 
các nhà khoa học Việt Nam tìm cách khám 
phá bản sắc dân tộc mình, một số người 
cũng tỏ ra càng ngày càng lúng túng, 
nhưng lại lúng túng theo một cách rất 
riêng. 
Trở lại với bốn hướng tiếp cận nói 
trên, trước hết hãy kiểm chứng lại phán 
đoán khoa học rằng "Một Việt Nam thực tế 
nhất thiết phải là một Việt Nam thống 
nhất". Đối với người Việt Nam nói chung, 
số đông các nhà khoa học Việt Nam và 
nhiều nhà khoa học nước ngoài nói riêng, 
thì dường như tính thống nhất (unity) của 
dân tộc Việt Nam là một sự thật hiển 
nhiên. Dân tộc Việt Nam vốn là một dân 
tộc thống nhất, với ý chí thống nhất mạnh 
mẽ, lấn lướt các xu hướng cát cứ, ly khai; 
rằng từ nhiều thế kỷ trước cuộc xâm lăng 
của thực dân Pháp, trên đất Việt Nam đã 
tồn tại một nhà nước quân chủ tập quyền 
đảm bảo sự thống nhất của quốc gia - dân 
tộc. Về văn hoá, toàn dân tộc có những giá 
trị chung căn bản và có nhiều biểu tượng 
văn hoá chung. Ngôn ngữ chính là tiếng 
nói của tộc người luôn chiếm phần đa số 
tuyệt đối, được các tộc người thiểu số thừa 
nhận như tiếng nói phổ thông vv... 
Tuy nhiên, đi sâu vào tìm hiểu thì sự 
thực lại càng ngày càng khác xa với những 
nhận định và phán đoán ban đầu. Các sự 
khác biệt (diversities) càng ngày càng lộ rõ 
ra trên nhiều phương diện. Về lịch sử, cộng 
đồng dân tộc mà ngày nay gọi là "dân tộc 
Việt Nam" hiển nhiên không trùng khít với 
các cộng đồng người Việt cổ - chủ nhân 
của nước Văn Lang hay Âu Lạc, mà ngược 
lại là kết quả của một quá trình lâu dài, 
trong đó, trên hành trình lịch sử của mình, 
các cộng đồng người Việt cổ đã cuốn theo 
nó, hoà trộn vào trong nó nhiều cộng đồng 
người khác, trong những điều kiện khác 
nhau và ở những thời điểm khác nhau. Về 
khía cạnh tộc người, điều hiển nhiên là dân 
tộc Việt Nam đã là và luôn luôn là một dân 
tộc đa sắc tộc (a multi-ethnic nation), với 
một tộc người chiếm đa số tuyệt đối là 
người Việt (Kinh). Về ngôn ngữ, tiếng Việt 
là ngôn ngữ "phổ thông" được sử dụng bởi 
tất cả các tộc người, và trên mọi vùng của 
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 
Trang 90 
lãnh thổ. Tuy nhiên tiếng Việt không phải 
là ngôn ngữ duy nhất, và cũng không phải 
là một thứ ngôn ngữ đồng nhất, mà ngược 
lại có rất nhiều phương ngữ (dialect), khác 
nhau không chỉ ở giọng điệu (accent), từ 
vựng, mà còn cả cấu trúc và văn hoá ngôn 
ngữ nữa. Về tôn giáo, tín ngưỡng, trên đất 
Việt Nam đã và luôn luôn tồn tại nhiều tôn 
giáo bên cạnh nhau và hoà trộn vào nhau. 
Về văn hoá, sự khác biệt về hệ giá trị của 
các nhóm và các cộng đồng người trong 
từng thời kỳ lịch sử có thể còn cần khám 
phá thông qua những nghiên cứu tỉ mỉ và 
phải được tiếp cận theo cách đa chiều, 
nhưng từ những gì quan sát được cũng có 
thể chỉ ra rất nhiều sự khác biệt về lối 
sống, về phong tục tập quán và biểu tượng 
văn hoá và ứng xử văn hoá của các nhóm 
người khác nhau.... Đặc biệt là trong thời 
kỳ Đổi mới hiện nay, khi đất nước mở cửa, 
chuyển dần từ nền kinh tế tập trung, quan 
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, 
ngày càng tăng cường giao lưu và hội nhập 
với khu vực và thế giới thì mọi lĩnh vực 
của đời sống dân tộc ngày càng trở nên đa 
dạng và luôn biến đổi với tốc độ ngày càng 
gia tăng. 
Dựa trên những sự quan sát như trên 
về những khác biệt văn hoá (cultural 
diversities) và xu hướng đa dạng hoá ngày 
càng gia tăng của đời sống dân tộc Việt 
Nam hiện đại mà một số nhà nghiên cứu 
nước ngoài thậm chí đã đi tới những nhận 
định cực đoan, phủ nhận hoàn toàn tính 
thống nhất của dân tộc Việt Nam. Theo 
Keith W. Taylor thì: "Ngày nay, ở Bắc Mỹ, 
càng ngày người ta càng ít quan tâm tới 
cách định nghĩa Việt Nam và càng tin rằng 
không có một cái gì gọi là một một Việt 
Nam thực tế, không có một cái gì có thể coi 
là một truyền thống Việt Nam duy nhất 
hoặc một bản sắc Việt Nam duy nhất, mà 
trái lại, cho dù chúng ta hiểu thế nào về 
khái niệm Việt Nam thì khái niệm đó đã và 
luôn luôn bao hàm nhiều thứ."7 Theo 
hướng này, khi khảo sát về xứ Đàng Trong 
trong thế kỷ 17 và 18, Li Tana đã đi tới 
khái niệm về một "Altenative Vietnam" 
(một Việt Nam khác), với những đặc điểm 
về văn hoá, chính trị và kinh tế căn bản 
khác với Đàng Ngoài.8 Xa hơn nữa, trong 
một công trình nghiên cứu khác, Keith W. 
Taylor thậm chí cho rằng cái gọi là "tính 
thống nhất" hay "bản sắc" của dân tộc Việt 
Nam là vô cùng mờ nhạt và chỉ dựa trên 
những định hướng bề mặt (surface 
orientations) mà không có sự cố kết bền 
vững.9 
Theo cách tương tự người ta cũng có 
thể xem xét lại những cách tiếp cận khác 
trong nỗ lực khám phá bản sắc dân tộc Việt 
Nam. Nhiều nhà khoa học đã rất có lý khi 
cho rằng về căn bản Việt Nam là một dân 
tộc nông dân - nông thôn - nông nghiệp 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 
Trang 91 
hay là một “Việt Nam làng xã”. Sự thực 
hiển nhiên là cho đến tận đầu thế kỷ 21 
Việt Nam về căn bản vẫn là một đất nước 
dựa trên nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa 
nước với khoảng trên 70% cư dân sống ở 
khu vực nông thôn, trong các làng xã. Xa 
hơn, trong suốt chiều dài lịch sử, làng xã 
luôn luôn là phương thức tổ chức xã hội 
căn bản nhất của người Việt và là nơi bảo 
tồn phong tục, tập quán, tiêu biểu cho sức 
sống mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trải 
qua các biến thiên lịch sử dữ dội (nước mất 
nhưng còn làng, và nhờ còn làng mà cuối 
cùng còn nước).10 Lối sống và ứng xử 
“nông dân”, “làng xã” là lối sống và ứng 
xử không phải chỉ của riêng những người 
dân sống trong làng xã, mà cũng còn có 
ảnh hưởng khá mạnh mẽ đối với nhiều 
nhóm cư dân thành thị, bởi lẽ thành thị 
không những luôn luôn giữ mối quan hệ 
tương tác chặt chẽ nhiều mặt với thôn quê, 
mà còn luôn luôn bị làng xã “xâm thực” 
thông qua các dòng di dân từ nông thôn ra 
thành thị. Ngày này, khi quá trình đô thị 
hoá ngày càng gia tăng ào ạt thì dường như 
làn sóng nông thôn "xâm thực" thành thị (ít 
nhất là về phương diện dân cư và lối ứng 
xử) càng được tăng cường. Lối sống, lối 
ứng xử làng xã và đặc biệt là tinh thần 
cộng đồng làng xã thậm chí đã được coi 
như một cấp bậc phát triển hay một cội 
nguồn của ý thức dân tộc Việt Nam. Chính 
xác hơn GS. Hà Văn Tấn đã từng chỉ ra 
rằng: "Chính từ những mối liên hệ siêu 
làng mà hình thành ý thức cộng đồng siêu 
làng, rồi từ ý thức cộng đồng siêu làng tiền 
dân tộc hình thành ý thức cộng đồng siêu 
làng dân tộc...".11 
Tuy làng xã có vai trò cực kỳ quan 
trọng như vậy, nhưng sẽ không đầy đủ, 
không hoàn toàn chính xác khi tiếp cận 
làng xã như một phương thức để định 
nghĩa bản sắc dân tộc Việt Nam, trong quá 
khứ cũng như hiện tại. Trong lịch sử, làng 
xã dù là cộng đồng quan trọng nhất, nhưng 
cũng không phải là loại cộng đồng xã hội 
duy nhất của cư dân Việt. Ở khu vực nông 
thôn, bên cạnh làng xã còn có các vạn chài 
của ngư dân, các bản, mường của cư dân 
vùng núi. Bên cạnh cộng đồng làng, như 
Hà Văn Tấn đã chỉ ra, còn có các cộng 
đồng liên làng và siêu làng và đó là những 
cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng 
trong sự hình thành nên ý thức cộng đồng 
siêu làng tiền dân tộc và ý thức dân tộc. Và 
ngay cả khi chúng ta nói tới "cộng đồng 
làng xã Việt Nam" thì cũng cần phải ghi 
nhớ rằng không bao giờ đó là một khái 
niệm dùng để chỉ một loại cộng đồng duy 
nhất, mà ngược lại đó là một thuật ngữ 
dùng để bao hàm chung (có thể rất thiếu 
chính xác) nhiều loại "cộng đồng làng xã" 
khác nhau: có cộng đồng làng nông 
nghiệp, lại có cộng đồng làng thủ công 
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 
Trang 92 
nghiệp và làng buôn. Trước khi nước Việt 
được mở dần về phía nam, thì hẳn rằng 
những cư dân nông thôn của Champa, 
Funam vv... đã có hình thức cộng đồng xã 
hội riêng - rất tiếc chúng ta còn biết quá ít 
về điều này. Rồi sau đó, khi nước Việt 
Nam đã trải dài "từ Mục Nam Quan tới 
Mũi Cà Mau" thì làng xã ở miền Bắc, 
Miền Trung và miền Nam lại cũng rất khác 
nhau. Vì vậy, bản thân cái gọi là "một Việt 
Nam làng xã" cũng đã không phải là một 
khái niệm có nội hàm chặt chẽ và đồng 
nhất, để có thể từ đó hay qua đó mà tiếp 
cận, định nghĩa về bản sắc dân tộc Việt 
Nam. 
Hơn nữa, trong lịch sử cũng như hiện 
tại, đặc biệt là từ khoảng thế kỷ 10 trở đi, ở 
Việt Nam đã xuất hiện những thành thị, lúc 
đầu là thành thị trung cổ, và sau đó là 
những thành thị hiện đại. Một đặc điểm 
chung xuyên suốt các giai đoạn lịch sử là: 
cư dân thành thị luôn luôn chỉ chiếm một 
tỷ lệ nhỏ trong thành phần cư dân Việt 
Nam. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà dân 
cư thành thị có vị trí không đáng kể gì 
trong đời sống cộng đồng dân tộc nói 
chung và sự hình thành và biến đổi của bản 
sắc dân tộc Việt Nam nói riêng. Trái lại, 
ngay trong thời kỳ trung đại, thành thị nói 
chung và kinh đô nói riêng đã luôn luôn là 
các trọng trấn, là trung tâm chính trị, quân 
sự, nơi hội tụ của nhân tài bốn phương, có 
tầm quan trọng sống còn đối với quốc gia - 
dân tộc xét trên nhiều phương diện. 
Từ khi các thành thị Việt Nam trở 
thành các thành thị hiện đại theo mô hình 
phương Tây, tuy cư dân thành thị vẫn tiếp 
tục chiếm một tỷ lệ nhỏ trong thành phần 
dân cư, vai trò của thành thị càng trở nên 
quan trọng hơn trong đời sống dân tộc. 
Mặc dù một bộ phận không nhỏ của cư dân 
thành thị vẫn duy trì mối liên hệ chặt chẽ 
với các vùng thôn quê và lối sống, lối ứng 
xử của thị dân Việt Nam vẫn còn mang 
nặng tính nông dân, làng xã và cho dù các 
thành thị hiện đại vẫn tiếp tục chịu sự 
"xâm thực" của nông thôn, nhưng một lối 
sống thị dân, văn hoá thị dân với những 
đặc điểm văn hoá riêng đã ra đời và ngày 
càng định hình rõ nét, trở thành một bộ 
phận năng động, tiên phong nhất của đời 
sống cộng đồng dân tộc Việt Nam. Hơn 
nữa, quá trình đô thị hoá hiện đại, đặc biệt 
là từ mấy thập kỷ gần đây, đã tạo ra một 
luồng chảy văn hoá mới, xuyên thủng các 
luỹ tre làng, làm cho đời sống văn hoá thôn 
quê ngày càng biến đổi nhanh chóng và 
sâu sắc. Trong bối cảnh đó, cách tiếp cận 
định nghĩa bản sắc dân tộc Việt Nam từ 
góc nhìn làng xã, từ hệ luận nông thôn - 
nông dân - nông nghiệp ngày càng trở nên 
xa rời thực tiễn. 
Xem xét lại một cách toàn diện, cách 
tiếp cận định nghĩa Việt Nam như một dân 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 
Trang 93 
tộc Nho giáo hay Nho giáo hoá 
(confucianized) cũng tỏ ra bất cập. Bất cứ 
ai nghiên cứu về Việt Nam cũng đều có thể 
thừa nhận ảnh hưởng của Nho giáo đối với 
đời sống cộng đồng dân tộc Việt Nam là to 
lớn, lâu dài và đa dạng trên nhiều lĩnh vực. 
Tuy nhiên, cách quan niệm Việt Nam là 
một dân tộc Nho giáo hoá chỉ có ý nghĩa 
khi đặt Việt Nam trong mối liên hệ so sánh 
với các dân tộc không nằm trong khu vực 
Đông Á (tức là không nhằm so sánh Việt 
Nam với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn 
Quốc). Đây là cách tiếp cận, so sánh phổ 
biến của những chuyên gia Đông Nam Á 
học, khi họ so sánh Việt Nam với "các 
quốc gia Ấn Độ hoá" trong khu vực Đông 
Nam Á. Điều quan trọng hơn là, cách quan 
niệm về một "Việt Nam Nho giáo hoá" tự 
bản thân nó không phản ánh đầy đủ bản 
chất của đời sống văn hoá dân tộc Việt 
Nam trong lịch sử cũng như hiện tại, bởi lẽ 
bên cạnh Nho giáo, còn có các yếu tố khác 
cũng không kém phần quan trọng, góp 
phần tạo nên cái gọi là "những truyền 
thống lớn" (great traditions) trong cấu trúc 
văn hoá Việt Nam, như Phật giáo, Lão 
giáo, và sau này là các trào lưu tư tưởng 
phương Tây. Còn ở tầng "thấp" hơn của 
những cái gọi là "những truyền thống nhỏ" 
(little traditions) dường như Nho giáo chỉ 
có ảnh hưởng ở mức độ nhất định trong 
một bộ phận lớp trên của cư dân nông thôn 
(rural elite) mà thôi. 
Hướng tiếp cận thứ tư, tìm cách định 
nghĩa Việt Nam thực tế là một "Việt Nam 
cách mạng" (a revolutionary Vietnam) tỏ 
ra là cách tiếp cận chứa đựng nhiều bất cập 
nhất, nhưng đáng tiếc, dường như lại là 
cách tiếp cận phổ biến nhất của giới Việt 
Nam học trong thế kỷ 20. Có thể nói rằng 
cho đến trước Chiến thắng Điện Biên Phủ 
thế giới chỉ dành cho Việt Nam một sự 
quan tâm tối thiểu. Từ sau sự kiện trên cho 
đến khi cuộc Chiến tranh lạnh kết thúc, 
Việt Nam trở nên nổi tiếng trên thế giới 
chủ yếu vì đó là một trong những nơi đối 
đầu căng thẳng nhất giữa phe XHCN và 
phe TBCN, là nơi những siêu cường số 
một của thế giới buộc phải chấp nhận 
những thất bại cay đắng và là biểu tượng 
của tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh 
dũng cảm vì độc lập dân tộc, tự do... Sự 
nổi tiếng mang tính chất định mệnh này đã 
khiến cho hình dung chung của nhân loại 
về Việt Nam trong suốt nửa sau của thế kỷ 
20 là một đất nước của chiến tranh và cách 
mạng. Có thể thấy rõ điều này khi nhìn vào 
danh mục hàng nghìn công trình của học 
giả nước ngoài viết về Việt Nam được 
công bố trong thế kỷ 20, ta có thể dễ dàng 
nhận ra rằng tuyệt đại đa số các nghiên cứu 
đều tập trung vào chủ đề chiến tranh và 
cách mạng Việt Nam. Thậm chí, trong số 
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 
Trang 94 
những công trình khác không trực tiếp viết 
về chủ đề này, thì cũng gián tiếp nhằm 
hướng tới sự "giải mã" nguồn gốc và diễn 
trình của các cuộc chiến tranh và cách 
mạng ở Việt Nam. 
Góp phần không nhỏ vào tình hình trên 
là giới nghiên cứu khoa học xã hội ở Việt 
Nam. Cho tới trước năm 1990 có thể nói 
tuyệt đại đa số các công trình được công 
bố trong hai lĩnh vực sử học và văn học 
đều tập trung vào chủ đề chiến tranh và 
cách mạng, trong khi các chủ đề khác về 
kinh tế, xã hội, văn hoá, tín ngưỡng vv... 
chỉ dành được sự quan tâm hạn chế, và 
cũng hướng tới phục vụ cho chủ đề chiến 
tranh và cách mạng. 
Sự thực lịch sử hiển nhiên là: dân tộc 
Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của 
mình đã phải tiến hành trên dưới 20 cuộc 
chiến tranh giải phóng và chiến tranh vệ 
quốc để giành lại hoặc bảo vệ chủ quyền 
đất nước và quyền tự do của toàn thể cộng 
đồng dân tộc. Đó là chưa kể nhiều cuộc nội 
chiến kéo dài và không kém phần khốc 
liệt. Trong quá trình đó, dân tộc Việt Nam 
đã lập nên nhiều võ công hiển hách, và đây 
là yếu tố góp phần nuôi dưỡng chủ nghĩa 
yêu nước truyền thống, lòng tự hào, tự tôn 
dân tộc - những thành tố rất căn bản và 
quan trọng trong hệ giá trị văn hoá chính 
trị của dân tộc Việt Nam. Những yếu tố 
này đã được biểu tượng hoá, mã hóa qua 
phong tục tôn thờ anh hùng dân tộc (làm 
Thành Hoàng của các làng xã hoặc tại các 
đền miếu khác). Như vậy, không có gì 
ngạc nhiên khi nói đến lịch sử Việt Nam, 
trước hết người ta nói đến lịch sử của các 
cuộc chiến tranh. Đến thế kỷ 20, đối với 
dân tộc Việt Nam thì trước hết cũng là thế 
kỷ của cuộc đấu tranh cách mạng hết sức 
ác liệt, gian khổ nhằm giải phóng dân tộc 
và bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước. 
Tuy nhiên, dù sao thì chiến tranh và 
cách mạng cũng vẫn là những điều kiện bất 
thường của lịch sử, kể cả lịch sử dân tộc 
Việt Nam. Không thể định nghĩa về bản 
sắc của bất cứ một dân tộc nào, trong bất 
kỳ thời kỳ lịch sử nào, thông qua những 
điều kiện và quá trình lịch sử bất thường 
như vậy. Cách định nghĩa như vậy sẽ dẫn 
tới cách trình bày và diễn giải phiến diện 
về lịch sử dân tộc Việt Nam, bỏ qua, xem 
nhẹ những khía cạnh, những lĩnh vực vô 
cùng quan trọng trong đời sống cộng đồng 
dân tộc Việt Nam như lịch sử kinh tế, lịch 
sử văn minh - văn hiến, tôn giáo, tộc người 
vv... và do đó, sẽ dẫn tới cách nhìn nhận 
không đúng về bản sắc dân tộc Việt Nam. 
Bên cạnh bốn cách tiếp cận nói trên 
còn có những cách nhìn nhận về lịch sử, 
văn hoá và bản sắc dân tộc Việt Nam, do 
bị ảnh hưởng bởi những thiên kiến, định 
kiến chính trị hoặc văn hoá mà trở nên 
phiến diện. Bằng chứng rõ ràng nhất là 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 
Trang 95 
cách mà các sử gia Nho giáo Việt Nam 
nhìn nhận và trình bày về lịch sử dân tộc 
mình. Theo những gì được trình bày trong 
bộ quốc sử nổi tiếng Đại Việt Sử ký toàn 
thư thì có thể thấy những gì không phù hợp 
với các quy phạm của Nho giáo đều bị chê 
bai, bài bác hoặc làm cho lu mờ. Tương tự 
như vậy, trong thời kỳ gần đây, do ảnh 
hưởng của triết lý chính trị dựa trên học 
thuyết đấu tranh giai cấp và của chủ nghĩa 
dân tộc mà trong phần lớn các sách giáo 
khoa và giáo trình lịch sử, lịch sử dân tộc 
Việt Nam đã được trình bày theo những 
khuôn mẫu của các "mặt đối lập" như: 
"địch >< bị 
bóc lột", "cách mạng >< phản cách 
mạng". Ngày nay nhìn lại, ai cũng biết 
thực tế đời sống dân tộc và lịch sử dân tộc 
phong phú, đa dạng và sống động hơn 
nhiều lần so với những cách trình bày theo 
kiểu "đen >< trắng" như trên. 
3. Giáo dục đại học và cách tiếp cận 
mới đối với vấn đề bản sắc dân tộc Việt 
Nam 
Từ những phân tích (dù còn sơ lược) 
trên đây, có thể thấy sự cần thiết phải đề 
xuất một cách tiếp cận mới đối với bản sắc 
dân tộc Việt Nam. Tương tự như hầu hết 
các dân tộc ở khu vực Đông Nam Á và 
Đông Á, nói tới bản sắc dân tộc Việt Nam 
là nói tới sự thống nhất của những cái đa 
dạng và trong những cái đa dạng (unity of 
// in diversities). 
Trước hết, không nên và không thể 
nhấn mạnh một chiều tính thống nhất 
(unity), tính duy nhất (uniqueness) hay sự 
tương đồng (similarity). Cách tiếp cận này 
là không phù hợp trong nỗ lực khám phá 
và trình bày về bản sắc dân tộc của dân tộc 
Việt Nam cũng như các dân tộc khác trong 
khu vực Đông Nam Á và Đông Á, bởi lẽ, 
như đã trình bày ở trên, Việt Nam và các 
dân tộc trong khu vực, trong lịch sử cũng 
như hiện nay, đã và đang là những dân tộc 
đa sắc tộc, đa văn hoá, đa tín ngưỡng. Vả 
lại, trong hành trình lịch sử lâu dài của 
mình, Việt Nam và các dân tộc trong khu 
vực đều đã trải qua những quá trình giao 
lưu, đụng độ và tiếp biến văn hoá phức tạp. 
Do vậy, sự đề cao một chiều bất cứ một 
yếu tố, một quá trình hay một đặc trưng 
nào, coi đó như là tính thống nhất hay 
đồng nhất và tiêu biểu cho bản sắc dân tộc 
Việt Nam thì đều bị rơi vào phiến diện, 
thiên lệch, và nguy hại hơn, sẽ là cơ sở cho 
sự xuất hiện những loại hình “lịch sử dân 
tộc chính thống” (official national history), 
những dạng “văn hoá đồng phục” (uniform 
culture) hoặc những cách hình dung mang 
tính loại trừ về cộng đồng dân tộc 
(exclusive imagination of national 
community). 
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 
Trang 96 
Thái cực thứ hai cần phải tránh chính 
là cách tiếp cận nhấn mạnh một chiều sự 
khác biệt (differences) hoặc tính đa dạng 
(diversity) mà phủ nhận hoàn toàn tính 
thống nhất, tính tương đồng, đi tới phủ 
nhận cả bản sắc dân tộc của dân tộc Việt 
Nam và một số dân tộc khác ở Đông Nam 
Á và Đông Á. Sự tồn tại của những sự 
khác biệt và tính đa dạng trong các lĩnh 
vực của đời sống cộng cộng đồng dân tộc 
Việt Nam là sự thực khách quan. Tuy 
nhiên, những cái khác biệt và đa dạng đó 
không tồn tại bên cạnh nhau, hoàn toàn 
tách bạch như những thực thể độc lập, mà 
ngược lại luôn luôn trong mối tương tác đa 
chiều và với tính cách là những thành tố 
khác nhau của một chỉnh thể thống nhất. 
Việc đề xuất và hướng tới cách tiếp 
cận bản sắc dân tộc Việt Nam theo mô 
hình sự thống nhất trong // của những cái 
đa dạng dường dễ dàng nhận được sự đồng 
tình của giới học giả nhiều nước. Tuy 
nhiên, phân tích và trình bày cụ thể mối 
quan hệ hết sức phức tạp này như thế nào 
mới là điều vô cùng khó khăn. Nếu bắt đầu 
từ cái chung, cái thống nhất và đi tìm hay 
thử khám phá cái chung, cái thống nhất của 
những cái đa dạng hoặc trong những cái đa 
dạng trước sau cũng rơi vào bế tắc, bởi vì 
người ta sẽ càng ngày càng thấy những cái 
chung, cái thống nhất được giả định trước 
càng ngày càng xa rời thực tiễn, không có 
ý nghĩa gì. Ngược lại, nếu bắt đầu từ 
những cái riêng, thông qua những cái đa 
dạng để khám phá cái chung, thì chắc chắn 
cuối cuối cùng người ta sẽ không tìm thấy 
cái gì là tiêu biểu cho cái chung, cái thống 
nhất của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt 
Nam, và do đó sẽ bị mất phương hướng. 
Vì vậy, cần phải quan niệm khác về cái 
gọi là tính thống nhất (unity). Theo tôi thì 
thực tế là có nhiều cấp độ khác nhau của 
tính thống nhất. Tính thống nhất ở cấp độ 
thấp nhất thì rất gần với cái riêng biệt, và 
hơn nữa cái thống nhất không tồn tại độc 
lập như một thực thể để trở thành mẫu vật 
chuẩn (idealtypus) nhằm quy chiếu, đo đạc 
muôn vàn những cái riêng biệt hết sức đa 
dạng, mà là tồn tại ngay trong bản thân 
những cái riêng biệt đó. 
Còn về tính đa dạng (diversity) cũng 
phải được quan niệm không phải là cái 
chối từ hay loại trừ cái thống nhất, cái 
chung, mà trái lại, chính là sự thể hiện sinh 
động cái chung trong các dạng thức phong 
phú, khác nhau. 
Theo những cách tiếp cận như vậy, có 
thể đưa ra một số khuyến nghị cụ thể đối 
với giáo dục nói chung và giáo dục đại học 
hiện nay, với ý nghĩa giáo dục là môi 
trường có tác động to lớn và trực tiếp nhất 
đến cách tiếp cận của thế hệ tương lai đối 
với vấn đề bản sắc dân tộc Việt Nam. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 
Trang 97 
Trước hết là phương thức giảng dạy và 
học tập lịch sử dân tộc trong nhà trường. 
Như đã nói ở trên, giáo dục lịch sử dân tộc 
đã từng có đóng góp rất to lớn trong việc 
khơi dậy lòng tự hào và ý thức dân tộc của 
nhân dân Việt Nam, và đó thực sự đã trở 
thành một động lực tinh thần to lớn trong 
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo 
vệ tổ quốc của dân tộc Việt Nam trong 
suốt hai thế kỷ 19 và 20. Tuy nhiên, giáo 
dục lịch sử dân tộc ở Việt Nam đang đặt ra 
những vấn đề hết sức gay gắt, đặc biệt là 
sự suy giảm sức cuốn hút của lịch sử dân 
tộc đối với thế hệ trẻ hiện nay.12 Chất 
lượng rất thấp của việc học tập môn lịch sử 
trong nhà trường phổ thông đang khiến 
toàn xã hội lo ngại. Điều này bắt nguồn từ 
nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có 
nguyên nhân sâu xa nằm trong chính 
phương thức và nội dung trình bày lịch sử 
dân tộc trong nhà trường hiện nay. 
Điểm bất cập thứ nhất cần phải chỉ ra 
là phần nội dung về lịch sử chiến tranh và 
cách mạng vẫn còn chiếm thời lượng quá 
lớn, trong khi những nội dung khác như 
lịch sử kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng, 
tôn giáo, giáo dục, khoa học vv... chỉ được 
trình bày rất sơ lược và ít hấp dẫn. Thứ hai, 
lịch sử dân tộc Việt Nam được trình bày, 
cho đến nay vẫn chủ yếu vẫn là lịch sử của 
tộc người đa số (người Việt, hay người 
Kinh). Mô thức trình bày quen thộc và 
"chính thống" là lịch sử Việt Nam bắt đầu 
với sự ra đời của "nước Văn Lang" tiếp 
đến Âu Lạc, trải qua thời kỳ Bắc thuộc, 
tiếp đến nước Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại 
Nam, rồi nước VNDCCH và ngày nay là 
CHXHCN Việt Nam. Trong một thời kỳ 
rất dài người ta luôn mặc nhiên coi đây là 
cách trình bày lịch sử dân tộc Việt Nam 
duy nhất. Gần đây, một số nhà sử học Việt 
Nam đã nhận ra rằng mô thức trình bày 
này ngày càng tỏ ra bất cập và không thể 
chấp nhận được, bởi lẽ trong cách trình bày 
như vậy người ta đã "quên" không trình 
bày lịch sử của các tộc người thiểu số hoặc 
những cộng đồng khác gia nhập vào cộng 
đồng dân tộc Việt Nam trong những giai 
đoạn muộn hơn. Trong một số tập sách 
giáo khoa, giáo trình mới được biên soạn 
các nhà sử học Việt Nam đã cố gắng trình 
bày lại lịch sử sử dân tộc Việt Nam như là 
lịch sử của tất cả các cộng đồng người 
sống trên phần lãnh thổ ngay nay của Việt 
Nam. Điều đó có nghĩa là bên cạnh "dòng 
chính" là lịch sử của người Việt, lịch sử 
các tộc người thiểu số đã được quan tâm 
hơn. Đây là một hướng tiếp cận tích cực, 
cần được cổ vũ và phát huy. Tuy vậy cũng 
vẫn cần thiết phải chỉ ra rằng ngay cả trong 
cách trình bày mới đó thì lịch sử các tộc 
người khác mới bước đầu được xem xét và 
đặt bên cạnh lịch sử của người Việt, chứ 
chưa phải là hoà quyện với nhau trong 
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 
Trang 98 
những tương tác lịch sử đa chiều, liên tục. 
Nếu thiếu những mối tương tác này chắc 
hẳn các tộc người thiểu số khó có thể trở 
thành những bộ phận của đại gia đình các 
dân tộc Việt Nam. 
Về phần giảng dạy và học tập lịch sử 
thế giới, tưởng chừng như không liên quan 
gì tới bản sắc dân tộc Việt Nam, nhưng 
thực tế lại hết sức quan trọng, bởi lẽ chính 
nhờ thông qua cái nhìn so sánh lịch sử mà 
người học sẽ nhận thức thấu đáo hơn 
những đặc tính riêng và bản sắc dân tộc 
Việt Nam. Tuy vậy, cho tới nay phương 
thức và nội dung giảng dạy lịch sử thế giới 
chủ yếu mới tập trung vào lịch sử của 
những trung tâm văn minh lớn, những siêu 
cường và những sự kiện (quân sự và chính 
trị) quan trọng. Trong khi đó lịch sử của 
các khu vực ngoại vi "kém phát triển", của 
khu vực Đông Nam Á và Đông Á, của 
những nhân vật, sự kiện, quá trình lịch sử 
“ít quan trọng” chỉ được trình bày rất sơ 
lược, khô cứng, phiến diện và hầu như 
không có liên hệ gì với nhau hoặc với Việt 
Nam. Gần đây giới sử gia Việt Nam đã có 
cố gắng rất lớn, chuyển từ việc giảng dạy 
"lịch sử thế giới" kiểu thông sử, sang giảng 
dạy "lịch sử văn minh thế giới" với cái 
nhìn đa chiều, toàn diện hơn. Tuy nhiên, 
phần nội dung dành cho lịch sử khu vực 
Đông Nam Á và Đông Nam Á còn chưa 
tương xứng. 
Quá trình hội nhập quốc tế và hội nhập 
khu vực của Việt Nam trong bối cảnh toàn 
cầu hoá hiện nay đòi hỏi phải tiếp tục đổi 
mới mạnh mẽ hơn nữa việc giảng dạy và 
học tập về lịch sử văn minh thế giới, văn 
minh khu vực trong trường học, nhất là ở 
bậc đại học. Chúng tôi nghĩ rằng không chỉ 
sinh viên các ngành khoa học xã hội và 
nhân văn mới cần học lịch sử Việt Nam và 
lịch sử thế giới, mà trái lại, đây là hành 
trang tri thức – văn hoá không thể thiếu 
của công dân Việt Nam nói chung và trí 
thức Việt Nam nói riêng trong thế kỷ 21. 
Đất nước càng mở rộng cửa giao lưu với 
thế giới bên ngoài thì con người Việt Nam 
càng phải có hiểu biết tốt hơn về dân tộc 
mình và về thế giới. Đó chính là cơ sở để 
“hội nhập mà không hoà tan”, để đóng góp 
tích cực hơn vào quá trình tăng cường hiểu 
biết lẫn nhau và xây dựng một thế giới, 
một khu vực Đông Á và Đông Nam Á thực 
sự hoà bình, hợp tác và phát triển. 
Cuối cùng, trên cơ sở những quan sát 
bước đầu ít nhiều mang tính chất “kinh 
nghiệm chủ nghĩa”, chúng tôi muốn nêu ra 
một vài ý kiến về việc giảng dạy, trình bày 
một số vấn đề văn hoá, liên quan tới bản 
sắc dân tộc Việt Nam trong nhà trường. 
Phương hướng chúng tôi đề xuất để 
tiếp cận bản sắc dân tộc Việt Nam là (xin 
nhắc lại) nhìn nhận văn hoá Việt Nam như 
là cái thống nhất trong và của những cái đa 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 
Trang 99 
dạng (unity of//in diversities). Theo đó, 
những cách tiếp cận hướng tới việc đề xuất 
một, một số yếu tố hay đặc điểm nào đó 
của văn hoá Việt Nam, coi đó như tiêu chí 
để nhận biết bản sắc văn hoá Việt Nam, 
cần được xem xét lại và luận giải trong 
mối quan hệ đa chiều với những cái đa 
dạng, dị biệt. Xin nêu ra một số ví dụ: 
Thứ nhất, đó là xu hướng đề cao quá 
mức hệ luận “âm – dương” và thuyết ngũ 
hành trong nghiên cứu về văn hoá Việt 
Nam. Với cách tiếp cận này nhiều nhà 
nghiên cứu đã phân tích khá sâu sắc một số 
đặc điểm của văn hoá Việt Nam. Tuy 
nhiên, càng ngày hướng tiếp cận này càng 
bộc lộ những bất cập không nhỏ. Trước 
hết, cần phải chỉ ra rằng hệ luận “âm – 
dương” và quan niệm “ngũ hành” không 
phải là hệ luận văn hoá riêng của người 
Việt Nam, mà là hệ luận chung của một số 
dân tộc trong khu vực Đông Á và Đông 
Nam Á. Hơn nữa, hệ luận này chỉ có ý 
nghĩa khi được vận dụng để trình bày, 
phân tích một số đặc điểm hoặc biểu tượng 
văn hoá, nhưng không đủ tính thao tác luận 
(functionally) khi cần phân tích, khảo cứu 
về sự biến đổi của các hệ giá trị văn hoá. 
Và cần phải nói thêm rằng hệ luận này 
dường như chỉ thích hợp trong nghiên cứu 
về văn hoá truyền thống, nhưng không phù 
hợp trong nghiên cứu về các quá trình và 
hiện tượng văn hoá đương đại. 
Thứ hai, trong một số tài liệu có tính 
chất giáo khoa, nền văn hoá dân tộc đã 
được trình bày theo những cách khá sơ 
giản, quy vào trong các mục mô tả về tư 
tưởng, văn học, nghệ thuật, tín ngưỡng, tôn 
giáo, kiến trúc vv... Cách trình bày như vậy 
là mới chỉ đề cập đến bề mặt, đến các hiện 
tượng, các hình thức thể hiện của văn hoá 
trong một số lĩnh vực, mà không chỉ được 
ra các định hướng giá trị, những xu hướng 
vận động và những đặc điểm quan trọng 
nhất của văn hoá Việt Nam. Hơn nữa, xét 
về nội dung, phần lớn những điều được 
trình bày trong các mục như trên chỉ phản 
ánh đời sống văn hoá của tộc người đa số, 
tức là người Việt (Kinh), trong khi đó, đời 
sống và những giá trị văn hoá của các tộc 
người thiểu số, mối tương tác văn hoá giữa 
các tộc người trong từng thời kỳ lịch sử chỉ 
giành được rất ít sự quan tâm. 
Thứ ba, việc trang bị kiến thức về văn 
hoá dân tộc và văn hoá các dân tộc khác 
trên thế giới, nhất là các dân tộc láng giềng 
cho học sinh phổ thông và sinh viên đại 
học, đặc biệt là sinh viên các ngành, các 
trường đại học, cao đẳng thuộc các khối 
khoa học tự nhiên, kỹ thuật, kinh tế vv... là 
hết sức sơ giản và không có hệ thống. 
Hành trang tri thức văn hoá dân tộc và văn 
hoá, văn minh thế giới của thế hệ người 
Việt Nam tương lai quả thực còn rất nghèo 
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 
Trang 100 
nàn, không đáp ứng được đòi hỏi hội nhập 
của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá. 
Để khắc phục những bất cập nói trên, 
theo chúng tôi cần xem xét lại toàn bộ thực 
trạng, nghiên cứu kỹ hơn đòi hỏi của đất 
nước và của thời đại về hành trang văn hoá 
của thế hệ tương lai. Trên cơ sở đó có thể 
phải xây dựng những hệ giải pháp đồng bộ, 
vừa có tầm chiến lược, lại phải cụ thể, thiết 
thực nhằm nâng cao chất lượng và hiệu 
quả các môn học, bài học về văn hoá-văn 
minh trong nhà trường nói chung và nhà 
trường đại học nói riêng. Một số nguyên 
tắc chung có thể đề xuất làm cơ sở cho 
công việc nói trên là: thứ nhất, phải coi 
trọng việc trang bị tri thức toàn diện về văn 
hoá dân tộc cho sinh viên tất cả các ngành, 
các hệ, trong đó không chỉ lưu ý tới việc 
trang bị nội dung tri thức, mà chính là phải 
giới thiệu cho người học những cơ sở lý 
thuyết, những cách tiếp cận khoa học về 
văn hoá, tránh cái nhìn phiến diện, một 
chiều, võ đoán, kỳ thị về văn hoá dân tộc 
và văn hoá nhân loại. Thứ hai, dân tộc Việt 
Nam đã và luôn luôn là một dân tộc đa sắc 
tộc, đa tín ngưỡng và đa văn hoá. Vì vậy 
phải tạo điều kiện để người học khám phá 
tính thống nhất và tính đa dạng của văn 
hoá dân tộc. Bên cạnh những giá trị, những 
biểu tượng, những quá trình văn hoá của 
người Việt (kinh) cần chú trọng giới thiệu 
về đời sống văn hoá, giá trị và phương 
thức ứng xử của các tộc người thiểu số, và 
quan trọng hơn, là mối tương tác văn hoá 
của các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam, 
cùng góp phần bồi đắp nên những giá trị 
văn hoá cao đẹp của dân tộc. Thứ ba, trong 
bối cảnh hội nhập quốc tế và hội nhập khu 
vực ngày càng gia tăng như hiện nay, cần 
phải nghiên cứu để tạo điều kiện cho học 
sinh, sinh viên Việt Nam hiểu biết tốt hơn 
về văn hoá nhân loại, đặc biệt là văn hoá 
các dân tộc láng giềng. 
Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của toàn cầu hoá 
và kinh tế tri thức. Tương lai của nhân loại 
sẽ được định nghĩa bởi chính trí tuệ của 
nhân loại thể hiện qua những bước tiến 
khổng lồ của khoa học và công nghệ; qua 
khả năng bảo vệ môi trường sống; bảo vệ 
hoà bình, nhưng chắc chắn cũng còn thông 
qua khả năng của các dân tộc trong việc 
nhận biết về bản sắc dân tộc mình, biết tôn 
vinh và phát huy những giá trị văn hoá tốt 
đẹp của dân tộc mình và của nhân loại. Các 
trường đại học ở Việt Nam và các nước 
trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á 
cần phải phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong 
việc nghiên cứu các giá trị, hiện tượng và 
quá trình văn hoá, khám phá sâu sắc hơn 
về tính thống nhất và tính đa dạng văn hoá 
trong từng nước và trong toàn khu vực, 
trên cơ sở đó góp phần đổi mới các phương 
thức giáo dục lịch sử và văn hoá để chuẩn 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007 
Trang 101 
bị hành trang đi tới tương lai của mỗi dân tộc và toàn khu vực. 
UNITY IN DIVERSITIES: EDUCATION AND THE VIETNAMESE 
CULTURAL IDENTITY DURING THE GOBALIZATION 
Pham Hong Tung 
VNU-HN 
ABSTRACT: Approaching the issue from the political cultural respect and basing on 
the conception, that national identity is a spiritual complex of the whole national communitty 
based on common value orientations that are realizing in national characteristics, national 
symbols and ways of cultural behaving, in the first part of this article the author examines the 
four ways, in which foreign scholars have tried to define Vietnamese national identity. These 
have been summed up by K.W. Taylor in one of his studies published in 1998. In the second 
part of this article, the author points out the important role of education, particularly of 
history education, in the socialization of the ways in which the young generation imagine of 
their national community. According to Pham, the Vietnamese educators have to overcome the 
ways that provide a one-sided or exclusive nationalist imagination, because they do not 
support the young generation of Vietnamese to understand their national identity as a unity of 
// in diversities. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T. 3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 221. 
[2]. Có ý kiến cho rằng tác phẩm này không phải do Phan Bội Châu, mà do Lương Khải 
Siêu biên soạn. Chúng tôi cho rằng đây là một ý kiến không có căn cứ vững chắc. 
Xem: Kawamoto Kuniye, "Tác phẩm thời kỳ đầu của Phan Bội Châu và Lương Khải 
Siêu và một vài vấn để trong phong trào Đông Du", in trong: Trường Đại học Khoa 
học Xã hội và Nhân văn, Quan hệ văn hoá, giáo dục Việt Nam-Nhật Bản và 100 năm 
phong trào Đông Du, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006, tr. 346-353. 
[3]. Phan Bội Châu còn có các tác phẩm như "Hải ngoại huyết thư", "Nam hải bô thần 
ca"; Phan Châu Trinh viết "Tỉnh quốc hồn ca"; Nguyễn Quyền viết "Kêu hồn nước"; 
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007 
Trang 102 
Nguyễn Ngô Đoan viết "Vịnh Hai Bà Trưng", Phạm Tất Đắc viết "Chiêu hồn nước" 
vv... 
[4]. Woodside, Alexander B., Community and Revolution in Modern Vietnam, Boston, 
1976, p. 1. 
[5]. Hồ Chí Minh, sđd, tr. 383. 
[6]. Taylor, Keith W, Vietnamese Studies in North America, Keynote Speech No.2. Paper 
presented at the First International Conference on Vietnamese Studies, Hanoi, p. 1., 
(1998). 
[7]. Ibid., tr. 2. 
[8]. Ibid., tr. 1. 
[9]. See: Li Tana, An Alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the Seventeenth and 
Eighteenth Centuries, Journal of Southeast Asian Studies, No. 29, National 
University of Singapore Pres, tr. 111-121, (March 1998). 
[10]. Taylor, Keith W., Surface Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and 
Region, In: The Journal of Asian Studies, No.4 (November 1998). 
[11]. Hà Văn Tấn, Làng, liên làng, siêu làng (mấy suy nghĩ về phương pháp), in trong: 
Khoa Lịch sử, Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (1995-2000), Nxb. Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, tr. 51—58, (2000). 
[12]. Hà Văn Tấn, sđd, tr. 54. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
LV1209.pdf