Đề tài Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam

Năm 1994, tình hình diễn biến ngược lại. Do Trung quốc, ấn độ và một số nước Đông nam á tăng cường nhập khẩu phân bón. Trong nước phân bón dự trữ gối đầu sang năm 1994 không còn nhiều, do tình trạng thua lỗ năm 1993. Đầu năm các doanh nghiệp nhập khẩu thăm dò, cầm chừng, đến khi thấy phân bón trong nước khan hiếm thì mới tìm đường nhập khẩu. Vì tình hình năm 1993 phân bón ứ đọng, thua lỗ nên Chính phủ đã cấm nhập phân bón tràn lan, gom lại chỉ có 9 đầu mối trong đó có 8 đầu mối chỉ có 30%, còn một đầu mối chiếm đến 70%. Sự thay đổi về nhập khẩu phân bón theo hướng thu gọn lại đầu mối này, lại chưa có sự chuẩn bị cân xứng với vốn của các đơn vị được giao hạn ngạch nhập, cho nên đã tạo ra sự hẫng hụt trong nhập khẩu phân bón, thị trường phân bón trong nước thiếu trầm trọng cơn sốt phân bón hình thành rất nhanh đi khắp đất nước. Để duy trì mặt hàng cung cấp liên tục phân bón cho hệ thống đại lý có phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thành viên của Hội phân bón Việt Nam không có hạn ngạch phải đi kiếm hạn ngạch của các doanh nghiệp quốc doanh để nhập khẩu phân bón. Họ đã nhập gần 500.000 tấn. Sức nóng của cơn sốt phân bón đã lắng xuống đến tháng 4/1994. Qua tháng 10 đến tháng 12/1994 giá phân bón thế giới còn dễ chấp nhận, ở thị trường thế giới có 190- 200USD/tấn. Lẽ ra các cơ quan có thẩm quyền tận dụng cơ hội (tháng 10- 11- 12) hướng cho các doanh nghiệp có quota tranh thủ nnhập phân bón về dự trữ gối vụ, gối năm. Lúc đó lại có công văn cấm tạm dừng nhập. Cũng trong thời điểm này nhiều tàu buôn phân bón của Inđonexia, Hàn Quốc

doc196 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1426 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức lưu thông phân bón vô cơ theo cơ chế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ánh được những thiệt hại không đáng cho người nông dân . Khi còn độc quyền về việc nhập phân bón, thì các doanh nghiệp còn tìm cách kiếm trác trên các sự độc quyền đó, chứ khi phân bón trở thành một mặt hàng xuất nhập khẩu bình thường, thì các doanh nghiệp buộc phải tính toán cân nhắc kỹ. Chỉ có các doanh nghiệp nào thực sự có khả năng (có vốn hiểu biết sâu sản xuất nông nghiệp hiểu biết thị trường phân bón trong nước và quốc tế có bạn hàng chắc chắn) thì mới giám tham gia vào nhập khẩu phân bón, các doanh nghiệp khác qua quá trình cạnh tranh hoặc sẽ lớn lên đứng vững hoặc là tự rút lui. Khi việc nhập khẩu phân bón đã trở nên bình thường thì thị trường phân bón trong nước sẽ dần đi vào ổn định. Trong một số năm đầu để đề phòng các doanh nghiệp tham gia ồ ạt vào nhập khẩu phân bón, làm cho thị trường phân bón rối loạn, có thể áp dụng giải pháp quá độ. Đó là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tham gia nhập khẩu phân bón. Nếu họ đảm bảo được một số điều kiện do nhà nước đề ra. Các điều kiện đó chẳng hạn như: Doanh nghiệp phải chứng minh được họ có đủ vốn để nhập khẩu; Có hệ thống kho tàng có thể cất trữ, bảo quản được phân bón; Có hệ thống phân phối phân bón thích hợp;Có bạn hàng rõ ràng, chắc chắn .... Để xóa bỏ sự độc quyền trong nhập phân bón, cũng như những lộn xộn, tiêu cực trong vấn đề này đề nghị nên nhanh chóng bỏ việc cấp quota nhập khẩu phân bón vô cơ hàng năm. Doanh nghiệp nào có khả năng nhập bao nhiêu cứ để họ nhập, thị trường và giá cả phân trên thị trường sẽ làm cho các nhà doanh nghiệp tự điều chỉnh khối lượng nhập của mình. Một vài năm đầu, thị trường chưa thật hoàn hảo sự việc làm này có thể gây ra việc lộn xộn. Sự mất cân bằng nhất định nào đó trong việc Cung- cầu phân bón cho nông dân, làm ảnh hưởng không tốt đến sản xuất nông nghiệp chúng tôi đề nghị có thể thực hiện giải pháp quá độ. Giải pháp đó là : Thực hiện việc đấu thầu quota hàng năm trên cơ sở yêu cầu của sự phát triển nông nghiệp, các cơ quan có trách nhiệm của nhà nước tính toán nhu câù phân bón các loại cần nhập để báo cáo Chính phủ. Căn cứ vào đó Chính phủ quyết định hạn ngạch nhập khẩu- sau đó giao cho Bộ Thương mại và Bộ nông nghiệp & phát triển nông thôn tổ chức đấu thầu chọn ra các doanh nghiệp được quyền cấp quota nhập khẩu. Số tiền có được do việc đấu thầu mang lại là thành lập quỹ trợ cấp cho các nhà xuất khẩu phân bón, khi họ gặp rủi ro sự biến động của giá cả thị trường phân bón quốc tế. 3.3-/ Vấn đề tổ chức thị trường phân bón trong nước. Việc sản xuất phân bón trong nước, nhập khẩu phân bón từ nước ngoài đã tạo ra khả năng cung phù hợp với cầu của người nông dân, song nếu dừng ở đó thì chưa đủ, vấn đề đặt ra là phải làm sao phân bón các loại được đưa đến tận tay người nông dân với giá cả hợp lý và với thời gian thích hợp. Muốn thế thị trường phân bón trong nước cần được tổ chức lại theo hướng: +Khuyến khích mọi doanh nghiệp, mọi cá nhân thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, có điều kiện, tham gia vào việc kinh doanh phân bón nhằm tạo ra một mạng lưới cung ứng phân đông đảo và rộng khắp ở mọi miền của đất nước, sẵn sàng cung ứng đủ, kịp thời với giá cả phù hợp các loại phân bón cho nông dân. Trong việc kinh doanh phân bón tất cả các doanh nghiệp và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng. + Khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước hình thành các đại lý cung ứng phân ở các vùng, các địa phương để cung ứng phân bón cho mạng lưới dịch vụ bán lẻ ở các vùng, các địa phương tạo điều kiện cho hệ thống bán lẻ đưa phân đến các hộ nông dân kịp thời với giá cả hợp lý. + Các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón, nếu họ có điều kiện cũng khuyến khích họ hình thành các đại lý tiêu thụ phân bón ở các địa phương để bán phân bón cho mạng lưới bán lẻ, hoặc bán trực tiếp cho nông dân. Nếu ta làm tốt các mặt trên, sẽ tạo ra sự gắn bó giữa nông dân và các doanh nghiệp sản xuất. Nhập khẩu và kinh doanh phân bón làm cho Cung- cầu không tách rời nhau một cách giả tạo. Đó là cơ sở để từng bước xây dựng một thị trường phân bón ổn định ở Việt Nam. 4-/ Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh phân bón vô cơ của các doanh nghiệp 4.1-/ Hoàn thiện hệ thống chiến lược: Mỗi chiến lược của doanh nghiệp thương mại được đề ra trên cơ sở những điều kiện về không gian, thời gian và môi trường nhất định, những nhà quản lý thị trường tự tin và cho rằng một chiến lược thành hay bại đều phụ thuộc vào những nỗ lực của doanh nghiệp. Nhưng hoàn toàn không chỉ có vậy, việc thực hiện các bước đi chiến lược của chúng ta luôn bị ức chế bởi các điều kiện khách quan và chỉ có tìm ra nước đi đúng, biết sử lý đúng tình thế, đề ra mục tiêu tối ưu cho việc thực hiện các bước đi đó, đồng thời tạo ra tiền đề khách quan cho những bước đi tiếp theo, chúng ta mới có thể đạt được mục tiêu mong muốn. Thực tế cho thấy nhiều nhà quản trị các doanh nghiệp thương mại ở nước ta hoặc chưa thấm nhuần bản chất của phương pháp tư duy chiến lược hoặc là chưa hình thành ý thức tư duy chiến lược. Do vậy dẫn đến thực trạng các quyết định đề ra vẫn còn mang tính tự phát, bị động và chứa đựng rủi ro cao. Để khắc phục tình trạng này cần thiết phải đào tạo phương pháp tư duy chiến lược một cách toàn diện đối với các cán bộ quản trị của doanh nghiệp. Hơn nữa điều quan trọng đối với các nhà quản trị là cần phải biết vận dụng phương pháp tư duy chiến lược vào việc xây dựng hệ thống chiến lược trong thực tiến với điều kiện cụ thể, tình huống cụ thể. Vì vậy để nâng cao và hoàn thiện công tác xây dựng hệ thống chiến lược, các cán bộ cần được đào tạo hình thành ý thức về phương pháp tư duy chiến lược trong mọi hoàn cảnh đồng thời kết hợp với kinh nghiệm và sự nhạy cảm trong kinh doanh để nhằm đề ra những bước đi chiến lược phù hợp nhất cho doanh nghiệp trước một tương lai đầy hứa hẹn song cũng không ít phần chông gai. Mặt khác, do các bộ phận chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ có quan hệ hữu cơ và tác động qua lại thúc đẩy hoặc hạn chế lẫn nhau. Vì vậy khi xây dựng cũng như khi thực hiện phương hướng, mục tiêu của chiến lược cần phải có cách nhìn toàn diện, phân tích các luận cứ khoa học và phối hợp các hoạt động đồng bộ, nhịp nhàng giữa các khâu, các bộ phận của các doanh nghiệp. Có như vậy thì mới nâng cao hiệu quả trong công tác xây dựng hệ thống chiến lược của các doanh nghiệp 4.2-/ Hoàn thiện kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ: Kế hoạch kinh doanh hàng hoá là kế hoạch kinh doanh cơ bản, xác định những chỉ tiêu tổng hợp, những cân đối lớn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, do vậy để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, để đảm bảo việc xây dựng kế hoạch kinh doanh đạt được hiệu quả cao thì cần phải tính toán một cách chính xác các chỉ tiêu của kế hoạch kinh doanh. Muốn vậy thì các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải chuẩn bị kỹ những tài liệu cần thiết. Đó là việc nghiên cứu, phân tích những căn cứ của kế hoạch kinh doanh phân bón vô cơ như là kết quả thăm dò thị trường, kinh nghiệm của những năm trước và dự đoán xu hướng phát triển Cung- cầu phân bón của kỳ kế hoạch. Ngoài ra, trong quá trình hoạt động kinh doanh cần thường xuyên theo dõi bổ xung, điều chỉnh các chỉ tiêu của kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp để nhằm thực hiện tốt nhất các mục tiêu và phương án kinh doanh đã vạch ra. 4.3-/ Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường. Để đảm bảo cho công tác nghiên cứu thị trường có hiệu quả, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải làm một số việc như sau. -Thứ nhất: Các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải xác định được vị trí công tác nghiên cứu thị trường trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình Với chính sách khuyến khích nhập khẩu của Nhà nước, số doanh nghiệp tham gia thị trường phân bón vô cơ ngày càng tăng lên sự cạnh tranh trong thị trường ngày càng gay gắt. Các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải đặt nghiên cứu thị trường là một nhiệm vụ quan trọng, nếu hiểu sâu sắc thị trường sẽ giúp các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, giảm được những rủi ro đồng thời đứng vững được trên thị trường. - Thứ hai là: cần tổ chức nghiên cứu thị trường phân bón vô cơ trên thế giới và thị trường trong nước một cách có hiệu quả. + Nghiên cứu thị trường phân bón vô cơ thế giới. Nước ta nguồn phân bón chủ yếu được nhập từ các nước về, do vậy để hoạt động nhập khẩu có hiệu quả thì việc nghiên cứu thị trường phân vô cơ thế giới là một vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Qua đó ta sẽ biết được mức sử dụng phân vô cơ thế giới tăng giảm như thế nào, thị trường phân vô cơ phát triển nhất ở vùng nào và dự đoán được khối lượng phân vô cơ cần cho sản xuất. Thị trường phân vô cơ thế giới bị ảnh hưởng bởi các chính sách bảo vệ môi trường của một số nước, vì vậy sẽ có nước giảm sử dụng phân vô cơ hoặc kết hợp sử dụng một cách có hiệu quả giữa các loại phân bón khác nhau. Nghiên cứu thị trường phân vô cơ thế giới các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải nghiên cứu xem những nước nào sản xuất phân bón nhiều chủng loại ra sao, phân bón có chất lượng tốt hay không và có phù hợp với điều kiện Việt Nam không. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu giá cả các loại phân vô cơ trên thị trường thế giới biến động ra sao cũng như xu thế sản xuất và mục tiêu của họ là sản xuất để tiêu dùng trong nước hay để xuất khẩu. Mặt khác, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải tạo ra các lợi thế trong việc hạ giá bán của mình vì các nguồn hàng thường phải vận chuyển từ xa đến, chi phí vận chuyển lớn và thời gian vận chuyển dài. Do vậy để tạo ra được lợi thế thì các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, phải tổ chức thăm dò thị trường thế giới để mua được hàng tốt ở các nước gần nhất để từ đó giảm chi phí và thuận lợi trong việc cung cấp phân bón đúng thời vụ, tạo uy tín phục vụ khách hàng của doanh nghiệp ngày càng cao, khối lượng tiêu thụ ngày càng nhiều, quá trình tiêu thụ thực hiện nhanh và tăng nhanh vòng quay của vốn. +Nghiên cứu thị trường phân bón trong nước: Hiện nay nhu cầu phân bón vô cơ cho sản xuất nông nghiệp nước ta rất lớn nhưng vẫn là thấp so với thế giới và việc sử dụng còn nhiều hạn chế bởi do: Với đặc điểm khách hàng tiêu thụ là người có thu nhập thấp do giá cả của nông sản rẻ, chất lượng sản phẩm còn hạn chế chưa thay đổi được cơ cấu sản xuất theo hướng nâng cao tỷ trọng hàng hoá nên ảnh hưởng lớn đến nhu cầu sử dụng phân bón. Bên cạnh đó do khoa học kỹ thuật áp dụng vào nông nghiệp nước ta còn chưa phát triển nên việc đầu tư thêm phân bón mang lại hiệu quả không cao nên nông dân không dám đầu tư thêm phân bón cho sản xuất. Ngoài ra do việc phấn phối, tiêu thụ phân bón còn chưa đồng đều, còn rất nhiều khu vực phân bón còn thiếu như các tỉnh miền núi, vùng xa do chi phí vận chuyển cao nên các doanh nghiệp này không kinh doanh, vì vậy mà phân bón vô cơ không lên được các vùng này. Chính vì vậy nghiên cứu thị trường trong nước sẽ giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, mở rộng thị trường và tăng khả năng thâm nhập vào thị trường mới để tăng thị phần của mình. Để nghiên cứu thị trường được chính xác, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần tổ chức thu thập thông tin về nhu cầu phân bón ở các vùng, các khu vực sau đó tiến hành phân tích và sử lý đúng đắn các nhu cầu đó. Cuối cùng mới xác định nhu cầu phân bón từng địa phương mà các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể cung cấp. Nghiên cứu thị trường giúp các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, biết về thói quen sử dụng phân bón vô cơ của mỗi vùng gắn với điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai, giống cây trồng khác nhau. Ví dụ, Miền nam vụ hè thu do thiếu nước nên đất bị nhiễm phèn cần nhiều lân nên các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể tiêu thụ được nhiều Lân ở miền nam vào vụ này. Thuốc lá ưa bón Kali, còn đạm lại cần cho lúa. Từ đó các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, sẽ thực hiện cung ứng phân bón cho nông dân theo yêu cầu và đủ về số lượng tăng khả năng tiêu thụ. Mặt khác thời điểm sử dụng phân bón ở mỗi vùng khác nhau nên nhu cầu về các loại phân bón cũng khác nhau. Miền Bắc vụ đông xuân từ tháng 12 đến tháng 3, miền Nam từ tháng 11 đến tháng 2. Trong một vùng các loại phân cũng được sử dụng vào thời gian khác nhau, như miền nam vụ hè thu cần nhiều lân còn vụ đông xuân lại cần rất nhiều đạm. Nắm chắc những thông tin trên sẽ đảm bảo việc cung ứng đúng thời vụ cho sản xuất nông nghiệp cả nước, tăng khối lượng tiêu thụ phân bón của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ. -Thứ ba là là cán bộ chuyên trách nghiên cứu thị trường phải có trình độ, năng lực và phải biết phân tích, đánh giá trước sự biến động của thị trường để từ đó nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu thị trường. Tóm lại, công tác nghiên cứu thị trường đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, đặc biệt là trong việc xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Vì vậy chúng ta cần phải hoàn thiện hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường trong thời gian tới. 4.4-/ Hoàn thiện cơ cấu tổ chức. Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh hơn nữa thì các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần không ngừng hoàn thiện chúng cụ thể: - Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, phải phụ thuộc nhiều vào sự biến động của thị trường phân bón thế giới nên các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần thiết lập thêm một phòng nghiên cứu thị trường để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình. - Xác định nhân sự, tuyển chọn và bố trí những cán bộ quản lý vào những khâu quan trọng, để đảm bảo sự vận hành và hiệu lực của bộ máy. - Thường xuyên xem xét đánh giá thực trạng của bộ máy cán bộ để có biện pháp chấn chỉnh và bổ xung kịp thời, tạo điều kiện cho bộ máy có sức mạnh phù hợp, luôn thích ứng với yêu cầu, nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp. Không ngừng cải tiến và hoàn thiện cơ cấu của tổ chức bộ máy của doanh nghiệp. Đó là một trong các yêu cầu quan trọng, vì một mặt do yêu cầu của thị trường cần có sự chuyển biến nội tại để kịp thích ứng, mặt khác do những điều kiện như trình độ cán bộ công nhân viên, trình độ hiện đại hoá trang thiết bị quản lý và kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cũng thường xuyên được đổi mới. Do vậy để đảm bảo quy trình kinh doanh ngày càng đạt hiệu quả cao thì cần phải không ngừng cải tiến và hoàn thiện hệ thống tổ chức của doanh nghiệp. 4.5-/ Hoàn thiện công tác tạo nguồn thu mua hàng hoá . Tạo nguồn hàng là khâu rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ. Việc nắm vững được nguồn hàng và quan hệ tốt với người cung cấp sẽ giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, tìm được đối tác thuận lợi nhất cho mình, thuận lợi về giá, các loại chi phí, thuận lợi cho việc tạo nguồn hàng ổn định. Qua đó làm tăng lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải tổ chức tốt công tác tạo nguồn. Đối với nguồn hàng sản xuất trong nước, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải tìm hiểu kỹ khả năng sản xuất, chất lượng phân bón, điều kiện thu mua, đặt hàng, giao nhậnn, vận chuyển, thời gian giao hàng và giá cả các loại phân bón. Để từ đó có sự lựa chọn bạn hàng một cách đúng đắn, từ đó thực hiện việc mua hàng để đảm bảo cung ứng phân bón cho nông dân đúng số lượng, chất lượng, kịp thời vụ. Ngoài ra các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải kiểm tra tính xác thực, uy tín, chất lượng của loại hàng và chủ bán hàng bởi vì hiện nay trên thị trường xuất hiện một vài cơ sở sản xuất và cung ứng phân bón giả đã gây ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ chân chính. Do sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu nên nguồn cung ứng của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, chủ yếu từ nguồn hàng nhập khẩu. Chính vì vậy để xác định được bạn hàng nhập khẩu các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, phải mở rộng quan hệ với nhiều nước, nắm vững được nhiều nguồn hàng. Mà phân bón hiện nay có rất nhiều nước sản xuất được. Nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà Mỹ đã bỏ cấm vận với Việt Nam thì chúng ta có đủ điều kiện để mở rộng mối quan hệ với các bạn hàng cung cấp. Để có thể xây dựng mối quan hệ tốt và có lợi sau này, xây dựng được chữ tín trong quan hệ với bạn hàng nhập khẩu thì các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể có thể áp dụng các biện pháp sau. + Củng cố mối quan hệ với các bạn hàng đã có. Trong cơ chế cạnh tranh của nền kinh tế thị trường thì giữ mối quan hệ tốt với các khách hàng là rất khó, thậm chí còn khó hơn cả việc xây dựng mối quan hệ mới. Một trong các nhân tố giữ được sự thành công cho việc kinh doanh là phải giữ được chữ tín, sự tin tưởng của bạn hàng đối với chúng ta. Cách mà doanh nghiệp đối xử với bạn hàng phải xây dựng trên cơ sở là hai bên cùng có lợi. Nếu như thực sự đó là bạn hàng có tiềm năng thì chúng ta có thể hy sinh lợi ích trước mắt để giữ lấy quan hệ lâu dài. Các doanh nghiệp Vật tư nông nghiệp là doanh nghiệp đã tham gia vào việc kinh doanh phân bón từ rất lâu cho nên có rất nhiều bạn hàng truyền thống, đây chính là tiềm năng cần phát huy. Các bạn hàng truyền thống của Các doanh nghiệp gồm : Các nước vùng Trung Đông (ả rập sau đi., Cooet, Pakixtan,) Các nước vùng Đông á như: (Bănglađét, Inđonêxia, Philippin, Singgapo, Các nước châu Âu.) Đối với các bạn hàng Đông Nam á đặc biệt là Inđonexia, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, nhập phân đạm là chủ yếu. Đây là bạn hàng lớn nhất của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, phân đạm ure của Inđonexia chiếm 75-80% lượng nhập vào của Việt Nam. Inđonexia là bạn hàng mà chúng ta cần củng cố mối quan hệ. Phân ure của Inđonexia có chất lượng tốt nên bảo quản được lâu, đáp ứng được yêu cầu vận chuyển trong nước. Hơn nữa do khoảng cách vận chuyển ngắn nên đáp ứng nhanh được yêu cầu trong nước; nguồn cung ứng ổn định nên chủ động được trong việc nhập khẩu. Ngoài ra phân ure còn được nhập từ các nước châu âu, vùng Trung Đông... nhưng với số lượng ít. Tuy nhiên trong những năm gần đây thì lượng phân bón nhập khẩu từ các nước Châu Âu giảm xuống. Quan hệ giữa các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, và các nước này ngày càng giảm. Xét trên thực tế thì đây là bạn hàng mà các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, không nên quan hệ lâu dài vì phân của Châu Âu (Chủ yếu là Kali, ure và DAP) vận chuyển xa, thời gian đi đường dài làm tăng chi phí vận chuyển và khó đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong nước đúng thời vụ, nguồn hàng của họ lại càng không ổn định và thời gian bảo quản ngắn, dễ chảy nước. Gây khó khăn cho doanh nghiệp. + Xây dựng mối quan hệ với các bạn hàng mới. Tìm kiếm tích cực các đối tác mới và tiến hành đàm phán, ký kết hợp đồng. Quan hệ với đối tác mới có thể thông qua các đơn chào hàng, uy tín người cung cấp trên thị trường nhập khẩu, mối quan hệ giữa họ với các bạn hàng truyền thống của chúng ta ... tìm kiếm được càng nhiều nguồn hàng mới chúng ta lại càng có cơ hội để lựa chọn và nhập khẩu theo nguồn cung cấp nào thì có lợi nhất. Từ đó việc đàm phán ký hợp đồng và việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu sẽ có lợi. Tìm hiểu kỹ về đối tác là cơ sở cho việc thiết lập mối quan hệ làm ăn giữa hai bên. Hai bên chỉ có thể làm ăn tốt đẹp khi họ đều hiểu rõ về nhau. Chúng ta cần tìm hiểu kỹ về bên bán khi họ muốn làm ăn với bất kỳ ai. Chúng ta có thể tìm hiểu họ qua nhiều phương pháp, nhiều thông tin, có thể là qua những người bạn hàng đã làm ăn với họ, các đối thủ cạnh tranh với họ. Khi làm ăn với một đối tác mới có khả năng quan hệ lâu dài cần gây ấn tượng tôt, tích cực bày tỏ sở trường và những ưu thế thuận lợi của mình. Tạo ấn tượng tốt có thể là cơ sở bắt đầu cho một mối quan hệ tốt đẹp giữa hai bên. Làm cho bên đối tác hiểu rằng ta là một khách hàng tiềm năng và sẽ tạo mối quan hệ tốt đẹp và từ đó chúng ta có thể có nhiều ưu đãi. Các bạn hàng mới của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, chủ yếu ở các khu vực Châu á gồm: Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc. Khi nền nông nghiệp nước ta đã phát triển và sản phẩm nông sản có vị trí trên thị trường thế giới, thì có rất nhiều nước muốn có mối quan hệ vơí các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, và muốn cung cấp phân bón cho thị trường Việt Nam. Nhưng phân bón vô cơ có những đặc tính riêng của nó nên hiện tại các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, mới có quan hệ với các nước ở khu vực Châu á. Đó là các nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao nên phân bón vô cơ của họ có chất lượng cao. Họ có thể cung cấp cho ta một khối lượng đa dạng hoá về chủng loại. Vấn đề củng cố mối quan hệ với các bạn hàng đã có và xây dựng mối quan hệ mới có ý nghĩa chiến lược. Từ đó các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, sẽ quyết định một trong số các nguồn cung cấp có khả năng nhất sẽ là nguồn cung hàng cho doanh nghiệp. Việc quyết định này dựa theo các tiêu thức giá bán, các điều kiện cơ sở giao hàng... mà người bán chào hàng. Khi càng có nhiều người cung ứng chào hàng chúng ta càng có nhiều mức giá và điều kiện bán đa dạng để lựa chọn. Mở rộng thị trường phải theo hướng mới là có tiềm năng. Điều này có nghĩa là nguồn hàng phải có khả năng cung cấp hàng theo các yêu cầu của chúng ta, các điều kiện chào hàng chấp nhận được. 4.6-/ Hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu. Bên cạnh công tác tạo nguồn hàng, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần nhanh chóng hoàn thiện và nâng cao trình độ nghiệp vụ nhập khẩu để từ đó đạt được mục tiêu hạ giá thành nhập khẩu tăng lợi nhuận. Trong nhập khẩu thì giao dịch đàm phán là rất quan trọng, nó đóng vai trò quyết định trong công tác nhập khẩu vì vậy nâng cao hiệu quả giao dịch đàm phán sẽ đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ. Giá cả các điều kiện khác của hợp đồng tuy đã được hai bên quy định phần nào trước song thông thường đều có sự giảm giá tuỳ thuộc vào tài thương lượng, khối lượng mua, và các điều kiện khác. Người thương lượng phải có đủ trình độ và nắm được các tình huống có lợi cho việc thương lượng, có khả năng quyết định khi thấy rằng thời cơ đã đến. Với vai trò quan trọng trong việc ký kết hợp đồng, muốn giao dịch đàm phán thành công thì cần phải biết che giấu bối cảnh của mình và tìm hiểu bối cảnh của đối tác, triển khai điều tra sớm nhằm mục đích nắm quyền chủ động trong quá trình đàm phán. Một cuộc đàm phán chỉ có thể kết thúc khi một trong hai bên đối tác tiến tới điểm chết của mình. Vì vậy các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải biết che dấu điểm chết của mình và tìm hiểu kỹ điểm chết của đối tác. Điểm chết đó có thể là về giá cả, chất lượng (Quy cách, chủng loại) và thời gian thực hiện. Các doanh nghiệp cần phải biết phát huy quyền lực tiềm tàng để tung ra trong trường hợp cần thiết. Hợp đồng nhập khẩu khi ký kết cần phải được xem xét chặt chẽ, chính xác các điều khoản để tránh rắc rối về sau. Các điều khoản phải rõ ràng, ghi rõ trách nhiệm từng bên, thời gian chuyển giao hàng, trách nhiệm của mỗi bên khi xảy ra rủi ro. Hợp đồng nhập khẩu phải có đầy đủ giá trị pháp lý theo quy định của pháp luật. Để hạ giá thành trong nhập khẩu thì trong đàm phán phải tuân theo nguyên lý sau một cách hợp lý, đó là ai thách giá cao sẽ bán được giá cao, ai đặt giá thấp sẽ phải bán giá thấp, ai nhượng bộ quá lớn về giá cả sẽ bị thua thiệt, ai trả giá thấp và nhượng bộ từ từ thì chắc chắn sẽ thắng lợi. Vì vậy cần phải nhanh chóng quan sát môi trường và đối tác để có cách ứng xử phù hợp và kịp thời, nếu có nguy cơ bế tắc thì phải chuyển hướng ngay. Để hạ giá được giá thành nhập khẩu, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, phải cố gắng hạ thấp chi phí lưu thông mà ở đây là hạ cước phí vận tải. Để thực hiện chuyên chở giao nhận hàng hoá, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, phải nghiên cứu thị trường chuyên chở nhằm tiến hành giao dịch với điều kiện có lợi nhất để ký hợp đồng chuyên chở sao cho cước phí thấp nhất mà vẫn đảm bảo an toàn cho khối lượng phân bón chuyên chở. Các doanh nghiệp khi nhập khẩu phân bón thì vận chuyển chủ yếu bằng đường biển, trong đó có 3 phương thức thuê tàu: Thứ nhất là phương thức lưu cước tàu chợ thì thường áp đặt những điều kiện có sẵn, vì vậy mà các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, không có quyền lựa chọn. Còn phương thức thuê tàu chuyến và tàu định hạn thì các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, và chủ tài có thể thoả thuận những điều khoản trong hợp đồng thuê tàu. Do vậy cần thông qua người môi giới để đạt được những điều khoản có lợi và chặt chẽ và có lợi trong chuyên chở. Đó phải là người am hiểu thị trường, các hãng tàu, các tàu biển, sự vận động giá cước, luật pháp quốc tế, phong tục tập quán. . .Do đó, hoạt động các doanh nghiệp, có hiệu quả hơn và môi giới ký các hợp đồng vận chuyển chặt chẽ, bảo đảm an toàn khi có khiếu nại vận chuyển xảy ra. Cơ cấu giá thành của phân bón nhập khẩu thường bao gồm : Giá gốc (cost) + chi phí vận chuyển, bốc dỡ (freight) + Chi phí khác. Thông thường chi phí vận chuyển gồm 10% giá FOB hoặc 9% giá CIF của hàng hoá. Như vậy nếu giảm chi phí vận chuyển sẽ giảm chi phí lưu thông góp phần duy trì hoạt động kinh doanh đồng thời tăng lợi nhuận trước sự cạnh tranh trên thị trường. Vì đây là hàng nhập khẩu nên phải vận chuyển đường dài thông qua nhiều phương tiện vận chuyển khác nhau chủ yếu vận chuyển bằng đường biển do vậy mà thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất do những nguyên nhân khách quan và chủ quan như bão biển, sóng ngầm, đá ngầm, mắc cạn, cháy nổ, cướp biển.... vì thế các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần nghiên cứu thị trường sao cho tránh được những rủi ro và mang lại lợi nhuận cao nhất. Để cho hoạt động nhập khẩu được thực hiện tốt thì sau khi ký kết hợp đồng các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần làm tốt thực hiện hợp đồng nhập khẩu, trong đó tiếp nhận và kiểm tra là một khâu nắm giữ vị trí quan trọng. Khi hàng về các cán bộ tiếp nhận cần quản lý chặt chẽ để hạn chế mất mát vì hiện nay phân bón dạng rời nhập khẩu về quá nhiều nên dễ tổn thất khó quản lý. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, đã thực hiện khá tốt khâu này, thu được lượng lớn tiền thưởng do giải phóng tàu nhanh. Trường hợp chưa biết được chính xác những mất mát thì khi hàng được đưa lên bờ cần có chứng nhận về trọng lượng một cách đầy đủ. Về phía doanh nghiệp có cơ sở nếu xảy ra tranh chấp, khiếu nại nhất là với phân bón, trọng lượng sẽ thay đổi tuỳ thuộc vào bảo quản và độ ẩm. Về thanh toán, sau khi tiếp nhận hàng, trong thời hạn cho phép cần kiểm tra vật tư hàng hoá đã nhận, kịp thời phát hiện mất mát hư hỏng để báo cho bên cung cấp. Các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần xem xét đầy đủ mọi giấy tờ và bộ chứng từ mà bên xuất khẩu gửi tới. Nếu đúng là phù hợp thì mới trả tiền (nếu thanh toán bằng thư tín dụng). Thông thường phải trả tiền ngay khi hết thời hạn ghi trong hợp đồng nhưng nếu trả chậm thì doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn đó. 4.7-/ Hoàn thiện mạng lưới tiêu thụ hàng hoá: Mạng lưới cơ sở tiêu thụ của doanh nghiệp vật tư nông nghiệp hiện nay so với các doanh nghiệp khác là khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên mạng lưới này còn cồng kềnh, phức tạp qua nhiều khâu trung gian nên làm tăng chi phí lưu thông, chi phí quản lý. Bên cạnh đó, do các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, kinh doanh mặt hàng phân bón có đặc điểm riêng biệt so với các hàng hoá khá: dễ bị hao hụt, kém phẩm chất và cung ứng theo mùa vụ. Nên các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải mở rộng mạng lưới bán buôn và bán lẻ tại các địa bàn tỉnh, huyện, xã để cung ứng kịp thời cho nông dân khi nhu cầu cần thiết, vừa đảm bảo cho doanh nghiệp tiêu thụ nhanh số lượng hàng của mình, vừa đảm bảo cho sản xuất của nông dân đạt kết quả cao. Do việc tiêu thụ phân bón được tiến hành theo mùa vụ nên các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể mở rộng các đại lý bán phân bón theo hai hướng sau: -Chọn vị trí thích hợp với sự chuyển giao phân bón đến tay người nông dân, tiến hành xây dựng các đại lý phục vụ cho việc tiêu thụ của doanh nghiệp, khi thời vụ đến doanh nghiệp tổ chức đại lý tiêu thụ để bán hàng. Sau thời vụ đại lý không dùng cho việc bán phân bón, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể cho thuê đại lý bán trong một thời gian nhất định. -Hoặc khi thời vụ đến, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể đi thuê các đại lý đã có sẵn tại các địa bàn thuận lợi cho việc cung cấp phân bón với chi phí hợp lý. Trên thực tế các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể đề cập đến hai hướng để phục vụ tốt việc tiêu thụ. Tuy nhiên cần phải tính toán mọi chi phí cho việc làm và thuê đại lý để tránh hiện tượng giá bị tăng lên cao ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ. Hiện nay có nhiều thị trường ở vùng núi, vùng xa còn bị bỏ trống, hơn nữa hệ thống dịch vụ bán hàng chưa tốt cụ thể là do bán hàng chỉ theo giờ hành chính nên những lúc người dân cần mua phân bón, đến cửa hàng thì đã đóng cửa. Vì vậy để mở rộng thị trường, tạo niềm tin cho người tiêu dùng và để tạo uy tín cho mình, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần bổ xung thêm những điểm bán hàng mới, nhất là ở vùng xa, các tỉnh miền núi , vùng cao như: Lạng Sơn, Lào Cai... Những thị trường này hiện nay còn bị bỏ ngỏ do chi phí vận chuyển lớn nên các doanh nghiệp khác không kinh doanh. Ngoài ra để có tăng lượng bán, chiếm lĩnh được thị trường và thu hút khách hàng các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần bám sát nhu cầu người tiêu dùng, đổi mới phong cách bán hàng, phân công trực bán, phục vụ khách hàng từ 5 đến 21 giờ. Tiêu thụ phân bón có thể có nhiều phương thức. Cửa hàng sẽ vừa là nơi bán lẻ, vừa là kho chứa hàng để có thể cung cấp khối lượng phân bón lớn cho các đại lý và cửa hàng kinh doanh khác. Cửa hàng là nơi khách đến mua phân bón, người bán và người nông dân giao tiếp với nhau. Đây là yếu tố đảm bảo vật chất cơ bản cho kinh doanh và sự thành bại của kinh doanh. Vì vậy, cần lựa chọn vị trí cửa hàng sao cho thuận tiện cho người nông dân và an toàn cho doanh nghiệp.Khu vực kinh doanh của cửa hàng càng lớn thì càng thu hút được nhiều người tiêu dùng, nó phụ thuộc vào phạm vi người nông dân ở gần cửa hàng và phạm vị có thể thu hút được. Cửa hàng kinh doanh phân bón không thể đặt giữa trung tâm thành phố bởi vì ở đó không phải là khu vực nông nghiệp và không thuận lợi cho người nông dân khi đi mua, ở các cửa hàng phân bón phải được chuẩn bị trước khi đem ra bán. Làm được điều này sẽ giúp nâng cao trình độ bán hàng và uy tín đối với người mua, giảm bớt những động tác không cần thiết đối với người bán, trong nhiều trường hợp có thể giảm hao hụt trong quá trình bán hàng. Chuẩn bị phân bón có thể là kiểm tra phẩm chất các loại phân bón sẽ đưa ra hoặc bao gói sẵn, chuẩn bị dụng cụ cân chính xác. 4.8-/ Hoàn thiện hoạt động dự trữ của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ. Chuyển sang cơ chế thị trường, vốn là yếu tố quan trọng thực hiện dự trữ theo mức đã xác định. Do vốn dự trữ phân bón của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn lưu động, nên cần khai thác mọi nguồn vốn do dự trữ để khỏi mất thời cơ kinh doanh. Các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, có thể huy động các nguồn vốn như: Vốn từ nhà nước, vốn vay ngân hàng, Vốn liên doanh liên kết.... để đảm bảo đủ vốn lưu động cho công tác dự trữ ở doanh nghiệp. Mặt khác, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần có các phương án dự trữ tại các điểm kinh doanh của các đơn vị thành viên để làm căn cứ định lượng và bổ sung hàng hoá cho các cửa hàng. Các doanh nghiệp cần giới hạn ở mức dự trữ cao nhất và thấp nhất của các điểm bán hàng, không nên để khối lượng phân xuống dưới mức dự trữ thấp nhất hoặc vượt quá mức dự trữ cao nhất. Số lượng cố định cho mỗi loại phân bón tại điểm kinh doanh không được thấp hơn một ngày bán hàng nhiều nhất nhằm mục đích tránh ngừng bán và bổ xung hàng nhiều lần trong một ngày. ở các cửa hàng việc bán hết phân bón dự trữ nếu có người đến mua mà cửa hàng không có thì họ sẽ mua cuả doanh nghiệp khác làm cho doanh nghiệp đó mất khách hàng, vì vậy luôn luôn phải kiểm tra đều đặn bổ sung phân bón cho cửa hàng. Tóm lại, Nếu tổ chức tốt công tác dự trữ sẽ mang lại kết quả cao cho tổ chức kinh doanh và xã hội. Vì như vậy các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, sẽ điều tiết được sự căng thẳng về cung và cầu phân bón trên thị trường, tránh những cơn sốt giả tạo về phân bón, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 4.9-/ Giải pháp nhằm tự tạo một phần vốn ngoại tệ: Nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, là rất lớn. Do vậy giải pháp tự tạo một phần vốn ngoại tệ là cần thiết. Việc kinh doanh các mặt hàng phân bón có liên quan trực tiếp đến việc sử dụng ngoại tệ vì cung ứng chủ yếu có được là do nhập khẩu. Trong điều kiện hiện nay khi mà lượng vốn của doanh nghiệp thiếu thì một mặt xin nhà nước cấp thêm, một mặt doanh nghiệp có thể sử dụng các biện pháp về công tác tài chính nhằm mục đích tăng nhanh vòng quay của vốn, huy động nguồn vốn ngoại tệ tại các doanh nghiệp xuất khẩu. Các doanh nghiệp có thể áp dụng hình thức hàng đổi hàng hoặc là hình thức tổ chức toàn bộ quá trình từ xuất khẩu thu ngoại tệ để nhập khẩu phân bón. Giải pháp tự tạo một phần vốn do của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, sẽ là các biện pháp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong điều kiện nhà nước chưa có ngay một lượng lớn vốn cho doanh nghiệp, nhất là vốn bằng ngoại tệ. 4.10-/ Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu kinh doanh: Đội ngũ cán bộ của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải giỏi về chuyên môn và nghiệp vụ. Không chỉ có vậy để đáp ứng nhu cầu của cơ chế thị trường thì các cán bộ cần phải có trình độ ngoại ngữ và tin học cao. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh với đối tác nước ngoài thì trình độ ngoại ngữ cao sẽ giúp cho cán bộ doanh nghiệp đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng có hiệu quả.Trình độ tin học của cán bộ cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tin học hoá công tác quản lý của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ. Việc trẻ hoá đội ngũ cán bộ cũng là yêu cầu thiết yếu nhằm giúp cho doanh nghiệp kinh doanh trong cơ chế thị trường. Đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo tốt, có trình độ chính là cơ sở cho doanh nghiệp phát triển trong tương lai. Đó cũng là đội ngũ cán bộ kế cận sau này. Để thu hút được đội ngũ cán bộ có trình độ, có đủ khả năng làm công tác kinh doanh xuất nhập khẩu các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần có các biện pháp, chính sách thích hợp. Các biện pháp đối với công tác cán bộ trong thời gian này gồm có: - Cán bộ tuyển thêm phải thông qua tổ chức thi tuyển cán bộ theo yêu cầu có trình độ, giỏi về nghiệp vụ kinh doanh thương mại. Việc tuyển dụng cần có sự ưu tiên cho các cán bộ có trình độ sẽ đảm bảo một thế hệ cán bộ mới cho Các doanh nghiệp bước vào thế kỷ 21. - Thời gian thử việc phải đủ từ 3 tháng trở lên đối với các cán bộ mới được tuyển dụng trước khi mới được nhận được chính thức. Trong thời gian thử thách này họ có thể học được các kinh nghiệm cần thiết trong công tác. - Từng bước tinh giản hoá đội ngũ cán bộ. Nên giải quyết chế độ đối với những cán bộ đã đến tuổi về nghỉ và những cán bộ nào làm việc không có hỉệu quả. Giảm số cán bộ trong công tác quản lý hành chính, song doanh nghiệp vẫn phải đảm bảo kinh doanh bình thường. Thực hiện tốt công tác cán bộ sẽ góp phần đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu nói riêng và kinh doanh phân bón nói chung. + Nâng cao hiệu quả công tác quản lý: Để đáp ứng được nhiệm vụ to lớn nhà nước giao thì các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý. 4.11-/ Hoàn thiện hệ thống thông tin và điều hành kinh doanh. Do hệ thống thông tin của các doanh nghiệp vật tư nông nghiệp hiện nay chưa đảm bảo được nguồn thông tin có chất lượng cần thiết đối với thị trường phân bón. Chính vì vậy, xây dựng được hệ thống thông tin và cần thiết về thị trường phân bón thế giới và trong nước là yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ. Trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ một đơn vị nào, mạng lưới thông tin đóng một vai trò rất quan trọng vì trong đời sống kinh tế. Thế giới ngày nay đang diến ra sự bùng nổ thông tin và thông tin được coi là yếu tố cấu thành lực lượng xã hội. Thông tin kinh tế không chỉ có vai trò hỗ trợ mà nó còn đóng vai trò quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Tuy nhiên ở những điều kiện khác nhau thì vai trò của thông tin kinh tế đối với các doanh nghiệp cũng khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường phát triển tthông tin trở thành tất yếu khách quan cho sự tồn tại và buộc các chủ doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh. Muốn đứng vững trong cạnh tranh có nhiều việc phải làm nhưng trước hết phải thu nhận được một lượng thông tin kinh tế đủ lớn để ra các quýêt định cần thiết cho quá trình kinh doanh tiến hành một cách thuận lợi. Có đủ thông tin sẽ đảm bảo lợi thế cạnh tranh. Người có đủ thông tin về những vấn đề có liên quan đến việc kinh doanh của mình sẽ là người chiến thắng. Chỉ có thể trên những cơ sở thông tin như vậy, các đơn vị mới có thể tổ chức và hoàn thiện phương thức kinh doanh và hệ thống tiêu thụ hàng hoá phù hợp với đặc điểm riêng của mình để đem lại hiệu quả tối đa có thể thực hiện được. Trong nền kinh tế thị trường thì đầu ra do thị trường quyết định nhưng đầu vào phụ thuộc vào khả năng của mối doanh nghiệp, cùng kinh doanh một mặt hàng nhưng các doanh nghiệp khác nhau có thể khai thác từ các nguồn hàng. Hiện nay các đơn vị kinh doanh có thể khai thác trên phạm vi toàn cầu, nếu có những thông tin đầy đủ về thị trường thế giới thì có thể khai thác nguồn hàng với chi phí thấp nhất và tạo khả năng đem lại lợi nhuận tối đa. Do vậy bản thân các doanh nghiệp phải có trong tay mình những thông tin về giá cả sức lao động, giá cả mặt hàng kinh doanh. Từ đó có nhiều nơi khác nhau để đưa đến quyết định nơi mua, nơi bán có lợi nhất. Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh phân bón vô cơ, các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải xây dựng được hệ thống thông tin như: - Thông tin về môi trường kinh doanh, chính trị, văn hoá, xã hội và thông tin về môi trường kinh tế, đối thủ cạnh tranh trên thị trường để doanh nghiệp có phương hướng kinh doanh thích hợp. - Thông tin về tình hình sử dụng mặt hàng kinh doanh của mình. - Thông tin về hệ thống phân phối. - Thông tin về tình hình và viễn cảnh của thị trường, nó sẽ giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cân nhắc khả năng thâm nhập vào thị trường đó. - Thông tin về thống giao thông vận tải - Thông tin về giá cả phân bón hiện hành. Để có được hệ thống thông tin trên đòi hỏi hệ thống thông tin của doanh nghiệp ngày càng được hoàn thiện và có chất lượng cao. Các biện pháp sau đây có thể phần nào đóng góp cho việc xây dựng hệ thống thông tin này. + Xây dựng các chi nhánh trên thị trường nhập khẩu nhằm thu được thông tin chính xác, kịp thời về giá cả, chất lượng, điều kiện giao hàng . Nếu có đủ khả năng thì đây là một biện pháp tốt nhất có thể có. Đặt trực tiếp các bộ phận tại các thị trường nhập khẩu trong điểm sẽ đảm bảo thu được các thông tin có chất lượng cao nhất. + Liên kết với các bạn hàng truyền thống nhằm để họ có thể giúp đỡ chúng ta về vấn đề thông tin. Một trong nhiều hình thức liên kết là Các doanh nghiệp có thể nhận làm đại lý cho các hãng buôn phân bón lớn. Các hãng này có thể cung cấp cho chúng ta một phần thông tin cần thiết. + Xây dựng một đội ngũ cán bộ chuyên trách nhằm nghiên cứu đầy đủ, cung cấp thông tin về thị trường có thể dự báo về các biến động có thể của thị trường. Công tác nghiên cứu thị trường khi có thông tin có chất lượng sẽ trở nên có kết quả và giúp ích cho quá trình kinh doanh. Cán bộ của bộ phận này phải thật sự có trình độ, phải có khả năng dự báo biến động của thị trường trong nước và thế giới. + áp dụng biện pháp tin học hoá vào hoạt động kinh doanh. Thông qua việc hoà mạng với hệ thống thông tin đã có trên thế giới. Hiện nay trên thế giới có xu hướng xây dựng một hệ thống thu thập thông tin toàn cầu và hoàn chỉnh, thể hiện là mạng Internet. Các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, cần phải xây dựng một mạng tin học trọng các đơn vị thành viên, mạng thông tin này có thể nối mạng với Internet nhằm thu thập thông tin ở thị trường thế giới. Thông tin giữa các đơn vị nhờ có mạng lưới thông tin có thể sẽ được thống nhất, kịp thời và chính xác hơn. 5-/ Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý và các chính sách điều tiết của nhà nước với lưu thông phân bón vô cơ ở Việt nam Về quản lý nhà nước Để giữ vững hoạt động bình thường và ổn định của việc xuất nhập khẩu phân bón và thị trường phân bón, đề nghị chính phủ thực hiện một số việc sau đây: Một là: Nhà nước nên cho hình thành quỹ bảo hiểm và nhập khẩu phân bón- quỹ hoạt động theo cơ chế có thu, có chi và được hình thành từ sự đóng góp của các doanh nghiệp nhập khẩu. Quỹ sẽ thu vào một phần khi giá nhập phân thấp hơn giá nhập bình thường và chi ra khi giá nhập lên cao. Như vậy quỹ bảo hiểm là tự các doanh nghiệp lo cho mình, đồng thời có tác động ổn định giá cho nông dân, ưu việt hơn cơ chế thu chi quỹ bình ổn giá hiện nay, xoá bỏ cơ chế “xin, cho”, mặt khác làm cho các doanh nghiệp nhập khẩu biết rõ hiệu quả kinh doanh của mình . Hai là: Để hỗ trợ cho nông dân các vùng miền núi, vùng cao, vùng sâu và vùng xa dùng các loại phân hoá học vào sản xuất nông nghiệp, nhằm nâng cao nhanh năng suất cây trồng- trên cơ sở đó từng bước cải thiện đời sống cho họ cũng như khuyến khích các doanh nghiệp tích cực đưa phân lên các vùng này, đề nghị Chính phủ nên tiếp tục duy trì chính sách hỗ trợ cước phí vận tải cho các doanh nghiệp như cơ chế hiện nay đang thực hiện. Ba là: Trong một số năm đầu, để ổn định thị trường phân bón trong nước, Nhà nước có thể sủ dụng một vài doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh phân bón thực sự có sức mạnh (mạnh về vốn, mạnh về tổ chức quản lý kinh doanh, về đội ngũ cán bộ, về bạn hàng và khả năng tiếp thị), các doanh nghiệp này có khả năng nhập được khoảng 20-30% lượng phân bón cho đất nước một cách bình thường như các doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế. Đồng thời họ được nhà nước giao một lượng dự trữ nhất định, khi thị trường có biến động bất lợi, thông qua các doanh nghiệp này, nhà nước thực hiện việc điều tiết cung cầu giá cả và các thị trường phân bón ở trong nước Bốn là: Nhà nước nên nghiên cứu và tạo điều kiện giúp cho các doanh nghiệp nhập khẩu phân bón hình thành hiệp hội của những người kinh doanh phân bón. Mục đích của hiệp hội là: Bảo vệ quyền lợi của những người kinh doanh phân bón; Cung cấp các thông tin cập nhật cần thiết về thị trường phân bón trong nước và ngoài nước cho các thành viên nam để kịp thời ứng phó; Đấu tranh với các nhà thầu quốc tế, nhằm chống lại sự ép giá của các công ty, ép giá của các công ty nước ngoài trong việc mua bán phân bón.... Năm là: Khó khăn nhất của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung, các doanh nghiệp kinh tế phân bón nói riêng. Chính là hệ thống luật pháp rất không rõ ràng. Dường như các cơ quan nào của nhà nước cũng có quyền kiểm tra các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Người giám đốc doanh nghiệp làm việc nhưng không hiểu được mình có công hay có tội. Với một môi trường pháp lý như vậy làm sao các doanh nghiệp làm ăn tử tế được. Họ phải luôn tìm mọi cách đối phó, mà đối phó với các hiện tượng tiêu cực là chính. Bởi vậy, nhà nước phải nhanh chóng tạo ra môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ, để các doanh nghiệp yên tâm hoạt động-cụ thể như: Tổ chức nào được kiểm tra, khi nào mới được kiểm tra... Nhà nước cần tăng cường quản lý đối với hoạt động kinh doanh phân bón. Sự quản lý của nhà nước đối với thị trường phân bón trong thời gian qua cũng có lúc còn lỏng lẻo. Xin kiến nghị với nhà nước tăng cường khâu quản lý, đặc biệt là việc điều hành nhập khẩu phân bón, không thể xảy ra tình trạng điều hành như những năm 1992, 1995,1996 về cấp giấy phép và hạn ngạch nhập khẩu. Tuy phân bón vô cơ là mặt hàng chiến lược, chống độc quyền nhưng nhà nước vẫn phải có sự điều tiết, chi phối. Cho nên đề nghị Nhà nước tiếp tục chỉ định các đầu mối nhập khẩu chính và phần còn lại để tự do thương mại hoá phần thị trường phân bón này. Các đầu mối này phải được lựa chọn và quyết định dựa trên các điều kiện về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và đặc biệt là kết quả kinh doanh của những năm trước. Thực hiện tăng cường quản lý các doanh nghiệp nhập khẩu nhằm tránh tình trạng lúc thừa, lúc thiếu trên thị trường khiến cho giá cả cũng thay đổi đến chóng mặt. Các cơ quan quản lý việc nhập khẩu phân bón cần được thống nhất về một mối, tránh tình trạng hiện nay trên thị trường có tới hai Bộ cùng quản lý về nhập khẩu phân bón (Bộ Thương mại và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn). Thống nhất sự quản lý chung sẽ tạo ra được môi trường tốt hơn. Khâu quản lý và cấp giấy phép còn rườm rà, cần được cải tiến. Hiện nay việc cấp giấy phép còn phức tạp, khó kiểm soát, nhiều khi làm lỡ thời cơ của doanh nghiệp. Kiện toàn công tác này sẽ giúp cho việc kinh doanh đạt hiệu quả hơn. Nhà nước cần tăng cường sự quản lý thông qua các công cụ kinh tế như là thuế nhập khẩu, quỹ bình ổn giá cả, quỹ hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh ... những công cụ kinh tế này nếu có sự kết hợp sẽ đưa lại hiệu quả cao cho toàn nền kinh tế tạo sự ổn định cho thị trường phân bón, thúc đẩy hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả hơn. Tăng cường quản lý ngoại tệ. Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ, rất cần ngoại tệ để thanh toán tiền hàng nhập khẩu.Hoạt động trao đổi mua bán ngoại tệ để thanh toán tiền hàng nhập khẩu. Hoạt động trao đổi mua bán ngoại tệ ở nước ta hiện nay do ngân hàng nhà nước quản lý thì việc tăng cường quản lý nguồn ngoại tệ có thể góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Nhà nước tăng cường quản lý ngoại tệ để từ đó có thể giảm được tình hình nhập khẩu phân bón hỗn loạn, giúp cho hoạt động kimh doanh phân bón của các doanh nghiệp được dễ dàng hơn. Nhà nước cần tạo ra môi trường hành lang pháp lý đầy đủ công bằng và hiệu quả. Để đạt được yêu cầu đó cần thực hiện tốt trên các mặt: - Giảm bớt các cơ quan quản lý xuất, nhập khẩu: theo thống kê chưa đầy đủ các cơ quan quản lý hoạt động xuất nhập khẩu lên tới16 cơ quan từ Trung ương tới địa phương(ví dụ: ngành thuế đã có tới 4 cơ quan) tạo thành mạng lưới chằng chịt buộc các doanh nghiệp phải tuân theo các quy định của cơ quan quản lý. Nhiều khi các quy định chồng chéo, các cơ quan hoạt động lấn sang phạm vi của nhau. Đồng thời để tránh cho tình trạng chạy hết cơ quan này sang cơ quan khác để xin chỉ thị, chỉ đạo về pháp luật. - Giảm dần các thủ tục khi nhập hàng hoá, đặc biệt hoàn thiện công tác tổ chức kiểm tra hồ sơ Hải quan. - Phòng thông tinThương mại cần cải cách lại phương thức hoạt động của mình. - Bên cạnh đó, Nhà nước còn phải xem xét lại về chính sách giá nông sản, chính sách khuyến khích sản xuất phân bón vô cơ trong nước. Đặc biệt là chính sách khuyến khích dùng hàng nội, để đưa sự phát triển của các doanh nghiệp kinh doanh phân bón vô cơ nói riêng, của nền kinh tế Việt nam nói chung tiến cùng sự phát triển của kinh tế thế giới. Kết luận Từ thực tiễn nghiên cứu vần đề phân bón và tổ chức lưu thông phân bón vô cơ ở Việt Nam, chúng tôi thấy rằng: Việt Nam là nước có nhu cầu phân bón tương đối lớn, đặc biệt là phân ure. Phần lớn lượng phân ure dùng trong nông nghiệp Việt Nam được nhập từ nước ngoài, kể cả hiện nay và một số năm tới nữa. Việc tổ chức nhập khẩu phân bón đã được chính phủ Việt Nam quan tâm, Chính phủ đã thương xuyên có những đổi mới trong cơ chế chính sách đối với việc nhập khẩu phân bón. Tuy nhiên việc nhập khẩu phân bón ở Việt Nam vẫn còn mang tính chất độc quyền, giá cả trên thị trường vẫn thường xuyên biến động, còn nhiều tiêu cực xảy ra trong việc nhập khẩu và mua bán phân bón. Để nhanh chóng khắc phục những hạn chế nêu trên, sớm đưa thị trường phân bón hoạt động bình thường, chúng tôi xin kiến nghị. Nên tính toán kỹ lại việc việc xây dựng nhà máy sản xuất phân bón trong nước. Nên thực hiện tự do hoá việc nhập khẩu và buôn bán phân bón. Nhà nước cần đổi mới quy chế và chính sách vĩ mô, bảo đảm cho việc xuất nhập khẩu và tiêu thụ phân bón thuận lợi hơn. Tổ chức nhập khẩu phân bón gắn với tổ chức lượng kinh doanh trong nước, tránh qua nhiều cầu, cấp trung gian đương giá lên cao. Các cơ quan chức năng phải xem xét, chỉ ra các loại chi phí không đúng để khuyến cáo các doanh nghiệp tăng cường quản lý, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh./. Mục lục danh mục tài liệu tham khảo 1-/ Ban cán sự Đảng Bộ Nông nghiệp & Công nghiệp thực phẩm: Tình hình biến động hợp tác xã nông nghiệp từ khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và kiến nghị những giải pháp trong thời gian tới, tháng 5/1995. 2-/ Bộ Nông nghiệp & Công nghiệp thực phẩm - FAO: - Hội thảo quốc gia về Dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp Việt Nam. - Các thông tin sẵn có về thuốc bảo vệ thực vật, 1995. 3-/ Các Mác tư bản tập I - trang 84. 4-/ Hội phân bón Việt Nam: Những cơ hội phát triển, sản xuất cung ứng phân bón ở Việt Nam - NXB Nông nghiệp 1994. 5-/ Nguyễn Đình Chiến: Doanh nghiệp phân bón góp phần bình ổn giá cả phân bón trong nước. 6-/ Võ Minh Khai: ảnh hưởng của phân hoá học đến nông nghiệp Việt Nam. 7-/ Nguyễn Hạc Thuý: Tình hình phân bón và chiến lược đến năm 2000. 8-/ Lê Quốc Khánh: Định hướng chiến lược sản xuất các loại phân bón 9-/ Đỗ ánh: Sử dụng phân hoá học phục vụ thâm canh, trang 82, 85. 10-/ Trần Tiến Di: Sản xuất phân bón hoá học của Tổng Công ty phân bón hoá chất cơ bản thời kỳ 1996 - 2010. 11-/ Bùi Đình Dinh: Tổng quan về sử dụng phân bón ở Việt Nam, trang 18. 12-/ Trần Khải, Nguyễn Tử Siêm: Những đặc điểm Việt Nam trong mối quan hệ phân bón, trang 8. 13-/ Ngô Nhật Tiến: Về sử dụng phân bón trong ngành lâm nghiệp Việt Nam tới năm 2000. 14-/ Đỗ Đình Thuận, Đặng Cương Lăng: Cung ứng dịch vụ phân bón ở Việt Nam. 15-/ Thị trường phân bón hiện nay: Suy nghĩ về cơ chế điều hành, Tạp chí kinh tế kế hoạch, tháng 11/1994. 16-/ Những yếu tố ảnh hưởng đến ổn định giá vật tư nông nghiệp. Tạp chí công nghiệp nhẹ 293/1994. 17-/ Thị trường phân bón Việt Nam, thực trạng và giải pháp, Tài liệu hội thảo về Đổi mới cơ chế kinh doanh phân bón, tháng 10/1995.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0219.doc
Tài liệu liên quan