Đề tài Tổ chức thương mại thế giới WTO và các giải pháp để đẩy nhanh tiến trình gia nhập của Việt Nam

Trước xu hướng toàn cầu hoá ngày càng gia tăng mạnh mẽ, chính sách mở của của nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, mở rộng quan hệ với các nước là chính sách đã và đang góp phần tạo nên những thành công đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam. Nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII “ nhiệm vụ đối ngoại quan trọng trong thời gian tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh kinh tế xã hội, CNH - HĐH đất nước và đẩy nhanh quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Do vậy, gia nhập WTO là quá trình tất yếu đối với Việt Nam, đồng thời khẳng định đường lối đúng đắn về chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.

doc45 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức thương mại thế giới WTO và các giải pháp để đẩy nhanh tiến trình gia nhập của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ cấu kinh tế, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật không những nâng cao sức cạnh tranh về lượng và giá cả hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới Năm là, cơ chế chính sách kinh tế thương mại hiện hành chưa phù hợp với các quy định của WTO. Về mặt pháp lý Việt Nam còn thiếu các thủ tục hệ thống đối với thông báo và tham vấn việc xây dựng mới hoặc sửa đổi luật pháp hiện hành, chưa công bố kịp thời. Hệ thống luật pháp của Việt Nam nói chung chưa rõ ràng minh bạch làm cho các thành viên WTO quan tâm không hiểu rõ hệ thống luật pháp của Việt Nam và họ nghi ngại về việc gia nhập WTO của Việt Nam. Về mặt hạn chế định lượng và thủ tục cấp giấy phép: hiện nay, Việt Nam đang duy trì một ssố hạn chế định lượng với nhập khẩu. Rất nhiều sản phẩm yêu cầu Việt Nam phải có giấy phép nhập khảu của các bộ phận quản lý chuyên ngành như nhập khẩu thuỷ sản, thiết bị âm thanh, các sản phẩm văn hoá nghệ thuật và phim ảnh. Trong xuất khẩu cũng chịu các hạn chế về định lượng và giá tối thiểu đối với các mặt hàng gạo, hạt điều,cà phê, dầu thô. Lý do chính để Việt Nam duy trì một hạn chế số lượng như trên là để bảo hộ sự phát triển của các doanh nghiệp nội địa trước khi có khả năng cạnh tranh đầy đủ với nước ngoài và chưa sẵn sàng đối phó với hàng nhập khẩu. Vấn đề đó hoá thương mại dịch vụ sau vòng đàm phán Uruqoay, tự dó hoá thương mại đã lan sang cả lĩnh vực dịch vụ. Hiện nay, thị trường dịch vụ của Việt Nam còn có một vài hạn chế như: các công ty dịch vụ nước ngoài chỉ cho phép hoạt động tại Việt Nam trong các ngành công nghiệp đã chọn ở một mức độ giới hạn, phải đối mặt với những hạn chế hội nhập chính đáng kể trong khi hoạt động tại Việt Nam. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải đưa ra các biện pháp tham nhập thị trường dịch vụ , đặc biệt là thị trường tài chính, bảo hiểm. Chính phủ Việt Nam sẽ phải nghiên cứu những ảnh hưởng của việc tự do hoá các ngành công nghiệp dịch vụ tới nền kinh tế và quyết định các ngành công nghiệp dịch vụ nào sẽ phải mở cửa cho các đối thủ cạnh tranh nước ngoài và mức độ bảo vệ cần thiết cho các ngành công nghiệp khác. Vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ: tại Việt Nam bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) là một khái niệm rất mới mẻ. Sự bảo vệ quyền sỏ hữu trí tuệ đầu tiên là về nhãn hiệu thương mại có hiệu lực từ tháng 12/1982, luật bản quyền tác giả được thông qua vào tháng 11/1986 và các thiết kế công nghiệp được bảo hộ từ tháng 5/1988. Tuy nhiên việc thực hiện còn kém hiệu quả mà các quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của WTO, do dó các thành viên WTO nhân cơ hội các cuộc thương lượng với tư cách hôi viên của Việt Nam và cáca cuộc đàm phán song phương khác sẽ yêu câù Việt Nam phải cải cáh hệ thống về luật sở hữu trí tuệ, đồng thời giám sát việc thực hiện các luật này tại Việt Nam. Trên thực tế, TRIPS cũng đặt ra những thách thức to lớn cho các nước đang phát triển như Việt Nam . hầu hết các phát minh sáng chế trên thế giới đều tập trung tại các nước công nghiệp phát triển. Các công ty đa quốc gia vì lợi ích riêng không bao giờ muốn chuyển giao kỹ thuật và công nghệ mới nhất sang các nước đang phát triển. Thường các công ty này chỉ chuyển giao các công nghệ cũ lạc hậu sang các nước đang phát triển. Như vậy, việc tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghiệp có nguy cơ tạo điều kiện cho sự độc quyền của các công ty đa quốc gia trên. Điều này làm cho Việt Nam các nước đang phát triển gặp khó khăn trong việc tiếp cận với các công nghệ, kỹ thuật hiện đại, ảnh hưởng tới kết quả của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Sáu là: trình độ đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam còn yếu kém. đàm phán là một công việc hết sức khó khăn đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt với sự tham gia cao nhất của các bộ ngành, các cơ quan và các doanh nghiệp trong nước, đồng thời các cán bộ đàm phán phải là những nguòi có năng lực thực sự mới có thể đạt được mục đích mong muốn. Tuy nhiên, bộ máy chính quyền của Việt Nam chưa thực sự có hiệu quả để trợ giúp cho quá trình đàm phán, việc chuẩn bị gia nhập WTO yêu cầu chưa đầy đủ rõ ràng và còn gây nhiều rắc rối cho các thnàh viên WTO. Mặt khác, các quy chế quy tắc chặt chẽ của WTO làm cho quá trình đàm phán gia nhập trở nên phức tạp đối với Việt Nam. Vì vậy nhu cầu tăng cường kiến thức cho các cán bộ nước ta về kỹ thuật và chiến thuật đàm phán thương mại đa phương là hết sức cấp bách cho việc nâng cao năng lực đàm phán gia nhập WTO Chương III: Các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới Để đẩy nhanh tiến trình gia nhập vào WTO, Việt Nam cần phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách nhằm tối đa hoá khả năng đáp ứng yêu cầu của WTO thông qua việc cải cách các lĩnh vực sau. 1 Cải cách từ phía Chính phủ 1.1. Cải cách hành chính 1.1.1. Trong lĩnh vực tổ chức bộ máy Nhà nước: Đối với cơ quan Trung Ương: kiện toàn cơ chế xác định trách nhiệm thẩm quyền của toàn thể chính phủ với cá nhân Thủ tướng, và trách nhiệm, thẩm quyền của các Phó thủ tướng trong lĩnh vực được Thủ tướng phân công phụ trách. Nêu cao trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ tướng phải chuyển giao bớt thảm quyền giải quyết vụ việc cho các Bộ trưởng với chế độ báo cáo kết quả lên Thủ tướng Điều chỉnh tổ chức và đổi mới quan hệ làm việc của các Bộ và cơ quan thuộc chính phủ, chuyển một số cơ quan thuộc chính phủ về cho các Bộ Xác định rõ sự phân cấp trách nhiệm và thẩm quyền giữa cơ quan tổ chức Trung ương và địa phương. Trên lĩnh vực cần quản lý tập trung thì tổ chức Bộ hoặc cơ quan quản lý theo ngành dọc từ Trung Ương đến cơ sở của ngành đó. Trên lĩnh vực hành chính kinh tế và hành chính sự nghiệp khác thì không tổ chức theo ngành dọc mà thực hiện phân cấp mạnh mẽ và thực sự giữa trung ương và địa phương về nhiệm vụ và thẩm quyền cũng như về và tổ chức cán bộ Đối với cơ quan địa phương: việc tiếp nhận đăng kí kinh doanh, tổ chức kiểm tra xử phạt, rút giấy phép kinh doanh, giấy phép xây dựng… trên địa bàn sẽ được phân cấp mạnh cho cơ quan hành chính địa phương, Bộ và Chính phủ xem xét, giải quyết những trường hợp có quy mô tương đối lớn hoặc có quan hệ đến an ninh Quốc phòng. 1.1.2. Trong lĩnh vực kinh tế: Đẩy mạnh tiến độ dự thảo và ban hành các văn bản pháp luật về kinh tế theo hướng đảm bảo quyền tự do kinh doanh và bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân. Đơn giản hoá thủ tục xin phép đầu tư, đầu tư kinh doanh, xoá bỏ việc phân biệt đăng kí loại hình kinh doanh trên cơ sở quy mô vốn, làm rõ phạm vi các tài sản được đem công chứng khi xác định vốn; giảm bớt chi phí hành chính trong quá trình thành lập và đăng kí kinh doanh. Nhà nước quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu thông qua việc quản lý đăng kí kinh doanh, thuế, kiểm toán, xử lý vi phạm bằng tài phán hành chính và tài phán tư pháp. Hoàn chỉnh thể chế và doanh nghiệp Nhà nước và quản lý doanh nghiệp Nhà nước. Đẩy mạnh việc thể chế hoá các thị trường vốn trung hạn, dài hạn, thị trường lao động, chứng khoán, bất động sản… Hoàn chỉnh các quy chế về các loại dịch vụ tư vấn phù hợp với thông lệ quốc tế và những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Xây dựng luật về cạnh tranh, tìm kiếm các mô hình kiểm soát Nhà nước hoặc bằng các phương thức giao dịch dân sự để hạn chế độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước trong một số lĩnh vực chưa thể xoá bỏ độc quyền. Thể chế hoá quyền được thông tin của dân về hoạt động và quyết định của cơ quan Nhà nước. Cụ thể hoá các quy định hiện hành của hiến pháp về trách nhiệm thông tin thường xuyên và định kỳ của chính phủ trước nhân dân. Xây dựng quy chế tiếp xúc của đại diện các cơ quan Nhà nước với báo chí.. Tăng cường các rà soát, hoàn thiện và đơn giản hoá thủ tục hành chính Phân định thẩm quyền của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước, ban hành các văn bản và các quyết định về thủ tục hành chính thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân Nâng cao năng lực và quyền hạn của cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân Nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân Thực hiện nghiêm chỉnh quy chế tổ chức tiếp công dân, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước trong việc giải quyết các công việc của công dân Trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của công dân có hiệu quả cao hơn cần có các biện pháp nâng cao vai trò của toà án hành chính Tuyên truyền phổ biến pháp luật về thủ tục hành chính liên quan đến quyền và nghĩa vụ công dân, các cơ quan thông tin đại chúng dùng chuyên mục đưa tin về cải cách hành chính làm diễn đàn để công dân tìm hiểu, trao đổi, kiến nghị, giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính Các cơ quan Nhà nước từ Trung Ương đến cơ sở cần phải niêm yết công khai các thủ tục hành chính liên quan đến các vụ việc mà cơ quan mình có thẩm quyền giải quyết Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin và tin học áp dụng vào công tác quản lý Nhà nước trong việc xây dựng, ban hành, và thực hiện các thủ tục hành chính ở các cơ quan hành chính Nhà nước Tiến hành rà soát, làm thật rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của chính phủ, Thủ tướng chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ và cơ quan địa phương để loại bỏ những chồng chéo, trùng lặp giữa các cơ quan với nhau và có sự phân cấp rõ ràng, cụ thể hơn về thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cấp trong hệ thống chính trị, tiến hành rà soát, điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của bộ máy Nhà nước, sắp xếp lại tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước, Việc xác định được đúng chức năng, nhiệm vụ là cơ sở quyết định để thiết lập tổ chức. Vì vậy, đây là vấn đề cơ bản và cấp thiết nên cần phải tiến hành một cách khoa học, kiên quyết, chặt chẽ trong toàn bộ hệ thống hành chính. Tiến hành rà soát lại các thể chế đã ban hành, sửa đổi các điều bất hợp lý, bổ sung các điều còn thiếu, hoàn chỉnh thể chế pháp lý quản lý công chức. Xem xét lại phạm vi áp dụng khái niệm công chức. Tiến hành quy hoạch và kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh cán bộ công chức, đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ – công chức. Kiện toàn hệ thống các cơ quan quản lý công chức. Hoàn thành hệ thống các chính sách phát triển, sửa đổi pháp lệnh thanh tra, thiết lập cơ chế thanh tra công vụ tập trung thống nhất. 1.2. Cải cách nông nghiệp nông thôn Tăng cường công tác quy hoạch tổ chức và quản lý phát triển là nhiệm vụ hàng đầu cần quan tâm. Đẩy mạnh hơn nữa công tác điều tra, nghiên cứu, quy hoạch và định hướng phát triển nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo từng vùng, tiểu vùng kinh tế - sinh thái theo nhóm sản phẩm hàng hoá. Trước hết quy hoạch và định hướng phát triển (cả trung và dài hạn) cho các vùng nông nghiệp trọng điểm, có điều kiện sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn và các loại cây trồng, vật nuôi tạo ra sản phẩm hàng hoá chủ lực có giá trị kinh tế cao, có lợi thế xuất khẩu và phù hợp với điều kiện cụ thể từng vùng từng địa phương. Việc quy hoạch và định hướng phát triển sản xuất phải dựa trên cơ sở phân tích, dự báo và đánh giá được các yếu tố, điều kiện và nhu cầu thị trường (đối với từng khu vực ngành hàng và từng loại sản phẩm) gắn với phát triển công nghiệp chế biến, kết cấu hạ tầng, phát triền nguồn nhân lực và các thể chế luật pháp về bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái. Công tác quy hoạch phải được cải tạo một bước, đặt trong tổng thể quy hoạch kinh tế xã hội của cả nước, hội nhập kinh tế quốc tế, tiến bộ khoa học, công nghệ và thị trường; xây dựng, quản lý, cập nhật thông tin và kịp thời điều chỉnh quy hoạch (tức là phải thực hiện quy hoạch “động”) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ kỹ thuật trong nông nghiệp, hình thành các trung tâm nghiên cứu quốc gia đồng thời với việc phát triển mạng lưới ở các vùng và khu vực, tăng cường đầu tư đổi mới và hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ nghiên cứu. Xây dựng chiến lược phát triển khoa học công nghệ trong nông nghiệp mà trước hết là công nghệ sinh học để tạo ra các tập đoàn giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao thích hợp điều kiện sinh thái của từng vùng từng theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn. Bên cạnh đó cũng cần chú ý phát triển công nghệ sản xuất, chế biến và bảo quản thực phẩm, công nghệ quản lý chất lượng sản phẩm... Đồng thời với phát triển khoa học và công nghệ, Chính phủ và các cấp các ngành ở địa phương phối hợp với các tổ chức kinh tế xã hội ở nông thôn để tổ chức và mở rộng hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm khuyến ngư đến từng cộng đồng, đơn vị sản xuất và hộ nông dân. Mặt khác, phải có sự phối hợp hoạt động của các tổ chức khuyến nông với các tổ chức kinh tế hợp tác và hỗ trợ phát triển ở nông thôn, từng buớc xã hội hoá công tác khuyến nông, thu hút sự tham gia của đông đảo nông dân và những người sản xuất kinh doanh nông nghiệp vào hoạt động này. 1.3. Cải cách DNNN Để nâng cao hiệu quả sắp xếp và đổi mới DNNN, đưa Nghị quyết TW 3 (khoá IX) vào cuộc sống, cần tập trung vào một số giải pháp sau đây: Một là, thực hiện nhất quán chủ trương sắp xếp lại căn bản khu vực DNNN trên cơ sở lấy tiêu chuẩn hiệu qủa làm thước đo chủ yếu. Nhà nước cần đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp (như công ty cổ phần, công ty liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên...). Chấn chỉnh lại kế hoạch sẵp xếp DNNN, thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu thông qua biện pháp cổ phần hoá đối với những doanh nghiệp đủ điều kiện cổ phần hoá: áp dụng luật phá sản đối với những DNNN thua lỗ kéo dài không có khả năng phụ hồi và không có tầm quan trọng đặc biệt; đồng thời, áp dụng phổ biến cơ chế giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập phần lớn DNNN có quy mô nhỏ. Cần thống nhất về tiêu thức phân loại, lựa chọn doanh nghiệp thực hiện sắp xếp; làm rõ tiêu chí xác định những lĩnh vực có tầm chiến lược cần có sự có mặt của các DNNN và những DNNN có vai trò đặc biệt quan trọng cần duy trì trong quá trình sắp xếp và đổi mới DNNN. Đồng thời, Nhà nước cần ban hành hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng làm cho các doanh nghiệp chống gian lận thương mại. Với tư cách là “bà đỡ” cho các doanh nghiệp khi mới ra đời hoặc chuyển đổi sở hữu, cổ phần hoá, Nhà nước có cơ chế tài chính, tín dụng thông thoáng và ưu đãi để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện phương án sản xuất kinh doanh mới hoặc củng cố ổn định sản xuất, đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm. Hai là, các doanh nghiệp cần có phương án sản xuất doanh nghiệp hợp lý, áp dụng khoa học kỹ thuật để cải tiến mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm; đầu tư đổi mới công nghệ để nâng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO. Điều quan trọng là phải nối mạng thông tin doanh nghiệp để đưa sản phẩm lên mạng Internet nhằm tăng khả năng tiếp thị, quảng cáo, mở rộng thị trường tiêu thụ, chủ động cắt giảm và xoá bỏ các khoản chi phí bất hợp lý và có kế hoạch sắp xếp lại sản xuất, lao động cho phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh; sử dụng hợp lý các nguồn vốn, giảm bớt vốn vay, giảm chi phí, hạ giá thành. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc tế diễn ra nhanh chóng, thời gian thực hiện cam kết ASEAN năm 2006 đang đến gần và Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa kỳ đã được ký, các doanh nghiệp phải có kế hoạch vươn lên, cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần không chỉ ở thị trường Quốc tế mà ngay cả ở thị trường trong nước. Mặt khác, DNNN phải có kế hoạch nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp và công nhân lành nghề, bậc cao, chú trọng đào tạo kiến thực mới và kỹ năng hiện đại, kết hợp bồi dưỡng trong nước và nước ngoài, kết hơp giữa lý luận và thực tiễn. Ba là, Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện một số chính sách sau: Hoàn thiện chính sách cổ phần hoá DNNN: bãi bỏ quy định hạn chế mức mua cổ phần lần đầu, khắc phụ xu hướng bán cổ phần lần đầu trong nội bộ doanh nghiệp; điều chỉnh mức mua cổ phần ưu đãi của cán bộ quản lý doanh nghiệp để phát huy vai trò tích cực của người quản lỹ doanh nghiệp; cho phép Nhà đầu tư mua cổ phần lần đầu đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá mà Nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật khuyến khích đầu tư trong nước; cải tiến phương pháp định giá doanh nghiệp, áp dụng cơ chế đấu giá trên cơ sở cung cầu, phản ánh đúng giá trị của doanh nghiệp cổ phần hoá; nâng cao hiệu quả hoạt động của quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá, miễn lệ phí trước bạ đối với tài sản chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần; bố trí nguồn kinh phí trong dự toán ngân sách hàng năm (không nằm trong mục chi thường xuyên) bên cạnh nguồn vốn thu được trong quá trình cổ phần hoá để thúc đẩy nhanh việc sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN. Hoàn thiện cơ chế giao, bán, khoán kinh doanh các DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài, không cổ phần hoá được và Nhà nước không cần nắm giữ để sử dụng có hiệu quả tài sản của Nhà nước, bảo đảm việc làm, thu nhập, quyền lợi hợp pháp của người lao động. Mục đích là làm cho khu vực DNNN không còn các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, làm ăn không hiệu quả , thua lỗ kéo dài phải bao cấp thường xuyên. Việc giao, bán, khoán kinh doanh trước hết ưu tiên cho tập thể người lao động, bảo đảm cho người lao động là người đồng sở hữu doanh nghiệp, tham gia làm chủ trong quá trình quản lý doanh nghiêp. Khuyến khích tổ chức và cá nhân tiếp cận các DNNN thuộc loại này để tiếp tục đầu tư phát triển nhằm bảo toàn vốn và giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp. Khẩn trương chuyển đổi các DNNN của các tổ chức chính trị , chính trị - xã hội sang hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo tinh thần Nghị định 63/2001/NĐ CP, ngày 29/9/2001 của Chính phủ. Thực hiện định mức lại vốn điều lệ của DNNN trên cơ sở áp dụng các cơ chế như không thu tiền sử dụng vốn, khấu hao nhanh, tăng tỷ lệ tích luỹ đầu tư từ lợi nhuận sau thuế, hỗ trợ sau đầu tư...) để đến năm 2005 cơ bản tạo đủ vốn điều lệ cho DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối. Đối với một số tổng công ty, doanh nghiệp lớn, có uy tín cho phép phát hành trái phiếu, cổ phiếu huy động đầu tư thông qua thị trường chứng khoán để phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh. Đầu tư xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh có khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Thí điểm thực hiện phương thức Nhà nước đầu tư và quản lý doanh nghiệp thông qua Công ty tài chính Nhà nước. Đây là một tổ chức tài chính của Nhà nước có chức năng kinh doanh vốn của Nhà nước nhằm mục đích: chuyển từ cơ chế Nhà nước cấp phát vốn sang cơ chế Nhà nước đầu tư vốn vào doanh nghiệp, chuyển phương thức quản lý tài chính mang tính hành chính sang phương thức kinh doanh vốn theo cơ chế thị trường, góp phần thực hiện nhanh quá trình công ty hoá DNNN và xoá bỏ chế độ chủ quản của cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp. Kiên quyết xử lý dứt điểm nợ không thanh toán được của các DNNN trên cơ sở làm rõ nguyên nhân phát sinh và trách nhiệm của Hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc đối với từng khoản nợ cụ thể. Nguyên tắc là phân loại nợ để xử lý theo từng đối tượng khác nhau. Vừa chỉ đạo tập trung thống nhất. vừa hoàn thiện cơ chế, chính sách và có biện pháp lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp. Xúc tiến thành lập công ty mua bán nợ và tài sản của doanh nghiệp để xử lý những khoản nợ khó đòi và thực hiện một số chức năng trong quá trình cải cách doanh nghiệp. Giải quyết dứt điểm tình trạng nợ tồn đọng, nợ dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau trong khu vực doanh nghiệp, nhằm xác lập lại hệ thống quan hệ tài chính lành mạnh giữa các doanh nghiệp, doanh nghiệp và ngân hàng. Trên cơ sở phân loại và xác định tính chất, nguyên nhân các khoản nợ, để có biện pháp xử lý thích hợp như xoá nợ, chuyển đổi nợ thành cổ phần doanh nghiệp. Quy định chế độ khấu hao gắn với khuyến khích đổi mới công nghệ, kỹ thuật: ưu đãi tài chính đặc biệt cho các doanh nghiệp có trang bị công nghệ , kỹ thuật cao: thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường đóng góp vốn xây dựng và tích cực sử dụng các quỹ phát triển sản phẩm mới, quỹ hỗ trợ Quốc gia về khoa học công nghệ; đâỷ mạnh các hoạt động nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm mới, nâng cao khả năng cạnh tranh Quốc tế trong quá trình hội nhập. Định hướng phát triển và chấn chỉnh lại một bước việc phân loại DNNN hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh DNNN hoạt động công ích với hình thức Nhà nước sở hữu 100% vốn; Nhà nước có cổ phần chi phối trong các lĩnh vực công ích thiết yếu lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ được Nhà nước giao làm tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả . Cũng trên cơ sở đó mà xác định quy mô, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp. Những lĩnh vực công ích phục vụ đời sống xã hội mà nhân dân và các thành phần kinh tế khác thực hiện có hiệu quả thì khuyến khích phát triển. Nhà nước có thể tham gia cổ phần ở mức thấp. Cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách đối với DNNN cho phù hợp với từng loại đối tượng hoạt động công ích và kinh doanh trên tất cả các vấn đề về vốn, lao động, tiền lương, cán bộ quản lý, kiểm tra, kiểm soát... Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích nên chuyển từ cơ chế cấp vốn sang cơ chế đặt hàng Nhà nước hoặc đấu thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Nên chuyển tất cả các DNNN lĩnh vực kinh doanh 100% vốn Nhà nước sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là DNNN. Thực hiện công khai hoá tài chính doanh nghiệp; tổ chức tốt công tác kiểm toán nội bộ, mở rộng phạn vi kiểm toán độc lập đối với các loại hình doanh nghiệp; hoàn chỉnh cơ chế đấu thầu mua sắm, đấu giá nhượng bán tài sản, cải tiến hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp phù hợp với cơ chế thị trường. Bổ sung chính sách đối với lao động trong sắp xếp, cơ cấu lại DNNN . Các DNNN cần rà soát và xây dựng đúng định mức, định biên để xác định số lượng lao động cần thiết. Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về hợp đồng lao động. Khẩn trương thành lập quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Kết hợp việc giải quyết lao động dôi dư với việc thực hiện các chương trình mục tiêu Quốc gia về việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, trước hết là lao động dôi dư. Hỗ trợ nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước và các nguồn tài chính vay ưu đãi của các tổ chức taì chính, tiền tệ Quốc tế để giải quyết lao động dôi dư và không có việc làm thông qua quỹ hỗ trợ sắp xếp, cổ phần hoá. Xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội thích hợp đối với người nghỉ hưu sớm, ưu đãi trợ cấp theo lương cấp bậc, chức vụ và thời gian đóng bảo hiểm xã hội; thực hiện chế độ trợ cấp thôi việc đối với người lao động bị mất việc làm do sắp xếp lại DNNN và có kế hoạch đào tạo nghề, khuyến khích tự tìm công việc mới, bảo đảm đời sống cho người lao động. Bốn là, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với DNNN và bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp Nhà nước. Cần phân định rõ hơn nữa chức năng quản lý Nhà nước và chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý Nhà nước tập trung vào việc xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với DNNN trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau: chỉ đạo xây dựng quy hoạch và chiến lược phát triển của DNNN trong tổng thể quy hoạch và chiến lược phát triển kinh tế của xã hội, của nghành và của các địa phương, xây dựng quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán cho DNNN; tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật, chủ trương, chính sách, chế độ quy định của Nhà nước tại doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý Nhà nước phải căn cứ vào quy định của pháp luật và yêu cầu quản lý trong lĩnh vực mình phụ trách và ban hành đầy đủ, phù hợp hệ thống văn bản quy định thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Kiên quyết xoá bỏ chế độ cơ quan chủ quản cấp hành chính chủ quản Cơ quan quản lý Nhà nước không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Xác định quản lý điều hành sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ của doanh nghiệp. Người lãnh đạo doanh nghiệp chịu trách nhiệm đầy đủ về mọi quyết định của mình trong sản xuất kinh doanh. Phân định rõ quyền của cơ quan Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu và trách nhiệm của người sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiêp. Cán bộ quản lý doanh nghiệp quyết định và chiu trách nhiệm về sự thành bại trong sản xuất, kinh doanh. Năm là, nâng cao vai trò của các tổ chức Đảng ở DNNN. Thực tế cho thấy DNNN nào có Đảng bộ vững mạnh, chấp hành pháp luật, đảng viên gương mẫu, lãnh đạo doanh nghiệp và đảng uỷ đoàn kết nhất trí thì ở đó phát huy được dân chủ, khích lệ được tinh thần lao động, sáng tạo của cả tập thể và sản xuất kinh doanh phát triển. Bởi vậy, muốn việc xắp xếp và đổi mới doanh nghiệp thu được nhiều kết quả, nhất thiết các tổ chức Đảng tại DNNN phải được kiện toàn phù hợp với đặc điểm tổ chức quản lý của doanh nghiệp trong điều kiện mới. Cũng cần nghiên cứu để sớm có mô hình tổ chức Đảng phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp không những đối với doanh nghiệp Nhà nước mà còn với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Quốc hội cần sớm sửa đổi Luật Doanh nghiệp Nhà nước theo hướng tạo khuôn khổ pháp lý chung cho các loại hình doanh nghiệp; ban hành Luật chống độc quyền và khuyến khích cạnh tranh lành mạnh; sửa đổi Luật phá sản doanh nghiệp theo hướng người quyết định thành lập doanh nghiệp có quyền đề nghị tuyên bố phá sản, sửa đổi Bộ luật Lao động và xem xét thông qua Luật Bảo hiểm xã hội Nghiên cứu trình Quốc hội ban hành Luật sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào kinh doanh như đã đề ra trong Nghị quyết TW( khoá IX). Rõ ràng, muốn nâng cao hiệu quả sẵp xếp và đổi mới DNNN phải xuất phát từ cả hai chủ thể: doanh nghiệp và Nhà nước. Yêu cầu hàng đầu để doanh nghiệp trụ vững và phát triển phụ thuộc vào chính khả năng, sự cố gắng của từng doanh nghiệp. Sự hiện diện của các cơ chế, chính sách của Nhà nước là yếu tố rất quan trọng để tạo đà cho doanh nghiệp phát triển vững chắc, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. 1.4. Mở cửa thị trường Dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam, đặc biệt các lĩnh vực đã cam kết, phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt từ phía các nhà cung cấp dịch vụ và dịch vụ của Hoa Kỳ ngay trên đất Việt Nam. Vì vậy, để thực hiện Lộ trình cam kết thương mại dịch vụ của Việt Nam trong BTA, phải tiến hành các việc sau đây: Tiến hành sửa đổi, bổ sung luật lệ để giải pháp đảm bảo lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong BTA. Việc ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (nội dung liên quan đến thương mại dịch vụ) đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với các ngành dịch vụ Việt Nam. Các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam, trong hầu hết các lĩnh vực, được tạo điều kiện để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ và được đối xử bình đẳng như các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ có thể thực hiện các cam kết của Việt Nam trong BTA và chuẩn bị cho việc gia nhập WTO; theo Bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc, sau khi rà soát, Bộ Tư pháp đã kiến nghị sửa đổi bổ sung 150 văn bản pháp luật, trong số đó nhiều văn bản phải thay bằng văn bản mới vì có nhiều khái niệm mà trong luật Việt Nam chưa có; Minh bạch hoá các chính sách, luật lệ; đẩy mạnh cải cách hoặc hành chính, đơn giản hoá các thủ tục, đặc biệt thủ tục cấp visa, xuất, nhập cảnh…; Các ngành dịch vụ phải tăng cường đầu tư nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành để có thể cung cấp cho phía Hoa Kỳ (có thể cung cấp ngay trên đất Việt Nam theo phương thức 2, như dịch vụ du lịch, tư vấn, giải trí, văn hoá, vận tải…) và để có thể cạnh tranh được với các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ, đặc biệt là các ngành đã cam kết. Các DN dịch vụ phải tăng cường công tác marketing, thâm nhập thị trường, tìm hiểu, nắm bắt các luật lệ của Hoa Kỳ, nghiên cứu thị trường dịch vụ để tìm ra các sản phẩm thích hợp có thể XK. Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu. Theo báo cáo của tổng cục thống kê, kim nghạch xuất khẩu 3 tháng đầu năm 2002 đạt thấp vì, vậy để thực hiện được kế hoạch cả năm, bình quân mỗi tháng còn lại phải xuất khẩu được 1,5 tỷ USD. Đây là mức rất cao trong bối cảnh hiện nay. Mới đây, thủ tướng chính phủ đã giao cho Bộ thương mại chủ trì thành lập tổ công tác để nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu. Trước hết, cần triển khai cụ thể các kế hoạch xuất khẩu đến các doanh nghiệp nhằm tăng cường xuất khẩu các mặt hàng đang có lợi thế cạnh tranh như dầu thô, hàng thuỷ sản, gạo, cà phê, hàng dệt may, giày dép…Thành lập trung tâm phân tích phân loại hàng hoá XNK có nhiệm vụ tổ chức thực hiện hoạt động phân tích phân loại hàng hoá XNK trong nghành hải quan. Tổ chức bộ máy của Trung tâm gồm 3 cơ sở: Cơ sở 1 tại Hà Nội thực hiện phân tích phân loại theo yêu cầu của hải quan các tỉnh phía Bắc( Từ Hải quan Quảng Bình trở ra) và giải quyết các yêu cầu phân tích phân loại vượt quá khả năng của cơ sở 2 và cơ sở 3. Cơ sở 2 tại tp HCM chịu trách nhiệm phân tích, phân loại theo yêu cầu của hải quan các tỉnh phĩa Nam(từ hải quan Khánh hoà trở vào). Cơ sở 3 tại Đà Nẵm phân tich, phân loại theo yêu cầu của hải quan các tỉnh miền Trung(từ hải quan Quảng trị đến Bình Định) và hải quan khu vực Tây Nguyên. Nhanh chóng thực hiện công tác xúc tiến thương mai vào các thị trường tiềm năng, nhất là Mỹ,Nga,Trung Quốc , Nhật bản, EU và Châu Phi. Lập Quỹ hỗ trợ xúc tiến thương mại ở các tỉnh, thành phố để hỗ trợ phát triển thị trường và thưởng xuất khẩu cho các mặt hàng không thuộc diện ngân sách Trung ương hỗ trợ. Nguồn lập quỹ bao gồm ngân sách địa phưong và một số nguồn tài chính khác như thưởng vượt thu…Đồng thời, cho phép các tỉnh, thành phố được sử dụng ngân sách địa phương và huy động nguồn lực của các doanh nghiệp cũng như cơ chế, chính sách thoả đáng xây dựng các trung tâm thương mại giới thiệu sản phẩm, tư vấn thương mại, đầu tư và phổ cập thông tin thị trường. Lập trung tâm xúc tiến thương mại tại Mỹ. Hiện Bộ Thương mại đang chỉ đạo thành lập 3 trung tâm xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm của Việt Nam tại Mỹ, Nga, Dubai. Vì vậy, xây dựng sớm một trung tâm thương mại tại Mỹ sẽ đảm bảo cả việc quảng bá sản phẩm và tổ chức bán buôn, bán lẻ. Để thực hiện dự án này thì cần có một doanh nghiệp đứng ra thành lập trung tâm. Hiện nay, dệt may đang là mặt hàng xuất khẩu chủ đạo sang thị trường Mỹ, vì thế, Tổng công ty dệt may sẽ là đầu mối đứng ra thành lập trung tâm này. Đồng thời, tiếp thu thực hiện cơ chế miễn thu lệ phí hạn nghạch xuất khẩu hàng hoá và lệ phí hải quan đối với hàng xuất khẩu đến hết năm 2002; giao Ngân hàng ngoại thương lập quỹ Hỗ trợ tín dụng xuất khẩu và tiến tới lập Ngân hàng xuát khẩu để hỗ trợ cho vay sản xuất hàng xuất khẩu, hàng bán chiu, trả chậm, sửa đổi, bổ xung quy chế các khu kinh tế cửa khẩu, áp dụng giá trị gia tăng 0% đối với các mặt hàng nông sản xuấ khẩu qua khu kinh tế cửa khẩu. Giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Theo bộ KH&ĐT, chỉ trong 1 tháng, cả nước đã có 22 dự án đầu tư nước ngoài(ĐTNN) được cấp phép với tổng vốn đầu tư đăng ký 32,4 triệu USD. Như vây, với tổng vốn đầu tư đăng ký 32,4 triệu USD. Như vậy, từ đầu năm đến 20/6 đã có 263 dự án ĐTNN mới được cấp giấu phép với tổng số vốn đăng ký đạt hơn 473,5 triệu USD, tăng 12,8% về số dự án và bằng 44,4% về vốn đầu tư so với cùng kỳ năm 2001. Môi trường ĐTNN đang tiếp tục được mở rộng. Dự kiến có khả năm sẽ thu hút thêm được nhiều dự án mới, nhiều dự án có thể tăng thêm vốn. g cần tập trung xử lý vướng mắc về giải phóng mặt bằng nhằm đẩy nhanh tiến độ triênr khai dự án. Giải pháp nâng cao chất lượng đầu tư Trong hội nghị đổi mới công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài do bộ KH và ĐT phối hợp với đại diện Bộ thương mại, một số UBNH các tỉnh, thành, một số cơ quan tham tán kinh tế Việt Nam ở nước ngoài tổ chức tại Hà Nội ngày 7/5/2002. Bộ KH và ĐT cũng đã thừa nhân, trong thời gian qua, “ nội dung cũng như phương thức tổ thức tổ chức tổ chức vận động đầu tư còn quá đơn giản, nặng nề về tuyên truyền luật pháp, chính sách, chưa tập trung vào chương trình vận động theo từng đối tác, lĩnh vực hoặc dự án cụ thể…”. Chưa có công tác vận động đầu tư nước ngoài trong những năm tới còn đối mặt với hàng loạt thách thức khác như, từ một thị trường đầu tư mới mẻ, được đánh giá là có nhiều tiềm năng, phát triển trong những năm đầu 1990, đến nay nhu cầu tiêu dùng một số sản phẩm trên thị trường Việt Nam được coi là tạm thời bão hoà, sức mua trong nước chậm…Thêm vào đó, những hạn chế chậm được khắc phục của môi trường đầu tư, đặc biệt là sự thiếu hoàn thiện của hệ thống luật pháp, chính sách, thủ tục hành chính, kết cầu hạ tầng…đã và đang làm mất dần một số lợi thế so sánh của Việt Nam trong thu hút vốn ĐTNN. Chính vì vậy, để thực hiện được mục tiêu thu hút khoảng 12 tỷ USD vốn đăng ký cấp mới và 11 tỷ USD vốn thực hiện trong thời kỳ 2001-2005, cần đẩy mạnh cải tiến từ hình thức, nội dung đến phương thức tổ chức vận động đầu tư nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài Theo quan điểm của bộ KH& ĐT, cần tiếp thu vận động các nhà đầu tư đã hoạt động ở Việt Nam đầu tư thêm dự án mới hoặc mở rộng quy mô dự án đã được cấp phép. Đặc biệt “ coi những tiến bộ trong việc cải thiện môi trường đầu tư và những mô hình thành công trong hoạt động ĐTNN tại Việt Nam là nhân tố quan trọng, có sức thuyết phục để thu hút các nhà đầu tư mới. 2. Những giải pháp từ phía doanh nghiệp 2.1 Các cải cách từ phía doanh nghiệp Có nhiều cách để doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường thế giới và một trong những cách phổ biến hiện nay là doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xuất khẩu. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn khi tham gia vào lĩnh vực mới này. Vậy một doanh nghiệp khi bước vào lĩnh vực xuất khẩu cần phải làm những gì? Đây cũng chính là điều băn khoăn và lo nghĩ của nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Cũng như những công việc khác, các doanh nghiệp cần phải bắt đầu với với những kỹ năng đầu tiên một cách bài bản. Khi một doanh nghiệp quyết dịnh có những sản phẩm có thể xuất khẩu, doanh nghiệp phải xét đến các vấn đề như: sẽ thu lợi ích gì qua xuất khẩu; xuất khẩu có phù hợp với những mục đích khác của doanh nghiệp hay không. Thứ nhất, doanh nghiệp cần phải cân nhắc tiềm lực và xác định phương hướng xuất khẩu. Công tác xuất khẩu đặt ra những yêu cầu lớn về tiềm lực then chốt của công ty như quản trị, nhân viên, khả năng sản xuất, tài chính và những yêu cầu này được đáp ứng như thế nào. Các doanh nghiệp cũng phải cân nhắc xem lợi nhuận dự kiến có đáng giá với những chi phí phải trả không? Liệu tiềm lực của doanh nghiệp có thể được sử dụng tốt hơn cho vệc phát triển kinh doanh trong nước hay không? Cần phải trả lời hàng loạt câu hỏi này trước khi quyết định có xuất khẩu hay không. Thậm chí cả việc quyết định những phương pháp xuất khẩu nào sẽ được sử dụng lúc khởi đầu. Việc hoạch định các kế hoạch rất quan trọng với một doanh nghiệp khi bắt tay vào xuất khẩu. Doanh nghiệp cần trả lời tối thiểu các câu hỏi sau đây. Một là, những nước nào sẽ được đặt thành mục tiêu để phát triển việc bán hàng. Hai là, chiến lược nào sẽ được khai thác tại thị trường được chọn. Ba là, những bước hoạt động đặc trưng nào cần được tiến hành và thự hiện. Bốn là, doanh nghiệp sẽ đầu tư bao nhiêu tiền và thời gian quản lý cho mỗi thành tố của kế hoạch xuất khẩu. Năm là, việc thực hiện các thành tố của kế hoạch sẽ được tiến hành trong khuôn khổ nào. Một điều cần lưu ý: chìa khoá để phát triển một kế hoạch thành công chính là sự tham gia của tất cả các nhân viên sẽ được bổ nhiệm và tham dự vào tiến trình xuất khẩu. Tất cả mọi khía cạnh của kế hoạch xuất khẩu phải được sự đồng ý hoành toàn của người đảm trách phần thực hiện cuối cùng. Khi đưa kế hoạch thành văn bản sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp một sự ràng buộc vào công tác xuất khẩu. Các kế hoạch thành văn cũng cho thấy thế mạnh và thế yếu một cách chắc chắn hơn. Điều này giúp ích cho việc đề ra chiến lược và hoàn chỉnh chiến lược xuất khẩu. Các kế hoạch thành văn cũng không thể dễ dàng bỏ quên hoặc không quan tâm bởi những người được chỉ định thực hiện. Nếu có sự đổi hướng xảy ra so với kế hoạch đầu tiên thì đó cũng là một sự lựa chọn có suy tính. Các kế hoạch thành văn dễ truyền đạt cho người khác và hầu như ít bị hiểu nhầm. Chúng cũng phân bố trách nhiệm và dự liệu kết quả. Tuy nhiên, bước tiếp theo ở đây là phải có sự quản trị tốt có thể làm cho các kế hoạch soạn thảo trở thành hiện thực. Thứ hai, kết thúc giai đoạn xác định phương hướng xuất khẩu, các doanh nghiệp phải tự chọn phương thức xuất khẩu. Theo thống kê thì có 4 phương thức khác nhau. Một là. đáp ứng đầy đủ đơn hàng nội dịa và họ có thể xuất khẩu ra nước ngoài. Những thương vụ này thường khó phân biệt với các thương vụ nội địa. Có thể khách hàng của doanh nghiệp sẽ khám phá ra rằng sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của nước ngoài. Họ chấp nhận mọi rủi ro và quán xuyến mọi quy trình xuất khẩu. Trong một vài trường hợp, họ cũng không cần quan tâm đến người bán lúc đầu. Các doanh nghiệp có thể quan tâm nhiều hơn đến xuất khẩu khi họ khám phá ra rằng sản phẩm của họ đã được bán ở nước ngoài. Hai là, có thể tìm ra những khách mua nội địa. Có nhiều khách hàng trong nước mua để xuất khẩu ra nước ngoài. Đây có thể là một thị trường rộng lớn cho nhiều loại hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, sau khi bán sản phẩm thì những công việc tiếp theo nằm ngoài vòng kiểm soát của doanh nghiệp có hàng bán ra lúc đầu. Cách thứ ba, xuất khẩu gián tiếp qua các trung gian. Với phương thức này, một doanh nghiệp thông qua dịch vụ của các Nhà buôn trung gian có khả năng tìm kiếm thị trường và người mua nước ngoài để tìm kiếm sản phẩm. Trong trường hợp này, các Nhà xuất khẩu vẫn có thể giữ được sự kiểm soát đáng kể trong việc xuất khẩu. đồng thời còn học được kinh nghiệm từ các Nhà cạnh tranh nước ngoài, công nghệ mới và các cơ hội thị trường khác. Với sự lựa chọn này, rủi ro tăng lên cùng với lợi nhuận tiềm ẩn. Phương thức cuối cùng là xuất khẩu trực tiếp. Điều này có ý nghĩa là dính líu gần như hoàn toàn vào cả tiến trình. Đó là sự kiểm soát gần như hoàn toàn được thự hiện từ khâu nghiên cứu thị trường, thiết lập kế hoạch cho đến công việc phân phối ở nướcngoài. Đây có thể là một phương thức hiệu quả đối với một số doanh nghiệp để đạt được lợi nhuận tối đa và kết quả phát triển lâu dài. Khi mục đích và tiềm lực của doanh nghiệp cho thấy phương thức xuất khẩu gián tiếp là sự lựa chọn tốt nhất thì việc hoạch định phải thay đổi. Trong trường hợp này, nhiệm vụ chủ yếu của doanh nghiệp là tìm kiếm và lựa chọn một doanh nghiệp trung gian thích hợp để có thể quán xuyến hầu hết hoặc toàn bộ các công đoạn. Đối với những doanh nghiệp còn xa lạ, mới làm quen với công việc xuất khẩu hoặc chưa có khả năng sử dụng nhân viên và vốn cho xuất khẩu, thì phương thức xuất khẩu gián tiếp có thể thích hợp hơn. Một doanh nghiệp khi đã tích luỹ được kinh nghiêm và lượng hàng bán ra chứng minh được việc tăng đàu tư là đúng thì có thể tăng dần phương thức xuất khẩu trực tiếp. Nếu một doanh nghiệp đã chuẩn bị sẵn sàng thực hiện phương thức phân phối trực tiếp thì phải làm cho phương thực này mang lại nhiều lợi ích hơn. 2.2. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp Việt Nam Cánh cửa hội nhập WTO đang mở rộng cho tất cả các doanh nghiệp Việt Nam và đi liền với nó là mức độ cạnh tranh tăng lên không chỉ trong thị trường nội địa mà cả trên thị trường quốc tế. Các mặt hàng chủ lực của doanh nghiệp, những mặt hàng có khả năng cạnh tranh hiện nay, đều là những sản phẩm nông sản hay khoáng sản chưa qua chế biến như: vải thiều, xoài, bưởi, me, măng khô, điều, tiêu, gạo, cà phê... Những mặt hàng này có khả năng cạnh tranh vì chúng có được lợi thế thiên nhiên. Còn những mặt hàng công nghiệp chế biến có khả năng cạnh tranh như máy móc, da giày, đồ uống, giấy viết, bóng điện... thì dựa vào lợi thế lao động, người lao động khéo léo, tiếp thu nhanh, chi phí tiền công lao động thấp... Nhưng trong thời gian tới, những lợi thế này sẽ thay đổi, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt cạnh tranh gay gắt hơn. Khả năng cạnh tranh của những mặt hàng chủ lực của Việt Nam chưa vững chắc, luôn bị thách thức bởi các đối thủ cạnh tranh mới, bởi các sản phẩm thay thế và thường xuyên được nâng cao. Kinh nghiệm của cá ba sa Việt Nam tại Mỹ và tôm ở Nhật Bản sẽ không phải là cá biệt khi hàng Việt Nam chiếm được thị phần đáng kể ở nước ngoài. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đều không tập trung vào thiết kế kiểu dáng, tổ chức phân phối và tiếp thị mà chỉ tập trung vào gia công, lắp ráp thông thường. Họ chưa ý thức được rằng, trong nền kinh tế thị trường, bán hàng nhiều khi khó hơn là sản xuất ra sản phẩm đó. Nhiều doanh nghiệp thiếu nghiêm trọng thông tin về thị trường, về những sản phẩm thích hợp có thể đưa ra thị trường thế giới, doanh nghiệp thiếu khả năng tài chính để tiếp cận với Internet ở mức giá quá cao như hiện nay… Số website của các doanh nghiệp còn ít hơn và chậm được cập nhật. Nhiều doanh nghiệp chưa có thói quen phúc đáp kịp thời (theo thông lệ Quốc tế là 24 giờ) các giao dịch qua e-mail làm bạn hàng Quốc tế thiếu tin tưởng. Để năng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Quốc tế, trước mắt, các doanh nghiệp cần phải giải quyết 5 vấn đề sau: Thứ nhất, phải xuất phát từ thị trường, tránh tình trạng sản xuất tràn lan rồi không biết bán cho ai. Vì vậy, họ phải nghiên cứu thị trường, đàm phán với khách hàng để tìm ra mặt hàng phù hợp; Thứ hai, đầu tư cho nghiên cứu, triển khai thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp, trừ một số Tổng công ty có quy mô lớn thì nhiều doanh nghiệp chi quá ít - dưới 0,2% doanh thu - cho khâu này. Nhiều doanh nghiệp đang tạm an tâm với cách làm gia công cho các hãng nước ngoài dẫn đến tình trạng không có thương hiệu, kiểu dáng riêng. Các doanh nghiệp cũng nên đăng ký thương hiệu và tôn trọng luật pháp về sở hữu trí tuệ để tránh những thua thiệt không đáng có khi làm ăn với nước ngoài; Thứ ba, tập trung đầu tư nguồn nhân lực. Người lao động Việt Nam rất khéo léo, thông minh. Nếu được trả lương tốt thì họ làm việc rất có chất lượng. Đây là lợi thế rất lớn; Thứ tư, đề ra chiến lược sản xuất kinh doanh tối ưu dựa trên những đánh giá, phân tích thị trường nhằm tìm ra công nghệ thích hợp để giữ vững và mở rộng thị phần của doanh nghiệp; Thứ năm, đẩy mạnh tiếp thị, quảng cáo. Ngày nay, một sản phẩm mới ra đời, để thâm nhập được vào một thị trường thì cần rất nhiều thời gian và tiền bạc cho công việc tiếp thị và quảng cáo. Các doanh nghiệp nên chú trọng khâu này để có kế hoạch đào tạo, nâng cao năng lực cho nhân viên tiếp thị quảng cáo; Thứ sáu, các doanh nghiệp cần liên kết hay thành lập các hiệp hội xuất khẩu chuyên ngành để đáp ứng các đơn đặt hàng lớn. Hiện nay, nhiều bạn hàng trên thế giới thường đặt hàng với khối lượng lớn trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam với quy mô vừa và nhỏ, khả năng tài chính và năng lực sản xuất có hạn, khó lòng đáp ứng các đơn đặt hàng có quy mô lớn. Do vậy, nếu nhận được đơn hàng vượt quá khả năng của mình, các doanh nghiệp nên liên kết với các doanh nghiệp khác cùng ngành để đảm bảo quy mô và thời hạn giao hàng. Cần cải tiến mẫu mã, chủng loại và chất lượng sản phẩm xuất khẩu thông qua các hệ thống quản lý chất lượng được thế giới chấp nhận như ISO, HACCP, GMP... Hiện nay, nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng...Đây là những mặt hàng mà thế giới đòi hỏi chất lượng rất cao và phải đáp ứng các yêu cầu hết sực khắt khe. Để nâng cao chất lượng hàng hoá thì doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất, áp dụng cá hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đều không tập trung vào thiết kế kiểu dáng, tổ chức phân phối và tiếp thị mà chỉ tập trung vào gia công, lắp ráp thông thường. Họ chưa ý thức được rằng, trong nền kinh tế thị trường, bán hàng nhiều khi khó hơn là sản xuất ra sản phẩm đó. Nhiều doanh nghiệp thiếu nghiêm trọng thông tin về thị trường, về những sản phẩm thích hợp có thể đưa ra thị trường thế giới, doanh nghiệp thiếu khả năng tài chính để tiếp cận với Internet ở mức giá quá cao như hiện nay… Số website của các doanh nghiệp còn ít hơn và chậm được cập nhật. Nhiều doanh nghiệp chưa có thói quen phúc đáp kịp thời (theo thông lệ quốc tế là 24 giờ) các giao dịch qua e.mail làm bạn hàng quốc tế thiếu tin tưởng. Để năng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Quốc tế, trước mắt, các doanh nghiệp cần phải giải quyết 5 vấn đề sau: thứ nhất, phải xuất phát từ thị trường, tránh tình trạng sản xuất tràn lan rồi không biết bán cho ai. Vì vậy, họ phải nghiên cứu thị trường, đàm phán với khách hàng để tìm ra mặt hàng phù hợp. Thứ hai, đầu tư cho nghiên cứu, triển khai thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp, trừ một số Tổng công ty có quy mô lớn thì nhiều doanh nghiệp chi quá ít - dưới 0,2% doanh thu - cho khâu này. Nhiều doanh nghiệp đang tạm an tâm với cách làm gia công cho các hãng nước ngoài dẫn đến tình trạng không có thương hiệu, kiểu dáng riêng. Các doanh nghiệp cũng nên đăng ký thương hiệu và tôn trọng luật pháp về sở hữu trí tuệ để tránh những thua thiệt không đáng có khi làm ăn với nước ngoài; Thứ ba, tập trung đầu tư nguồn nhân lực. Người lao động Việt Nam rất khéo léo, thông minh. Nếu được trả lương tốt thì họ làm việc rất có chất lượng. Đây là lợi thế rất lớn; Thứ tư, đề ra chiến lược sản xuất kinh doanh tối ưu dựa trên những đánh giá, phân tích thị trường nhằm tìm ra công nghệ thích hợp để giữ vững và mở rộng thị phần của doanh nghiệp; Thứ năm, đẩy mạnh tiếp thị, quảng cáo. Ngày nay, một sản phẩm mới ra đời, để thâm nhập được vào một thị trường thì cần rất nhiều thời gian và tiền bạc cho công việc tiếp thị và quảng cáo. Các doanh nghiệp nên chú trọng khâu này để có kế hoạch đào tạo, nâng cao năng lực cho nhân viên tiếp thị quảng cáo. Thứ sáu ,Các doanh nghiệp cần liên kết hay thành lập các hiệp hội xuất khẩu chuyên ngành để đáp ứng các đơn đặt hàng lớn. Hiện nay, nhiều bạn hàng trên thế giới thường đặt hàng với khối lượng lớn trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam với quy mô vừa và nhỏ, khả năng tài chính và năng lực sản xuất có hạn, khó lòng đáp ứng các đơn đặt hàng có quy mô lớn. Do vậy, nếu nhận được đơn hàng vượt quá khả năng của mình, các doanh nghiệp nên liên kết với các doanh nghiệp khác cùng ngành để đảm bảo quy mô và thời hạn giao hàng. Cần cải tiến mẫu mã, chủng loại và chất lượng sản phẩm xuất khẩu thông qua các hệ thống quản lý chất lượng được thế giới chấp nhận như ISO, HACCP, GMP... Hiện nay, nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng...Đây là những mặt hàng mà thế giới đòi hỏi chất lượng rất cao và phải đáp ứng các yêu cầu hết sực khắt khe. Để nâng cao chất lượng hàng hoá thì doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất, áp dụng cá hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Kết luận Trước xu hướng toàn cầu hoá ngày càng gia tăng mạnh mẽ, chính sách mở của của nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, mở rộng quan hệ với các nước là chính sách đã và đang góp phần tạo nên những thành công đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam. Nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII “ nhiệm vụ đối ngoại quan trọng trong thời gian tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh kinh tế xã hội, CNH - HĐH đất nước và đẩy nhanh quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới’’. Do vậy, gia nhập WTO là quá trình tất yếu đối với Việt Nam, đồng thời khẳng định đường lối đúng đắn về chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Gia nhập vào WTO sẽ là sự kiện quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam. Chắc chắn nó sẽ tạo ra những động lực giúp Việt Nam khắc phục hậu quả của tình trạng kém phát triển như hiện nayvà thu hẹp dần khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới. WTO là một tổ chức kinh tế thương mại quốc tế vừa rộng về phạm vi hoạt động, vừa sâu về chuyên môn, đồng thời mang lại những nội dung pháp lý cụ thể và phức tạp. nên việc tìm hiểu cụ thể về WTO là rất cần thiết cho Việt Nam trong việc hoạch định chính scáh phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam, vừa đapas ứng đầy đủ các yêu cầu của WTO. Bên cạnh đó, để đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam, chúng ta phải làm tốt việc phổ biến kiến thức về WTO, đặc biệt là các quy định cuả WTO vì nếu không hiểu được các nguyên tắc của WTO, Việt Nam không thể làm việc trong tổ chức này. Ngoài ra, Việt Nam phái chú trọng vào việc đào tạo cán bộ, sử dụng cácn bộ hợp lý để đáp ứng những yêu cầu căn bản trong quá trình làm việc tại WTO. Việt Nam cần đưa những cán bộ có đủ năng lực đi đào tạo chuyên sâu về kinh tế ở các nước phát triển. Trên đây là các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình gia nhập vào WTO của Việt Nam. Hy vọng rằng với việcthực hiện tốt các giải pháp này tthì Việt Nam sẽ sớm gia nhập vào WTO vào năm 2005 Tài liệu tham khảo Paul R.Krucman - Maurice Obstfeld; Kinh tế học quốc tế - lý thuyết và chính sách tập I,II; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội - 1996. PGS.TS Đỗ Đức Bình - TS Nguyễn Thường Lạng (chủ biên); giáo trình Kinh tế học quốc tế; NXB Thống kê; Hà nội 2002. Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ Ngoại giao; Tổ chức thương mại thế giới (WTO); NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2000. Trương Văn Bân; Bàn về cải cách toàn diện DNNN; NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1996. TS. Nguyễn Khắc Thanh(chủ biên); Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và triển vọng gia nhập của Việt Nam; Trung tâm ICTC; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội - 1997. Hiệp Định thương mại Việt - Mỹ; NXB Thống kê; Hà Nội 2001. Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế; tài liệu hội nghị toàn quốc quán triệt và thực hiện nghị quyết số 07 - NQ/TW của bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế; NXB Chính trị quốc gia; Hà Nội 2002. Đảng Cộng Sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII; NXB chính trị quốc gia; Hà nội 1996. Đảng Cộng Sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX; NXB chính trị quốc gia; Hà nội 2001. Những trang web tham khảo www.dei.gov.vn www.vcci.com www.vneconomy.com.vn www.mofa.gov.vn www.vistock.com www.vnagency.com.vn www.mot.gov.vn www.moste.gov.vn www.fpt.vn www.vov.org.vn www.vnexpress.com Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0115.doc