Đề tài Tội không tố giác tội phạm - Một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống để nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Phân tích, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của những quy định về tội không tố giác tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. - Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội không tố giác tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999; phân tích các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội phạm này. - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng tình hình tội không tố giác tội phạm, nguyên nhân của thực trạng đó; dự báo tình hình của tội không tố giác tội phạm trong những thời gian tới. - Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu tội không tố giác tội phạm. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu tội không tố giác tội phạm dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2005. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về tội không tố giác tội phạm; số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao về tội phạm này. Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống, lịch sử, lôgíc, thống kê, phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, điều tra xã hội . 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối có hệ thống về tội không tố giác tội phạm dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Phân tích, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển những quy định về tội không tố giác tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về tội không tố giác tội phạm; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm này trong pháp luật hình sự hiện hành. - Phân tích, đánh giá những quy định về tội không tố giác tội phạm trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý về lập pháp hình sự, để vận dụng có chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn. - Đánh giá đúng thực trạng tình hình tội không tố giác tội phạm ở Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm. 6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa nhất định đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển lý luận về tội phạm học, luật hình sự, cũng như công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có tính nhạy cảm cao và phức tạp này. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 mục.

doc113 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2515 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tội không tố giác tội phạm - Một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, du lịch, người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào nước ta ngày một đông, sẽ là điều kiện để bọn phạm tội lợi dụng hoạt động, từ đó tình hình không tố giác tội phạm trong số những người này sẽ xuất hiện. Thứ hai, Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như ASEAN, INTERPOL... cho nên việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm không những là nhu cầu nội tại, mà còn là nghĩa vụ quốc tế của chúng ta. Thứ ba, phải nhận thức đầy đủ những thuận lợi, khó khăn của quá trình hội nhập quốc tế và khu vực nói chung, hợp tác về tư pháp hình sự, trong đó có hợp tác đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm nói riêng, để chủ động triển khai các hoạt động xây dựng và hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự, trong đó có những quy định về tội không tố giác tội phạm. Thứ tư, cần việc tìm hiểu kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm, bảo vệ người làm chứng, người tố giác tội phạm của các nước tiên tiến trên thế giới, chính sách của các nước đối với những người có công phát hiện, tố giác tội phạm nghiêm trọng. Để làm tốt việc này, cần cử các đoàn gồm các nhà hình sự học hàng đầu của đất nước đi làm việc, trao đổi kinh nghiệm về những vấn đề này với các nước trong khu vực, những nước có kinh nghiệm về xây dựng pháp luật bảo vệ người làm chứng. 3.2.2. Kết hợp tuyên truyền giáo dục ý thức cộng đồng, nghĩa vụ công dân, động viên quần chúng tham gia phát hiện, tố giác tội phạm với tuyên truyền phổ biến, giáo dục những quy định của pháp luật có liên quan đến tố giác tội phạm Tội phạm là một hiện tượng xã hội, đã và đang tồn tại trong xã hội, có nguyên nhân phát sinh trong lòng xã hội. Vì vậy, hoạt động phòng ngừa tội phạm, phát hiện, tố giác tội phạm phải huy động được sự tham gia đông đảo của toàn xã hội và phải trở thành nhiệm vụ của các cấp, các ngành. Để đề cao vai trò trách nhiệm của mỗi người dân trong việc phát hiện, tố giác tội phạm, trước hết cần đẩy mạnh tuyên truyền ý thức cộng đồng, nghĩa vụ công dân trong phát hiện, tố giác tội phạm. Thông qua giáo dục ý thức cộng đồng làm cho mỗi người dân hiểu rõ nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của mình trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội, xây dựng cuộc sống yên vui, lành mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Mọi người công dân, bất kỳ già trẻ, gái trai, bất kỳ làm việc gì, đều có nhiệm vụ giúp chính quyền giữ gìn trật tự an ninh, vì trật tự an ninh trực tiếp quan hệ đến lợi ích bản thân mọi người. Mấy mươi vạn con mắt soi sáng, mấy mươi vạn lỗ tai nghe ngóng, thì bọn gian phi, côn đồ sẽ lòi mặt ra và sẽ phải cải tà quy chính dưới lực lượng to lớn của quần chúng [19, tr. 1397]. Khi đề cập quyền và nghĩa vụ của nhân dân là đề cập chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, quyền và nghĩa vụ là hai mặt của chế độ làm chủ tập thể, hai mặt này không thể tách rời, không đối lập nhau. Điều 54 Hiến pháp năm 1992 quy định: Quyền và nghĩa vụ của công dân thể hiện chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, kết hợp hài hòa những yêu cầu của cuộc sống xã hội với tự do chân chính của cá nhân, bảo đảm sự nhất trí về lợi ích giữa Nhà nước, tập thể và cá nhân theo nguyên tắc mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Trách nhiệm của chính quyền các cấp là phải bảo đảm quyền và nghĩa vụ của công dân phải được thực hiện đúng chính sách, pháp luật và làm cho chế độ làm chủ tập thể của nhân dân có nội dung thiết thực; đồng thời phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho mỗi người dân về ý thức cộng đồng, đó là mỗi người dân phải thấy rõ trách nhiệm khi thực hiện nghĩa vụ và thấy rõ vinh dự khi thực hiện quyền của công dân. Nội dung giáo dục ý thức cộng đồng trong phòng ngừa tội phạm gồm những vấn đề sau đây: Thứ nhất, giáo dục cho mọi người ý thức "vì mọi người, vì sự bình yên của cuộc sống cộng đồng", mỗi người phải khắc phục thói ích kỷ, thờ ơ trước tình trạng kỷ cương, phép nước bị xâm phạm. Thứ hai, giáo dục cho mọi người phải thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong phòng ngừa tội phạm trước hết từ bản thân và gia đình mình, từ đó có tinh thần cảnh giác bảo vệ lẫn nhau, mạnh dạn lên án những hành vi vi phạm pháp luật, tích cực phát hiện tố giác tội phạm. Mỗi người dân phải nhận thức được rằng, việc thực hiện nghĩa vụ phát hiện, tố giác tội phạm là trên cơ sở tự nguyện, theo tiếng gọi của lương tâm. Việc thực hiện nghĩa vụ như vậy, đem lại cho con người sự thanh thản, niềm vui về ý nghĩa đời sống của mình đối với xã hội. Thứ ba, mọi phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân đều được thực hiện ở cơ sở và được nhân lên sức mạnh bằng ý thức tự giác, năng lực sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng trong nhân dân, trong từng hộ gia đình. Phong trào toàn dân tham gia phát hiện, tố giác tội phạm cũng phải được phát động sâu rộng ở cơ sở để nhân dân biết tự phòng, tự bảo vệ. Vì vậy, cần làm chuyển biến mạnh hơn về nhận thức và ý thức trách nhiệm, khơi dậy và phát huy tính tự giác thực hiện quyền và nghĩa vụ của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân trong phong trào toàn dân tham gia phát hiện, tố giác tội phạm, coi đó chính là sự chủ động bảo vệ mình, bảo vệ sự bình yên, an toàn của cả cộng đồng. Trên cơ sở đó, đưa công tác phát hiện, tố giác tội phạm trở thành một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của các cấp, các ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị và các địa phương. Đồng thời, để duy trì sự bền vững của phong trào này, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, quy định chế độ, chính sách đối với những người có công phát hiện, tố giác tội phạm; kịp thời biểu dương, khen thưởng và nhân rộng những gương người tốt, việc tốt trong phong trào toàn dân tham gia phát hiện, tố giác tội phạm. Thứ tư, tăng cường giáo dục ý thức cộng đồng về phòng ngừa tội phạm chính là xây dựng ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân. Các cơ quan chức năng như Cơ quan Tư pháp, Văn hóa - Thông tin cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật để tham mưu với Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật các cấp xây dựng nội dung chương trình tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật hàng năm. Trong tổ chức thực hiện, cần chú trọng kết hợp hình thức tuyên truyền thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng với các hình thức tuyên truyền, giáo dục trực tiếp, cá biệt nhằm làm cho nhân dân nâng cao nhận thức về nguy cơ gia tăng của tội phạm và tệ nạn xã hội, những phương thức, thủ đoạn của bọn phạm tội và hậu quả tác hại của nó đối với nhân dân, cộng đồng và toàn xã hội. Từ đó nhân dân sẽ có ý thức đề cao cảnh giác, phòng ngừa tội phạm ngay từ gia đình, mặt khác tự giác phát hiện và cung cấp những thông tin có liên quan đến tội phạm với cơ quan chức năng để có biện pháp xử lý kịp thời. Bên cạnh việc giáo dục ý thức cộng đồng cần tăng cường giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho nhân dân. Từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ công dân trong phòng ngừa tội phạm. Nội dung tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, cần được xác định theo từng đối tượng cụ thể như sau: Một là, đối với cán bộ công chức nhà nước, cán bộ, chiến sĩ trong các đơn vị lực lượng vũ trang, cần nâng cao năng lực nhận thức về áp dụng, thi hành pháp luật trên cương vị công tác và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Củng cố ý thức tự giác chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trên cơ sở tinh thần kiên quyết bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Hai là, đối với lứa tuổi thanh thiếu niên và học sinh, sinh viên cần đưa nội dung giáo dục pháp luật vào chương trình hoạt động của đoàn đội và chương trình học tập một cách thường xuyên và rộng khắp, nhằm phổ biến kiến thức pháp luật cơ bản có tính thiết thực gần gũi với hoạt động học tập vui chơi hàng ngày của các em. Coi trọng giáo dục nhân cách, truyền thống gắn với giáo dục pháp luật với trọng tâm là luật hình sự, luật phòng, chống ma túy, chương trình quốc gia phòng chống tội phạm… để các em nhận thức được tác hại của tội phạm, sự cần thiết phải đấu tranh phòng, chống tội phạm, vai trò, ý nghĩa của việc phát hiện, tố giác tội phạm. Trên cơ sở những nhận thức đúng đắn này, các em sẽ có cách tiếp cận đúng trong việc phát hiện, tố giác tội phạm, giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ba là, đối với các tầng lớp nhân dân nói chung, nội dung phổ biến giáo dục pháp luật cần có định hướng cụ thể đảm bảo yêu cầu cơ bản và chiến lược. Trước mắt cần tập trung trang bị cho người dân những kiến thức pháp lý về những vấn đề như trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992 và chủ trương của Đảng và Nhà nước về "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực bảo vệ an ninh Tổ quốc" trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, những kiến thức cơ bản về pháp luật phổ thông gắn bó thiết thân với người dân về luật dân sự, luật hôn nhân gia đình, luật phòng, chống ma túy, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, những quy định pháp luật hình sự về tội không tố giác tội phạm và và trách nhiệm tham gia phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội… Thứ tư, để chuyển tải được các nội dung kiến thức pháp luật nêu trên đến với từng người dân cần phải tiến hành các biện pháp như: - Tăng cường thời lượng phát thanh, phát sóng về chuyên đề "Tìm hiểu pháp luật", "Phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội" trên các phương tiện truyền thông đại chúng như vô tuyến truyền hình, đài phát thanh, xuất bản rộng rãi ấn phẩm thông tin pháp luật, mở các đợt bồi dưỡng kiến thức pháp luật, thông tin pháp luật cho cán bộ tư pháp phường, tổ trưởng dân phố, tổ hòa giải để họ tham gia có hiệu quả vào công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng tủ sách pháp luật ở xã, phường, vì đây là nguồn cung cấp thông tin pháp luật quan trọng cho người dân. Ngoài ra, cần sử dụng các hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật linh hoạt như thông qua sinh hoạt của các tổ chức, đoàn thể; thông qua việc giáo dục, thuyết phục trực tiếp của cán bộ chính quyền, cán bộ đoàn thể, hòa giải viên, tổ trưởng tổ dân phố, già làng, trưởng bản và các người có uy tín trong cộng đồng dân cư, làm cho người dân nhận thức quyền và nghĩa vụ của mình trong việc tố giác tội phạm. - Nhà nước cần quan tâm đầu tư kinh phí, điều kiện bảo đảm cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, những quy định của pháp luật liên quan đến tội không tố giác tội phạm nói riêng. Xây dựng và đưa vào sử dụng rộng rãi các cơ sở dữ liệu pháp luật điện tử để cán bộ, nhân dân dễ dàng truy cập, tìm hiểu các văn bản pháp luật, trong đó có các văn bản pháp luật liên quan đến tội không tố giác tội phạm. Đẩy mạnh hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý của phòng Tư pháp quận, mở rộng mạng lưới cộng tác viên tư pháp ở cơ sở phường, xã. Thứ năm, cùng với việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, các cơ quan bảo vệ pháp luật cần lựa chọn các vụ không tố giác tội phạm phức tạp, điển hình để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật của người dân, từ đó góp phần vào phòng ngừa tội phạm. 3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án về tội không tố giác tội phạm 1. Đối với Cơ quan Công an Trong công tác phòng ngừa xã hội, việc phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và vấn đề phối hợp giữa cơ quan Công an với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Để làm tốt công tác phòng ngừa xã hội, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, tham gia phát hiện, tố giác tội phạm, cơ quan Công an các cấp cần chủ động tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, ngành, đoàn thể tổ chức xã hội thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng ngừa xã hội theo chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời tích cực thực hiện các nhiệm vụ đã được phân công trách nhiệm trong chương trình phối hợp hành động theo các Nghị quyết, Kế hoạch liên tịch giữa Công an với các ngành, đoàn thể trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Để đẩy mạnh sự phối hợp của các ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội và nhân dân trong hoạt động phòng ngừa tội phạm, cơ quan Công an cần cần tập trung giải quyết tốt những vấn đề sau: Thứ nhất, đề cao hơn nữa trách nhiệm, vai trò chủ động thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành đoàn thể nhân dân nhằm phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong hoạt động phòng ngừa tội phạm. Trước mắt, lực lượng công an phải chủ động tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền chỉ đạo quyết liệt và sâu sát việc tổ chức thực hiện kế hoạch và chương trình hành động phòng chống tội phạm trong tình hình mới theo Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức cho mọi cán bộ đảng viên, các cấp, các ngành đoàn thể đưa Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP và Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm thực sự đi vào cuộc sống, trở thành hành động thiết thực trong đấu tranh phòng chống, tội phạm. Cần chú ý đưa vào nội dung phòng ngừa tội phạm vào hoạt động thường xuyên của các cấp, các ngành, đoàn thể. Gắn các biện pháp có ý nghĩa phòng ngừa xã hội cơ bản trong các nội dung của chương trình quốc gia phòng chống tội phạm với các chương trình phát triển kinh tế xã hội, văn hóa vào các công tác lớn của địa phương, ngành, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên trong hoạt động của mình, qua đó tạo sự chuyển biến mạnh mẽ đồng bộ trên các lĩnh vực nhằm kiềm chế tốc độ gia tăng của tội phạm, từng bước làm giảm tội phạm góp phần đảm bảo sự ổn định vững chắc về trật tự xã hội. Thứ hai, tăng cường các biện pháp tuyên truyền, giáo dục về tác hại của tội phạm cho các tầng lớp nhân dân, làm cho Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP và Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm và Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy thâm nhập sâu rộng vào cuộc sống bằng hình thức phong phú và phù hợp để làm chuyển biến nhận thức của mỗi người về trách nhiệm công dân đối với nhiệm vụ phòng, chống tội phạm và giữ gìn an ninh trật tự, từ đó tự giác đóng góp sức lực, tinh thần, vật chất vào hoạt động phòng ngừa tội phạm, giúp đỡ các cơ quan bảo vệ pháp luật bằng việc phát hiện, tố giác tội phạm. Thứ ba, tích cực triển khai các biện pháp phòng ngừa tội phạm đến từng gia đình, tổ dân phố, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, cơ quan doanh nghiệp, trường học, đơn vị lực lượng vũ trang trên từng địa bàn. Tiếp tục xây dựng hoàn thiện các quy ước, quy định đảm bảo an ninh trật tự trong cơ quan, đơn vị và cộng đồng dân cư, xây dựng và nhân rộng mô hình "Nhóm liên gia tự quản", "Gia đình an toàn - văn hóa", cụm dân cư, tổ dân phố "Không còn tội phạm và tệ nạn xã hội" trong địa bàn, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm. Tổ chức thực hiện có chiều sâu, hiệu quả các nội dung của chương trình phối hợp hành động trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc theo các nghị quyết, kế hoạch liên tịch giữa Công an với các ngành, đoàn thể, nhất là với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm đẩy mạnh thực hiện Đề án 1 - Chương trình Quốc gia phòng chống tội phạm, đó là phát động toàn dân tham gia phòng, ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm, cảm hóa giáo dục, cải tạo người phạm tội tại gia đình và cộng đồng dân cư. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện các chuyên đề phối hợp giữa Công an với các ngành đoàn thể, tham gia phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội (Bộ Công an phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ Lao động và Thương binh, xã hội về công tác phòng chống ma túy trong trường học; Bộ Công an phối hợp với Bộ Văn hóa - Thông tin về công tác đấu tranh bài trừ văn hóa phẩm đồi trụy, bạo lực; Bộ Công an phối hợp với Hội Cựu chiến binh về việc xây dựng phong trào tự quản về an ninh trật tự ở cụm dân cư; Bộ Công an phối hợp với Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam về công tác phòng, chống ma túy trong gia đình; Bộ Công an phối hợp với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đoàn thanh niên về công tác phòng ngừa, ngăn chặn thanh thiếu niên phạm tội và hoạt động tệ nạn xã hội… Gắn hoạt động phòng ngừa tội phạm vào quá trình đấu tranh bài trừ tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn ma túy, cờ bạc… trong cuộc sống cộng đồng. Thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm đã chứng minh rằng các đối tượng tham gia các tệ nạn nói trên có quan hệ rất gần gũi với tội phạm (theo số liệu của Bộ Công an: khoảng 60% đối tượng phạm tội là người nghiện ma túy). Do vậy, nếu hạn chế đến mức thấp nhất được các loại tệ nạn nói trên sẽ tạo ra môi trường xã hội lành mạnh trong từng gia đình, tổ dân phố, cụm dân cư, sẽ góp phần tích cực để loại trừ các tiêu cực xã hội là nguyên nhân, điều kiện phát sinh và tồn tại của tình trạng phạm tội. Củng cố tăng cường hoạt động của các tổ chức quần chúng cơ sở như: Bảo vệ dân phố, Dân phòng, đội vây bắt người phạm tội, đội tự quản, đội thanh niên tình nguyện làm công tác xã hội, tổ hòa giải, Ban thanh tra nhân dân... Đây là những tổ chức quần chúng có thể góp phần tích cực vào hoạt động phòng ngừa hoạt động tội phạm như tuần tra bảo vệ an ninh trật tự, tham gia quản lý giáo dục người vi phạm pháp luật tại cơ sở, hòa giải mẫu thuẫn nội bộ nhân dân, phát hiện, ngăn chặn những hành vi vi phạm cho cơ quan Công an. Để xây dựng những tổ chức quần chúng nói trên trở thành người cộng tác đắc lực và là cơ sở xã hội vững chắc của lực lượng Công an, cán bộ, chiến sĩ làm công tác xây dựng phong trào của Công an phường, xã phải tích cực tham mưu hướng dẫn cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc xây dựng và tổ chức hoạt động đối với các tổ chức quần chúng trong hoạt động phòng ngừa tội phạm, tạo nên sức mạnh chung của toàn xã hội trong phòng ngừa tội phạm ở địa phương. Thứ tư, thường xuyên thông báo về các phương thức, thủ đoạn hoạt động phạm tội của các loại đối tượng để quần chúng nâng cao tinh thần cảnh giác, tích cực tham gia phát hiện, tố giác tội phạm và vận động đối tượng phạm tội ra đầu thú. Công an cần phối hợp với các cấp, các ngành, tập trung thực hiện có hiệu quả Đề án 1 của Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, trong đó cần làm tốt công tác vận động nhân dân cung cấp tin báo, tố giác tội phạm, thiết lập ‘hòm thư tố giác", "đường dây nóng"... để nhân dân có điều kiện thuận lợi cung cấp thông tin về tội phạm cho các cơ quan bảo vệ pháp luật. Thứ năm, về mặt tổ chức, đề nghị cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu cho xây dựng các tổ chức chuyên trách làm công tác phòng ngừa từ Bộ Công an đến công an các địa phương quận (huyện) để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong ngành, đồng thời phát huy tốt vai trò là cơ quan thường trực trong ban chỉ đạo thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội phạm ở các cấp. Ngoài ra, để làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm, động viên, khuyến khích người dân phát hiện, tố giác tội phạm, Công an cũng cần làm tốt công tác quản lý hành chính là biện pháp quản lý nhà nước về trật tự xã hội của ngành Công an được Nhà nước giao như đăng ký quản lý hộ khẩu, quản lý đặc doanh, quản lý vũ khí, chất nổ, quản lý trật tự an toàn giao thông đô thị, quản lý phòng cháy, chữa cháy, trên cơ sở chế độ, thể lệ, quy tắc đã ban hành. Đây là biện pháp nghiệp vụ công khai của ngành Công an có tác dụng to lớn về phòng ngừa tội phạm. Việc sử dụng các biện pháp quản lý, giáo dục đối tượng, đề phòng tái phạm, thu thập tài liệu chứng cứ để phục vụ yêu cầu điều tra khám phá các vụ án hoặc lập hồ sơ những đối tượng cần đưa đi giáo dục tập trung theo quy định của pháp luật. Để khắc phục những hạn chế thiếu sót còn tồn tại trong công tác của lực lượng cảnh sát quản lý hành chính nhất là cảnh sát khu vực ở địa bàn phường, đồng thời phát huy hết tác dụng của biện pháp hành chính để phòng ngừa tội phạm, lực lượng Công an về quản lý hành chính cần tập trung thực hiện tốt những nhiệm vụ trọng tâm sau: Một là, làm tốt công tác quản lý nhân khẩu theo hướng đi sâu nắm vững từng hộ, từng người để nắm chắc tình hình hoạt động của các loại đối tượng và địa bàn trọng điểm. Quán triệt đúng quan điểm của Bộ Công an về công tác đăng ký quản lý hộ khẩu phải đảm bảo đúng quy định của Nhà nước, nhưng phải thường xuyên đổi mới để phù hợp với tình hình đặc điểm của sự phát triển kinh tế - xã hội, có biện pháp thích hợp để kiểm soát tình trạng cư trú trái phép, thực hiện đúng phương châm "ở đâu có con người cư trú, ở đó phải tiến hành quản lý chặt chẽ". Hai là, lãnh đạo Công an địa phương cần tăng cường chỉ đạo công tác quản lý hộ khẩu, nhân khẩu để nắm vững tình hình an ninh trật tự ở địa bàn dân cư thuộc phạm vi phụ trách, nhất là tình hình vi phạm pháp luật, tình hình tội phạm, phát hiện đối tượng truy nã, đối tượng từ nơi khác đến hoạt động. Đặc biệt, chú trọng công tác quản lý tạm trú, tạm vắng, giáo dục nhân dân tự giác thực hiện quy định khai báo tạm trú, tạm vắng, mặt khác nghiên cứu cải tiến quy trình đăng ký quản lý hộ khẩu, bảo đảm chặt chẽ và tiện lợi tránh gây phiền hà cho nhân dân để khuyến khích sự tự giác của nhân dân về chấp hành các quy định về đăng ký quản lý hộ khẩu, nhân khẩu, tạm trú, tạm vắng. Thực hiện tốt chế độ thông tin về biến động nhân khẩu, hộ khẩu giữa các địa phương góp phần phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Ba là, lực lượng Cảnh sát khu vực cần chủ động phối hợp với Cơ quan Điều tra, phục vụ hoạt động điều tra, khám phá vụ án hình sự, trong đó Cảnh sát khu vực cần nắm tình hình về những người nắm thông tin về vụ án để động viên họ chủ động cộng tác với Cơ quan Điều tra. Bốn là, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về trật tự xã hội trong công tác quản lý vũ khí, chất nổ, quản lý đặc doanh, phát huy đầy đủ tác dụng của các mặt công tác này trong phòng ngừa tội phạm. Đối với công tác quản lý vũ khí, chất nổ, cần tăng cường hoạt động tuần tra kiểm soát, vận động nhân dân giao nộp thu gom vũ khí chất nổ, hạn chế tình trạng mất mát, mua bán, tạo ra sơ hở để bọn phạm tội sử dụng vũ khí, chất nổ hoạt động phạm tội. Năm là, cần duy trì và đẩy mạnh hoạt động tuần tra, kiểm soát của lực lượng Cảnh sát trật tự để phát huy tác dụng phòng ngừa tội phạm, quán triệt tư tưởng chỉ đạo của ngành về công tác tuần tra kiểm soát là "Tiến hành tuần tra, kiểm soát thường xuyên liên tục nhất là khu vực địa bàn trọng điểm, kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, gây rối trật tự xã hội, tạo nên sức mạnh răn đe, trấn áp tội phạm, đảm bảo an ninh trật tự". Nhận thức đầy đủ về vị trí công tác tuần tra, kiểm soát và tổ chức thực hiện tốt là yếu tố quyết định việc phát huy tác dụng phòng ngừa của công tác này. Công an địa phương cũng cần tổ chức tốt hoạt động tuần tra, kiểm soát, phối hợp giữa cán bộ, chiến sĩ Công an với lực lượng bảo vệ dân phố, dân phòng ở địa bàn dân cư, huy động quần chúng nhân dân tham gia công tác tuần tra, nhân dân tạo thành thế trận phòng ngừa khép kín, đảm bảo an ninh trật tự tại địa phương. Ngoài những biện pháp mang tính phòng ngừa nói trên, cơ quan Công an cần áp dụng các biện pháp sau đây nhằm nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm sau đây: Thứ nhất, lãnh đạo Công an các cấp phải nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác tiếp nhận, xử lý tin báo tố giác tội phạm. Cần coi đây là công tác rất quan trọng trong quá trình điều tra các vụ án hình sự. Nếu không tiếp nhận và giải quyết đầy đủ, kịp thời chính xác các tin báo, tố giác tội phạm, sẽ làm mất đi một nguồn thông tin quan trọng về tội phạm. Xuất phát từ quan điểm "lấy dân làm gốc", cán bộ, chiến sĩ Công an phải lắng nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân để xử lý một cách nghiêm túc những tin báo, tố giác tội phạm, coi đó là nguồn thông tin quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thứ hai, cần đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nhất là trong việc bố trí cán bộ làm công tác trực ban hình sự, có nhiệm vụ tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm. Bố trí những cán bộ có đủ trình độ chuyên môn, được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ điều tra, có khả năng phán đoán, lập các giải thuyết điều tra, chỉ đạo, điều hành các hoạt động điều tra, xác minh ban đầu; có phẩm chất đạo đức trong sáng, yêu ngành, yêu nghề, tận tụy với công việc, không ngại khó, không ngại khổ, thì mới có thể tập trung khai thác hết các giá trị thông tin, giải quyết triệt để các tin báo, tố giác tội phạm, phục vụ công tác đầu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là trong điều kiện tình hình tội phạm đang diễn biến rất phức tạp hiện nay. Thứ ba, tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho lực lượng tiếp nhận, xử lý tin báo tố giác tội phạm, trước hết là các phương tiện thông tin liên lạc như bộ đàm, điện thoại di động, máy nhắn tin, máy ghi âm…, phương tiện giao thông như ô tô, xe máy, vũ khí, công cụ hỗ trợ. Cần trang bị hệ thống máy vi tính được nối mạng trong phạm vi cả nước và trong từng địa phương để phục vụ công tác chỉ huy, chỉ đạo của lãnh đạo Công an các cấp trong việc tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm. Thứ tư, cần sớm xây dựng quy trình tiếp nhận, xử lý, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, trong đó quy định rõ trách nhiệm của từng lực lượng Công an; tổ chức thực hiện nghiêm túc, có chất lượng việc tiếp nhận, giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm hoặc các yêu cầu phối hợp trong công tác này. Thứ năm, lãnh đạo Công an các cấp phải thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ công tác này, đồng thời có chế độ khen thưởng đối với những tập thể, cá nhân thực hiện tốt, kỷ luật nghiêm đơn vị, cá nhân thực hiện chưa tốt công tác này, để đề cao trách nhiệm của mọi cá nhân, đơn vị trong tiếp nhận, xử lý và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm. 2. Đối với Tòa án nhân dân Đối với Tòa án nhân dân, thì việc áp dụng pháp luật đúng đắn trong công tác xét xử các vụ án về tội không tố giác tội phạm có vai trò rất quan trọng. Chỉ trên cơ sở xét xử đúng, mới có thể phát huy tính giáo dục, phòng ngừa của biện pháp xử lý và từ đó mới có thể chỉ ra nguyên nhân và điều kiện của tội phạm để có kiến nghị xác đáng. Vì vậy, Tòa án các cấp cần làm tốt các chức năng, nhiệm vụ xét xử đối với những vụ án có bị cáo phạm tội không tố giác tội phạm và thực hiện một số biện pháp sau đây: Thứ nhất, cần tổng kết, tổ chức hội nghị chuyên đề hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong công tác xét xử các vụ án có bị cáo phạm tội không tố giác tội phạm, chú ý những căn cứ cụ thể để quyết định hình phạt, nguyên tắc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, bảo đảm việc xét xử các vụ án có người phạm tội không tố giác tội phạm được nghiêm chỉnh, đúng pháp luật. Thứ hai, Tòa án nhân dân các địa phương cần phối hợp với Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát rà soát lại toàn bộ những vụ án có bị cáo phạm tội không tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của cấp mình. Trên cơ sở tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà có hình thức xử phạt nghiêm minh theo đúng pháp luật, công bố kết quả xét xử trên các phương tiện truyền thông đại chúng để tác động răn đe, giáo dục cũng như hỗ trợ quần chúng nhân dân tham gia phát hiện, tố giác tội phạm. Nghiên cứu xử một số vụ án điểm có bị cáo phạm tội không tố giác tội phạm có liên quan đến an ninh quốc gia, tội giết người và những tội đặc biệt nghiêm trọng khác để giáo dục, phòng ngừa chung. Thứ ba, phát hiện những sơ hở, thiếu sót hoặc những hành vi vi phạm khác có liên quan đến việc không tố giác tội phạm là nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm. Trên cơ sở đó, Tòa án kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm theo quy định tại Điều 225 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Đây là vấn đề lâu nay rất ít được Tòa án chú ý. Thứ tư, hiệu lực và hiệu quả của việc xét xử các vụ án có bị cáo phạm tội không tố giác tội phạm là ở khâu thi hành án. Trong thời gian tới, Tòa án các cấp cần rà soát lại những bản án có bị cáo phạm tội không tố giác tội phạm, đã có hiệu lực pháp luật, chưa thi hành án. Phải ra ngay quyết định thi hành án theo đúng quy định tại Điều 256 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Để thực hiện tốt các giải pháp nói trên, Tòa án các cấp cần tranh thủ sự quan tâm, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, nhất là sự lãnh đạo của Tòa án nhân dân tối cao, sự giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. Tòa án các cấp cần xây dựng cho mình ý thức thực sự cầu thị, mong muốn sự giúp đỡ và tạo điều kiện vật chất, tinh thần của chính quyền và các ngành hữu quan, nhất là các cơ quan thông tin đại chúng, nhằm giúp cho hoạt động xét xử các vụ án có bị cáo phạm tội không tố giác tội phạm được tuyên truyền kịp thời, sâu rộng, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền giám sát hoạt động của Tòa án. 3. Đối với Viện kiểm sát nhân dân Với chức năng kiểm sát hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật (Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân), góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, Viện kiểm sát nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm. Cùng với việc làm tốt chức năng kiểm sát và tuân theo pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất, Viện kiểm sát các cấp cần kiểm sát chặt chẽ việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bảo đảm việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội không tố giác tội phạm, có căn cứ pháp luật; thực hiện việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Công tác nắm tình hình tội phạm, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, cần được Viện kiểm sát các cấp quan tâm đúng mức. Để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm, ngành Kiểm sát cần tiến hành các công tác sau: Thứ nhất, cần làm tốt công tác quản lý, xử lý thông tin về tội không tố giác tội phạm; cơ quan Công an, Tòa án thông tin kịp thời các hành vi phạm tội không tố giác tội phạm cho Viện kiểm sát. Thứ hai, Viện kiểm sát ở hai cấp cần chú trọng kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án có bị can phạm tội không tố giác tội phạm; chú trọng kiểm sát xét xử các vụ án này, bố trí Kiểm sát viên có năng lực trực tiếp nghiên cứu và thực hành quyền công tố tại phiên tòa. Việc thực hành quyền công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, không làm oan người vô tội, kiến nghị và xử lý kịp thời những sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao vai trò và trách nhiệm của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, tạm giữ, tạm giam về tội không tố giác tội phạm thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình. Thứ ba, Viện kiểm sát các cấp cần phối hợp chặt chẽ với Công an, Tòa án đưa một số vụ án có bị cáo phạm tội không tố giác tội phạm xét xử lưu động tại trường học, cụm dân cư, cơ quan… để nâng cao tác dụng giáo dục cho nhân dân, động viên nhân dân tham giá phát hiện, tố giác tội phạm. Những vụ án có mức hình phạt tuyên không đúng so với quy định của pháp luật đối với người phạm tội không tố giác tội phạm, cần được Viện kiểm sát kháng nghị theo luật định. Để thực hiện tốt các giải pháp trên, Viện kiểm sát các cấp cần chú trọng công tác xây dựng ngành trong sạch, vững mạnh, từng bước kiện toàn củng cố tổ chức, rèn luyện, giáo dục phẩm chất đạo đức người cán bộ kiểm sát. Ngành Kiểm sát cần tiếp tục xây dựng, đổi mới và thực hiện lề lối làm việc chính quy, khoa học, hiện đại, trong đó chú ý chỉ đạo việc kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án có bị can, bị cáo phạm tội không tố giác tội phạm được nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Kiên quyết xử lý những cán bộ kiểm sát vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống, để ngành Kiểm sát thực sự được nhân dân tin yêu, kính trọng. 3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa Công an, Viện kiểm sát, Tòa án với các tổ chức, đoàn thể quần chúng trong trong đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm Để cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội không tố giác tội phạm nói riêng đạt được hiệu quả cao, cơ quan Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án cần thực hiện một số biện pháp sau đây: Một là, cần giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ Công an, Viện kiểm sát, Tòa án có ý thức phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, đoàn thể quần chúng trong đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh phòng chống tội phạm, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02-01-2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Hai là, phải tích cực phối hợp với các ngành hữu quan như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chính Minh... nắm tình hình phát hiện, tố giác tội phạm. Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án phải tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt quy định của Thông tư liên ngành số 03/TT- LN ngày 15-05-1992 giữa Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Tổng cục Hải quan về việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, trong đó cần rút kinh nghiệm về những biểu hiện thiếu phối hợp chặt chẽ trong khâu nắm tình hình, xử lý tin báo, tố giác về tội phạm; chỉ đạo thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về công tác tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác tội phạm thuộc chức năng, nhiệm vụ của ngành mình. Ba là, sự phối hợp hoạt động giữa Công an, Viện kiểm sát, Tòa án trong hoạt động điều tra, truy tố xét xử là biện pháp quan trọng phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội không tố giác tội phạm nói riêng; sự phối hợp này còn nhằm hạn chế và khắc phục những sai lầm của mỗi cơ quan, bảo đảm tính khách quan, chính xác trong quá trình giải quyết vu án có bị can, bị cáo phạm tội không tố giác tội phạm. Tăng cường phối hợp đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án có bị can, bị cáo phạm tội không tố giác tội phạm, nhất là các vụ án trọng điểm, phức tạp, mà dư luận quan tâm, phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của địa phương. Trong sự phối hợp hoạt động, phải bảo đảm đúng nguyên tắc, kiên quyết chống các biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu, bè phái, cục bộ. Bốn là, Bộ Công an và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã ra Nghị quyết liên tịch số 02 ngày 01-08-1998, trên cơ sở đó, Công an các địa phương và Đoàn Thanh niên cấp tương ứng đều ký kết Chỉ thị liên tịch về "Chương trình phối hợp hành động thực hiện công tác phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và bài trừ tệ nạn xã hội trong thanh, thiếu niên". Công an các địa phương và Doàn Thanh niên Cộng sản thành phố Hồ Chí Minh thành phố Hà Nội cần sơ kết, rút kinh nghiệm về chương trình phối hợp này, có sự hướng dẫn cụ thể hơn để các cấp thực hiện chương trình này tốt hơn. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cần tập trung chỉ đạo xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm và động viên đoàn viên, thanh niên tích cực tham gia phát hiện, tố giác tội phạm nói chung và phát hiện, tố giác tội phạm do thanh, thiếu niên thực hiện nói riêng. Năm là, Cơ quan Công an cần phối hợp với ngành Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn các trường có kế hoạch quản lý học sinh theo chu trình khép kín: nhà trường, gia đình, xã hội, nhằm quản lý, giáo dục học sinh, hạn chế tình trạng học sinh bỏ học, suy thoái về đạo đức. Đoàn Thanh niên Công an các cấp cần phối hợp với tổ chức Đoàn Thanh niên của nhà trường tổ chức giáo dục truyền thống, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn học sinh vi phạm pháp luật, đồng thời động viên học sinh, sinh viên tham gia phát hiện, tố giác tội phạm. Sáu là, Cơ quan Công an cần phối hợp với Ủy ban bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em có kế hoạch với nội dung, phương pháp giáo dục cụ thể, giúp trẻ em có hành vi trái pháp luật từ bỏ con đường phạm pháp, có điều kiện vừa học, vừa làm để nuôi sống bản thân. Ủy ban bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em các cấp cần chủ trì tổ chức các đợt tập huấn về phòng ngừa trẻ em vi phạm pháp luật cho cán bộ các ban, ngành; đồng thời tổ chức các buổi tọa đàm, Hội thảo về trẻ em vi phạm pháp luật và tái hòa nhập cộng đồng để nâng cao nhận thức, phổ biến kinh nghiệm hay trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội không tố giác tội phạm nói riêng. Bảy là, Cơ quan Công an cần phối hợp với ngành Lao động - Thương binh xã hội để giải quyết những vấn đề có liên quan đến người phạm tội, trong đó Công an sẽ lên danh sách, lập hồ sơ số người nghiện chất ma túy, hoạt động mại dâm để có biện pháp quản lý, giáo dục tại cộng đồng hoặc đưa vào các trại cai nghiện, các trại tập trung chữa bệnh, dạy nghề cho chị em hoạt động mại dâm chuyên nghiệp, tạo mọi điều kiện để số này tái hòa nhập cộng đồng. Tám là, Hội liên hiệp Phụ nữ các cấp chỉ đạo lồng ghép ba chương trình: phòng, chống tội phạm - phổ biến, giáo dục pháp luật - xây dựng gia đình văn hóa với công tác đấu tranh phòng chống tội không tố giác tội phạm. Công an phải phối hợp với Hội Phụ nữ các cấp phát động phong trào "nuôi con khỏe, dạy con ngoan", vận động chị em phụ nữ tham gia giúp đỡ những gia đình nghèo, khó khăn, đỡ đầu, nuôi dưỡng những em không còn cha mẹ, người thân, tham gia giáo dục các em thanh, thiếu niên hư ở cụm dân cư, tổ dân phố, thôn xóm của mình, tích cực tham gia phong trào đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm. Chín là, Công an cần phối hợp với Hội Cựu chiến binh các cấp trong việc phát huy bản chất tốt đẹp của các đồng chí cựu chiến binh để tham gia công tác giáo dục truyền thống yêu nước, đạo đức cách mạng cho lớp trẻ tại địa phương; vận động các đồng chí cựu chiến binh còn sức khỏe tham gia công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội không tố giác tội phạm nói riêng; vận động quần chúng nhân dân tham gia phát hiện, tố giác tội phạm. Ngoài ra, Công an cần phối hợp với Hội Nông dân, Hội Chữ thập đỏ, các đoàn thể quần chúng khác ở địa phương để các tổ chức này giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác giữ gìn trật tự, an toàn xã hội như Hội Chữ thập đỏ tham gia giúp đỡ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; Hội Nông dân vận động hội viên tham gia phát hiện, tố giác tội phạm; phối hợp với các Đội dân phòng, Thanh niên xung kích, xã đội, phường đội tổ chức tuần tra, canh gác ở những địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh, trật tự nhằm phát hiện, thông báo kịp thời tình hình có liên quan đến tội phạm cho các cơ quan chức năng. KẾT LUẬN 1. Tội không tố giác tội phạm là một trong những tội phạm được quy định rất sớm trong luật hình sự Việt Nam. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông non trẻ đầu tiên ở Đông Nam Á, đã tiến hành tích cực hoạt động lập pháp nói chung và hoạt động lập pháp hình sự nói riêng. Sắc lệnh số 267-SL ngày 15-06-1956 của Nhà nước ta về trừng trị những âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã, của nhân dân và cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch Nhà nước Pháp lệnh ngày 30-10-1967 trừng trị các tội phản cách mạng, Pháp lệnh ngày 21-10-1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, Pháp lệnh ngày 21-10-1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân, đều đã đề cập vấn đề động viên nhân dân tố giác tội phạm đã đề cập vấn đề tố giác tội phạm. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, Bộ luật hình sự năm 1985 đã có quy định về tội không tố giác tội phạm, đánh dấu bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự của Nhà nước ta. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, tội không tố giác tội phạm được quy định tại Điều 314. So với quy định tương ứng tại Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1985, tội không tố giác tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999 đã có những nội dung được sửa đổi, bổ sung bổ sung khoản mới (khoản 2) nhằm thu hẹp phạm vi trách nhiệm hình sự của ông, bà, cha, mẹ, con cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người có hành vi không tố giác, khi biết người thân của mình phạm tội. Quy định này được bổ sung trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống nhân văn trong pháp luật của ông cha ta. 2. Tình hình tội không tố giác tội phạm đang diễn biến phức tạp. Thực tế cho thấy, hành vi không tố giác tội phạm có thể gây ra thiệt hại cho hoạt động tư pháp và các thiệt hại khác, bởi lẽ hoạt động tư pháp có nhiệm vụ phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh tội phạm, đặc biệt các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về tham nhũng, bảo vệ trật tự kỷ cương, bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tội không tố giác tội phạm còn gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, bởi lẽ nếu được công dân tố giác kịp thời, thì tội phạm sẽ sớm được phát hiện và xử lý, cơ quan có thẩm quyền sẽ không phải hao tốn sức lực và tiền của vào việc phát hiện tội phạm. Mặt khác, do công dân không tố giác tội phạm, cho nên tội phạm sẽ có thể không được phát hiện, ngăn chặn kịp thời, gây ra những tổn thất cho Nhà nước, tổ chức và công dân. 3. Nguyên nhân và điều kiện chủ yếu của tình hình trên là do người dân chưa nhận thức đúng và đầy đủ về nghĩa vụ của mình trong việc phát hiện, tố giác tội phạm. Mặt khác, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, những quy định của pháp luật hình sự về tội không tố giác tội phạm nói riêng, còn nhiều hạn chế, kém năng động, thiếu sức thuyết phục, chưa phù hợp với từng loại đối tượng. Bên cạnh đó, những quy định của pháp luật có liên quan đến tội không tố giác tội phạm còn nhiều tồn tại, chưa đồng bộ, còn mâu thuẫn, chồng chéo, khó áp dụng thống nhất. Đáng chú ý, các cơ quan bảo vệ pháp luật còn thiếu kiên quyết, chưa nghiêm khắc trong đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm và chưa có các biện pháp hiệu quả bảo vệ người tố giác những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng như tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng… 4. Trong bối cảnh nước ta đang hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tình hình tội không tố giác tội phạm trong thời gian tới sẽ còn diễn biến phức tạp, tiếp tục gây ra những thiệt hại to lớn đối với hoạt động tư pháp. Trong thời gian tới, để đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm có hiệu quả, cần làm tốt các biện pháp cơ bản sau đây: - Cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện những quy định của pháp luật có liên quan đến tội không tố giác tội phạm cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, tình hình, diễn biến của tội không tố giác tội phạm. - Kết hợp tuyên truyền giáo dục ý thức cộng đồng, nghĩa vụ công dân, động viên quần chúng tham gia phát hiện, tố giác tội phạm với tuyên truyền phổ biến, giáo dục những quy định của pháp luật có liên quan đến tố giác tội phạm. Nội dung tuyên truyền những quy định của pháp luật có liên quan đến tội không tố giác tội phạm phải thiết thực, dễ hiểu; hình thức tuyên truyền cần đa dạng, phong phú, phù hợp với từng loại đối tượng và địa bàn dân cư, doanh nghiệp; cách làm phải thường xuyên, liên tục. - Đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm là nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài. Cần có kế hoạch và biện pháp cụ thể phù hợp với từng ngành, từng địa phương, từ việc bổ sung hoàn chỉnh cơ sở pháp lý của cuộc đấu tranh, đến việc tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật và giữa các cơ quan này với các tổ chức, đoàn thể quần chúng. Phải coi đây là cuộc đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành, đặt dưới sự lãnh đạo thường xuyên, thống nhất của các cấp ủy Đảng. Phát động phong trào quần chúng tham gia phát hiện, tố giác tội phạm, đồng thời phát huy vai trò nòng cốt của các cơ quan chức năng như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án. Trong lãnh đạo, chỉ đạo, phải luôn luôn bám sát các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến tội không tố giác tội phạm, để có những biện pháp, chủ trương sát thực, có hiệu quả. Chỉ trên cơ sở tiến hành đồng bộ các biện pháp trên, mới có thể nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội không tố giác tội phạm ở nước ta hiện nay. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi (1998), "Bộ luật hình sự của Liên bang Nga", Dân chủ và pháp luật, (4). Báo pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (2005), số 089(991), ngày 12/8. Báo pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (2005), số 098(1000), ngày 31/8 Báo pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh (2005), số 101(1003), ngày 5/9. Bộ Công an (2000), Tài liệu tập huấn chuyên sâu Bộ luật hình sự 1999, Công ty in Ba Đình, Hà Nội. Bộ luật hình sự Việt Nam (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật hình sự Việt Nam (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp (1998), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Bộ Tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội. Bộ Tư pháp (1994), Bộ luật hình sự Nhật Bản, Nguyễn Văn Hoàn (người dịch), Uông Chung Lưu (người hiệu đính), Hà Nội. Bộ Tư pháp (2000), Số chuyên đề về Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bộ Tư pháp, Bộ luật hình sự Thụy Điển, Hà Nội. Lê Cảm (1999), Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung Luật hình sự, tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Lê Cảm (2000), "Luật hình sự Việt Nam thế kỷ XV- cuối thế kỷ XVIII", Dân chủ và pháp luật. Lê Cảm (Chủ biên) (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Huy Chiểu (1972), Hình luật, Viện Đại học Sài Gòn xuất bản, Sài Gòn. Chủ tịch Hồ Chí Minh với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (2002), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1984), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Hào (1962), Bộ hình luật Việt Nam, xuất bản do sự bảo trợ của Bộ Tư pháp. Nguyễn Văn Hảo (1974), Bộ hình luật Việt Nam, Nxb Khai trí. Hiến pháp Việt Nam (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Hòa (1991), Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2000), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (1997), Giáo trình lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (1999), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần riêng), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Trần Ngọc Khuê (Chủ biên) (1998), Xu hướng biến đổi tâm lý xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vũ Thiện Kim (1982), Tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, Nxb Pháp lý, Hà Nội. V.I. Lênin (1997), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva. Lịch sử Việt Nam, tập II, "Bộ hình luật Việt Nam" (1985), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. "Luật hình sự một số nước trên thế giới" (1998), Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề. Luật hình sự Việt Nam (1997), Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Trần Kiêm Lý - Đặng Văn Doãn (1982), Tìm hiểu Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ, Nxb Pháp lý, Hà Nội. Phuthonphútthakhănty (người dịch), Kiều Đình Thụ (người hiệu đính), Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần Các tội phạm, Tập III Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình (Bình luận chuyên sâu), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc triều hình luật (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Kiều Đình Thụ (1996), Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập 1, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1979), Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, tập 2, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1998), Báo cáo tổng kết năm 1997, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Báo cáo tổng kết năm 1998, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Báo cáo tổng kết năm 1999, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tổng kết năm 2000, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết năm 2001, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết năm 2002, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết năm 2003, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết năm 2004, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết năm 2005, Hà Nội. Trường Cao đẳng Kiểm sát (1983), Hình luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phần chung, Hà Nội. Đào Trí Úc (chủ biên) (1995), Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Thông tin Khoa học xã hội (1981), Những vấn đề lý luận về luật hình sự, tố tụng hình sự và phạm học, Hà Nội. Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Võ Khánh Vinh (1996), Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đổi với các tội phạm về chức vụ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Criminal law of the people's republic of China.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26435 .doc
Tài liệu liên quan