MỞ ĐẦU
Trong thời gian qua, nền nông nghiệp nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ, đã và đang chuyển dần từ nền sản xuất tiểu nông, tự cung tự cấp sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Từ một nước phải nhập khẩu gạo, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu nông sản có thứ bậc trên thế giới: đứng thứ nhất về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về gạo, cà phê và hạt điều; đứng thứ tư về cao su và đứng thứ sáu về chè Ngoài ra còn xuất khẩu nhiều loại nông sản khác như rau quả, thịt lợn Đời sống của đại bộ phận nông dân ngày càng được cải thiện. Có được những thành tựu này là nhờ sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, sự nỗ lực của hàng chục triệu hộ nông dân và đóng góp to lớn của tất cả các ban, ngành từ trung ương đến địa phương, trong đó có hệ thống Khuyến nông Việt Nam
Hệ thống Khuyến nông Việt Nam được chính thức hình thành sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 13/CP về công tác khuyến nông, ngày 2 tháng 3 năm 1993. Sự ra đời của hệ thống Khuyến nông Việt Nam đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển nông nghiệp-nông thôn nước ta. Qua hơn mười năm hoạt động, khuyến nông đã có những đóng góp to lớn trong quá trình phát triển nông nghiệp, nâng cao dân trí và trình độ kỹ thuật cho nông dân.
Hầu hết các giống cây, con mới trong sản xuất hiện nay, chủ yếu do kênh khuyến nông (khuyến nông nhà nước, khuyến nông tự nguyện) chuyển giao và tham gia phát triển, làm tăng nhanh năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi. Đảng và Nhà nước đã đánh giá cao hoạt động của Khuyến nông Việt Nam; Chủ tịch nước đã tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba năm 1998 và Huân chương Lao động hạng Nhì sau 10 năm hoạt động (năm 2003).
Bộ Nông nghiệp và PTNT tổng kết hoạt động Khuyến nông Việt Nam từ 1993 đến 2005, nhằm đánh giá kết quả công tác khuyến nông thời gian qua và định hướng hoạt động cho giai đoạn từ năm 2006 đến 2010.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Phần thứ nhất
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1993-2004 - QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG THÀNH TỰU
I. Tổ chức hệ thống khuyến nông
II. Chính sách khuyến nông
1. Chính sách tài chính
2. Xã hội hóa công tác khuyến nông
III. Kết quả hoạt động khuyến nông
1. Xây dựng các mô hình trình diễn (28 chương trình)
2. Thông tin, đào tạo và tăng cường năng lực
3. Hợp tác quốc tế về khuyến nông
4. Các hoạt động khác
1. Tham gia nghiên cứu khoa học và phối kết hợp giữa khoa học và khuyến nông.
2. Tư vấn-dịch vụ khuyến nông
3. Thi đua, khen thưởng
IV. Đánh giá chung về công tác khuyến nông giai đoạn 1993-2004 24
Phần thứ hai
ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC KHUYẾN NÔNG
GIAI ĐOẠN 2005-2010
I. Mục tiêu
II. Nội dung
1.Thông tin tuyên truyền
2. Bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo
3. Xây dựng mô hình trình diễn và chuyển giao khoa hoc công nghệ
4. Tư vấn và dịch vụ khuyến nông
III. Các giải pháp
1. Quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực
2. Chính sách tài chính khuyến nông
3. Khoa học công nghệ
4. Hợp tác quốc tế .
5. Xã hội hóa khuyến nông
38 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1926 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng kết hoạt động khuyến nông giai đoạn 1993-2005 và định hướng từ 2006 đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA
BÁO CÁO
TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
GIAI ĐOẠN 1993-2005 VÀ ĐỊNH HƯỚNG
TỪ 2006 ĐẾN 2010
HÀ NỘI- THÁNG 7 - 2005
MỞ ĐẦU
Trong thời gian qua, nền nông nghiệp nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ, đã và đang chuyển dần từ nền sản xuất tiểu nông, tự cung tự cấp sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Từ một nước phải nhập khẩu gạo, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu nông sản có thứ bậc trên thế giới: đứng thứ nhất về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về gạo, cà phê và hạt điều; đứng thứ tư về cao su và đứng thứ sáu về chè… Ngoài ra còn xuất khẩu nhiều loại nông sản khác như rau quả, thịt lợn… Đời sống của đại bộ phận nông dân ngày càng được cải thiện. Có được những thành tựu này là nhờ sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, sự nỗ lực của hàng chục triệu hộ nông dân và đóng góp to lớn của tất cả các ban, ngành từ trung ương đến địa phương, trong đó có hệ thống Khuyến nông Việt Nam
Hệ thống Khuyến nông Việt Nam được chính thức hình thành sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 13/CP về công tác khuyến nông, ngày 2 tháng 3 năm 1993. Sự ra đời của hệ thống Khuyến nông Việt Nam đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển nông nghiệp-nông thôn nước ta. Qua hơn mười năm hoạt động, khuyến nông đã có những đóng góp to lớn trong quá trình phát triển nông nghiệp, nâng cao dân trí và trình độ kỹ thuật cho nông dân. Hầu hết các giống cây, con mới trong sản xuất hiện nay, chủ yếu do kênh khuyến nông (khuyến nông nhà nước, khuyến nông tự nguyện) chuyển giao và tham gia phát triển, làm tăng nhanh năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi. Đảng và Nhà nước đã đánh giá cao hoạt động của Khuyến nông Việt Nam; Chủ tịch nước đã tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba năm 1998 và Huân chương Lao động hạng Nhì sau 10 năm hoạt động (năm 2003).
Bộ Nông nghiệp và PTNT tổng kết hoạt động Khuyến nông Việt Nam từ 1993 đến 2005, nhằm đánh giá kết quả công tác khuyến nông thời gian qua và định hướng hoạt động cho giai đoạn từ năm 2006 đến 2010.
PHẦN THỨ NHẤT
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1993-2005 - QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG THÀNH TỰU
I. Tổ chức hệ thống khuyến nông
1. Ở trung ương
Khi mới thành lập (năm 1993) Cục Khuyến nông và Khuyến lâm với biên chế 58 người vừa làm nhiệm vụ khuyến nông vừa làm nhiệm vụ quản lí nhà nước về trồng trọt và chăn nuôi. Đến tháng 4 năm 2002 Bộ Nông nghiệp-PTNT quyết định thành lập Trung tâm Khuyến nông Trung ương (với 10 biên chế) trực thuộc Cục Khuyến nông và Khuyến lâm, chuyên làm nhiệm vụ khuyến nông. Trước tình hình mới và nhu cầu của sản xuất, ngày 18 tháng 7 năm 2003 Chính phủ ban hành Nghị định 86/CP cho phép tách Cục Khuyến nông và Khuyến lâm thành hai đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp-PTNT. Đó là Trung tâm Khuyến nông Quốc gia chuyên làm nhiệm vụ sự nghiệp khuyến nông (bao gồm: khuyến nông; khuyến lâm; khuyến thuỷ nông; khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác, ngành nghề nông thôn, bảo quản, chế biến nông lâm sản và nghề muối) và Cục Nông nghiệp chuyên làm nhiệm vụ quản lí nhà nước về trồng trọt và chăn nuôi. Khi mới tách ra, biên chế của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia gồm 20 người, hiện nay là 37 người.
2. Ở địa phương
Ngay từ khi có Nghị định 13/CP của Chính phủ ở tất cả 64 tỉnh, thành trong cả nước đều thành lập trung tâm khuyến nông trực thuộc sở nông nghiệp và PTNT. Theo số liệu năm 2004, tổng số cán bộ khuyến nông ở cấp tỉnh là 1.446 người, bình quân mỗi trung tâm khuyến nông tỉnh có 22,6 người. Số huyện có trạm khuyến nông là 520 trong tổng số 637 (chiếm 81%). Một số huyện chưa có trạm khuyến nông như Cao Bằng, Ninh Bình, Đà Nẵng hoặc có ít trạm khuyến nông như Hà Nam (có 1 trạm trong số 6 huyện của tỉnh); Cà Mâu (có 2 trạm trong số 8 huyện); Bạc Liêu (3 trạm trong số 6 huyện)... Mô hình tổ chức của các trạm khuyến nông huyện rất khác nhau : tại 30 tỉnh trạm khuyến nông huyện trực thuộc trung tâm khuyến nông tỉnh (quản lý theo ngành dọc); 21 tỉnh trạm khuyến nông trực thuộc UBND huyện (quản lý theo cấp) và 13 tỉnh có trạm khuyến nông nằm trong phòng nông nghiệp huyện. Lực lượng cán bộ khuyến nông cấp huyện bao gồm 1.716 người, bình quân mỗi trạm huyện có 3,3 người. ỏ hầu hết các tỉnh, đội ngũ cán bộ khuyến nông cấp huyện làm chuyên trách về công tác khuyến nông, nhưng ở một số tỉnh như Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đăk Nông, Lâm Đồng, Ninh Bình, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng… khuyến nông cấp huyện trực thuộc UBND huyện hoặc nằm trong phòng nông nghiệp huyện, làm chung cả công tác khuyến nông và quản lý nhà nước về nông nghiệp.
Cấp xã có khuyến nông viên cơ sở với 7.434 người tại 10.502 xã sản xuất nông nghiệp, chiếm 70,7% (10.502/14.854). Bình quân mỗi xã, phường có 0,7 người. Cấp thôn, bản có 3.918 câu lạc bộ khuyến nông với 176.300 hội viên do nông dân tự nguyện lập ra theo hướng dẫn của khuyến nông nhà nước.
Như vậy, ngành khuyến nông có 3.162 cán bộ khuyến nông chuyên trách (làm công tác khuyến nông, hưởng lương ngân sách nhà nước) và 7.434 cán bộ khuyến nông không chuyên trách, cùng với 176.300 hội viên khuyến nông thuộc các câu lạc bộ khuyến nông. Tính đến tháng 12 năm 2004, cả nước có trên 11,5 triệu hộ nông dân, tính ra trên 3.650 hộ mới có một khuyến nông chuyên trách và trên 1.550 hộ có một khuyến nông không chuyên trách.
Thời gian qua hệ thống tổ chức khuyến nông đã phát triển sâu rộng từ trung ương tới địa phương. Lực lượng khuyến nông phát triển mạnh mẽ ở tất cả các cấp, từ vài trăm người (năm 1993) đến hàng nghìn người (năm 2005). Chất lượng cán bộ khuyến nông ngày càng được củng cố và tăng cường; năng lực và phương pháp khuyến nông ngày càng nâng cao, cải tiến.
Tuy nhiên, hệ thống tổ chức khuyến nông ở địa phương hiện nay phát triển tự do, chưa có sự hướng dẫn cụ thể; một số tỉnh nhập trạm khuyến nông huyện vào phòng nông nghiệp làm chung quản lí nhà nước và khuyến nông là không hợp lí, làm giảm sức mạnh công tác khuyến nông cũng như quản lí nhà nước tại địa phương.
Lực lượng khuyến nông còn quá mỏng ở trung ương cũng như ở cơ sở và thiếu so với nhu cầu. Nhiều xã vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người ở một số tỉnh thuộc vùng Trung du Miền Núi phía Bắc và Tây Nguyên không có hoặc có rất ít khuyến nông viên. Hầu hết khuyến nông viên cơ sở ở nhiều vùng sâu vùng xa không phải là người địa phương vì không có nguồn tại chỗ, nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình làm việc, giao tiếp và chia sẻ kinh nghiệm với nông dân. Nguyên nhân chính là kinh phí còn khó khăn; chưa có chính sách hợp lý về công tác khuyến nông.
Trình độ cán bộ khuyến nông còn nhiều bất cập, chưa được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ khuyến nông. Hầu hết là cán bộ kĩ thuật được tập huấn qua lớp nghiệp vụ khuyến nông ngắn hạn ở trong nước. Khuyến nông viên cơ sở chủ yếu dựa vào lực lượng cán bộ địa phương và một số nông dân chủ chốt có tâm huyết với sản xuất nông nghiệp và đa số chưa được tập huấn về nghiệp vụ khuyến nông.
II. Chính sách khuyến nông
1. Chính sách tài chính
Ngay từ khi mới thành lập, Khuyến nông Việt nam đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư kinh phí cho xây dựng lực lượng, tăng cường năng lực cũng như kinh phí cho hoạt động hàng năm. Nguồn kinh phí được cấp từ ngân sách trung ương, thông qua các cơ quan chức năng của Bộ Nông nghiệp & PTNT và một phần từ ngân sách địa phương, do các tỉnh, thành phân bổ, dùng vào việc chi trả lương, hoạt động của bộ máy và thực hiện một số chương trình khuyến nông địa phương.
Kinh phí hoạt động cấp theo các chương trình khuyến nông được phê duyệt, khi mới thành lập (1993) đã được Chính phủ đầu tư hỗ trợ 1,268 tỷ đồng, con số này tăng lên 97,8 tỷ (2005), bình quân năm sau tăng hơn năm trước 8,04 tỷ đồng tương đương trên 12%. Trung bình mỗi hộ nông dân được hưởng gần 8.500 đồng kinh phí khuyến nông (2005). Kinh phí khuyến nông bao gồm nhiều hạng mục, có sự hỗ trợ khác nhau giữa các vùng, miền: miền núi và vùng khó khăn hỗ trợ giống 60%, vật tư 40% và đồng bằng, tương ứng là 40% và 20%.
Trong nhiều năm qua, việc quản lý kinh phí khuyến nông ở trung ương còn phân tán, giao cho nhiều đơn vị : Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Cục Chế biến Nông lâm sản và Nghề muối, Cục Phát triển Lâm Nghiệp, Cục Nông nghiệp ….Cơ chế tài chính khuyến nông cũng chưa thống nhất, ví dụ, khuyến nông cho người nghèo trong Chương trình 135 do Cục Nông nghiệp và Cục HTX & Phát triển nông thôn quản lý, có cơ chế hỗ trợ 100% vật tư, nhưng cũng là khuyến nông xóa đói giảm nghèo do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia quản lý thì chỉ được hỗ trợ bình quân 50%. Thêm vào đó, việc cấp và quyết toán kinh phí theo chương trình hàng năm cũng gây khó khăn và làm giảm hiệu quả hoạt động khuyến nông.
Các tỉnh đều quan tâm đầu tư và có chính sách đối với khuyến nông viên cơ sở nhằm khuyến khích phát triển công tác khuyến nông. Tuy nhiên, việc áp dụng chế độ chính sách cho công tác khuyến nông và cán bộ khuyến nông ở các địa phương còn rất khác nhau và chưa hợp lí, nhất là chế độ phụ cấp cho khuyến nông viên cơ sở. Có tỉnh trả phụ cấp 50.000đồng-100.000đồng /tháng như Nghệ An...; có tỉnh trả 300.000 đồng/tháng như An Giang... Phụ cấp trách nhiệm của giám đốc trung tâm khuyến nông tỉnh cũng có nhiều loại : 0,3-0,4 ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, miền Trung và 0,5 ở hầu hết các tỉnh miền Nam. Nguyên nhân chủ yếu là chưa có văn bản hướng dẫn chính thức của trung ương. Mặt khác, một số cán bộ có trách nhiệm ở địa phương còn nhận thức chưa đầy đủ về công tác khuyến nông.
Tất cả những tồn tại và bất cập nêu trên là khó khăn và là lực cản không nhỏ trong quá trình phát triển đi lên của công tác khuyến nông Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả phục vụ sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn.
2. Xã hội hóa công tác khuyến nông
Trong thời gian qua, công tác khuyến nông đã từng bước được xã hội hoá và xu thế này ngày càng phát triển mạnh, có tác dụng thúc đẩy và góp phần to lớn vào thành công của các hoạt động khuyến nông. Các đơn vị tham gia hoạt động khuyến nông được hỗ trợ tổng kinh phí trên 34,56 tỉ đồng. Đã thực hiện 497 mô hình trồng trọt với trên 9311 ha, 92 mô hình chăn nuôi với 663.378 con, mở 373 lớp tập huấn nghiệp vụ khuyến nông cho 24.000 lượt người, thực hiện 34 chuyên đề tuyên truyền trên đài, báo, tạp chí phát hành trên toàn quốc, tổ chức hoạt động 10 câu lạc bộ khuyến nông, in và phát hành 6 cuốn sách và 2.000 tài liệu kỹ thuật, tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo.
Đến nay có 112 đơn vị, bao gồm các cơ quan nghiên cứu, đào tạo, các hiệp hội và đoàn thể, báo, đài và các tạp chí…tham gia hoạt động khuyến nông và có thể được xếp vào 3 khối
2. 1. Khối nghiên cứu, đào tạo
Ưu thế của khối này là có lực lượng, có trình độ nên quá trình chuyển giao mô hình khuyến nông cây, con và tập huấn nông dân có nhiều thuận lợi, mang lại kết quả cao. Nhờ tham gia công tác khuyến nông nên các đơn vị này cũng có nhiều điều kiện thuận lợi để chuyển giao nhanh các kết quả nghiên cứu của mình vào sản xuất, đồng thời thúc đẩy, hỗ trợ trở lại công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo.
Kinh phí nghiên cứu đào tạo dành cho công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật còn nhiều vướng mắc về cơ chế tài chính, vì vậy các viện, trường dựa vào nguồn kinh phí khuyến nông trung ương là chính. Một số mô hình chưa vào được sản xuất là do nội dung chưa phù hợp với điều kiện địa phương và thị trường. Một vài trường hợp đã sử dụng kinh phí khuyến nông chưa hợp lý và hiệu quả thấp.
2.2. Khối hội, đoàn thể, câu lạc bộ khuyến nông, nhóm sở thích
Là nơi tập hợp, đoàn kết, động viên nông dân trong qúa trình thực hiện, triển khai các chương trình khuyến nông, góp phần chuyển giao mô hình cây, con và đào tạo tập huấn cho nông dân, làm phong phú và đa dạng các hoạt động khuyến nông.
Thông qua các chương trình phối hợp hoạt động về khuyến nông đã góp phần khẳng định một hướng đi đúng trong quá trình đổi mới phương thức hoạt động của các hội, đoàn thể. Đó là gắn việc vận động với việc hỗ trợ hội viên nông dân trong phát triển sản xuất, nâng cao năng lực tổ chức sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho các hội viên
Hạn chế của khối hội, đoàn thể là lực lượng không đủ, còn yếu, thiếu về chuyên môn nên thường phải phối hợp lại với các trung tâm khuyến nông tỉnh, các đơn vị nghiên cứu và đào tạo trong quá trình triển khai các chương trình khuyến nông. Nguồn kinh phí cho khuyến nông chủ yếu dựa vào ngân sách khuyến nông trung ương.
Tuy hiện nay có gần 4.000 câu lạc bộ khuyến nông nhưng nhìn chung hiệu quả hoạt động chưa cao : 40% hoạt động bình thường và 30% không hoạt động, chỉ còn là hình thức. Chỉ có 30% số câu lạc bộ khuyến nông hoạt động có hiệu quả
2.3. Khối thông tin đại chúng
Khối thông tin đại chúng có thế mạnh là thông tin nhanh tới số đông nông dân và có hiệu quả thiết thực, động viên kịp thời, góp phần thúc đẩy nhanh phát triển nông nghiệp- nông thôn và công tác khuyến nông.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động còn hạn chế vì chưa có đủ kiều kiện về thời gian và phương tiện để thâm nhập thực tế sản xuất.
III. Kết quả hoạt động khuyến nông
1. Xây dựng các mô hình trình diễn
1.1. Chương trình khuyến nông cây trồng nông nghiệp
Khuyến nông cây trồng nông nghiệp đã tập trung vào các chương trình khuyến nông trọng điểm được Chính phủ phê duyệt và đã đáp ứng nhu cầu của người dân. Nhiều tiến bộ kỹ thuật mới được chuyển tải đến nông dân và được áp dụng rộng rãi vào sản xuất thông qua xây dựng các mô hình trình diễn. Sau đây là một số chương trình điển hình, có hiệu quả rõ rệt nhất :
a. Chương trình khuyến nông sản xuất hạt giống lúa lai F1
Nhờ thực hiện phương châm “đi tắt đón đầu, vừa triển khai vừa nghiên cứu", đã áp dụng thành công quy trình công nghệ sản xuất hạt giống F1 của thế giới cho một số tổ hợp lai: Nhị ưu 838, Nhị ưu 63, Bác ưu 64, D ưu 527…, đạt mục tiêu đề ra, đồng thời tiết kiệm cho Nhà nước hàng trăm tỷ đồng.
Chương trình đã được hỗ trợ 27,385 tỉ đồng, triển khai ở 26 tỉnh, thu hút trên 88.260 hộ nông dân tham gia, với tổng diện tích trên 8.000 ha (cộng dồn qua các năm). Những năm đầu mới triển khai, diện tích không quá 100 ha, năng suất chỉ đạt 300 kg/ha, giống sản xuất ra chất lượng không cao. Trong những năm gần đây (2000 – 2004) diện tích sản xuất hạt lúa lai F1 mỗi năm trên 1.500 ha, năng suất bình quân 2.500 kg/ha, chất lượng hạt giống tốt, đạt tiêu chuẩn quốc gia.
Một số tỉnh có diện tích sản xuất lớn là: Thanh Hoá, Quảng Nam, Nam Định. Từ chỗ chúng ta phải hoàn toàn nhập nội hạt giống, đến nay đã tự túc được khoảng 25% nhu cầu và việc sản xuất hạt giống lúa lai trong nước có tác dụng khống chế được giá giống nhập nội, kiểm soát được chất lượng hạt giống, giá thành 1 kg thóc giống sản xuất trong nước chỉ bằng 1/2 so với giá nhập nội.
b. Chương trình khuyến nông phát triển lúa lai thương phẩm
Song song với việc phát triển sản xuất hạt giống lúa lai F1, chương trình phát triển lúa lai thương phẩm cũng được mở rộng. Đến nay phong trào đã phát triển ở 39 tỉnh, thành phố, năng suất bình quân đạt 65 tạ/ha, cá biệt có những nơi đạt trên 90 tạ/ha. Các mô hình trình diễn đã thu hút hàng chục vạn người đến tham quan học tập. Nhờ đó việc phát triển lúa lai thương phẩm đã mở ra nhanh chóng và thành chủ trương, chính sách của Bộ Nông nghiệp & PTNT và các địa phương. Từ năm 1993 đến nay chương trình khuyến nông đã hỗ trợ 8,114 tỷ đồng, xây dựng được 2.258.335 ha trình diễn (diện tích cộng dồn). Trong những năm gần đây diện tích gieo cấy lúa lai thương phẩm đạt từ 530 – 630 ngàn ha, năng suất bình quân tăng so với lúa thuần 10 – 15 tạ/ha. Như vậy, nhờ phát triển lúa lai đã làm tăng sản lượng lúa lên 700.000 tấn/năm (tương đương 1.260 tỷ đồng/năm). Địa bàn phát triển lúa lai thương phẩm không ngừng mở rộng không chỉ ở Đồng bằng sông Hồng, Trung du Miền Núi phía Bắc mà còn mở rộng ra các tỉnh Duyên hải Miền Trung và Tây Nguyên.
Tại hội nghị tổng kết về lúa lai 10 năm qua, các nhà khoa học và các nhà quản lý đều đánh giá phát triển lúa lai là định hướng đúng, không chỉ là một trong những biện pháp để nâng cao năng suất và sản lượng lúa, nhằm bảo đảm an ninh lương thực trong nước và xuất khẩu mà còn góp phần tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
c. Chương trình khuyến nông phát triển lúa chất lượng
Chương trình mới bắt đầu triển khai trong những năm gần đây, tập trung tại hai vùng sản xuất lúa chính là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long, nhằm ổn định vùng sản xuất lúa hàng hoá có chất lượng cao, bảo đảm nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Từ kết quả nghiên cứu, chọn tạo và nhập nội một số giống lúa có chất lượng cao, khuyến nông đã tập trung tổ chức xây dựng mô hình trình diễn và nhân nhanh các giống lúa: Bắc Thơm 7, Hương Thơm 1, các giống lúa P, nhóm lúa đặc sản (Tám Xoan, Dự Hương, Nếp Cái Hoa Vàng, Nàng Hương chợ Đào), OM1490, OMSC2000, VND.95-20, MTL.250 ... để cung cấp cho nông dân. Chương trình khuyến nông được hỗ trợ 16,317 tỉ đồng, đã tổ chức sản xuất, nhân giống được trên 23.000 ha, thu hút khoảng 100.000 hộ nông dân tham gia và đã cung cấp cho sản xuất trên 70.000 tấn hạt giống bảo đảm chất lượng, nhờ đó đã góp phần ổn định và hình thành vùng sản xuất lúa có chất lượng cao, phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước (1,3 triệu ha). Song song với việc nhân giống lúa, chương trình còn ứng dụng kỹ thuật thâm canh nhằm vừa tăng chất lượng vừa tăng sản lượng. Sản xuất lúa chất lượng cho hiệu quả kinh tế cao hơn lúa thường từ 500-700 đồng/kg.
d. Chương trình khuyến nông chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ
Nội dung cơ bản của chương trình là chuyển một phần diện tích trồng lúa hiệu quả kinh tế thấp sang trồng các cây trồng khác như: ngô, lạc, đậu tương, rau, bông... có hiệu quả kinh tế cao hơn ở tất cả các tỉnh, đặc biệt là các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Tăng thêm một vụ lúa trên chân đất ngọt hoá bán đảo Cà Mau; tăng thêm một vụ màu trên chân đất bỏ hoá ở các tỉnh Miền Núi phía Bắc; tăng thêm vụ rau xuân, đậu tương hè trên chân đất 2 vụ lúa + 1 vụ đông.…..ở nhiều vùng khác. So với chế độ canh tác cũ, chế độ canh tác mới đều cho thu nhập tăng từ 2–3 triệu đồng/ha, cá biệt có những mô hình tăng hơn 10 triệu đồng/ha trên diện rộng như: mô hình tăng thêm một vụ trên chân đất 2 vụ lúa hoặc 2 vụ lúa – 2 vụ rau ở Đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung bộ, Đồng bằng sông Cửu Long.
Chương trình được hỗ trợ kinh phí 12,498 tỉ đồng để triển khai 6.410 ha mô hình, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ. Đến nay đã có trên 600.000 ha chuyển đổi theo chế độ canh tác mới, đang được các địa phương áp dụng rộng rãi và đã trở thành chủ trương, định hướng trong phát triển sản xuất, để hình thành cánh đồng 50 triệu đồng/ha và hộ nông dân thu nhập 50 triệu đồng/năm.
đ. Chương trình khuyến nông phát triển ngô lai
Chương trình khuyến nông phát triển ngô lai được ngân sách hỗ trợ 10,046 tỉ đồng, triển khai ở quy mô trên 12.000 ha (bao gồm sản xuất hạt giống và thâm canh) với gần 9.000 hộ nông dân tham gia. Đến nay hầu hết các tỉnh trong cả nước đã làm chủ được quy trình công nghệ sản xuất hạt giống, tiêu biểu là: Sơn La, Lai Châu, Hà Tây, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Long An, Đồng Nai, Tây Ninh, Quảng Ninh. Năng suất bình quân đạt 2 – 2,5 tấn/ha; giá thành 1 kg hạt giống chỉ bằng 1/2 so với giá giống nhập nội cùng chủng loại và phẩm cấp. Các giống được sử dụng trong mô hình là VN10, LVN20, HQ2000, 9698, DK888, DK999, C919... Từ chỗ phải hoàn toàn nhập nội hạt giống, chúng ta đã tự sản xuất được hạt giống ngô lai, hàng năm không phải bỏ khoảng 20 triệu USD để nhập hạt giống ngô từ nước ngoài.
Chương trình phát triển ngô lai đã nâng cao năng suất ngô lên đáng kể. Từ chỗ năng suất ngô chỉ đạt 21,1 tạ/ha năm 1995, đến năm 2004 đã đạt được trên 32 tạ/ha, tăng 52,6%. Tỉ lệ sử dụng ngô lai trong sản xuất ngày một tăng nhanh, năm 1992 chỉ đạt 20%, năm 2004 đạt trên 80% diện tích. Đây là một trong những chương trình khuyến nông được đánh giá là đem lại hiệu quả kinh tế cao và được nông dân áp dụng rộng rãi vào sản xuất.
e. Chương trình khuyến nông phát triển cây ăn quả
Chương trình đã tập trung vào các nội dung: cải tạo vườn tạp, xây dựng vườn giống tốt, xây dựng vườn cây ăn quả thâm canh, với kinh phí hỗ trợ là 24,3 tỉ đồng. Thông qua chương trình này đã ứng dụng thành công công nghệ nhân giống chất lượng như: ghép đoạn cành đối với nhãn, vải…vi ghép đỉnh sinh trưởng đối với cây có múi (cam, quýt, bưởi), nhân dứa Cayene bằng cách nhân chồi nách và giâm hom thân. Đồng thời chương trình tổ chức thi bình tuyển, chọn lọc, nhân giống, nhập nội đối với những giống có chất lượng cao để nhân nhanh ra sản xuất như: bưởi Phúc Trạch, bưởi Da Xanh, bưởi Năm Roi, xoài cát Hoà Lộc, xoài cát Chu, nhãn lồng Hưng Yên, cam Xã Đoài, quýt Chum… Chương trình cũng chuyển giao thành công những tiến bộ kỹ thuật mới và được áp dụng rộng rãi vào sản xuất như kỹ thuật đốn tỉa, bảo quản, sử dụng chất điều hoà sinh trưởng để kích thích cây ra hoa, đậu quả trái vụ nhằm rải vụ thu hoạch, tăng hiệu quả sản xuất.
Ngoài các kết quả nêu trên, chương trình khuyến nông cây ăn quả còn góp phần chuyển biến nhận thức của nông dân, tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất, góp phần hình thành những vùng cây ăn quả tập trung chuyên canh, khai thác lợi thế của từng vùng.
f. Chương trình khuyến nông phát triển cây công nghiệp dài ngày
Những mô hình khuyến nông về cây công nghiệp dài ngày đã được triển khai ở 45 tỉnh, thành, thu hút trên 15.000 hộ nông dân tham gia với kinh phí 39,8 tỉ đồng trên tổng diện tích mô hình là 10.031 ha. Nội dung của chương trình là phổ cập nhanh các tiến bộ kỹ thuật mới về giống, xây dựng vườn ươm, kỹ thuật canh tác nhằm nâng cao năng suất, cung cấp nguyên liệu cho nhà máy chế biến, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nông dân. Chương trình khuyến nông đã cung cấp cho sản xuất hàng chục triệu cây giống tốt đảm bảo chất lượng như: một số giống chè có chất lượng cao (LDP1, LDP2, TRI777); giống cao su (PB235, PB255, VM515, GT1, RRIM 600...) và đã đưa vào sản xuất một số dòng điều thấp cây cho năng suất cao.
Chương trình khuyến nông cây công nghiệp dài ngày là một chương trình kinh tế-xã hội lớn có hiệu quả kinh tế cao, diện tích nhanh chóng được mở rộng, nên đã góp phần ổn định vùng nguyên liệu, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu nông dân.
g. Chương trình khuyến nông phát triển cây công nghiệp ngắn ngày
Nội dung của chương trình là nhân nhanh các giống mới có năng suất và chất lượng cao, phổ cập các tiến bộ kỹ thuật mới trong sản xuất. Đến nay chương trình đã cung cấp cho sản xuất hàng trăm nghìn tấn các loại giống có chất lượng tốt như giống lạc L14, MD7, MD9...; giống đậu tương ĐT84, DT94, DT95, DT99...; giống mía ROC1, ROC10, ROC16, Quế đường 15, Quế đường 11.….
Điểm nổi bật của chương trình là nhờ có bộ giống mới có thời gian sinh trưởng thích hợp cho việc luân canh, thâm canh, tăng vụ, rải vụ nên đã và đang được áp dụng rộng rãi vào sản xuất, góp phần nâng cao năng suất đáng kể. Đó là kỹ thuật trồng lạc che phủ ni lông, trồng lạc thu đông….Sử dụng kỹ thuật trồng lạc che phủ ni-lông làm tăng năng suất từ 20 – 25% so với không che phủ.
Đánh giá chung về chương trình khuyến nông cây trồng nông nghiệp :
- Về cây lương thực : đã phát huy sáng tạo, năng động về sử dụng những giống mới chất lượng cao, những giống có ưu thế lai, đặc biệt là lúa lai, ngô lai … phục vụ chiến lược phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và nông sản hàng hoá xuất khẩu
- Về cây công nghiệp và một số cây ăn quả có ý nghĩa quan trọng : xây dựng được những vườn giống cây đầu dòng, từ những vườn cây này cung cấp thực liệu nhân giống, mỗi năm sản xuất được hàng triệu cây giống chất lượng cao phục vụ sản xuất. Thông qua chương trình đã ứng dụng, nhân rộng thành công công nghệ nhân giống tiên tiến. Mô hình đã trở thành địa chỉ tin cậy cung cấp giống tốt cho sản xuất
- Chương trình khuyến nông đã tham gia bình tuyển, chọn lọc được nhiều giống tốt bản địa, giống nhập khẩu để phục vụ sản xuất, tự túc giống như ngô lai, lúa lai, bông, đậu đỗ, mía…Chương trình cũng chuyển giao nhiều quy trình khoa học công nghệ vào sản xuất và nâng cao tay nghề cho nông dân
1.2. Chương trình khuyến lâm
Chương trình khuyến lâm được triển khai ở Cục Khuyến nông-Khuyến lâm từ 1993 đến 2000, ở Cục Lâm nghiệp từ 2001 đến 2004 và ở Trung tâm Khuyến nông Quốc gia từ 2005. Sở dĩ có sự thay đổi nhiều là do biến động về tổ chức của Bộ Nông nghiệp và PTNT
Mục tiêu chương trình là :
- Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật gây trồng các loài cây lâm nghiệp chất lượng vào sản xuất;
- Góp phần chuyển diện tích đất dốc ở vùng núi do phá rừng làm nương rẫy nhiều năm vào canh tác có hiệu quả và tăng độ che phủ của rừng ở miền núi;
- Nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ và quản lý rừng phát triển bền vững; giúp nông dân tăng thu nhập từ rừng, ổn định cuộc sống, góp phần phát triển nghề rừng.
Chương trình được hỗ trợ 42,6 tỉ đồng trên tổng diện tích xây dựng mô hình là 19.940 ha với 20.804 hộ tham gia. Nổi bật là một số chương trình :
a. Chương trình trồng tre lấy măng
Chương trình đã triển khai ở 38 tỉnh thành trong cả nước, xây dựng nhiều mô hình trên 1.364 ha gồm các loại: Bát Độ, Điền Trúc, Lục Trúc, Mạnh Tông.... năng suất bình quân đạt 15-20 tấn măng tươi/ha. Đa số các hộ trồng tre có thu nhập từ sản xuất giống tre trong giai đoạn đầu.
b. Chương trình trồng cây nguyên liệu giấy
Đã xây dựng được 10.628 ha mô hình, gồm các loài cây: bạch đàn lai, keo lai tại vùng nguyên liệu các nhà máy giấy của trung ương và địa phương, 80% nông hộ vùng nguyên liệu giấy đã sử dụng giống cây mới (keo lai, bạch đàn lai …) sản xuất bằng mô, hom để trồng rừng nguyên liệu, góp phần tăng năng suất trồng rừng từ 1,5 đến 2 lần so với các loài cây cũ. Các tỉnh ven biển đã đa dạng hoá cây phòng hộ ven biển chắn gió và cát bay cụ thể: phi lao lai Trung Quốc được trồng trên hầu hết các tỉnh ven biển miền Trung.
c. Chương trình trồng cây đặc sản
Triển khai trên diện tích 1.994 ha, bao gồm các loài cây chủ yếu: thảo quả, sa nhân, dẻ ván, trám ghép, các loài cây làm dược liệu dưới tán rừng ở hầu hết các tỉnh miền núi. Nhiều hộ nông dân các tỉnh miền núi đã phát triển chương trình trồng cây lâm nghiệp đặc sản, đặc biệt nông dân Miền Núi phía Bắc, có thu nhập bình quân 20-30 triệu đồng/năm, có hộ thu nhập 50-60 triệu đồng/ha từ thảo quả, sa nhân dưới tán rừng.
Song song với việc xây dựng các mô hình khuyến lâm, chương trình đào tạo, tập huấn cho cán bộ, khuyến nông viên và hộ nông dân làm khuyến lâm đã được triển khai, tạo chuyển biến mạnh mẽ và thu hút được hơn 15.000 lượt người tham gia; qua đó đã thực sự giúp họ làm nghề rừng có hiệu quả hơn, đời sống ổn định hơn.
Đánh giá chung là các chương trình khuyến lâm:
Đã thực hiện đúng mục tiêu; giúp chuyển biến được nhận thức của người dân miền núi từ chỗ chỉ biết khai thác, lợi dụng rừng, sang kinh doanh tổng hợp, tạo thu nhập từ đất rừng, đồng thời tái tạo lại rừng đảm bảo lợi ích cho toàn xã hội.
Chương trình khuyến lâm mang lại cả hai mục đích: kinh tế và môi trường. Tuy nhiên một số tiến bộ kỹ thuật lâm nghiệp chưa thực sự đến người dân miền núi. Một số mô hình chưa thể hiện rõ kết quả, tính thuyết phục chưa cao, chưa được nông dân tự nhân rộng. Khuyến lâm vẫn thiếu tiến bộ kỹ thuật để chuyển giao cho người nghèo.
1.3. Chương trình khuyến nông chăn nuôi
Chương trình khuyến nông chăn nuôi đã đóng vai trò quan trọng trong việc cải tiến, nâng cao năng suất, chất lượng giống vật nuôi và sản phẩm chăn nuôi. Dưới đây là một số chương trình khuyến nông chăn nuôi đạt kết quả tốt :
a. Chương trình khuyến nông chăn nuôi lợn hướng nạc
Tính từ năm 1993 đến 2005, chương trình khuyến nông chăn nuôi lợn hướng nạc đã thu hút trên 13.000 hộ gia đình nông dân tham gia ở 40 tỉnh, thành phố. Số lợn nuôi trong chương trình là 32.786 con (bao gồm cả lợn cái, lợn đực ngoại và lợn nái lai nhiều máu ngoại).
Kinh phí hỗ trợ của chương trình khuyến nông trung ương cho chăn nuôi lợn hướng nạc là 26,5 tỷ đồng. Các mô hình có tác động lớn đến kết quả sản xuất và xã hội. Nếu chỉ tính riêng số lợn con được tăng lên trong chương trình, lợi nhuận thu được cũng đã lên tới 30 tỷ đồng. Hiệu quả của chương trình thể hiện ở các điểm sau:
- Góp phần cải tiến chất lượng đàn lợn giống, cung cấp giống tốt tại chỗ cho sản xuất. Mô hình phát triển từ số lượng chỉ vài ngàn con (năm 1993) đến nay đã lên đến hàng chục vạn con. Nhờ đưa các giống lợn cao sản, có năng suất, chất lượng cao như Yorkshire, Landrace…vào các mô hình nên đã góp phần cải tạo các giống lợn hiện có, đưa tỷ lệ nạc từ 35-36% lên 45-47%.
- Các tiến bộ kỹ thuật mới trong chăn nuôi lợn đã được chuyển giao tới các hộ nông dân, giúp họ cách thức chăn nuôi theo hướng công nghiệp, sử dụng thức ăn hỗn hợp, sử dụng chuồng sàn, chuồng lồng, phòng chống dịch bệnh.... Một số chỉ tiêu chính về năng suất chất lượng đàn lợn đã tăng rõ rệt: số lứa đẻ của một nái tăng từ 1,7 lứa/năm lên 2 lứa/năm, số ngày cai sữa lợn con giảm từ 60 ngày xuống còn 35 - 40 ngày, số lợn con chết giảm và số lợn con cai sữa/nái/năm tăng từ 16 con lên 20 con (tăng 20%).
- Chương trình lợn nạc đã thật sự có tác dụng khuyến khích người chăn nuôi tham gia đầu tư, phát triển chăn nuôi lợn theo hướng công nghiệp tập trung, quy mô lớn, áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ. Nhờ có chương trình nên các mô hình trang trại, gia trại nuôi lợn sinh sản từ vài chục đến hàng trăm con đã xuất hiện và phát triển nhanh chóng. Hiện cả nước có 2.355 trang trại nuôi lợn nái tư nhân, tập trung chủ yếu ở Đông Nam bộ (48%) và Đồng bằng sông Hồng (26,6%). Có tới 565 trang trại nuôi trên 100 con, chiếm 23% trong tổng số trang trại nuôi lợn nái. Nhiều vùng ven đô thị và khu công nghiệp đang có xu hướng phát triển mạnh đàn lợn ngoại như: Tp. Hồ Chí Minh, các tỉnh Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Tp. Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Hải Dương, Đà Nẵng, Nha Trang…
Tuy nhiên, chương trình còn tồn tại một số vấn đề sau:
- Chất lượng con giống còn thiếu so với nhu cầu và chưa được coi trọng đúng mức trong quá trình triển khai mô hình nên đã xẩy ra những trường hợp đáng tiếc: lợn còi cọc, nân sổi, dịch bệnh… gây thiệt hại cho người chăn nuôi.
- Mô hình xây dựng còn tản mạn, chưa tập trung. Chăn nuôi lợn ngoại là chăn nuôi công nghệ cao, đòi hỏi phải có sự đầu tư nhất định, song ở một số tỉnh còn bố trí mỗi gia đình nuôi một con, hạn chế việc đầu tư và nhân rộng mô hình như ở Quảng Trị (năm 2002), Hoà Bình (2003).
- Cán bộ theo dõi về chăn nuôi lợn còn quá thiếu, 50% trung tâm khuyến nông các tỉnh chỉ có một người kiêm nhiệm chuyển giao kỹ thuật cho cả 3 loài gia súc, gia cầm như lợn, gà, trâu bò, điển hình như một số tỉnh vùng Trung du Miền Núi : Cao Bằng, Quảng Ninh, Hà Giang, Bắc Giang… dẫn đến hạn chế hiệu quả của mô hình.
b. Chương trình khuyến nông cải tạo đàn bò
Chương trình đã thu hút trên 482.000 hộ của gần 50 tỉnh tham gia, trong đó có 27 tỉnh trọng điểm. Tổng kinh phí khuyến nông cải tạo đàn bò là 212 tỷ đồng (vốn dự án Ngân hàng Thế giới 117 tỷ, vốn khuyến nông địa phương 72 tỷ, vốn khuyến nông trung ương 23 tỷ) .
Các giống bò Red Sindhi, Sahiwal, Brahman đã được lai với bò vàng Việt Nam để nâng khối lượng bò cái từ 170kg lên 220 - 250kg, tỷ lệ thịt xẻ từ 40% tăng lên 47%, năng suất sữa từ 400 - 450kg lên 1.200kg/con/chu kỳ. Chương trình đã mở 30 lớp truyền giống nhân tạo bò cấp quốc gia, đào tạo 720 dẫn tinh viên chính quy, trên 2.000 dẫn tinh viên cấp huyện và 6.000 khuyến nông viên chăn nuôi-thú y. Huấn luyện kỹ thuật cho 51.400 lượt hộ. Số bò cái được phối giống là 1.017.456 con (trong đó thụ tinh nhân tạo chiếm 54%). Số bê lai sinh ra 650.000 con, tỷ lệ nuôi sống đạt 95%. Khối lượng bê lai sơ sinh tăng 60 - 70% so với bê nội. Khối lượng bò cái lai 2 năm tuổi đạt 200 kg, tăng 35 - 40% so với bò cái nội. Qua 10 năm tỷ lệ đàn bò lai cả nước tăng từ 10% lên 25% so với tổng đàn. Đàn bê lai ngày càng phát triển, đặc biệt là ở Sơn La, Thái Nguyên, KonTum …
Chương trình cải tạo đàn bò đã mang lại hiệu quả rõ rệt, được nông dân các tỉnh nhiệt tình hưởng ứng. Chương trình chẳng những góp phần nâng cao tầm vóc đàn bò vàng Việt nam, làm cơ sở cho việc lai tạo tiếp theo hướng chuyên thịt hoặc sữa, mà còn tăng thu nhập cho người lao động, giúp gần nửa triệu hộ chăn nuôi bò lai có thu nhập tăng trên 1.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, chương trình có một số tồn tại : thiếu đực giống đạt tiêu chuẩn chất lượng; việc áp dụng kỹ thuật truyền tinh nhân tạo còn hạn chế do thiếu dẫn tinh viên giỏi hoặc do địa bàn phân tán.
c. Chương trình khuyến nông chăn nuôi bò sữa năng suất cao
Chương trình khuyến nông bò sữa được thực hiện ở 20 tỉnh và một số đơn vị, có trên 2.000 hộ nông dân tham gia với 5.340 bò cái sữa, kinh phí được hỗ trợ 15,3 tỷ đồng. Năng suất sữa của bò trong các mô hình cao hơn năng suất của bò sữa đại trà từ 15 -20%. Tỷ lệ bò cái đẻ thường xuyên cho sữa đạt 60%. Bò cái lai hướng sữa đẻ lứa 1 đạt 3.000 - 3100 kg sữa/chu kỳ, đẻ lứa thứ 2 đạt 3.400 - 3.600 kg/chu kỳ (trước là 2.500 kg/chu kỳ). Sản lượng sữa của các mô hình chăn nuôi bò đạt trên 10.000 tấn.
Hiệu quả của chương trình là tạo được động lực, khuyến khích nông dân đầu tư phát triển chăn nuôi bò sữa, góp phần tăng đàn bò sữa trong cả nước. Đến nay đã có 32 tỉnh, thành phố phát triển chăn nuôi bò sữa với tổng đàn gần 100.000 con, trong đó nhập khẩu trên 10.000 con, tổng sản lượng sữa đạt 140.000 tấn/năm. Hình thành vùng chăn nuôi bò sữa tập trung ở Tp. Hồ Chí Minh, Hà Tây, Hà Nội, Bình Dương, Bình Định, Thanh Hoá, Tuyên Quang, Sơn La, Vĩnh Phúc…, cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến sữa, từng bước hạn chế nhập khẩu sữa từ nước ngoài. Các lớp huấn luyện chuyên đề về chăn nuôi bò sữa cũng đã được tiến hành ở các tỉnh có yêu cầu phát triển chăn nuôi bò sữa. Chỉ tính trong 2 năm 2002 và 2003, Trung tâm Khuyến nông Quốc Gia đã mở 26 lớp cho gần 700 cán bộ kỹ thuật và nông dân ở 24 tỉnh thành trong cả nước.
Bên cạnh những ưu điểm, chương trình khuyến nông chăn nuôi bò sữa còn một hạn chế lớn nhất, đó là xuất hỗ trợ thấp, khó đáp ứng nhu cầu của một mô hình chăn nuôi công nghệ cao. Đầu tư hỗ trợ trong thời gian tới cần tăng thêm và cần tập trung vào những vùng có điều kiện phát triển bền vững đàn bò sữa.
d. Chương trình khuyến nông chăn nuôi gia cầm
Từ năm 1995 đến nay, do nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, gà thả vườn lông mầu như gà Lương Phượng, Kabir, Sasso, JA-57... và một số gà lai như Lương Phượng lai gà Ri, BT1, BT2; các giống vịt và ngan như Super M, ngan Pháp dòng R31, R51, R71…đã được chú ý và phát triển mạnh. Các giống gia cầm và thuỷ cầm này có chất lượng thịt thơm ngon, ít mỡ, da vàng và mỏng, thích ứng với điều kiện chăn nuôi ở Việt Nam. Trong gần 10 năm qua, chương trình đã được triển khai ở 64 tỉnh, thành phố cả nước, chuyển giao trên 650.000 gia cầm giống mới (gà, vịt, ngan) cho các hộ nông dân. Kinh phí triển khai là 18,53 tỷ đồng. Ngoài các mô hình chăn nuôi thương phẩm, còn có các mô hình chăn nuôi sinh sản, nuôi gia cầm bố mẹ, nhằm cung cấp con giống tại chỗ cho các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Đàn gia cầm đưa vào nông hộ đều cho kết quả tốt. Các chỉ tiêu tăng trọng, tiêu tốn thức ăn, tỷ lệ nuôi sống…đều đạt và vượt mức các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật đề ra. Tỷ lệ nuôi sống ở các mô hình đều đạt từ 90 % trở lên. Gia cầm nuôi từ 70-90 ngày tuổi đạt khối lượng 1,8-2,0 kg/con (đối với gà), từ 2,5-3,2 kg/con (đối với ngan). Chương trình chăn nuôi gia cầm đã trở thành “cứu cánh cho nông dân”, góp phần giúp hàng vạn hộ gia đình xoá đói giảm nghèo. Nuôi 100 con gà, vịt hoặc ngan Pháp có thể thu lãi từ 300.000-500.000 đồng. Có những hộ thu được từ 800.000-1.000.000 đồng sau 2-3 tháng nuôi như ở Cao Bằng, Bắc Giang, Thanh Hoá, Yên Bái, Lạng Sơn, Nam Định, Hưng Yên và nhiều tỉnh khác.
Đây là một chương trình mang lại hiệu quả kinh tế cao, dễ đầu tư, vốn không cần lớn, quay vòng nhanh và dễ tổ chức. Về mặt xã hội, các mô hình đã thực sự tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức của người nông dân, từ chăn nuôi tự túc, tự cấp sang chăn nuôi hàng hoá, coi như một nghề, có đầu tư, áp dụng các quy trình kỹ thuật
Tuy các mô hình đều cho hiệu quả kinh tế khả quan, song chương trình có thể tốt hơn nếu được tăng cường số cán bộ theo dõi ở các cơ sở khuyến nông tỉnh, huyện và áp dụng đúng đắn các quy trình kỹ thuật trong chăn nuôi (chuồng trại đảm bảo, đủ trang thiết bị và diện tích sân chơi ....).
Ngoài 4 chương trình khuyến nông chăn nuôi trọng điểm nêu trên, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia còn hướng dẫn các tỉnh thực hiện một số chương trình khuyến nông chăn nuôi khác phù hợp với đặc thù và điều kiện phát triển ở địa phương như:
- Chương trình phát triển đàn ong nội: đã tạo thành một nghề cho lợi nhuận tương đối cao với vốn đầu tư ít, quay vòng vốn nhanh và tận dụng được điều kiện thiên nhiên (như nguồn hoa) và tận dụng được mọi thành phần lao động. Nhiều mô hình cải tiến chất lượng đàn ong nội đạt kết quả tốt như mô hình nuôi ong của Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, mô hình nuôi ong ở Bắc Giang... Nhiều hộ tham gia mô hình sau một thời gian ngắn đã phát triển nhanh đàn ong, trở thành những chủ trang trại nuôi ong, góp phần tạo nên 5.390 trang trại nuôi ong mật trên cả nước và góp phần đưa ngành nuôi ong của Việt Nam có số lượng đàn ong, sản lượng mật và sản lượng mật xuất khẩu lớn nhất Đông Nam á. Bằng nguồn kinh phí trung ương, các tỉnh đã xây dựng mô hình phát triển trên 20.000 đàn ong, làm cơ sở để cải tạo đàn ong trong nước.
- Chương trình cải tạo đàn trâu nội, dê, cừu; chương trình phát triển chăn nuôi ngựa lai: có những thành công và góp phần nhất định vào việc tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho bà con nông dân nông thôn, đặc biệt là bà con ở những vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa. Trong thời gian qua, riêng kinh phí khuyến nông của trung ương đã triển khai ở các tỉnh với trên 31.000 dê, cừu, gần 2.000 trâu và ngựa lai khác.
- Chương trình khuyến nông thú y bảo vệ vật nuôi: tập trung vào việc xây dựng các mô hình phòng chống một số bệnh nguy hiểm cho gia súc, gia cầm như lở mồm long móng, tụ huyết trùng, dịch tả, đóng dấu, phó thương hàn…và xây dựng vùng an toàn dịch bệnh nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong chăn nuôi. Chương trình khuyến nông này đã được hỗ trợ 7,6 tỷ đồng.
Đánh giá chung về khuyến nông chăn nuôi
- Thời gian qua, hầu hết các chương trình khuyến nông chăn nuôi đã tập trung vào việc chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật mới cho bà con nông dân, góp phần nâng cao trình độ dân trí, trình độ kỹ thuật, đưa nền chăn nuôi từ manh mún, nhỏ lẻ dần dần trở thành nền chăn nuôi hàng hóa, tập trung, có hiệu quả kinh tế và tính cạnh tranh cao. Nhiều chương trình khuyến nông đã thực hiện trên địa bàn rộng, đạt hiệu quả cao, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người nông dân, nhất là nông dân ở các tỉnh khó khăn, tỉnh miền núi.
- Hiệu quả đối với một số chương trình khuyến nông chăn nuôi còn hạn chế do thời gian xây dựng và thực hiện mô hình chưa phù hợp với chu kỳ sinh trưởng của giống vật nuôi. Đội ngũ cán bộ khuyến nông chăn nuôi một số tỉnh còn thiếu và trình độ chuyên môn còn hạn chế. Vấn đề đào tạo, tập huấn cho nông dân chăn nuôi chưa được đầy đủ. Thông tin về thị trường và làm cầu nối với các doanh nghiệp để giúp đỡ nông dân tiêu thụ sản phẩm còn yếu…
- Nghị quyết 06-NQ/TW của Đảng và Nhà nước đề ra “đưa chăn nuôi thực sự trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp” hầu như vẫn chưa được quán triệt ở các cấp, các ngành ở một số tỉnh, thành phố nên kinh phí đầu tư cho các chương trình khuyến nông chăn nuôi chưa phù hợp, chưa đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của người dân.
Tóm lại chương trình khuyến nông chăn nuôi đã mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội to lớn, góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, tác động đến công cuộc đổi mới nông thôn, tạo ra nhiều việc làm, cải thiện đáng kể đời sống nông dân;khuyến nông chăn nuôi là giải pháp quan trọng trong chiến lược phát triển chăn nuôi nước ta trong 10 năm tới, góp phần đưa ngành chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính.
1.4. Chương trình khuyến công (bao gồm chế biến, bảo quản nông sản, phát triển ngành nghề nông thôn)
Được triển khai từ 1998 - 2002 ở Cục Chế biến nông lâm sản và Nghề muối; ở Trung tâm Khuyến nông Quốc gia từ 2004. Đây là chương trình khuyến nông trong lĩnh vực cơ giới hoá nông nghiệp, ngành nghề nông thôn, bảo quản, chế biến nông lâm sản và nghề muối (gọi tắt là khuyến công). Trong 6 năm thực hiện với nguồn kinh phí được hỗ trợ 15,5 tỉ đồng. Mô hình có qui mô nhỏ nhất 30 triệu đồng và lớn nhất 165 triệu đồng. Chương trình đã triển khai 193 mô hình, mở 186 lớp tập huấn kỹ thuật cho nông dân. Các hộ nông dân tham gia mô hình khuyến công đã có thu nhập bình quân 300-400 ngàn đồng/tháng (tăng bình quân 20% so với trước khi tham gia mô hình). Chương trình đã góp phần:
- Giảm tổn thất sau thu hoạch đối với các loại nông sản như rau, lúa, gỗ…
- Tăng giá trị nông sản do tạo ra một số sản phẩm có chất lượng cao, có khả năng tiêu thụ mạnh đồng thời ổn định giá nông sản trong thời vụ thu hoạch.
- Đổi mới tư duy của nông dân về công nghệ sau thu hoạch và xúc tiến thương mại.
- Tăng thu nhập cho nông dân.
Sau đây là một số chương trình có kết quả tốt :
a. Chương trình khuyến công bảo quản và chế biến nông sản
Chương trình này được hỗ trợ kinh phí chiếm 49,3% tổng số kinh phí chương trình khuyến công, triển khai ở 20 tỉnh, thành trong cả nước như Yên Bái, Thái Nguyên, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Phú Thọ, Hà Tây, Hải Dương, Gia Lai, Quảng Ngãi, Thanh Hoá.... Các nội dung chủ yếu là chế biến chè, cà phê, tinh bột sắn, chế biến bún khô, bảo quản khoai tây, sấy các loại nông sản như lúa, vải, nhãn... Trong lĩnh vực này đã đưa được các tiến bộ kỹ thuật vào cho nông dân như:
- Các loại máy sấy máy tĩnh vỉ ngang BD4, SRR-1, SH-200…đối với vùng sản xuất lúa.
- Các loại máy sấy gián tiếp, sấy sạch…nâng cao chất lượng sản phẩm rau quả đối với chế biến vải, nhãn, chè, cà phê…
- Chuyển giao công nghệ bảo quản và sơ chế vải, nhãn ở Bắc Giang, Hưng Yên, Tiền Giang…, giảm sản phẩm không đủ chất lượng từ 20% xuống còn 10%, giảm chi phí nguyên liệu xuống hơn 200.000 đ/tấn sản phẩm.…
- Công nghệ chế biến chè cải tiến, góp phần tăng diện tích trồng chè. Chỉ riêng tỉnh Lào Cai diện tích trồng chè lên 648 ha, tỉnh Yên Bái lên 120 ha.
- Chuyển giao công nghệ chế biến cà phê ướt. Công nghệ này tạo điều kiện giải phóng sức lao động cho nông dân và tăng chất lượng cà phê đồng thời giảm chi phí lao động.
- Chuyển giao công nghệ chế biến tinh bột sắn, dong giềng cho nông dân, làm tăng giá trị sản phẩm. Một số địa phương tiếp nhận công nghệ này thuộc tỉnh Yên Bái đã hình thành các HTX sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, thậm chí còn tạo ra các làng nghề mới như làng nghề chế biến miến, bún khô.
b. Chương trình khuyến công về cơ giới hoá nông nghiệp
Chương trình này chiếm 19,4% tổng số, tập trung triển khai chủ yếu ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Hải Dương, Hải Phòng, Lạng Sơn, Hoà Bình, Thái Nguyên, Đồng Nai..., thu hút gần 2000 hộ nông dân tham gia. Các nội dung chủ yếu là chuyển giao các loại máy làm đất, máy gặt, máy đập lúa, máy gieo hàng, máy ấp trứng và các loại máy tưới phun mưa... Nhờ áp dụng chương trình khuyến công về cơ giới hoá nông nghiệp đã tiết kiệm được 50% lượng giống lúa, giảm chi phí thuốc trừ sâu, tăng năng suất lúa 10-15%, chi phí nước tưới chỉ bằng 30-40% so với khi chưa thực hiện chương trình.
c. Chương trình phát triển ngành nghề nông thôn
Chương trình này chiếm 24,0% tổng số, tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng và Khu Bốn cũ, thu hút trên 2500 hộ tham gia. Nội dung hoạt động tập trung vào việc khôi phục các ngành nghề truyền thống như thêu, ren, cói… tạo ra các nghề phi nông nghiệp trong thời kỳ nông nhàn. Một số mô hình như: thêu ren xuất khẩu ở Ninh Bình đã thực sự tạo điều kiện để làng nghề truyền thống phát triển; dệt chiếu cói ở Thanh Hoá đã nâng số hộ làm nghề lên trên 600% so với trước khi triển khai. Đặc biệt mô hình sản xuất đá ốp lát và đá mỹ nghệ ở Thanh Hoá và Đà Nẵng tạo ra thu nhập bình quân của người làm nghề trên 550.000đ/tháng.
d. Chương trình khuyến công sản xuất muối
Chương trình này chiếm 7,3% tổng số, triển khai ở Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hoá, Bạc Liêu…tăng năng suất muối phơi cát từ 75 tấn/ha lên 95 tấn/ha, muối phơi nước lên đến 120 tấn/ha. Chất lượng muối được cải thiện. Thu nhập của diêm dân tăng thêm 1,4 -1,7 triệu đồng/năm. Đặc biệt, do có hỗ trợ kinh phí của chương trình khuyến diêm nên công nghệ sản xuất muối sạch đã được triển khai tại Thanh Hoá, Nam Định…… tạo ra bước đột phá mới cho ngành muối.
2. Thông tin, đào tạo và tăng cường năng lực
2.1. Kết quả hoạt động thông tin, tuyên truyền
a. Thông tin khuyến nông trên các phương tiện thông tin đại chúng
Trong nhiều năm qua, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã có sự phối hợp, cộng tác thường xuyên với nhiều cơ quan thông tin, nhiều loại hình báo chí để cung cấp và truyền tải các thông tin về hoạt động khuyến nông tới các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý và bà con nông dân. Từ năm 1994, các chương trình phát thanh Thời sự, Nông nghiệp-nông thôn của Đài Tiếng nói Việt Nam đã thường xuyên phản ánh các nội dung của hoạt động khuyến nông, trao đổi kinh nghiệm nông dân sản xuất giỏi với số lượng từ 500-650 lượt tin, bài/năm.
Với đài Truyền hình Việt Nam, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với cả 3 kênh truyền hình VTV1, VTV2, VTV3 để làm các chương trình thời sự, phóng sự, chuyên đề. Đặc biệt từ năm 1996, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với VTV2 - Đài Truyền hình Việt Nam xây dựng chương trình "Nông dân cần biết", sau chuyển tên thành "Bạn nhà nông". Từ năm 1999, nhằm mở rộng diễn đàn giao tiếp giữa các nhà khoa học với nông dân, đã cho ra mắt chương trình "Cùng với nông dân bàn cách làm giàu". Sau 5 năm thực hiện, chương trình đã trở nên quen thuộc trên sóng truyền hình và được nông dân yêu thích. Do thực sự hiệu quả, năm 2000 chương trình "Cùng với nông dân bàn cách làm giàu" đã được Chủ tịch nước Trần Đức Lương gửi thư khen.
Ngoài ra, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã phối hợp tuyên truyền hoạt động khuyến nông với các báo, tạp chí như: Nhân dân, Nông nghiệp Việt Nam, Nông thôn ngày nay, Kinh tế nông thôn, Khoa học đời sống, Lao động xã hội, Cựu chiến binh…Các chuyên mục khuyến nông thường xuyên phản ảnh kịp thời công tác khuyến nông ở các địa phương, các mô hình sản xuất hiệu quả cao, kinh nghiệm sản xuất giỏi, kỹ thuật sản xuất tiên tiến…được đông đảo nông dân, các nhà khoa học, nhà quản lý tham gia và học hỏi. ở địa phương, tất cả các trung tâm khuyến nông tỉnh đều phối hợp với các báo, đài địa phương để thông tin khuyến nông, trong đó có khoảng 90% số tỉnh đã có chương trình chuyên đề khuyến nông trên các báo, đài phát thanh và truyền hình địa phương.
b. Sản xuất, xuất bản các ấn phẩm
Tờ tin Khuyến nông Việt Nam xuất bản 4 số/năm, từ tháng 1 năm 2004 tăng lên 6 số/năm (mỗi số từ 4.000-4.500 bản). Trang web Khuyến nông Việt Nam khai trương tháng 8 năm 2003, hàng ngày có ít nhất 10 bài và hàng chục tin mới; mỗi ngày có hàng trăm người truy cập.
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia in ấn, xuất bản nhiều ấn phẩm, tài liệu, băng đĩa với nhiều nội dung phong phú, phù hợp với nhiều đối tượng. Trong thời gian qua, ở cấp trung ương đã có hơn 12 vạn bản sách kỹ thuật; gần 30.000 tranh kỹ thuật, tờ gấp; 40 băng hình kỹ thuật được phát hành miễn phí dùng làm tài liệu chuyển giao tiến bộ kỹ thuật. Ngoài ra, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia còn tập hợp được hơn 120 bộ phim hướng dẫn kỹ thuật làm tư liệu cho các địa phương; đã phối hợp với Trung tâm Thông tin (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ (Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia), các trung tâm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật của các viện, trường khai thác, biên soạn tài liệu và phổ biến các tiến bộ kỹ thuật phục vụ sản xuất.
c. Tổ chức các hội thi, hội chợ và tôn vinh nông dân sản xuất giỏi
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã tập hợp được đông đảo các hội, đoàn thể, tổ chức, cá nhân tham dự nhiều hình thức hội thi như: Nhà nông đua tài, Nông dân giỏi, Khuyến nông viên giỏi, Thanh niên với khoa học kỹ thuật, Phiên chợ giống cây trồng, vật tư và thiết bị nông nghiệp...Từ năm 2005 Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã kết hợp với các sở nông nghiệp và PTNT mở các phiên chợ giống cây trồng, vật nuôi, gắn với các phiên chợ truyền thống ở địa phương nhằm tuyên truyền, quảng bá giống cây, con mới và đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Số lượng hội chợ, hội thi do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tổ chức tuy còn ít (6 hội chợ và 7 hội thi) nhưng tiếp sau đó hàng chục hội thi khác do các tỉnh, huyện, đoàn thể học tập và áp dụng, đã tuyển chọn, biểu dương được hàng nghìn địa chỉ sản xuất giỏi, khuyến nông viên và nông dân giỏi.
2.2. Kết quả hoạt động tập huấn, đào tạo
a. Tập huấn, đào tạo
Trong thời gian qua Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã tổ chức được hơn 4.700 lớp tập huấn với khoảng 250.000 lượt người tham dự, bao gồm cả tập huấn chuyên đề cho cán bộ kỹ thuật và tập huấn nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho khuyến nông viên. Năm 2003, Trung tâm đã phối hợp với dự án Khôi phục thuỷ lợi miền Trung (CPO) tổ chức 50 lớp tập huấn cho cán bộ, khuyến nông viên ở 9 tỉnh vùng Duyên hải miền Trung và Tp. Hồ Chí Minh.
Trung tâm phối hợp với Dự án VIE/95/003 nâng cao năng lực cán bộ cấp tỉnh trong công tác quản lý các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp do UNDP tài trợ. Trong 3 năm, từ 1997 đến 1999 đã có 1.165 người được tập huấn và đã xây dựng được 12 mô hình quản lý dịch vụ.
b. Biên soạn tài liệu tập huấn
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã đầu tư, biên soạn được một số giáo trình tâp huấn nghiệp vụ khuyến nông và giáo trình tập huấn chuyên đề kỹ thuật. In ấn và xuất bản tập giáo trình nghiệp vụ khuyến nông đầu tiên với 8 chủ đề. Năm 2001 đã biên soạn bộ giáo trình thứ 2 cho cán bộ khuyến nông với 16 chủ đề. Sau đó xây dựng tiếp bộ tài liệu hướng dẫn tổ chức hoạt động cho khuyến nông viên cơ sở (năm 2003).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bcao_12nam_knqg.doc