Đề tài Tổng quan về chính sách tiền tệ quốc gia

Trong phần nội dung trên chúng ta đã nghiên cứu về chính sách tiền tệ cũng tương đối đầy đủ các phần . Tuy nhiên , như đã nói ở phần mở đầu , đó chỉ là nghiên cứu một cách hết sức vắn tắt . Nhưng qua kết quả phân tích đó cũng cho chúng ta hiểu được vấn đề và có thể đưa ra những ý kiến của riêng mình . Trong điều kiện họi nhập khu vực và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, đất nước cũng cần phải có những thay đổi mạnh mẽ thì mới không bị để tụt lại đằng sau qúa xa

doc38 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1218 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng quan về chính sách tiền tệ quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t cung – cầu trên thị trường ngoại hối , NHTƯ không thể ấn định được mà chỉ thông qua việc điều hành chính sách tiền tệ để kiểm soát nó. Như vậy , NHTƯ sẽ tham gia mua hoặc bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối . Tóm lại , muốn ổn định đồng tiền và phát triển kinh tế – xã hội cần phải ổn định giá cả trong nước và ổn định tỷ giá hối đoái ( chứ không phải cố định tỷ giá hối đoái). Kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền phải đi đôi với nhau . Thông thường , lạm phát được kiểm soát ở mức vừa đủ ( một con số mỗi năm ) và chống lạm phát phi mã ( hai con số mỗi năm ) và siêu lạm phát ( trên hai con số mỗi năm ). Hiện nay , lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam dường như đã được đẩy lùi vào quá khứ . Trong gần 2 năm 1999 và 2000 , chỉ số CPI giảm liên tục Để đạt được mục tiêu ổn định lạm phát ở mức thấp , trong những năm qua , Ngân hàng Nhà nước ( NHNN ) đã thực hiện việc điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát . Đây cũng là cách điều hành phù hợp nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam góp phần tăng trưởng kinh tế ( Điều 2 , luật Ngân hàng Nhà nước ). 2.2. Tạo việc làm Đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới , vấn đề việc làm cũng là một vấn đề hết sức quan trọng , đặc biệt đối với Việt Nam thì đó lại là một vấn đề hết sức cấp thiết và cần phải giải quyết , đó cũng là một bức xúc lớn đối với Việt Nam hiện nay . Bởi vì : Thứ nhất , khi không có công ăn việc làm thì sẽ sinh ra nhiều tệ nạn xã hội như nghiện ngập , rượu chè , cờ bạc , mại dâm , … gây mất ổn định xã hội ; đời sống của nhiều gia đình trở nên khó khăn hơn , túng quấn dễ dẫn con người ta dấn thân vào tội ác ; suy đồi đạo đức , gia phong , … Thứ hai , khi thất nghiệp tăng không những làm tăng số lao động ngồi không mà còn làm lãng phí các tài nguyên như máy móc , thiết bị … làm nền kinh tế bị giảm sút . Tuy nhiên , không phải cứ thất nghiệp là không tốt , vấn đề là phải duy trì tỷ lệ đó ở mức nào đó ( mức thất nghiệp tự nhiên ) bởi trong thực tế , một số thất nghiệp lại có lợi cho nền kinh tế , đó là khi người ta đang đi tìm một công việc khác tốt hơn , phù hợp hơn thì họ chỉ thất nghiệp trong thời gian tìm việc mà thôi ; hoặc một số tự nguyên thất nghiệp … NHTƯ thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế , cũng có nghĩa là sẽ tác động đến vấn đề tạo công ăn việc làm . Với chính sách tiền tệ mở rộng nhằm khuyến kích đầu tư , mở rộng sản xuất kinh doanh và tạo việc làm cho người lao động ; chính sách tiền tệ thu hẹp thì hạn chế đầu tư , kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế , và như vậy làm số lao động thất nghiệp lại tăng lên . Bên cạnh đó , cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cũng được coi là mục tiêu của chính sách tiền tệ . Việc chính phủ cung cấp thông tin tốt hơn về những công việc chưa có người làm hoặc là về chương trình đào tạo nghề nghiệp có thể làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên . Tăng trưởng kinh tế . Như ta đã nói , tăng trưởng kinh tế là một mục tiêu mà bất cứ quốc gia nào cũng muốn đạt được . Nó luôn gắn liền với mục tiêu việc làm cao . Việc Chính phủ thực thi các chính sách kinh tế , trong đó chính sách tiền tệ , cũng nhằm đạt dược mục tiêu đó . Với chính sách tiền tệ cũng phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế , nghĩa là đảm bảo sự tăng trưởng của GDP thực tế . Thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến mục tiêu này đồng thời với mục tiêu đảm bảo công ăn việc làm cao .Với chính sách tiền tệ mở rộng làm cung ứng tiền tệ tăng lên trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư mở rộng sản suất kinh doanh , làm tăng trưởng kinh tế ( làm tăng sản lượng thực tế) . Ngược lại , với chính sách tiền tệ thu hẹp làm cung tiền tệ giảm , lãi suất tín dụng trong ngắn hạn tăng sẽ hạn chế đầu tư và thu hẹp hoạt động sản suất kinh doanh làm sản lượng giảm , tăng trưởng kinh tế chậm lại . Khuyến khích tăng trưởng kinh tế bằng cách trực tiếp khuyến khích các hãng đầu tư hoặc nhân dân tiết kiệm để các nhà đầu tư có thêm vốn đưa vào đầu tư . Mối quan hệ giữa các mục tiêu trên . Các mục tiêu trên của chính sách tiền tệ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau ,hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau .Từ đó , khi thực hiện chính sách tền tệ không thể tách rời các mục tiêu ra để giải quyết một cách độc lập ,không tuyệt đối hoá một mục tiêu nào . Tuy nhiên , có nơi có lúc rong thời gian ngắn có thể diễn ra sự mâu thuẫn giữa các mục tiêu , thậm chí triệt tiêu lẫn nhau . Biểu hiện rõ nhất là giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp (tức là sự mâu thuẫn giữa hai mục tiêu : kiểm soát lạm phát và tạo việc làm cao) .Việc giảm tỷ lệ lạm phát đồng nghĩa với việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng và sự tăng giá .Bên cạnh đó ,mục tiêu công ăn việc làm cũng mâu thuẫn với mục tiêu ổn định gía .Thất nghiệp và tăng trưởng không có mâu thuẫn cả trong ngắn hạn và dài hạn . công ăn việc làm sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại . Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định giá cả tương đối phức tạp : mâu thuẫn trong ngắn hạn nhưng hỗ trợ trong dài hạn. Như vậy , thực thi chính sách tiền tệ không thể đạt được tất cảc mục tiêu trên trong ngắn hạn : phần lớn các NHTƯ coi ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu trong dài hạn của chính sách tiền tệ. Hiện thực các nước phát triển theo cơ chế thị trường cho thấy,vận hành chính sách tiền tệ , để đạt được các mục tiêu của nó cần có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá . Mục tiêu của chính sách tài khoá là điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chính phủ , hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và sử dụng nhân lực ở mức tiềm năng . Điều đó còn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước . Ngân sách nhà nước vững vàng là cơ sở quan trọng làm giá trị đồng bản tệ ổn định,ngược lại,sự thiếu hụt ngân sách sẽ gây ra trực tiếp hoặc gián tiếp làm giá trị đồng tiền mất ổn định. Trong thực tế , chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ có thể làm gia tăng nhu cầu , giảm thất nghiệp nhưng sẽ gia tăng lạm phát . Giải quyết mâu thuẫn này cần có sự phối hợp chặt chẽ của chính sách phân phối thu nhập Trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ , chính sách phân phối thu nhập phải thể hiện sự kiểm soát chặt chẽ về lương và giá cả. Đối với các nước kém phát triển và đang phát triển,thường bội chi ngân sách lớn và kéo dài , tăng trưởng kinh tế chưa cao…đòi hỏi kết hợp chặt chẽ với chính sách kinh tế đối ngoại trong thực thi chính sách tiền tệ. 2.5. Các mục tiêu trung gian: Bằng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ không thể tác động trực tiếp và ngay lập tức đạt được các mục tiêu cuối cùng ( bao gồm 3 mục tiêu trên) mà phải sau một thời gian nhất định . Để phục vụ cho việc điều chỉnh kịp thời các công cụ trong khoảng thời gian đó , NHTƯ thường đưa ra các mục tiêu cần đạt được trước khi đạt mục tiêu cuối cùng ,đó là các mục tiêu trung gian . Đó phải là các chỉ tiêu có thể đo lường được , NHTƯ có thể kiểm soát được và có mối liên hệ chặt chẽ với các mục tiêu cuối cùng . Có 2 chỉ tiêu thoả mãn được điều kiện trên đó là chỉ tiêu tổng luợng tiền cung ứng và mức lãi suất thị trường. 2.5.1 .Chỉ tiêu tổng lượng tiền cung ứng. Nó là tổng các phương tiện tiền tệ trong lưu thông , bao gồm tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn tại các NHTM . Có các khối tiền trong lưu thông như sau: M1: gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng. M2: gồm M1 cộng với các khoản tiền gửi tiết kiệm , tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng và kỳ phiếu , trái phiếu do NH phát hành. M3: gồm M2 cộng với các khoản tiền gửi tại các định chế tài chính khác. Khối tiền tệ L: bao gồm M3 và các giấy tờ có giá trong thanh toán.Trong quá trình cung ứng tiền tệ có bốn tác nhân tham gia , đó là NHTƯ, các NHTM,những người gửi tiền và những người vay tiền từ các ngân hàng trong đó , NHTƯ là cơ quan chính phủ có chức năng bao quát hệ thống hoạt động ngân hàng.Vì vậy, NHTƯ có thể kiểm soát được lượng tiền cung ứng. Lượng tiền cung ứng có mối quan hệ chặt chẽ với các mục tiêu cuối cùng.Khi nó tăng sẽ dẫn đến lạm phát , tạo việc làm , kích thích tăng trưởng kinh tế .Và ngược lại , khi nó giảm , sẽ kéo theo chính sách tiền tệ thu hẹp được thực thi,tỷ lệ lạm phát giảm , thất nghiệp gia tăng , kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế. Tổng lượng tiền cung ứng chịu tác động của ba nhân tố sau: 2.5.1.1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên(hay giảm xuống) làm các ngân hàng đó phải thu hồi các khoản vay hoặc bán chứng khoán (hoặc có khả năng mở rộng cho vay) để đáp ứng yêu cầu dự trữ mới . Như vậy làm giảm (hay tăng) lượng tiền trong lưu thông , do đó làm giảm (hoặc tăng) tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. 2.5.1.2. Tỷ lệ sử dụng tiền mặt của công chúng. Khi tỷ lệ này tăng nghĩa là công chúng có nhu cầu rút tiền mặt trên tài khoản tiền gửi không hạn nhiều hơn , làm giảm khả năng mở rộng tiền gửi của ngân hàng. Khi tỷ lệ sử dụng tiền mặt giảm thì khả năng mở rộng tiền gửi của ngân hàng nhiều hơn , tổng lượng tiền cung ứng sẽ tăng. 2.5.1.3. Tỷ lệ dự trữ vượt quá của hệ thống NHTM. Khi tỷ lệ này tăng thì số dự trữ để tạo tiền gửi giảm , như vậy buộc các ngân hàng phải thu hồi các khoản vay hoặc bán bớt chứng khoán, dẫn đến làm giảm tiền gửi và do đó lượng tiền cung ứng giảm .Và ngược lại thì làm lượng tiền cung ứng tăng lên. 2.5.2. Mức lãi suất thị trường: Là giá cả của tín dụng. Lãi suất được đo lường theo các phương thức tín dụng khác nhau , đó là: -Với những khoản tín dụng thực hiện theo phương thức vay đơn: người đi vay sẽ hoàn trả cả phần vốn gốc và lãi vào ngày dến hạn trả nợ cho người cho vay.Nó được tính bằng việc lấy số tiền lãi chia cho tổng số vốn vay.Đây là cách tính đơn giản chỉ dung cho các khoản tin dụng ngắn hạn. Với các khoản tín dụng dài hạn thì dùng lãi suất kép.Đó là lãi suất áp dụng trong trường hợp hết mỗi kỳ hạn của lãi suất,lãi đơn trong kỳ được gộp vào vốn để tính lãi cho kỳ tiếp theo. - Với những khoản tín dụng mà việc trả vốn và lãi theo định kỳ hoặc trả một khoản cố định theo định kỳ,người ta áp dụng lãi suất hoàn vốn.Đây là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được từ một khoản tín dụng với giá trị hôm nay của khoản tín dụng dó . Theo các hình thức tín dụng thì lãi suất dược chia thành bốn loại Đó là: - Lãi suất tín dụng thương mại : áp dụng khi các doanh nghiệp cho vaydưới hình thức mua bán chịu . - Lãi suất tín dụng ngân hàng : áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay ,trong hoạt động tái cấp vốn của ngân hàng TW cho các NHTM và trong quan hệ giữa các ngân hàng với ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng. - Lãi suất tín dụng Ngân hàng Nhà nước : áp dụng khi Ngân hàng Nhà nước đi vay bằng hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu . - Lãi suất tín dụng tiêu dùng : áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay phục vụ nhu cầu cá nhân . NHTƯcó thể kiểm soát được lãi suất qua thực thi chính sách tiền tệ dựa trên cơ sở của tác động lan truyền ảnh hưởng từ cung ứng tiền –lãi suất –sản lượng –thu nhập –cầu tiền . Nó tác động đến đầu tư , tổng cầu và do đó làm biến động giá cả và GDP , có nghĩa là ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế , vấn đề lạm phát và do đó là vấn đề việc làm . Lãi suất đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường . Nó là phương tiện kích thích lợi ích vật chất để thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế , là công cụ kích thích đầu tư phát triển kinh tế ,là đòn bẩy kích thích ngân hàng và các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả ,… đặc biệt , nó còn là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế , nó là công cụ để thực hiên mục tiêu của chính sách tiền tệ . Chính vì vai trò của nó hết sức quan trọng nên khi nghiên cứu về lãi suất , cần phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng tới nó để sử dụng một cách có hiệu quả nhất . Các nhân tố bao gồm : 2.5.2.1 Cung - cầu quỹ cho vay. Theo phần khái niệm , lãi suất chính là giá cả cho vay nên nó phụ thuộc vào cung ,cầu quỹ cho vay . Bất kỳ một sự thay đổi nào của cung ,cầu đều tác động đến lãi suất thị trường . Dựa vào nguyên lý này có thể chủ động tác động vào cung , cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất thị trường cho phù hợp với mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ . Và muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thị trường thì phảt ổn định thị trường vốn . 2.5.2.2 Lạm phát kỳ vọng . Khi tỷ lệ lạm phát tăng lên trong khi lãi suất thực là không đổi làm cho lãi suất tăng lên (điều này có được xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa ) . Đồng thời ,khi lạm phát dự tính gia tăng (có nghĩa là giá cả hàng hoá dự tính tăng lên ) như vậy công chúng sẽ dành phần tiết kiệm của mình vào dự trữ hàng hoá . Vì vậy , làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất . Từ đó cho thấy , khi tỷ lệ lạm phát gia tăng (lạm phát dự kiến tăng lên trong một thời kỳ nào đó ) sẽ làm lãi suất có xu hướng tăng lên . 2.5.2.3. Bội chi ngân sách . Bội chi ngân sách sẽ làm cầu của quỹ cho vay tăng , do đó làm tăng lãi suất . Mặt khác , bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lí công chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy sẽ gây áp lực tăng lãi suất . Khi bội chi ngân sách , chính phủ thường cho phát hành trái phiếu làm cung trái phiếu trên thị trường tăng , dẫn đến giá trái phiếu trên thị trường giảm , do đó lãi suất thị trường tăng lên . Khi bội chi ngân sách xảy ra ,chính phủ cũng thường tăng thuế để bù đắp sự thiếu hụt . Khi thuế tăng sẽ dẫn đến phần tiết kiệm của các cá thể và tổ chức ,các doanh nghiệp sẽ giảm ,do đó lãi suất thị trường tăng lên . 2.5.2.4 Mức độ rủi ro của các công cụ tài chính . Thường thì mức độ rủi ro của các công cụ tài chính càng lớn thì lãi suất càng tăng .Trong lãi suất có phần bù đắp cho rủi ro của những người cho vay . Thời hạn của món vay. Thông thường thời hạn của món vay càng dài thì lãi suất càng cao . Lãi suất chính là chi phí sử dụng vốn , là giá cả của tín dụng (trong trường hợp này giá cả là giá trị sử dụng ) cho nên thời hạn của món vay càng dài thì giá trị sử dụng càng nhiều , chi phí sử dụng vốn càng cao và thời gian càng dài thì xác suất rủi ro càng cao , do vậy lãi suất càng cao . ảnh hưởng của thị trường tài chính quốc tế . Tình hình tài chính quốc tế có thể tạo ra luồng di chuyển vốn làm tác động đến cung – cầu về vốn ,vì vậy có tác động đến lãi suất . Vì thế , lãi suất trong nước phải có sự điều tiết để phù hợp với tài chính quốc tế để không tạo ra luồng di chuyển vốn ngoài ý muốn (tức là lãi suất trong nước và lãi suất quốc tế phải có sự phù hợp để tránh những ảnh hưởng ngoại lai ) Mặt khác , tâm lý của công chúng về lạm phát , rủi ro và thu nhập cũng ảnh hưởng đến lãi suất . 2.5.2.7 . Những vấn đề kinh tế xã hội khác . Đó là những việc Nhà nước thực hiện chính sách kinh tế mới , thiên tai . Việc lựa chọn mục tiêu trung gian Theo trên ta đa biết cả hai chỉ tiêu : tổng lượng tiền cung ứng và lãi suất đều thoả mãn các tiêu chuẩn của mục tiêu trung gian, song vì nếu đạt mục tiêu về tổng lượng tiền cung ứng thì phải chấp nhận sự biến động về lãi suất và ngược lại , cho nên chỉ có thể chọn một trong hai chỉ tiêu đó để làm mục tiêu trung gian mà thôi . Việc lựa chọn đó tuỳ thuộc vào mức độ biến động tương đối của nhu cầu tiền tệ so với nhu câù hàng hoá . Hiện nay , ngân hàng nhà nước Việt Nam chọn khối tiền M2 làm chỉ tiêu trung gian trong điều hành chính sách tiền tệ , bởi thực tế thì sự biến động của khối tiền M2 hoàn toàn phù hợp với sự biến động của mức giá và sản lượng trong thập kỉ 90 ; tuy nhiên, chính sách lãi suất ấn định phần nào làm giảm bớt hiệu quả của mục tiêu trung gian này. Ngoài hai chỉ tiêu trên còn có một số chỉ tiêu cũng có trong danh sách lựa chọn như tổng khối lượng tín dụng , tỷ giá. Song mối quan hệ của chúng với các mục tiêu cuối cùng rất phức tạp và không rõ ràng. Vì thế, nó thường được sử dụng với các mục tiêu khác như tổng lượng tiền cung ứng hoặc lãi suất. CHƯƠNG III CáC CÔNG Cụ CủA CHíNH SáCH TIềN Tệ QuốC GIA Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng trong quá trình điều hành các hoạt động của nền kinh tế, thực hiện nó có tác dụng rất lớn trong việc góp phần kìm chế , đẩy lùi lạm phát , ổn định tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề công ăn việc làm . Mục đích của chính sách tiền tệ là nhằm điều tiết lượng tiền trong lưu thông , tuỳ vào điều kiện hoàn cảnh đất nước từng thời kì mà sự điều tiết theo hướng nào là hợp lí , mở rộng tiền tệ hay thắt chặt tiền tệ. Để làm được điều này, NHTƯ phải sử dụng hàng loạt các công cụ như : dự trữ bắt buộc , lãi suất , tỷ giá hối đoái , tái cấp vốn , nghiệp vụ thị trường mở . Trong đó , nghệp vụ thị trường mở có thể coi là công cụ quan trọng nhất trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ. 3.1. Nghiệp vụ thị trường mở. Đối với bất kì một NHTƯ nào thì việc ổn định giá trị đồng tiền cũng là chức năng quan trọng nhất . Để thực hiện được nó buộc NHTƯ phải điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ , trong đó nghiệp vụ thị trường mở là quan trọng nhất . Bởi lẽ , nó là nhân tố quyết định đầu tiên có thể là thay đổi lãi suất hoặc cơ sở của tiền tệ – nguồn gốc chính làm thay đổi việc cung ứng tiền của NHTƯ thông qua việc mua giấy tờ có giá trên thị trường mở . Việc mua giấy tờ có giá làm tăng cơ sở của tiền tệ và vì thế làm tăng lượng tiền cung ứng , giảm lãi suất ngắn hạn ; ngược lại , bán các giấy tờ có giá sẽ dẫn đến giảm cung ứng tiền , tăng lãi suất ngắn hạn . Thông thường , các NHTƯ sử dụng nhiều loại giấy tờ có giá để giao dịch như trái phiếu , tín phiếu kho bạc , tín phiếu NHTƯ , chứng chỉ tiền gửi , thương phiếu , hối phiếu , hợp đồng mua lại qua đêm , … Nhưng hay được sử dụng nhất vẫn là các chứng khoán kho bạc bởi vì chúng có tính thanh khoản cao , dễ chuyển đổi trên thị trường và do đó dễ được chấp nhận trong các giao dịch . Nghiệp vụ thị trường mở có những ưu thế riêng so với các công cụ khác . Đó là : Thứ nhất , nó phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHTƯ , trong đó NHTƯ hoàn toàn chủ động kiểm soát được khối lượng giao dịch . Thứ hai , nó vừa linh hoạt vừa chính xác , có thể sử dụng ở bất kỳ quy mô nào . Khi có yêu cầu thay đổi về dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ dù ở mức nào đi nữa thì nghiệp vụ thị trường mở vẫn có thể đạt được bằng cách mua hoặc bán các chứng khoán . Thứ ba , nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng đảo chiều . Nếu NHTƯ có sai sót gì trong quá trình thực hiện cũng dễ dàng sửa sai ngay tức khắc . Thứ tư , nó có tính an toàn cao . Giao dịch trên thị trường mở gần như không gặp rủi ro bởi : cơ sở bảo đảm cho các giao dịch đó đều là những giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao , không có rủi ro tài chính . Thứ năm , nó thực hiện một cáhc nhanh chóng không vấp phải sự chậm trễ của các thủ tục hành chính . Khi NHTƯ quyết định muốn thay đổi dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ , chỉ cần đưa ra yêu cầu cho các nhà giao dịch chứng khoán trên thị trường tiền tệ và sau đó việc mua bán sẽ được thực hiện ngay . 3.1.1 Thực trạng và cơ chế điều hành nghiệp vụ thị trường mở Tại các nước phát triển , do đòi hỏi của nền kinh tế và hoạt động của thị trường tiền tệ , nghiệp vụ thị trường mở được giao dịch hàng ngày . Đó là nơi để các NHTM tìm kiếm nguồn vốn bổ sung cho việc thiếu hụt khả năng thanh khoản của mình , cũng là nơi có các NHTM có thể đầu tư vốn tạm thời tồn đọng của mình ( đó là khoản đầu tư đem lại lợi nhuận chắc chắn ). Thông qua hoạt động mua bán ở TTM , NHTƯ điều hành việc cung ứng tiền và lãi suất ngắn hạn một cách chủ động . Khi muốn tăng lượng tiền trong lưu thông thì NHTƯchỉ việc mua các giấy tờ có giá của các TCTD trên thị trường mở , còn muốn giảm lượng tiền trong lưu thồn thì chỉ việc bán các giấy tờ có giá . Muốn tăng tiền tạm thời thì sử dụng phương thức mua có kỳ hạn bằng hợp đồng mua lại của các TCTD , còn muốn giảm thì bán có kỳ hạn . Tất cả những điều đó đều sẽ tác động đến hoạt động tín dụng của ngân hàng và gián tiếp tác động lên thị trường vốn ngắn hạn . Khi nói đến cơ chế điều hành nghiệp vụ TTM , chúng ta cần xem xét đến các hoạt động của phiên giao dịch và vấn đề liên quan . Trước hết ta cần phải nói đến phạm vi thành viên tham gia . Có ba điều kiện để xem xét phạm vi thành viên , đó là : một là , NHTƯ can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng thì thành viên tham gia các TCTD và các tổ chức khác cả các cá nhân có tiền mặt và tiền gửi – hai là , nếu cơ sở pháp lý cho phép các TCTD hoạt động theo hướng đa năng thì thành viên tham gia chỉ gồm các TCTD – ba là , điều kiện về khả năng truyền tải của hệ thống thanh toán . Tóm lại là các thành viên tham gia thị trường mở trước hết phải là các TCTD có đủ các điều kiện mở tài khoản tiền gửi tại NHTƯ , có hệ thống mạng vi tính kết nối với NHTƯ và phải được NHTƯ cấp giấy công nhận thành viên . Điều thứ hai cần nói đến là phạm vi hàng hoá được sử dụng giao dịch trên TTM . Theo luật ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thì chỉ có các giấy tờ có giá mới được sử dụng trong phiên giao dịch , đó là các tín phiếu kho bạc Nhà nước , tín phiếu ngân hàng Nhà nước , chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ cógiá ngắn hạn khác . Khi điều kiện pháp lí cho phép thì không chỉ dừng lại ở các giấy tờ có giá ngắn hạn mà còn mở rộng sang trung và dài hạn ; tuy nhiên , chúng phải có tính thanh khoản cao . Thứ ba là giá và lãi suất trên TTM . Giá của các loại giấy tờ có giá hay lãi suất giao dịch trên TTM là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường , vì vậy mà lãi suất là mục tiêu mà NHTƯ cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu . Lãi suất là cơ sở để tính giá của giấy tờ có giá . Thứ tư là phương thức giao dịc . Nó thể hiện tính linh hoạt của công cụ nghiệp vụ TTM mà các công cụ khác không có được .Khi nhận thấy biểu hiện của sự trì trệ trong lưu thông tiền tệ thì phương thức mua bán hẳn giấy tờ có giá là hợp lí. Để đảm bảo hạn chế trong cung ứng tiền thì phương thức được áp dụng trên TTM sẽ là mua , bán có kì hạn . Thứ năm là trình độ phối hợp giữa các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ , đặc biệt là giữa nghiệp vụ TTM với công cụ tái cấp vốn Nó làm ảnh hưởng đến hiệu quả của nghiệp vụ thị trường mở. Việc cho vay tái cấp vốn không được đảm bảo bởi các giấy tờ có giá hoặc được đảm bảo bởi các giâý tờ có giá có giá trị thấp, làm cho mục tiêu kích cầu tín dụng không thực hiện được . Để chống lại ảnh hưởng này, NHTƯ các nước thường áp dụng cơ chế nâng lãi suất ở thị trường vay để kích thích các TCTD ưu tiên bán giấy tờ có giá trị trên TTM . Vấn đề triết khấu giấy tờ có giá được quan tâm . Thứ sáu là mức độ hoàn thiện công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán phụ trợ . Nó ảnh hưởng đến việc thực hiện các công đoạn giao dịch từ khi công nhận thành viên , đăng kí chữ kí điện tử , thông báo mời thầu . . . đến khâu thanh toán chuyển tiền và làm các loại thông báo , báo cáo . Như vậy, trong nghiệp vụ TTM không chỉ phương thức mua bán hẳn mà còn có phương thức giao dịch có kì hạn . Các loại chứng khoán trung và dài hạn có đủ cơ sở tham gia vào nghiệp vụ TTM . Tuy nhiên , trong điều kiện Việt Nam , thị trường chứng khoán còn chưa phát triển , nghiệp vụ TTM cũng đang ở giai đoạn đầu và nền kinh tế còn đang tiềm ẩn nhiều khả năng rủi ro, cho nên các loại chứng khoán trên đã được chấp nhận , nhưng trên thực tế thì ngược lại . Trong số các loại giấy tờ có giá thì các chứng khoán do kho bạc Nhà nước phát hành luôn là loại chứng khoán được giao dịch chủ yếu ở Việt Nam , chứng khoán Kho bạc cũng đang chiếm ưu thế hơn các loại chứng khoán khác cả về mức độ rủi ro và kích cỡ thị trường . 3.1.2 Sự phát triển nghiệp vụ TTM ở Việt Nam . Ngày 12-7-2000 , nghiệp vụ TTM do NHNN chủ trì đã mở phiên giao dịch đầu tiên . Trong thời gian qua,việc điều hành đã diễn ra theo đúng qui định và luôn bám sát tình hình thực tế diễn biến của thị trường tiền tệ ,nghiệp vụ TTM đã vận hành một cách nhịp nhàng và đạt được những mục tiêu đề ra , có thể nói nghiệp vụ TTM là một trong hai sự kiện nổi bật nhất trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2000 được công bố lần đầu vào 5/8/2000. Nó đã tác động nhất định tới vốn khả dụng của các TCTD tham gia thị trường , đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn , lãi suất tín dụng ; chỉ duy nhất có 4 phiên đầu tiên là áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng . Đầu năm 20001 tiến hành giao dịch thường xuyên hàng tuần .Từ 10/1/2001đến 15/2/2001 , NHNH tiếp tục tiến hành mua vào giấy tờ có giá , chủ yếu là mua kỳ hạn . Từ 21/2 đến 14/3/2001, do nhu cầu vốn khả dụng tăng , NHNH tổ chức các phiên giao dịch trên TTM , đã thực hiện mua có kỳ hạn giấy tờ có giá . Từ 20/6 đến 31/10/2001, NHNH lại tiến hành mua có kỳ hạn tín phiếu .Trong tháng 11/2001 , do lượng vốn khả dụng của các TCTD vẫn ở mức cao nên 4 phiên giao dịch liên tiếp không có thành viên tham gia .Đầu tháng 12/2001 , lần đầu tiên NHNH tiến hành giao dịch bán có kỳ hạn một tháng . Như vậy , sau hơn một năm hoạt động , đến cuối năm 2001 ,TTM đã có 21 thành viên và hàng hoá giao dịch trên TTM vẫn chỉ có hai loại : tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNH. Thời hạn thanh toán và giao nhận các giấy tờ có giá ngắn hạn giữa các TCTD từ hai ngày xuống còn một ngày . Trong năm 2002, tính đến ngày 5/9 đã tổ chức 52 phiên , từ tháng 5/2002 , quyết định tổ chức thường xuyên 2 phiên giao dịch mỗi tuần . Lãi suất hình thành trên TTM đã bám sát với lãi suất của các TCTD ; Đặc biệt Với việc cung ứng vốn thông qua nghiệp vụ TTM đã góp phần thực hiện chủ trương kích cầu chính phủ . Trong những năm tiếp theo ,để nghiệp vụ TTM thực sự trở thành một công cụ gián tiếp đắc lực góp phần phát triển thị trường tiền tệ , để nó ngày càng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam ,cần phải có một số biện pháp như : phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ và biện pháp điều hành chính sách tiền tệ , hỗ trợ cho sự phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng ,đồng thời NHNNcũng càn nghiên cứu ,mở rộng thêm hàng hoá cho thị trường , đa dạng hoá các loại hàng hoá giao dịch trên TTM ; tạo điều kiện cho các TCTD tham gia TTM ; từng bước cải thiện hoạt động của thị trường nội tệ , ngoại tệ liên ngân hàng ; các TCTD mử rộng hơn nữa các loại hình kinh doanh ngoài cho vay truyền thống . 3.2 Dự trữ bắt buộc Đó là số tiền mà các TCTD phải giữ lại mà không được dùng để cho vay hoặc đầu tư ,mức này thường do NHTƯ quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng tiền giử của khách tại các TCTD . Những thay đổi trong dự trữ bắt buộc (DTBB) tác động đến cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số nhân cung ứng tiền tệ . Kể từ ngày ban hành quyết định 260/QD – NHNN ngày 19/9/1995 mức dự trữ bắt buộc dự trữ được tính chung cho tất cả các loại tiền tệ giửi không phân biệt tiền giưỉ có kỳ hạn dưới một năm hay không kỳ hạn . Nếu lạm phát cao hay lãi suất cao thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các công cụ khác của chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước . Chế độ dự trữ bắt buộc ở các nước khác nhau , ở các thời kỳ khác nhau , song các thời kỳ cơ bản đều mang tính bắt buộc chung là tính pháp luật , được gửi ở NHTƯ và không được hướng lãi nó được để tác động đến lượng tiền cung ứng trên hai phương diện : Thứ nhất , nó tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các ngân hàng thương mại thông qua hệ số nhân tiền khi tăng hoặc giảm tỷ lệ đượcự trữ bắt buộc sẽ làm hệ số tạo tiền thu hẹp (hoặc tăng lên) . Thứ hai ,nó tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống NHTM . Như ta đã biết , tiền DTBB phải giữ ở NHTƯ mà không được hưởng khoản lãi , trong đó các NHTM vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền gửi ở ngân hàng mình . Vì vậy , khi mà khoản dự trữ đó tăng lên , buộc các NHTM phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế làm khả năng cho vay của họ bị giảm xuống , vì thế lượng tiền cung ứng cũng có xu hướng giảm . Ngược lại , khi mức dự trữ giảm sẽ làm lượng tiền cung ứng tăng lên . Hiện nay , công cụ DTBB đóng vai trò kém phần quan trọng trong thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng TƯ , bởi quá phức tạp , kém linh hoạt , ảnh hưởng đến lợi nhuận các ngân hàng kinh doanh . Còn ở Việt Nam ,công cụ DTBB được ngân hàng NN đưa ra ngay sau khi pháp lệnh NHNN ra đời và thời kỳ đầu ở Việt Nam thực hiện kỳ duy trì DTBB là 15 ngày , tiền DTBB phải duy trì thường xuyên trên tài khoản mở tại NHNN ,tỷ lệ DTBB là 10% (trong đó 70% giữ tại NHNN và 30% là tiền mặt tồn quỹ tại NHTM); nêú thiếu tiền DTBB thì phải bù đắp phần thiếu ,nếu không đủ thì NHNN sẽ cho vay ( theo lãi suất cao hơn đối với lãi suất cho vay của các TCTD vơí nền kinh tế ) . Và quy định tiền DTBB phải duy trì thường xuyên tính theo ngày , làm ảnh hưởng đến huy động và sử dụng vốn của các TCTD . Từ tháng 1/1998 cho đến nay , NHNN đưa ra quy chế TDBB mới là quyết định duy trì DTBB là 1 tháng và tiền gửi duy trì DTBB tại NHNN được tính bình quân trong kỳ , nều thừa sẽ được hưởng lãi bằng lãi suất tiền gửi thanh toán tại NHNN còn nếu thiếu thì sẽ bị phạt bằng 150%lãi suất tái cấp vốn của NHNN với các tctd công bố thời kỳ . Như vậy giúp cho NHTM chủ động trong việc điều hành và sử dụng vốn trong kinh doanh , đồng thời giúp NHNN kiểm soát và điều hành chính sách tiền tệ thông qua công cụ này khá nhiều hiệu quả .Trong năm 2001 , công cụ DTBB đã được điều hành phù hợp với diễn biến của tiền tệ và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ , quản lý ngoại hối của NHNN . Tháng 5/2001 NHNN đã nâng tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ lên 15% cùng với giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng nội tệ xuống 3% đã hỗ trợ cho việc điều hành lãi suất và tỷ giá , góp phần hạn chế tình trạng đô la hoá .Vào tháng 12/2001 , trên thị trường quốc tế ,lãi suất có xu hướng giảm mạnh , NHNN đã quyết định điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB đổi mới tiền gửi bằng ngoại tệ xuống còn 10% . Lãi suất. Lãi suất cũng là 1 công cụ khá quan trọng trong công việc thực thi chính sách tiền tệ tại Việt Nam , nó đã phát huy tác dụng rất hiệu quả . Thực trạng cơ chế điều hành lãi xuất ở nước ta qua các giai đoạn đã chứng tỏ một bước ngoặt lớn lao trong cơ chế điều hành lãi suất, định hướng cho các TCTD ấn định mức kinh doanh. Từ ngày 5/8/2000, đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi xuất cơ bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi xuất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ . Về mặt bản chất , cơ chế lãi suất mới này cũng giống cơ chế lãi suất trần, chỉ khác là nó mang tính hướng dẫn, chỉ đạo cho các TCTD hình thành lãi suất hoạtđộng cho mình một cách dễ dàng hơn; lãi suất cho vay lại bị khống chế bởi biên độ . Năm 2001, NHNN vẫn tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng điều chỉnh lãi suất cơ bản một cách linh hoạt, trên cơ sở bám sát diễn biến trên tthị trường quốc tế và mục tiêu chính sách tiền tệ. Điều này hoàn toàn phù hợp với diễn biến lạm phát, tỷ giá, đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa lãi xuất VND và ngoại tệ. Trong năm 2001, NHNN đã chủ trương 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, từ tháng 6/2002,NHNN đã bỏ cơ chế khống chế theo biên độ, chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay bằng ngoại tệ. Như vậy, các TCTD tự do ấn định lãi suất cho vay ngoại tệ trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng ngoại tệ . Đối với lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại các TCTD, NHNN vẫn quy định khống chế ở mức thấp ;ngoài ra, để phù hợp với xu hướng giảm lãi suất trên thị trường quốc tế, tháng 12/2001, NHNN đã điều chỉnh lãi suất tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn xuống. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà nhà nước chưa thể trả nổi lãi suất, thì việc điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu bằng công cụ lãi suất chiết khấu. ở nước ta, công cụ này rất có hiệu quả bởi vì mặc dù có vốn vào song vẫn chưa đủ như chúng ta mong muốn, đặc biệt là khi có lệnh cấm vận của mỹ, nguồn vốn chảy vào Việt Nam cũng không dễ dàng gì; khi đã bỏ lệnh cấm vận, luật đầu tư cũng được sửa đổi nhiều nhưng vẫn không đạt được như mong muốn . Còn đối với các nước trên thế giới thì lại kém hiệu quả (thậm chí là không hiệu quả ) bởi hầu hết các nước đó là có nền kinh tế mở nên luồng vốn tự do di chuyển , nếu nguồn vốn đó vào ngân hàng thì đó chính là nguồn đầu tư gián tiếp,làm cán cân thanh toán mất cân bằng (do vốn vào bằng ngoại tệ thì ra cũng bằng ngoại tệ ) gây khó khăn cho nền kinh tế . Như vậy , chính sách chiết khấu không chỉ điều tiết lượng tiền cung ứng mà còn để thực hiện người cho vay cuối cùng đối với các TCTD và tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế . Nó cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng khi các sự phá sản của ngân hàng đe doạ thoát khỏi sự kiểm soát , do đó đã ngăn chặn những cơn sụp đổ ngân hàng và tài chính ; trong quá trình xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng thì dự trữ được lập tức điều đến các ngân hàng nào cần thêm nhiều dự trữ hơn cả . Tái cấp vốn Trong điều hành chính sách tiền tệ hiện nay , tái cấp vốn của NHNN giữ một vị trí quan trọng nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các TCTD. Trước tháng3/1997 , NHNN quy định lãi suất tái cấp vốn theo lãi suất cho vay trên từng khế ước xin vay tái cấp vốn , vì vậy mà lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động và mang sự phân biệt giữa các ngân hàng . Kể từ tháng 3/1997 , lãi suất tái cấp vốn được xác định một cách độc lập . Cứ mỗi lần thay đổi lãi suất trần thì lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh một cách tương ứng . Và trong các năm 1999,2000,2001 , lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm liên tục nhằm thực hiện kích cầu nền kinh tế . Công cụ tái cấp vốn đã được điều hành theo hướng thực hiện nới lỏng tiền tệ , khuyến khích các TCTD mở rộng tín dụng , tiếp tục chủ trương kích cầu , hạn chế xu hướng giảm chỉ số giá cả hàng tiêu dùng . Trong điều kiện hiện nay của nước ta , khi mà đang cần vốn để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các TCTD trong thanh toán cho nhau , đặc biệt là trong thanh toán bù trừ liên ngân hàng , thì tái cấp vốn theo phương thức chi ngắn hạn có bảo đảm của NHNN với các TCTD là một yêu cầu bức thiết . Về căn cứ pháp lý : Theo luật NHNN , tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của NHNN , nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng . Bao gồm các hình thức tái cấp vốn như cho vay lại theo hồ sơ tín dụng ; chiết khấu và tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn , cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Đối tượng được tái cấp vốn là các ngân hàng . Tài sản cầm cố gồm tín phiếu kho bạc Nhà nước , tín phiếu NHNN , các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác ; và các giấy tờ có giá ngắn hạn được chiết khấu gồm có : tín phiếu kho bạc Nhà nước , tín phiếu NHNN có thời hạn thanh toán còn lại tối thiểu 30 ngày . Trong quá trình hoạt động kinh doanh , các TCTD phải luôn cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn . Còn với hoạt động thanh toán bù trừ lẫn nhau giữa các TCTD theo lệnh thu , chi của các khách hàng ; để đáp ứng nhu cầu tức thời về vốn , NHNN cho các TCTD thực hiện vay bổ sung hoặc vay theo hình thức tái cấp vốn khác . Thực chất , phương thức thấu chi ngắn hạn có bảo đảm của các TCTD tại NHNN là phương thức tái cấp vốn cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn . Tuy nhiên , theo phương thức này cần phải quan tâm tới một số vấn đề như : các TCTD phải đề nghị gửi tại NHNN , chủ động xây dựng hạn mức thấu chi trong từng thời kỳ cho phù hợp ( phải được NHNN đồng ý chấp nhận ) , phải lập danh mục tài sản bảo đảm và thực hiện cầm cố tại NHNN , NHNN có thể quy định cụ thể mức lãi suất thấu chi và thời hạn thấu chi cho phù hợp , các TCTD chỉ được thấu chi trong hạn mức và NHNN phải theo dõi , kiểm soát . Để thực hiện tốt , cần có những giải pháp đúng đắn cả đối với NHNN và các TCTD . Tỷ giá hối đoái Là một công cụ của chính sách tiền tệ . Cho đến nay có ba loại chế độ tỷ giá cơ bản . Đó là : Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn : trong tỷ giá được hoàn toàn tự do theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp nào của NHTƯ . Như vậy , tỷ giá luôn đạt được ở mức cân bằng cung cầu . Do đó , nền kinh tế luôn có xu hướng đạt trạng thái cân bằng bên ngoài một cách tự động , NHTƯ không nhất thiết phải duy trì dự trữ ngoại hối . Chế độ tỷ giá cố định : NHTƯ buộc phải can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì tỷ giá biến động xung quanh tỷ giá do NHTƯ ấn định trong một biên độ hẹp . Như vậy , NHTƯ phải có sẵn nguồn dự trữ ngoại hối nhất định . Để cho tỷ giá ở mức cân bằng buộc NHTƯ phải mua ( hoặc bán ) ngoại tệ trên thị trường ngoại hối , làm cho dự trữ ngoại hối của NHTƯ thay đổi . Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết : NHTƯ can thiệp trên thị trường ngoại hối ngay cả khi không ấn định tỷ giá . NHTƯ can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá , nhưng không ấn định tỷ giá và không buộc phải can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì tỷ giá cố định . ở nước ta duy trì chế độ tỷ giá cố định . Nó được điều chỉnh linh hoạt , bám sát biến động của lãi suất USD trên thị trường quốc tế và cung cầu ngoại tệ thị trường trong nước . Tháng 9/2001 , NHNN đã quyết định mở rộng kỳ hạn thực hiện các giao dịch kỳ hạn , hoán đổi của TCTD và điều chỉnh mức gia tăng tỷ giá hoán đổi , kỳ hạn với trần tỷ giá giao ngay . Trong bối cảnh diễn biến thị trường quốc tế có nhiều biến động , việc điều hành tỷ giá linh hoạt và can thiệp kịp thời của NHNN trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã góp phần ổn định tỷ giá , khuyến khích xuất khẩu kiểm soát nhập khẩu . Trong thời gian tới , khi mà lãi suất chưa được tự do hoá , dự trữ ngoại tệ quá ít , thị trường tiền tệ chưa phát triển thì duy trì cơ chế này vẫn là cần thiết . Hiện nay , nhu cầu ngoại tệ thì cao , cung ngoại tệ thì quá hạn chế nên nếu cứ để tỷ giá theo quan hệ cung cầu thị trường tất yếu sẽ dẫn đến nguy cơ lạm phát , khủng hoảng sẽ xảy ra . Khi tỷ giá tăng vọt sẽ làm các khoản nợ nước ngoài tăng nhanh .Vì vậy, việc duy trì một tỷ giá linh hoạt sẽ làm cho Nhà nước chủ động hơn trong việc phân tích lợi ích do các mức tỷ giá mang lại . Thực trạng vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ Trong những năm qua , NHNN từng bước đổi mới vững chắc , góp phần xứng đáng trong thành tựu của nền kinh tế nói chung . Từ khi thực thi chính sách tiền tệ , NHNN đã bước đầu đạt được những thành tựu đáng kể . Bước đầu thực hiện được mục tiêu đầu tiên của chính sách tiền tệ , mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền quốc gia NHNN đã chủ trì xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia , kế hoạch cung ứng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình chính phủ thông qua ; sau khi được xét duyệt thì NHNN đã triển khai tích cực , sáng tạo vừa ổn định giá trị đồng tiền vừagóp phần giải quyết những khó khăn về chi tiêu của nên kinh tế . Bên cạnh đó , NHNN còn là cơ quan của chính phủ và là NHTƯ của nước ta , thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và ngân hàng … Tuy nhiên , theo luật NHNN , vai trò của NHNN trong xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ còn nhiều điểm yếu kém bộc lộ : Thứ nhất , vai trò còn tương đối hạn chế . NHNN chỉ chủ trì xây dựng dự án chính sách tiền tệ lên Quốc hội mà phải thông qua chính phủ . Thứ hai , NHNN chưa thực sự chủ động thực thi chính sách tiền tệ do định kỳ lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm đều đã được chính phủ chỉ định để chi cho các mục tiêu cụ thể . Thứ ba , khả năng điều hành chính sách tiền tệ của NHNN bị hạn chế , bởi có khá nhiều cơ quan tổ chức than gia chỉ đạo , giám sát xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ chứ không phải chỉ có Quốc hội và Chính phủ . Từ thực trạng vai trò của NHNN như trên và tầm quan trọng của chính sách tiền tệ , cần phải nâng cao vai trò của NHNN trong xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ . Có một số giải pháp : Cho phép NHNN chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng cho lưu thông tiền tệ . Góp phần tăng cường khả năng điều hành các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN. - Tập trung mọi nguồn vốn tín dụng . Bởi việc phân tán các nguồn vốn này ; vì thế không thể điều tiết lượng tiền cung ứng trong lưu thông qua công cụ tái cấp vốn - Có chính sách phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo hướng : cải tiến và phát huy các công cụ chính sách tiền tệ hiện có , tích cực đưa các công cụ mới của chính sách tiền tệ vào vận hành . Hạn chế sự can thiệp quá sâu đối với NHNN của các cơ quan , tổ chức trong hoạt động và thực hiện chính sách tiền tệ . NHNN cần được chủ động và chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Chính phủ về thực hiện chính sách tiền tệ . Các cơ quan , tổ chức không can thiệp quá sâu vào hoạt động của NHNN. Hạn chế nhiệm vụ của NHNN với vai trò một bộ trong Chính phủ và bộ chủ quản để NHNN tập trung thực hiện vai trò NHTƯ của đất nước. Chương IV Tác động của toàn cầu hoá đến chính sách tiền tệ và chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở 4.1 Tác động của toàn cầu hoá đến chính sách tiền tệ Quá trình toàn cầu hoá nói chung diễn ra một cách rộng khắp trên toàn thế giới . Đó cũng là xu thế phát triển tất yếu của thời đại . Bên cạnh nhữngtác động tích cực , toàn cầu hoá còn gây ra những tác động tiêu cực đến việc thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô của nền kinh tế , đặc biệt là chính sách tiền tệ quốc gia. Một trong những kết quả mà toàn cầu đưa lại cho một nền kinh tế là việc làm cho nền kinh tế phải chịu những cú sốc từ bên ngoài , góp phần làm mất ổn định nền kinh tế đất nước . Như vậy , có thể nói chính sách tiền tệ trong nền kinh tế toàn cầu hoá nhằm để đối phó với các cú sốc từ bên ngoài . Đó là các cú sốc cầu , sốc cung và sốc tỷ giá hối đoái . Cú sốc cầu là trường hợp có một thay đổi ngoài dự tính tình hình hoạt động kinh tế tổng thể ở nước ngoài , điều này làm ảnh hưởng đến cầu đôi với hàng xuất khẩu của quốc gia . Sốc cung là trường hợp có một sự thay đổi giá hành hoá không tương quan với sự cân bằng cung cầu trên thị trường trong nước . Sự thay đổi tỷ giá hối đoái do các diễn biến ở nước ngoài hay do các yếu tố không có sự liên hệ rõ ràng với các yếu tố kinh tế cơ bản là một nguồn tạo ra sốc cho nền kinh tế , đó là cú sốc tỷ giá . Một điểm khác nữa của nền kinh tế mở là sự tăng lên nhanh chóng của chu chuyển vốn quốc tế . Nó làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ hay không , đó là vấn đề đáng phải quan tâm . Thực ra , với các nước có chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi thì chính sách tiền tệ quốc gia vẫn là một công cụ quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô . Một yếu tố quan trọng nhất quyết định các thay đổi tỷ giá hối đoái ngắn hạn là thay đổi chênh lệch lãi suất thực tế giữa các nước. Sự thay đổi lãi suất trong nước làm cho các tài sản được định giá bằng đồng bản tệ thấp hơn so với các tài sản được định giá bằng đồng ngoại tệ , điều này làm thay đổi mức cầu về tài sản và dẫn đến việc tăng chu chuyển vốn vào nước này từ nước khác . Nền kinh tế Mỹ có quy mô tương đối lớn nên các thay đổi tình hình kinh tế của nó sẽ tác động đến các nước khác nhiều hơn . Một sự thay đổi của chính sách tiền tệ ở Mỹ cũng ảnh hưởng đến các nền kinh tế khác theo ba kênh chủ yếu : Tỷ giá hối đoái , lãi suất và thu nhập ở Mỹ ; tác động tuỳ thuộc vào chế độ tỷ giá của nền kinh tế nước ngoài . Khi lãi suất Mỹ tăng lên , đòi hỏi các quốc gia đó cũng phải tăng lãi suất để đảm bảo duy trì tỷ giá ở mức cố định . Đối với các nước có chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi thì tỷ giá hối đoái thả nổi có xu hướng biệt lập hoá một quốc gia khỏi các cú sốc tiền tệ từ bên ngoài. Sự mở cửa của một nền kinh tế cũng làm tăng thêm tác động của quá trình toàn cầu hoá đến tình hình kinh tế vĩ mô của nước này . Tuy nhiên , chỉ cần tập trung vào các tác động của toàn cầu hoá đến các yếu tố động lực giá cả - tiền lương do nó có ý nghĩa trực tiếp đối với việc thực hiện chính sách tiền tệ . Và có thể toàn cầu hoá sẽ làm giảm được các nguy cơ lạm phát ngày càng tăng. Như vậy , việc mở cửa của nền kinh tế đã đưa lại những thay đổi quan trọng nhưng không làm thay đổi về cơ bản các khái niệm , hay đưa ra các mục tiêu mới cho chính sách tiền tệ để thực hiện các mục tiêu mới đó . Tuy nhiên , quá trình mở cửa nền kinh tế này có tác động đáng kể đến cơ chế truyền tác động của chính sách tiền tệ ( đó là cơ chế xuất phát từ sự tăng lên của lãi suất ngắn hạn , tác động sang lãi suất trung và dài hạn và giá chứng khoán , sau đó đến tổng cầu . Đó là cơ chế truyền tác động trong nền kinh tế đóng . Còn trong nền kinh tế mở thì xuất phát từ lãi suất trong nước đến tỷ giá hối đoái danh nghĩa và sang các mức giá của xuất – nhập khẩu , từ đó tác động sang kim ngạch xuất nhập khẩu thực tế và giá cả trong nước ) và đặt nền kinh tế quốc gia ở vị trí ngày càng chịu ảnh hưởng nhiều hơn của các thay đổi của tình hình kinh tế bên ngoài . 4.2 Chính sách tiền tệ trong nền kinh tế mở : Trong nền kinh tế mở thì quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng và nó là một nền kinh tế có xuất - nhập khẩu . Hệ số đo lường mức độ mở của nền kinh tế là hoặc . ( Ex : kim ngạch xuất khẩu ; Im : kim ngạch nhập khẩu ) Mặt khác , trong nền kinh tế mở thì luồng vốn vào và ra tự do giữa các quốc gia . Cùng với nó là cơ chế tỷ giá cũng tác động không nhỏ đến quá trình điều hành và thựcc thi chính sách tiền tệ . * Trong điều kiện nền kinh tế mở có tỷ giá cố định : vốn vận động tự do , cán cân thanh toán có thể thâm hụt hoặc thặng dư . Để làm cho nó cân bằng , NHTƯ cần phải bổ sung thêm vào cán cân thanh toán một tài khoản quyết toán chính thức . Như trên đã nói : tỷ giá cố định do NHTƯ ấn định , không tuân theo quy luật cung - cầu trên thị trường ngoại hối . Để giữ cho tỷ giá ở mức cố định , NHTƯ cần có biện pháp mua hoặc bán ngoại lệ . Điều này chứng tỏ rằng NHTƯ không còn khả năng kiểm soát cung tiền khi muốn cho tỷ giá cố định .Và như vậy chính sách tiền tệ sẽ vô hiệu quả . Giả sử NHTƯ thu hẹp lượng tiền cung ứng e ( tỷ giá thả nổi ) i LM1 D1(đ) D0(đ) i1 E1 LM0 S1(đ) i0=i* E0 S0(đ) Y Q(đ) Đường LM dịch sang trái ( LM0 LM1 ) , cân bằng mới được thiết lập với lãi suất i1 > i* ban đầu , lãi suất trong nước lớn hơn lãi suất quốc tế nên tồn tại một luồng vốn đổ vào trong nước . Trên thị trường ngoại hối , cầu tiền đồng D(đ) tăng dịch phỉa . Giả sử NHTƯ cố định tỷ giá ở mức e0 ban đầu , vì thế ,trên thị trường ngoại hối dư cầu tiền đồng . Do vậy , NHNN phải bỏ tiền đồng ra để mua $ vào , cung tiền đồng dịch phải . Trên thị trường tiền tệ , cung tiền tăng , đường LM1 sẽ dịch chuyển sang phải cho đến khi về vị trí cũ LM0 ban đầu. Như vậy , sản lượng không đổi , có nghĩa là chính sách tiền tệ vô hiệu quả Với trường hợp NHTƯ mở rộng lượng tiền cung ứng cũng vậy, chính sách vô hiệu quả . Trong điều kiện nền kinh tế mở có tỷ giá thả nổi : vốn vận động tự do , cấn cân thanh toán sẽ cân bằng . i e LM1 i1 LM0 S0(đ) e1 i* CM e0 IS0 D1(đ) IS1 D0(đ) Y2 Y1 Y0 Y Q(đ) Giả sử NHTƯ thu hẹp lượng tiền cung ứng , LM dịch sang trái (LM0 LM1 ) lãi suất tăng , có nghĩa lãi suất trong nước lớn hơn lãi suất quốc tế , như vậy sẽ tồn tại một luồng vốn từ nước ngoài đổ vào trong nước . Trên thị trường ngoại hối , tỷ giá đồng nội tệ e tăng dẫn đến xuất khẩu ròng giảm , IS giảm dịch xuống dưới (sang trái ) cắt LM1 tại điểm tương ứng với mức lãi suất đã cho ban đầu i* . Do vậy ,sản lượng giảm từ Y0 Y2 ,có nghĩa chính sách có hiệu quả . Kết luận Trong phần nội dung trên chúng ta đã nghiên cứu về chính sách tiền tệ cũng tương đối đầy đủ các phần . Tuy nhiên , như đã nói ở phần mở đầu , đó chỉ là nghiên cứu một cách hết sức vắn tắt . Nhưng qua kết quả phân tích đó cũng cho chúng ta hiểu được vấn đề và có thể đưa ra những ý kiến của riêng mình . Trong điều kiện họi nhập khu vực và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, đất nước cũng cần phải có những thay đổi mạnh mẽ thì mới không bị để tụt lại đằng sau qúa xa , có nghĩa là phải luôn đề ra những giải pháp kịp thời , tiếp tục tăng cường công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế Đất nước , phát huy những thế mạnh của mình . Đồng thời có giải pháp điều hành các công cụ kinh tế còn quá mới mẻ đối với nước ta . Danh mục tài liệu tham khảo Frederic S.Mishkin – Tiền tệ , ngân hàng và thị trường tài chính NXB Khoa học và kỹ thuật – TS.Ngô Hướng và Ths.Tô Kim Ngọc,2001, Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng , NXB Thống kê . Hoàng Xuân Quế , 2002,Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng Trung Ương, NXB Thống kê TS.Nguyễn Hữu Tài , 2002,Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, NXB Thống kê . Tạp chí Ngân hàng + Mai Thị Hồng Anh , 2001 , “ Về việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ hiện nay ” , số 6/2001 , tr.11 + Thanh Bình , 2002 , “ Về phát triển nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam” số 11 , 2002 . + Nguyễn Văn Cầu , 2000 , “ Nghiệp vụ thị trường mở , công cụ quan trọng nhất trong điều hành chính sách tiền tệ của NHTƯ ” , số 9/2000,tr.28 + Ngô Chung , 2001 , “ Nâng cao vai trò của NHNN trong xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ ” , số 4/2001 . + Mai Minh Đệ , 2000 , “ Nghiệp vụ thị trường mở , công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ” , số 9/2000 , tr.25 . + Nguyễn Duy Hinh , 2002 , “ Một số ý kiến về xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ của NHNN ”, số 11/2002 + Nguyễn Vĩnh Hưng , 2002 , “ Tác động của toàn cầu hoá đến chính sách tiền tệ quốc gia ” , số 9/2002 , tr.72 + TS.Lê Hoàng Nga , 2001 , “ Nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam : đôi điêu nhìn lại ’’ , số 2/2001 , tr.12 + TS.Nguyễn Thị Nhung , 2001 , “ Nỗi băn khoăn từ hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam ” , số 6/2001 , tr.9 + Huy Minh , 2002 , “ Một số suy nghĩ qua phân tích kết quả điều hành chính sách tiền tệ 6 tháng đầu năm 2002 “ , số 8/2002 , tr.21 + Nguyễn Quang Thép , 2002 , “ Tăng cường sự phối hợp giữa nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác của chính sách tiền tệ ” , số 11/2002 + Nguyễn Đồng Tiến , 2002 , “ Xây dựng lãi suất chủ đạo của NHTƯ trong điều hành chính sách tiền tệ ” , số 12/2002 + Nguyễn Khắc Việt Trung , 2002 , “ Tái cấp vốn theo phương thức thấu chi ngắn hạn có bảo đảm của NHNN đối với các TCTD ” , số 6/2002 , tr.24 Thị trường tài chính tiền tệ + Mai Minh Đệ , 1999 , “ Vận dụng công cụ thị trường mở ” , số 12/1999 + Nguyễn Đồng Tiến , 2002 , “ Điều hành công cụ chính sách tiền tệ năm 2001 và một số dự báo năm 2002 ” , số 2/2002 , tr.5 Tạp chí Khoa học và Đào tạo ngân hàng số 3 + lê Văn Hinh , 2001 , “ Chính sách tiền tệ – Ngân hàng với vấn đề lạm phát và tăng trưởng kinh tế bền vững giai đoạn 2001 – 2005 ” , số tháng 5 +6/2001, tr.10

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0917.doc
Tài liệu liên quan