Đề tài Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt – lý luận và thực tiễn

LỜI MỞ ĐẦU Trẻ em, đối tượng cần được quan tâm đặc biệt do sự non nớt về mặt thể chất và tinh thần, chúng cần được sự bảo vệ của những người trong gia đình và xã hội. Bên cạnh đó trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn có nhiều thiệt thòi hơn vì chúng có khuyết tật về mặt thể chất và tinh thần so với trẻ em cùng lứa tuổi khác, chính vì điều đó chúng cần được sự quan tâm đặc biệt hơn. Những năm gần đây đã có nhiều tác phẩm nghiên cứu khoa học về quyền trẻ em, trong những tác phẩm này cũng có một phần nào đó đề cập đến trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nhưng chưa sâu. Nhận thức được trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là đối tượng cần được sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt hơn và thực trạng về việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt vẫn còn nhiều bất cập nên nhóm tác giả chúng tôi đã thực hiện công trình nghiên cứu này. Bằng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh chúng tôi muốn làm rõ thực trạng chăm sóc, bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại Việt Nam so với qui định của pháp luật việt nam, và tinh thần của công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên đã thực sự đạt được những kết quả như luật qui định, hướng tới không?. Và qua bất cập mà Việt Nam còn vướng chúng tôi dựa vào thực tiễn, các qui định của pháp luật hiện hành, tình hình chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước và kết hợp với việc tham khảo một số cách bảo vệ trẻ em đã đạt được kết quả cao ở một số nước để đưa ra một vài kiến nghị nhằm bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được tốt hơn, hạn chế những bất cập đang gặp phải. Trong bài viết này chúng tôi trình bày 3 vấn đề lớn về mặt pháp luật đã có những qui định như thế nào để bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, thứ hai về mặt thực tiễn chúng tôi làm rõ thực trạng và việc việc bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như thế nào, cuối cùng đưa ra các kiến nghị khắc phục những bất cập nhằm bảo vệ trẻ em tốt hơn. LỜI MỞ ĐẦU Chương I : CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO VỆ TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT I/. ĐỊNH NGHĨA VIỆT NAM VỀ TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT 1. Trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa 1.1 Pháp luật quốc tế 1.2 Pháp luật Việt Nam 2. Trẻ em lang thang 2.1 Pháp luật quốc tế 2.2 Pháp luật Việt Nam 3. Trẻ em khuyết tật, tàn tật 3.1 Pháp luật quốc tế 3.2 Pháp luật Việt Nam 4. Trẻ em bị xâm hại tình dục 4.1 theo công ước về quyền trẻ em 4.2 theo pháp luật việt nam 5. Trẻ em nghiện ma tuý 5.1 theo công ước về quyền trẻ em 5.2 Theo Pháp luật Việt Nam 6. Trẻ em phạm tội sớm 6.1 Theo công ước về quyền trẻ em 6.2 theo pháp luật việt nam 7. Trẻ em bị bạo hành 7.1 Theo công ước về quyền trẻ em 8. Trẻ em lao động sớm 8.1. Luật Quốc Tế: 8.2. Luật Việt Nam: 9. Trẻ em nhiễm chất độc ĐIOXIN 9.1. Luật Quốc Tế: 9.2. Luật Việt Nam: 10. Trẻ em nhiễm HIV/AIDS 10.1. Luật Quốc Tế: 10. 2. Luật Việt Nam: Chương II: THỰC TRẠNG VÀ CƠ CHẾ THỰC HIỆN CÔNG TÁC CHĂM SÓC TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT 1.Trẻ em tàn tật. 2.Trẻ em lang thang 3.Trẻ em mồ côi. 4. Trẻ em bị xâm hại tình dục 5. Trẻ em nghiện ma túy 6. Trẻ em phạm tội sớm 7. Trẻ em bị bạo hành 8. Trẻ em bị nhiễm chất ĐIOXIN 9. Trẻ em lao động sớm 10. Trẻ em bị nhiễm HIV Chương III: KIẾN NGHỊ VỀ BẢO VỆ CHĂM SÓC TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT KẾT LUẬN

doc46 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1992 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt – lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sau: -Trẻ mồ côi, bị bỏ rơi sống tại cộng đồng mức trợ cấp là:120.000 - 180.000 - 240.000 đồng/tháng/trẻ tương ứng với trường hợp từ 18 tháng tuổi trở lên; dưới 18 tháng tuổi và từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật, bị nhiễm HIV/AIDS; dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật, bị nhiễm HIV/AIDS.   -Trẻ mồ côi, bị bỏ rơi sống tại nhà xã hội chỉ có mức trợ cấp là 240.000đồng/tháng/trẻ; trẻ sống tại cơ sở bảo trợ xã hội mức trợ cấp là 240.000 - 300.000đồng/tháng/trẻ (từ 18 tháng tuổi trở lên; dưới 18 tháng tuổi và từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật, bị nhiễm HIV/AIDS).  -Với các gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng mức trợ cấp lần lượt là 240.000 - 300.000 - 360.000đ/tháng/ trẻ tương ứng với trẻ từ 18 tháng tuổi trở lên; dưới 18 tháng tuổi và từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật, bị nhiễm HIV/AIDS; dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật, bị nhiễm HIV/AIDS.   -Ngoài các chế độ trợ cấp hàng tháng, trẻ mồ côi còn được cấp thẻ bảo hiểm y tế; đang học văn hóa, học nghề thì được miễn, giảm học phí, được cấp sách vở, đồ dùng học tập theo quy định của pháp luật... Bên cạnh đó trong quyết định số 65/2005/QĐ-TTg (ngày 25/3/2005) của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt dựa vào cộng đồng giai đoạn 2005 - 2010 trong đó có trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi còn quy định như sau: Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia đình, gia đình thay thế hoặc tại cơ sở trợ giúp trẻ em công lập, ngoài công lập. Các bộ, các ngành có liên quan có trách nhiệm hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ đối với cơ sở trợ giúp trẻ em trong việc giải quyết, giảm nhẹ hoàn cảnh đặc biệt của trẻ em, phục hồi sức khoẻ, tinh thần và giáo dục đạo đức cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Việc quy định mức trơ cấp xã hội cũng như các kế hoạch hỗ trợ đã phần nào giúp trẻ em mồ côi vượt qua những khó khăn, tuy nhiên mức trợ cấp trên là quá thấp để đảm bảo cho trẻ phát triển một cách tốt nhất.Hơn nữa, đối tượng trẻ em mồ côi được hưởng trợ cấp mà Luật hướng tới là các trẻ mồ côi cà cha lẫn mẹ. Thiết nghĩ các trẻ em chỉ mồ côi mẹ hoặc cha nếu có hoàn cảnh thật sự khó khăn cũng cần được xem xét để hưởng trợ cấp. Trẻ em bị xâm hại tình dục Hiện nay, với sự phát triển của kinh tế xã hội, cuộc sống con người ngày càng được nâng cao cả về mặt vật chất lẫn tinh thần điều đó đã làm cho con người ngày càng sống có đạo đức, có văn hóa hơn tuy nhiên cũng có một số bộ phận chủ yếu là những người trong thế hệ trẻ đã bị suy thoái về mặt đạo đức, nhân cách, có lối sống buông thả, lười lao động thích ăn chơi đua đòi hưởng thụ và dục vọng thấp hèn. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Trẻ em hiện nay thường bị xâm hại tình dục dưới hình thức sau: Hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu và dâm ô. Theo qui định của BLHS Việt Nam 1999 thì: Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác nhằm giao cấu trái với ý muốn của họ. Tuy nhiên trường hợp giao cấu không trái với ý muốn của trẻ em dưới 13 tuổi vẫn được coi là hành vi hiếp dâm. Bởi vì theo các nhà làm luật với độ tuổi dưới 13 thì các em chưa có đầy đủ kiến thức về giới tính, chưa ý thức được hậu quả hành vi của mình do vậy dù giao cấu thuận tình thì vẫn được coi là hiếp dâm trẻ em. Cưỡng dâm là hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang trong tình trạng quẫn bách miễn cưỡng giao cấu. Giao cấu là hành vi của một người đã thành niên giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Trong trường hợp này trẻ em là nạn nhân cũng thuận tình giao cấu. Dâm ô là hành vi tình dục(không phải là hành vi giao cấu) có đặc điểm nhằm thỏa mãn hoặc khiêu gợi, kích thích nhu cầu tình dục. Cụ thể thực trạng xâm hại tình dục trẻ em diễn ra trong nước ta trong năm 2007 như sau: Theo thống kê trong “báo cáo kết quả thực hiện đề án 4 – CTQGPCTP năm 2007” của tổng cục cảnh sát – cục cảnh sát ĐTTPHS thì so với năm 2006 - Hiếp dâm trẻ em: có 612 vụ, xâm hại 605 em => giảm 37 vụ tương đương với 5,7%. Cưỡng dâm trẻ em: có 14 vụ, xâm hại 17 em => tăng 6 vụ Giao cấu với trẻ em: có 220 vụ, xâm hại 220 em =>giảm 20 vụ tương đương với 8,3 % Dâm ô với trẻ em: có 142 vụ, xâm hại 149 em => giảm 6 vụ tương đương với 4 % Thực tế cho thấy đa số các vụ xâm hại tình dục trẻ em chủ yếu diễn ra bằng phương thức mua bán dâm. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, trình độ văn hóa thấp, hoặc do bị bán, bị lừa nên đa số các trẻ em từ các vùng nông thôn lên thành thị hoạt động bán dâm. Theo thống kê trong “báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện quyết định số 52/2006/QĐ – TTg của Thủ tướng chính phủ về Chương trình phối hợp liên ngành phòng, chống mại dâm” thì trong 40.000 đối tượng hoạt động mại dâm thì có 14% độ tuổi dưới 18 tuổi. Theo “báo cáo kết quả công tác phòng, chống tệ nạn mại dâm, cai nghiện phục hồi năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ năm 2009” của Bộ lao động thương binh và xã hội thì trong tổng số người bán dâm những người bán dâm có độ tuổi dưới 18 tuổi chiếm 15,3 %. Với tình hình trên chính phủ đã có những chương trình nhằm hạn chế, tuy nhiên việc xử lý để bảo vệ trẻ em bị xâm hại là rất khó khăn. Do phần lớn các em tự nguyện thực hiện hành vi, hơn nữa để xử lý hành vi xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật hình sự rất hạn chế, chủ yếu chỉ xử lý hành chính, tuy nhiên mức xử phạt hành chính không đủ răn đe, hầu hết các hành vi xâm hại tình dục trẻ em sau khi bị xử lý vẫn tiếp diễn. Tóm lại, theo các số liệu thống kê trên chúng ta nhận thấy một điều, mặc dù pháp luật đã có những qui phạm pháp luật cụ thể với mức hình phạt, mức xử phạt hành chính khác nhau nhằm răn đe hạn chế tội phạm xâm hại tình dục trẻ em nhưng các vụ việc về xâm hại tình dục trẻ em vẫn còn tồn tại. Điều đó chứng tỏ hoặc pháp luật chưa thực sự nghiêm khắc, hoặc chính những người phạm tội không nhận biết được tội phạm hoặc do điều kiện kinh tế khó khăn trẻ em tự để mình trở thành nạn nhân (dưới hình thức hoạt động mại dâm) của hành vi xâm hại tình dục. Trước tình hình trên, để hạn chế nhà nước đã phát động công tác xây dựng xã, phường lành mạnh, tính đến năm 2008 cả nước hiện có 6.576 xã, phường không có tệ nạn mại dâm tăng 15,1 % so với năm 2007; ngoài ra còn thực hiện công tác tuyên truyền trong quần chúng nhân dân về phòng chống mại dâm để khuyến khích sự hợp tác của nhân dân trong việc đấu tranh triệt phá các ổ nhóm, đường dây bóc lột tình dục phụ nữ, mại dâm trẻ vị thành niên, tuy nhiên công tác tuyên truyền hiện nay chưa đạt hiệu quả do kinh phí còn hạn hẹp (kinh phí cấp cho tuyên truyền ở xã, phường bình quân 300.000 – 500.000 đồng/ xã, phường/ năm). Để thực hiện các nội dung đã cam kết trong công ước quốc tế về quyền trẻ em thì đối với các trẻ em bị xâm hại tình dục nhà nước ta đã có chính sách bảo vệ, giúp đỡ, tuy nhiên các chính sách này chỉ áp dụng đối với trẻ em là nạn nhân của hoạt động mua bán dâm. Theo đó những trẻ em từ đủ 16 tuổi trở lên nếu là “gái bán dâm” thì khi đáp ứng đủ các điều kiện sẽ bị bắt buộc vào trung tâm chữa bệnh – giáo dục – lao động xã hội được thành lập ở các địa phương để chữa bệnh và học nghề. Trung tâm này đảm bảo chữa bệnh cho các đối tượng là “gái mại dâm” và dạy nghề cho những đối tượng trên để khi ra khỏi trung tâm họ có nghề nghiệp không quay lại con đường cũ. Tuy nhiên trên thực tế các trung tâm trên còn thiếu cơ sở vật chất, thiếu nhân sự do đó mục đích trên của các trung tâm chưa đạt được, các đối tượng được đưa vào trung tâm chủ yếu là chữa bệnh. Hơn nữa với hoàn cảnh gia đình khó khăn, cùng với lười lao động nên đa số sau khi ra khỏi trung tâm vẫn quay lại con đường cũ. Đối với trẻ em bị xâm hại tình dục dưới phương thức khác nhà nước ta bảo vệ bằng cách xử lý người có hành vi xâm hại, đưa các trẻ em vào trung tâm bảo trợ xã hội để khắc phục tổn thương về mặt tinh thần, thể chất nếu như các em không có gia đình, không có người nuôi dưỡng. Còn đối với trẻ em có gia đình thì gia đình sẽ chăm sóc, giúp các em khắc phục tổn thương về mặt tinh thần. Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân dẫn đến trẻ em bị xâm hại tình dục là do hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhận thức xã hội kém, hoặc mãi mê kiếm sống nên cha mẹ đã bỏ mặc con cái, thiếu sự quan tâm đối với con cái. Do vậy để gia đình khắc phục, bù đắp tổn thương về mặt tinh thần cho các em điều đó có thiết thực hay không? Nhìn chung, nhà nước đã phần nào nổ lực để bảo vệ trẻ em theo đúng tinh thần đã cam kết trong công ước quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên do hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội của nước ta nên việc bảo vệ trẻ em chỉ ở mức tương đối, vẫn còn nhiều hạn chế. Trẻ em nghiện ma túy Năm 2008, tình hình tệ nạn ma túy trên toàn thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp. Theo “báo cáo tóm tắt tình hình ma túy thế giới và khu vực 2008” thì trên toàn thế giới có khoảng 208 triệu người đã sử dụng ma túy ít nhất 1 lần trong 12 tháng gần đây. Tỉ lệ người sử dụng các loại ma túy trong thời gian 2006 – 2007 so với 2005 – 2006 như sau: cần sa từ 3,8% lên 3,9%, côcain từ 0,34% lên 0,37 %, chất chứa thuốc phiện từ 0,37% lên 0,39%, heroin từ 0,27% lên 0,28% và amphetamine giảm từ 0,6% xuống 0,58%. Hơn nữa khu vực châu á là một trong các khu vực sản xuất các loại chất ma túy với số lượng lớn trên thế giới, thể hiện khu vực châu á chiếm khoảng 62% heroin thu giữ trên toàn thế giới. Và một trong các đường dây buôn bán chất ma túy lớn trên thế giới nằm trong khu vực châu á bao gồm: từ khu vực tây nam á – Trung quốc vào khu vực châu á – thái bình dương; từ khu vực tây nam á - Ấn Độ Dương - Thái lan, campuchia, lào. Chính tình hình trên đã làm cho tình trạng buôn bán, sử dụng ma túy tổng hợp dạng tinh thể, thuốc lắc, cần sa,…có xu hướng gia tăng ở một số tỉnh, thành phố ở Việt nam điều đó đã kéo theo người sử dụng ma túy ở độ tuổi thanh thiếu niên chiếm tỷ lệ cao. Theo “báo cáo tình hình, kết quả công tác phòng chống ma túy 2008 và phương hướng công tác trọng tâm năm 2009” của Bộ công an – Cơ quan thường trực phòng chống ma túy, trước tình hình diễn biến phức tạp về tệ nạn ma túy trên thế giới, Việt Nam tính đến hết ngày 30/11/2008 có khoảng 173.603 người nghiện ma túy trong đó có 288 người là học sinh, sinh viên giảm 4.702 người so với năm 2007 chủ yếu tập trung ở các vùng biên giới (trong 173.603 người nghiện ma túy thì có khoản 6.000 người nghiện ở các xã biên giới, phần lớn là các dân tộc thiểu số) và các thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng. Mặc khác theo “báo cáo tham luận tình hình tệ nạn ma túy xâm nhập và trường học năm 2008 và những giải pháp, phương hướng phối hợp, phòng ngừa” thì tình hình HSSV nghiện ma túy qua các năm như sau: năm 2002 có 1187 HSSV, năm 2003 có 979 HSSV, năm 2004 có 600 HSSV, năm 2005 có 1269 HSSV, năm 2006 có 998 HSSV, năm 2007 có 777 HSSV, năm 2008 chỉ còn 276 HSSV. Tuy có giảm so với những năm trước nhưng tình hình sử dụng ma túy vẫn còn phức tạp. Thủ đoạn sử dụng ma túy hiện nay không còn tụ tập đông người cùng sử dụng mà chia thành nhiều nhóm nhỏ vào các quán karaoke, nhà nghỉ để sử dụng; trồng cây cần sa tại nhà để sử dụng; tụ tập sử dụng thuốc lắc, cần sa, tài mà tại gia đình, trên xe taxi. Xu hướng thế giới hiện nay việc sử dụng chất ma túy tổng hợp và cần sa ngày càng tăng cụ thể theo “báo cáo tình hình, kết quả công tác phòng chống ma túy 2008 và phương hướng công tác trọng tâm năm 2009” của Bộ công an – Cơ quan thường trực phòng chống ma túy như sau: hiện nay có khoảng gần 180 triệu người sử dụng cần sa chiếm khoảng 4% dân số thế giới trong độ tuổi từ 15 đến 64. Tỉ lệ này cao nhất ở Châu đại dương 14,5%, Bắc Mỹ 10,5% và Châu Phi 8%. Cùng với xu hướng đó trong những năm gần đây các loại chất ma túy sử dụng chủ yếu ở Việt Nam bao gồm: ma túy tổng hợp, cần sa, thuốc lắc, tài mà, heroin, chất hướng thần. Việc trẻ em nghiện ma túy không những bị tổn hại về mặt thể chất và tinh thần, mà bên cạnh đó chính những trẻ em nghiện ma túy còn tiềm ẩn nguy cơ phạm tội rất cao. Do đó vấn đề ngăn chặn, hạn chế tình trạng trên là vấn đề cấp bách được các cơ quan có thẩm quyền quan tâm và đã thực hiện nhiều chương trình như: Tuyên truyền giáo dục: trong 3 tháng cao điểm năm 2008 Ủy ban quốc gia đã chỉ đạo tổ chức khoản 3.000 cuộc mít tinh với hơn 1,5 triệu người tham gia; phát hành trên 250.000 tờ rơi giới thiệu hình ảnh có chứa chất ma túy, ma túy tổng hợp để dân biết, dân bàn, dân tự phòng ngừa; tổ chức trên 55.000 buổi sinh hoạt ở cộng đồng dân cư, trường học để tuyên truyền cho hàng triệu lượt người, tạo sự thu hút quan tâm chú ý và tham gia của đông đảo các tầng lớp cán bộ, nhân dân; thực hiện tuyên truyền tới vùng núi, vùng dân tộc thiểu số…. Riêng trong trường học Bộ giáo dục và đào tạo cùng với Bộ công an đã tổ chức cho học sinh và gia đình ký cam kết “không tham gia mua bán, sử dụng ma túy”; tuyên truyền cho hơn 200.000 lượt học sinh, sinh viên, giáo viên; tổ chức 50.000 buổi học nội ngoại khóa về phòng chống ma túy. Tuy nhiên công tác tuyên truyền trên chưa hiệu quả, chưa thực sâu và thường xuyên, do đa số dân cư ở vùng núi, vùng dân tộc thiểu số ít có điều kiện được tiếp xúc với báo đài nên việc tuyên truyền là rất khó khăn; thêm vào đó mặc dù tổng ngân sách trung ương hỗ trợ cho công tác phòng, chống ma túy trong năm 2008 là 250 tỷ đồng và nguồn vốn viện trợ thực tế nhận được là 858.720 USD nhưng kinh phí cho các hoạt động tuyên truyền còn ít nên không thể tổ chức thường xuyên các cuộc tuyên tuyền đến từng vùng, từng địa phương. Đối với trẻ em nghiện ma túy thì tự nguyện hoặc nhà nước bắt buộc phải vào trung tâm chữa bệnh – giáo dục – lao động xã hội để cai nghiện hoặc tự cai nghiện ở gia đình, cộng đồng. Trong những năm qua ở một số tỉnh đã xuất hiện các mô hình cai nghiện tốt, điển hình, đạt được kết quả nhất định như mô hình cai nghiện 3 giai đoạn tại tỉnh Tuyên Quang, mô hình cai nghiện tại gia đình cộng đồng của tỉnh Nam Định; mô hình quản lý bám sát giúp đỡ người sau cai tái hòa nhập cộng đồng bằng các câu lạc bộ B93 của Hà Nội; mô hình triển khai nghị quyết 16/2003/QH11 về tổ chức quản lý dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện tại TPHCM; mô hình giám sát , giúp đỡ người sau cai nghiện tại các tỉnh miền núi đi đôi với xóa bỏ cây thuốc phiện, phát triển kinh tế, lồng ghép các chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phủ xanh đất trống đồi trọc…. các mô hình trên đã giúp nhiều đối tượng từ bỏ ma túy trở về hòa nhập với cộng đồng. Bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn những hạn chế nhất định. Do điều kiện cơ sở vật chất của trung tâm còn thiếu thốn, kinh phí còn hạn hẹp nên qui trình cai nghiện, dạy nghề, chữa bệnh cho các học viên chưa được đảm bảo; theo đó hoàn cảnh gia đình của các học viên khó khăn nên không có khả năng đóng góp kinh phí buộc trung tâm phải cắt giảm thời gian cai nghiện từ 2 năm xuống còn 1 năm, chính những điều đó làm cho tuy tỷ lệ cai nghiện thành công có tăng so với những năm trước nhưng hiện tượng tái nghiện hoặc bỏ trốn khỏi trung tâm vẫn còn tiếp diễn. Vận động nhân dân không trồng cây có chứa chất ma túy: trong niên vụ 2007 - 2008 tại các tỉnh như Sơn la đã triệt phá và hủy 297.091 m2 cây thuốc phiện tái trồng, Điện Biên 44.416 m2, Lai Châu 194.355 m2, Hòa Bình 1.900 m2, Cao Bằng 2.500 m2, 6.995 m2 và 12.533 cây cần sa tại Gia Lai, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kom Tum, Đăk Nông, Đăk Lắc… Xây dựng xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị không có tệ nạn ma túy: tính đến nay cả nước có khoản 60.180/102.504 khu dân cư đạt danh hiệu “khu dân cư tiên tiến”; 41.503/102.504 khu dân cư được công nhận “khu dân cư văn hóa”… Như vậy với tình hình diễn biến phức tạp trên thế giới và khu vực, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng mạnh, tuy nhiên với sự nổ lực của các ban ngành, đoàn thể đã phần nào hạn chế được sự gia tăng sử dụng ma túy ở độ tuổi vị thành niên. Trẻ em phạm tội sớm Gia đình và nhà trường là môi trường giáo dục quan trọng, có tác động rất lớn đến việc hình thành nhân cách, đạo đức của mỗi đứa trẻ. Hiện nay một số gia đình khó khăn, cha mẹ nghiện ngập, phạm tội, hay mẹ hoạt động mại dâm điều này đã dẫn đến sự thiếu quan tâm đến con cái của họ, và phần nào ảnh hưởng đến nhân cách của trẻ em khi chính bản thân chúng hằng ngày chứng kiến cảnh cha mẹ thường xuyên đánh đập, cãi vã nhau vì kinh tế gia đình khó khăn, hoặc cảnh cha mẹ nghiện ngập, phạm tội…. và thường xuyên đánh đập chúng. Hơn thế nữa hiện nay hầu hết các nhà trường thường chú ý đến chuyên môn mà bỏ qua việc giáo dục nhân cách, đạo đức của học sinh, và đã thiếu sự quan tâm, có sự phân biệt đối xử đối với những học sinh cá biệt. Cùng với những yếu tố trên chính bản tính hiếu thắng, muốn khẳng định mình, nông nổi, liều lĩnh, thích phiêu lưu mạo hiểm, luôn phô trương sức mạnh và sự can đảm của mình đã dẫn đến việc trẻ em làm trái pháp luật tăng cao. Theo “báo cáo kết quả thực hiện đề án 4 – CTQGPCTP năm 2007” của tổng cục cảnh sát – cục cảnh sát ĐTTPHS. So với năm 2006 thì trong cả nước đã phát hiện 10.361 vụ gồm 15.589 em giảm 107 vụ, cụ thể như sau: Giết người: 146 vụ do 232 em tham gia => tăng 22,6 % Cướp tài sản: 466 vụ do 951 em tham gia => giảm 8,8 % Cưỡng đoạt tài sản: 149 vụ do 215 em tham gia => giảm 44% Hiếp, cưỡng dâm: 203 vụ do 250 em tham gia => giảm 8% Cố ý gây thương tích: 1215 vụ do 1768 em tham gia => giảm 7,1 % Trộm cắp tài sản: 3964 vụ do 6930 em tham gia => giảm 22,8% Cướp giật tài sản: 513 vụ do 788 em tham gia => tăng 41,7 % Gây rối trật tự công cộng: 900 vụ do 1467 em tham gia => giảm 11,6 % Đánh bạc: 143 vụ do 235 em tham gia => giảm 20,9 % Môi giới mại dâm: 3 vụ do 6 em tham gia => giảm 1 vụ Phạm tội khác: 1381 vụ do 1988 em tham gia => tăng 6,8 % Trong đó có 15.140 em là nam và 449 em là nữ với độ tuổi dưới 14 là 1237 em; từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là 5072 em, trẻ em không biết chữ 969 em; trình độ tiểu học 6912 em; trình độ trung học cơ sở 3820 em; trình độ phổ thông trung học 3888 em; trong đó trẻ em đã bỏ học là 6189 em. Các vụ việc trên chủ yếu tập trung ở các địa phương TPHCM 610 vụ, Đắc lắc 400 vụ, Đồng Tháp 351 vụ, Quảng Nam 329 vụ, Hà Nội 328 vụ, Khánh Hòa 317 vụ, Gia Lại 226 vụ, Tây Ninh 329 vụ, Cần Thơ 265 vụ, Thái Bình 247 vụ, Nam Định 241 vụ, Hậu Giang 201 vụ... Như vậy so với năm 2006 thì trẻ em phạm tội có giảm nhưng một số tội giảm không đáng kể. Từ thực trạng trên ta thấy rằng hầu hết trẻ em phạm tội là trẻ em đã bỏ học, có trình độ thấp, hoặc không biết chữ. Chính vì vậy mà trẻ em được tiếp cận pháp luật là rất ít, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em phạm tội tăng cao. Đối với trẻ em làm trái pháp luật nếu đã đến mức nguy hiểm hoặc chưa đủ tuổi để chịu trách nhiệm hình sự thì nhà nước ta không xử lý hình sự đối với các em nhưng nhằm giáo dục đạo đức, rèn luyện các em nhà nước bắt buộc các trẻ em làm trái pháp luật vào cơ sở giáo dưỡng, hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Tại cơ sở giáo dưỡng trẻ em được học tập, rèn luyện đạo đức, lao động phù hợp với lứa tuổi, sức khỏe như những trẻ em khác cùng lứa tuổi. Các em ở trong cơ sở giáo dưỡng được gọi là học sinh điều đó giúp phần nào giảm sự phân biệt đối xử, nặng nề về tâm lý cả đối với các em và cả giáo viên của trường. Mọi chi phí do nhà nước cung cấp. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn, biện pháp tư pháp này áp dụng cho các trẻ em phạm tội ít nguy hiểm, đây là biện pháp nhẹ hơn biện pháp buộc vào trường giáo dưỡng. Trẻ em bị áp dụng biện pháp này được sống trong xã hội, gia đình nhưng dưới sự kiểm tra, giám sát của xã, phường thị trấn. Các biện pháp trên mục đích nhằm giáo dục, rèn luyện đạo đức cho các em, giúp các em bỏ đi những tính xấu, tính hung dữ, côn đồ để các em sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng. Tuy nhiên một thực trạng diễn ra trong xã hội là các em đã từng vào cơ sở giáo dưỡng hoặc bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì trong tâm lý mỗi người dân cho rằng chúng là những kẻ phạm tội nên tránh xa, phân biệt đối xử đối với chúng. Điều đó làm cho các em khó hòa nhập với cộng đồng, trong các em mang một tâm lý nặng nề, có thể đó là nguyên nhân làm cho các em quay lại con đường cũ. Tóm lại, đối với trẻ em làm trái pháp luật nhà nước ta không bỏ qua vẫn xử lý các hành vi của các em nhưng việc nhà nước xử lý không nghiêm khắc, nặng nề, các biện pháp xử lý chỉ nhằm tạo điều kiện để các em hoàn lương, giáo dục đạo đức, văn hóa, rèn luyện các em trở thành công dân tốt. Điều đó chứng tỏ Việt Nam đã thực hiện đúng tinh thần của công ước quốc tế về quyền trẻ em như đã cam kết cả về qui định pháp luật và việc thực thi các qui định đó. Trẻ em bị bạo hành Xuất phát từ truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, hầu hết các gia đình Việt Nam đều có cách dạy con cái “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Chính vì điều đó mà vô tình mỗi cha mẹ đã xâm hại đến thể xác của con mình. Với cách giáo dục con cái không khoa học đang tồn tại trong mỗi gia đình Việt Nam hiện nay đã dẫn đến tình trạng trẻ em bị bạo hành tăng cao. Theo “báo cáo kết quả thực hiện đề án 4 – CTPCTPQG năm 2007” của tổng cục cảnh sát – cục cảnh sát ĐTTPHS thì trong năm 2007 đã có 242 vụ cố ý gây thương tích với trẻ em gồm 321 đối tượng xâm hại 261 trẻ em. Không chỉ có cha mẹ giáo dục con cái bằng hình thức đánh đập mà cả thầy cô giáo những người đã được hướng dẫn cách giáo dục trẻ em một cách có khoa học gần đây cũng sử dụng hình thức đánh đập để răn đe, giáo dục học trò của mình. Trong thực tế đã xẩy ra rất nhiều hành vi bạo hành trẻ em với nhiều mức độ khác nhau. Nhưng hiện tại cơ quan có thẩm quyền chưa can thiệp sâu, giải quyết triệt để vấn đề trên. Do hầu hết các trẻ em bị bạo hành là do cha mẹ, cô thầy, hoặc những người thân của trẻ em nên việc tố cáo các hành vi trên với cơ quan có thẩm quyền còn hạn chế. Chỉ những vụ việc gây thương tích đối với trẻ em với mức độ lớn, lâu dài để lại thương tật trên da thịt thì mới được tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền. Chính vì vậy mà hiện nay việc xử lý hành vi trên là rất hạn chế. Đối với các trẻ em bị cha mẹ bạo hành thì cha mẹ sẽ bị hạn chế quyền nuôi con. Thay vào đó chúng sẽ được nhà nước đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội, ở đây các em sẽ được chăm sóc, sống trong tình thương của bạn bè và những người “mẹ”, điều đó phần nào giúp các em khắc phục những tổn thất về mặt tinh thần mà các em phải gánh chịu. Bên cạnh việc cha mẹ bạo hành con cái thì đối với những trẻ em phải lao động sớm do hoàn cảnh gia đình khó khăn hay cha mẹ không còn cũng bị những người chủ, người sử dụng lao động bạo hành một cách dã man. Tiêu biểu cho thực trạng trên vừa qua đã nổi lên nhiều vụ bạo hành đối với trẻ em ở một số tỉnh trong cả nước được báo đài đưa tin như: vụ em Nguyễn Thị Thông sinh năm 1983 đã bị vợ chồng Chu Minh Đức – Trịnh Thị Hạnh Phương ở Thanh Xuân, Hà nội hành hạ hơn 10 năm và theo bản kết luận điều tra của công an quận Thanh Xuân – Hà Nội việc hành hạ trên đã gây thương tích cho em Thông 37%, vụ bé Nguyễn Thị Hảo 3 tuổi bị mẹ ruột là bà Nguyễn Thị Mỳ bạo hành dã man dùng kéo, dao cắt tay chân... và theo bản kết luận điều tra của công an huyện Phước Long tỉnh Bình Phước bé Hảo bị thương tích là........ Các trường hợp trên đã bị nhà nước xử lý về mặt hình sự. Nhìn chung, nhà nước ta đã nghiêm khắc xử lý những vụ bạo hành trẻ em mà các cơ quan có thẩm quyền đã phát hiện và giúp các em khắc phục những tổn thất về mặt tinh thần. Tuy nhiên hiện nay các vụ bạo hành trẻ em ngày càng tăng lên. Vấn đề đặt ra là việc bảo vệ trẻ em tốt không chỉ ở chỗ bảo vệ, giúp các em khắc phục hậu quả khi các em đã bị xâm hại, mà còn ở chỗ bảo vệ các em để các em không bị xâm hại. Qua thực trạng ở Việt Nam cho thấy điều đó ở Việt Nam vẫn đang còn hạn chế, hầu như chưa có cơ chế nào để bảo vệ trẻ em không bị xâm hại. 8. Trẻ em bị nhiễm chất ĐIOXIN Cuộc chiến tranh chất độc da cam/Dioxin do Mỹ ở Việt Nam là cuộc chiến tranh khoa học lớn nhât trong lịch sử nhân loại. Theo các tài liệu khác nhau, với các chiến dịch Ranch Hand anh Pacer Ivy.Trong vòng 10 năm từ năm 1961 đến 1971, quân đội Hoa Kỳ đã rải xuống miền Nam Việt Nam khoảng 80 lít chất độc hóa học với hàm lượng Dioxin khoảng 366 kg . Trong đó chất độc da cam được sử dụng với khối lượng lớn nhất khoảng 45.677.937 lít. Khoảng 3.181 thôn làng Việt Nam bị rãi trực tiếp chất độc hóa học.(I) Để phân biệt các chất khác nhau, các thùng được mang những cái bằng màu nhận dạng khác nhau như những mật danh mà không cần tên tuổi , nơi xuất xứ như: màu xanh da trời, màu đỏ, màu trắng, màu vàng cam, màu tía, màu xanh, màu hồng, chất độc được đựng trong thùng có vạch màu vàng cam-chất độc da cam (agent orange) là chất hỗn hợp 50-50 của N-butyl esters cùa 2,4 D và 2,4,5 - T. Một chất độc gây ô nhiễm tổng hợp và là sản phẩm phụ tất yếu khi sản xuất 2,4,5T là TCDD tức là chất Dioxin. Dioxin là một trong những hóa chất độc hại nhất mà khoa học biết đến, là chất độc nhất do con người tìm ra và tạo ra, gây tai biến sinh sản, dị tật bẩm sinh, ung thư và một số bệnh khác. Như đã nói ở trên tổng lượng Dioxin có trong số chất diệt cỏ nói trên ít nhất là 366 kg . Theo các nhà khoa học do công nghệ sản xuất 2,4,5 - T trong những năm 60 còn lạc hậu, mặt khác để tăng sản lượng chất diệt cỏ, một số công ty hóa chất Mỹ đã nâng nhiệt độ của công nghệ sản xuất, nên lượng Dioxin có thể là 600-680 kg . Trong khi đó chỉ cần một vài phần tỷ gam Dioxin đã có thể gây ung thư, tai biến sinh sản và dị tật bẩm sinh ở động vật thực nghiệm. Cụ thể chỉ cần 80gam dioxin đem hòa vào hệ thống cấp nước đủ giết chết toàn bộ một thành phố lớn 7-8 triệu dân. Từ năm 1961 đến năm 1971, quốc đế Mỹ đã tiến hành 19.905 phi vụ rãi chất độc màu da cam dioxin trên diện tích 2.631.297 ha , trong đó có 86% diện tch1 bị phun rãi hơn hai lần, 11%\diện tích bị phun rải hơn 10 lần ,do gió, mưa lũ nên diện tích đất, rừng bị ảnh hưởng bởi dioxin rộng hơn diện tích bị rãi. Có 3181 thôn làng Việt Nam bị rãi và có khoảng 2,1 - 4,8 triệu người Việt Nam đã bị nhiễm chất diệt cỏ , nhất là dioxin. Các nạn nhân phần lớn là dân thường và quân dân Việt Nam, ngoài ra còn có một số công dân và lính Hoa Kỳ, cùng các đồng minh của họ đến từ Úc, Canada, Newzealand, Hàn Quốc(II)… Ngay những năm 60 của thế kỷ XX, vấn đề dioxin đã được các nhà khoa học Việt Nam và trên thế giới khẳng định về tính độc hại cho môi trường và sức khỏe con người. Nhiều nhà khoa học Hoa Kỳ cảnh báo và yêu cầu tổng thống Hoa Kỳ Johnson không được sử dụng chất độc này trong chiến tranh Việt Nam. Ngay từ những năm 1960 Liên đoàn các nhà khoa học Hòa Kỳ đã lên tiếng phản đối việc sử dụng các chất diệt cỏ ở Việt Nam, lo ngại rằng Hoa Kỳ đang tập trung vào chiến tranh như một cơ hội để thí nghiệm chiến tranh sinh học và hóa học. Tháng 1 năm 1966 một nhóm khoảng 30 nhà khoa học Boston đã phản đối việc phá hoại mùa màng và coi đó như một cuộc tấn công man rợ, chống lại chiến binh lẫn dân thường. Năm 1967, một kiến nghị có hơn 5.000 chữ ký của các nhà khoa học quốc tế kêu gọi Tổng thống Johnson chấm dứt việc sử dụng hóa chất chống con người và mùa màng tại Việt Nam đã được cố vấn khoa học của Tổng thống cũng như dư luận công chúng tiếp nhận rộng rãi. Tháng 4 năm 1970, các bộ trưởng Y tế, Giáo Dục và Phúc Lợi, Nông nghiệp của Hòa Kỳ đã ra tuyên bố chung yêu cầu ngưng sử dụng tại nước Hoa Kỳ chất diệt cỏ có chứa 2,4,5 - T. Cũng thời gian này Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ ra lệnh đình chỉ sử dụng về mặt quân sự chất 2,4,5 - T, kể cả chất da cam. Tác hại ghê gớm của chất da cam đối với con người đã được các nhà khoa học chỉ rõ trong những năm 1960. Ngay từ những năm 1940,1950 các thí nghiệm của công ty Monsanto, Diamond, Dow và những tác hại xảy ra tại các nhà máy sản xuất của các công ty này đã cho thấy 2,4,5 - T là chất độc hại ghê gớm đối với con người . Trên thực nghiện, các nhà khoa học đã chứng minh rằng, dioxin có tác hại gây ra quái thai, gây đột biến gen, gây độc hại với các tế bào, đặc biệt là các tế bào não, thận, gan, tim, gây ngộ độc phổi, ung thư, gây rối loạn nhiều quá trình trao đổi chất khác nhau trong tế bào và tác động trực tiếp trên bộ máy di truyền tế bào. Chất độc da cam/Dioxin đã để lại hậu quả nặng nề đối với mội trường và con người Việt nam. Ba mươi năm sau, những triệu chứng liên quan đến dioxin vẫn xuất hiện thường xuyên ở Việt Nam. Trẻ em sinh ra từ các gia đình có người bị nhiễm độc (thuộc thế hệ thứ 3) vẫn bị các dị tật có thể kết luận là do tác đông của chất độc dioxin. Các nhà khoa học Việt Nam đã nghiên cứu và phát hiện những biến đổi sinh học ở những người phơi nhiễm chất dioxin, đặc biệt là những biểu hiện suy giảm miễn dịch, biến đổi nhiễm sắc thể, gen, trong đó có gen gây ung thư.( Số liệu từ bộ lao động thương binh và xã hội) TT Nội dung nghiên cứu Có phơi nhiễm (người) Không phơi nhiễm (người) 1 Tổng số gia đình cựu chiến binh nghiên cứu 28.817 19.076 2 Số (tỷ lệ) gia đình có con bị dị tật bẩm sinh 1.604 (5,69%) 356 (1,87%) 3 Tổng số con đẻ 77.816 61.043 4 Số (tỷ lệ) con bị dị tật bẩm sinh 2.296 (2,95%) 452 (0,74%) Hàng vạn gia đình Việt Nam đang phải gánh chịu hậu quả của chất dộc da cam, nhất là gia đình các quân nhân từng chiến đấu tại chiến trường Miền Nam, nơi không quân Hoa Kỳ rải chất độc da cam. Họ có thể ở các vùng quê khác nhau: Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng, Tuyên Quang, Đà Nẵng, An Giang, Bến Tre… nhưng đều có điểm chung là đều đã từng tham gia chiến đấu tại những nơ mà trước đây quân đội hoa kỳ đã phun rải chất diệt cỏ. Những người dân địa phương tại các vùng chiến sự ở Miền Nam và cả những người ở các địa phương khác, kể cả các vùng xa xi6 nhưng sau ngày miền nam giải phóng lại di cư đến những vùng bị phun rải chất diệt cỏ cũng bị phơi nhiễm chất độc da cam/dioxin. Ở nhiều vùng tỷ lệ dioxin trong đất vẫn còn rất cao. Một số nghiên cứu còn cho thấy : dioxin vẫn còn trong đất và các nguồn nước, các hoạt động nông nghiệp trong các vùng bị nhiễm độc cũng có khả năng gây ảnh hưởng lên người. Tỉnh Quảng Trị là trọng điểm chia cắt hai miền nên mảnh đất này phải hứng chịu chất độc dioxin nhiều hôn bất cứ nơi đâu trong vùng chiến sự, chỉ riêng năm 1968 Quảng Trị đã có khoảng 1500 ha rừng và hoa màu bị tàn phá, hơn 2000 người dân bị chết do chất dộc Mỹ rải xuống mảnh đất này. Không có nơi nào trẻ em bị thiệt thòi như huyện Cam Lộ - Quảng Trị, mạng sống, tuổi thơ các em trên vùng đất nhiễm chất độc da cam như ngàn cân treo sợi tóc. Chỉ tính một con số rất nhỏ đủ thấy mức độ ảnh hưởng chất độc ở đây lên đến chừng nào. Đến năm 2000, huyện Cam Lộ đã có 654 trường hợp bĩ quái thai. Sở lao động thương bing và xã hội tỉnh Quảng Trị công bố một con số rất đau long toàn tỉnh có hơn 15.000 bị nhiễm chất độc da cam, trong đó có hơn 8.000 trường hợp dân thường chưa được hưởng chế độ, chính sách. Đây là số nan nhân mà Hội chữ thập đỏ Quảng trị phải đi quyên góp khắp nơi để về giúp đỡ họ. Bà Trần Thị Thỉ, Chủ tịch hội chữ thập đỏ Quảng Trị chia sẻ trong xót xa: “ Bao nhiêu cũng không đủ để giúp cho các gia đình bị chất độc da cam. Bởi vì họ cùng lúc nuôi 2 đến 3 đứa con tàn tật đến mấy chục năm ..”. Hoàn cảnh các nạn nhân ở trên vùng đất “ Da cam” đều ăn bũa hôm thiếu bữa mai. Bà Nguyễn Thị Huyến ở xã Cam Nghĩa, ngoài 70 tuổi vẫn sống trong nghèo khổ để nuôi những đứa con tàn tật. Cả 3 đứa con của bà nhiễm nặng chất độc da cam, bệnh tình đày đọa chịu không nổi, một em đã chết, hai em còn lại do ảnh hưởng não nên mỗi lần đông kinh lại kêu van, cấu xé than mình thảm thương, không ai cầm dược nước mắt. Một việc rất có ý nghĩa của Hội chữ thập đỏ Quảng Trị là quyên góp tiền bạc của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước giúp đỡ rồi về cho các gia đìnhnạn nhân vay mượn để chăn nuôi heo, gà. Theo bà Thỉ, đã có gần 300 gia đình nạn nhân được vay từ nguồn vốn này. Dù cố gắng thật nhiều nhưng với Hội chữ thập đỏ Quảng Trị, sự giúp đỡ cho các nạn nhân cũng như muối bỏ vào biển. Nên bà Thỉ lúc nào cũng ước:”Mong nạn nhân chấtđộc da cam ở Quảng Trị nhận được nhiều tấm long thơm thảo của xã hôi”. Ngoài ra còn có một số vùng nhiễm chất da cam/dioxin do chiến dịch Pacer Ivy trong sân bay Đà Nẵng, Biên Hòa và một số sân bay khác vẫn chưa xác định được quy mô và mức độ nhiễm. Nhận thấy từ thực tế phần lớn trẻ em bị nhiễm chất độc dioxin đều sống trong điều kiện khó khăn về kinh tế, một số nhu cầu vật chất tối thiểu như: ăn, mặc, ở, đi lại còn nhiếu thiếu thốn. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách giúp đỡ những nạn nhân chất độc da cam, giúp họ chữa bệnh, tạo điều kiện để cuộc sống của họ đỡ khó khăn hơn. Tuy nhiên theo chúng tôi, những nạn nhân chất độc da cam/dioxin không chỉ cần sự nhân đạo mà cần phải có công lý. Chính vì vậy, các nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam đã chính thức kiện các công ty hóa chất Hoa kỳ tại các tòa án quận phía Đông New York từ đầu năm 2004, cùng với sự ủng hộ của người dân các nước trên thế giới, tạo ra sức ép đối với các công ty hóa chất ở hoa kỳ, nhằm buộc họ phải có cái nhìn công lý đối với con người Việt Nam. Cách đây 20 năm các cựu chiến binh Hoa Kỳ đã có phần được hưởng công lý trong vụ kiện các công ty hóa chất.Như vậy thì không có một lý do gì khi xác định người ngồi trên máy bay phun rải chất độc da cam/dioxin bị phơi nhiễm và được bồi thường mà lại không thừa nhận những người dưới mặt đất bị phơi niễm chất độc này. Và chúng ta luôn tin tưởng rằng vì công lý và lương tri, các nạn nhân chất dộc da cam/dioxin ở Việt Nam sẽ được bồi thường thỏa đáng. Thảm kịch đã xảy ra ở Việt Nam không được để xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên thề giới 9. Trẻ em lao động sớm Ngày nay trên thế giới, sử dụng lao động trẻ em (LĐTE) vẫn là một hiện tượng phổ biến và càng ngày càng phát triển. Rất nhiều trẻ em trên thế giới phải lao động trong những điều kiện cực kỳ nguy hiểm và bị khai thác triệt để. Theo những số liệu mới nhất của ILO, có ít nhất 250 triệu trẻ em trong độ tuổi 5 đến 14 tham gia vào các hoạt động kinh tế, phần lớn là ở các nước đang phát triển. Khoảng một nửa trong số này (120 triệu) làm việc chính thức. Mức độ sử dụng, hình thức sử dụng LĐTE thay đổi từ vùng này sang vùng khác, từ khu vực nông thôn sang khu vực thành thị. Theo một điều tra của ILO tại 26 nước, LĐTE có rất nhiều loại khác nhau và tập trung chủ yếu ở nông thôn và khu vực phi kết cấu. Phần lớn LĐTE là thuộc dạng làm công. Từ thực tế đó cho thấy tỷ lệ trẻ em lao động sớm đang ngày càng gia tăng, đặc biệt ờ những nước đang phát triển. Theo điều tra gấn nhất của Bộ lao động thương binh và xã hội ở hầu hết các tỉnh thành trên nước ta hiện nay, LĐTE tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực sau: a) Nông nghiệp, gồm cả lao động ở đồng ruộng để sinh sống b) Trong những xí nghiệp hoặc xưởng nhỏ, các cơ sở tư nhân, ... c) Khu vực dịch vụ như nhà hàng, quán rượu, và giúp làm việc nhà. d) Các hoạt động kinh tế khác trên đường phố hoặc ở các khu vực Lao động phi kết cấu. Tỷ lệ trẻ em tham gia vào các hoạt động kinh tế ở nông thôn cao hơn ở đô thị. Chín phần mười LĐTE ở nông thôn là làm nông nghiệp hoặc các hoạt động tương tự. Trẻ em nông thôn phải đối phó với những rủi ro tác động đến sức khoẻ do nghèo đói cũng như những điều kiện xấu trong lao động nông nghiệp. Ở các đô thị, trẻ em phần lớn làm việc trong lĩnh vực buôn bán và dịch vụ (8,3%), sản xuất trong khu vực phi kết cấu (14,3%). Nghề nghiệp có thể rất đa dạng như: chế biến thực phẩm, làm hàng thủ công, may mặc, phục vụ nhà hang quán cơm, hoặc một số ngành nghề tự do khác như bán báo, vé số, đánh giày …v.v… Rất ít gặp trẻ em lao động trong các xí nghiệp có tổ chức. Tuy nhiên các xí nghiệp này vẫn có thể tham gia gián tiếp vào việc sử dụng LĐTE thông qua việc thuê lại các xưởng sản xuất nhỏ thực hiện một số công việc có sử dụng LĐTE. Với các công việc ngoài đường phố, trẻ em có thể bị tiếp xúc với ma tuý, bạo lực, làm tiền và các loại tội ác khác khiến sức khoẻ, tinh thần và sự phát triển tình cảm của chúng bị huỷ hoại. Những mối nguy hại đe doạ trẻ em thay đổi tuỳ thuộc vào loại hình lao động và điều kiện lao động. Tuy nhiên cũng có thể kể ra một số nguy hại chung đe doạ phần lớn trẻ em như điều kiện vệ sinh kém, không có phương tiện bảo vệ cá nhân hoặc có nhưng không đạt yêu cầu, không gian và thiết bị lao động không phù hợp, máy móc và công cụ lao động cũ kỹ và hỏng hóc, những căng thẳng về thể lực, làm việc nhiều giờ và lương thấp. Phần lớn các em này làm việc 7 ngày/ tuần và bị trả lương thấp hơn người lớn tại đó. Trẻ em làm việc trong những nghề nguy hiểm phải tiếp xúc với các loại hoá chất độc hại, bụi, khói và khí, các tác nhân lý học và sinh học độc hại. Theo báo cáo của 63 tỉnh, thành phố của Bộ lao động thương binh và xã hội, vào tháng 12/2008 cả nước ta có 26.027 trẻ em phải tham gia vào các loại hình lao động nặng nhọc, tiếp xúc với các hóa chật độc hại mà không có một sự bảo hộ nào từ phía người sử dụng lao động. Hầu như các ngưỡng giới hạn cho tiếp xúc không được tuân thủ. Một tỷ lệ rất lớn trẻ em bị tổn thương do lao động. Những chấn thương nghề nghiệp thường gặp là bị thương do công cụ lao động, bị nhiễm trùng mắt, viêm da, rối loạn hệ hô hấp, cảm nhiệt, ngộ độc do sử dụng hoá chất Những đứa trẻ này còn phải chịu đựng sự mệt mỏi, khó chịu của các bệnh không phải bệnh nghề nghiệp mà là do môi trường sống qua chật chội, do áp lực công việc. Mặc dù những đứa trẻ này là những nạn nhân của những bệnh tật và mất năng lực liên quan đến lao động nhưng trong phần lớn các trường hợp, những đứa trẻ này không được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ xứng đáng. Thực tế cho thấy LĐTE trong những năm tới vẫn là một vấn đề lớn, nhức nhối của xã hội, nhất là khi sự khác biệt mức sống giữa khu vực nông thôn và thành thị còn chênh lệch đáng kể. Trong điều kiện kinh tế xã hội của nước ta như hiện nay thì nguy cơ có thêm hàng ngàn trẻ em phải lao động để kiếm sống trong thời gian tới rất khó tránh khỏi. Vấn đề trước mắt là chúng ta phải tạo điều kiện để các em có điều kiện tham gia lao động vào các xí nghiệp có tổ chức Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng lao động trẻ em phải lao động sớm là do kinh tế khó khăn, nghèo đói. Nguyên nhân sâu xa là cơ hội và khả năng tiếp cận của trẻ em đối với hệ thống giáo dục và dạy nghề còn hạn chế, vì nghèo nên nhiều gia đình không đủ tiền cho con đến trường . Ngoài ra một lý do nữa cũng rất phổ biến trong xã hội ngày nay đó là hệ thống lao động trói buộc. Lao động trói buộc là việc bị bắt buộc phải lao động do việc vay nợ, hoặc nhận tiền trả trước và hậu quả của nó là trẻ em làm việc hoàn toàn không có lương hoặc có nhưng mức lương rất thấp, không có điều kiện sinh hoạt , không có điều kiện vui chơi, giải trí. Đây là một sự vi phạm quyền cơ bản của trẻ em – quyền được vui chơi giải trí, vui chơi giải trí đối vớ trẻ em là điều kiện không thể thiếu để trẻ em được phát triển hài hòa, toàn diện về sức khỏe trì tuệ và nhân cách. Chính xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế khó khăn của gia đình phần lớn trẻ em phải lao độngđể trả nợ hoặc để tự kiếm sống nuôi bản thân, giúp đỡ gia đình dã dẫn đến một kết quả là một vòng luẩn quẩn, tình trạng này không chỉ giới hạn cho một thế hệ. Lao động trẻ em từ lâu đã là một vấn đề xã hội nổi bật ở khắp nơi trên thế giới, sẽ là vô nhân đạo khi không cho phép các trẻ em này được học tập và có những quyền con người cơ bản nhất. Đã tới lúc phải có những việc làm cần thiết để xóa bỏ tình trạng này, sao cho trẻ em kém may mắn có thể được vui chơi, được tới trường và được giống như mọi trẻ em khác. Kinh nghiệm của ILO cho thấy mọi hành động chỉ có ý nghĩa khi nằm trong khuôn khổ của chính sách 1 quốc gia và để cho nó hiệu quả, chính sách đó cần phải đưa việc loại bỏ LĐTE như là một ưu tiên trong chương trình chính trị. Một chính sách như vậy cần nhằm vào mục tiêu loại bỏ dần LĐTE, ngăn ngừa trẻ em gia nhập lực lượng lao động và bảo vệ những thiếu niên vẫn đang còn phải lao động thông qua việc cho chúng tiếp cận với các dịch vụ sức khoẻ và các điều kiện lao động được bảo vệ. Điều này bao gồm việc xác lập các biện pháp cụ thể đối phó với LĐTE, các nguồn cần thiết và xác định rõ vai trò trách nhiệm của các cấp có thẩm quyền. Bên cạnh các biện pháp trước mắt, một chính sách quốc gia cần phải bao gồm các biện pháp dài hạn đối phó với các nguyên nhân chính tạo ra LĐTE và cố gắng kiểm soát cả những yếu tố tạo ra việc trẻ em tham gia vào lao động và cả những yếu tố tạo ra nhu cầu đến LĐTE. Thực tế cho thấy cũng khó có thể giúp trẻ em tránh được những môi trường lao động rất độc hại một khi chúng đã làm thuê ở đó. Vì vấn đề LĐTE không thể giải quyết trong một sớm một chiều được nên cần có những nỗ lực ở tầm quốc gia, tập trung ưu tiên vào việc ngăn ngừa và loại bỏ việc trẻ em tham gia vào những hoạt động kinh tế có tác động xấu đến chúng. Bất kể trình độ phát triển của đất nước, mục tiêu chính sách ưu tiên của các nước thành viên ILO là ngăn cấm LĐTE trong các công việc độc hại và các điều kiện lao động tồi tệ để bảo vệ lớp trẻ dễ bị tổn thương nhất. Do nhận thức được việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một phương hướng quan trọng trong chiến lược phát triển xã hội. Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề này ví nó liên quan đến nguồn lực con người - nhân tố quyết định đối với sự thành bại để thực hiện các mục tiêu xã hội. Trong những năm qua chính phủ nước ta đã có nhiều nổ lực trong việc hỗ trợ chính sách cho những trẻ em lao động sớm đặc biệt là trong việc hỗ trợ tìm kiếm việc làm phù hợp với lứa tuổi, có chính sách bảo vệ cho các em tránh những rủi ro trong công việc, tạo điều kiện cho các em được hưởng những quyền cơ bản mà các em đáng được hưởng. Bên cạnh những gì đã làm và đạt được, chúng nên tiếp cận một cách tổng thể nhằm vào việc cung cấp cho trẻ em: + Một môi trường an toàn và vệ sinh. + Tôn trọng nhân phẩm + Khả năng phát triển trong xã hội. Tiếp cận này cũng còn nhằm đảm bảo cho các cộng sự xã hội nhận sự trợ giúp cần thiết có thể tiếp cận được với những trẻ em lao động gặp rủi ro nhất. Nó bao gồm: luật pháp, cung cấp các dịch vụ cơ bản, phát triển nguồn nhân lực, quản lý việc thực thi luật pháp và kiểm soát hành động của các doanh nghiệp và công nghiệp. Những can thiệp như vậy cần có tầm nhìn dài hạn và trở thành những công cụ hữu hiệu cho việc cải tổ xã hội hơn là chỉ đơn giản 10. Trẻ em bị nhiễm HIV Dịch HIV/AIDS đã tác dộng và đe dọa đến mọi mặt trong đời sống kinh tế -xã hội đã và đang từng bước lan ra các nhóm dân cư trong cộng đồng, trong đó trẻ em là đối tượng chịu hậu quả nặng nề nhất, bị cướp đi những quyền mà lẽ ra các em phải được hưởng, các em không có điều kiện học tập, vui chơi giải trí và tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động tập thể với các bạn bè cùng lứa tuổi, bị mất đi cơ hội được tham gia bàn bạc, tiếp thu và quyết định các vấn đề liên quan đến cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết hoặc đề xuất những mong muốn và những vấn đề liên quan đến tương lai của chính mình. Vào tháng 12 năm 2004 ở Việt Nam có 8.500 trẻ em dưới 15 tuổi bị nhiễm HIV, 22.000 trẻ mồ côi cha mẹ vị bệnh AIDS. Đó là báo cáo của (UNICEF) Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc, công bố ngày 9/12/2004 trong bản phúc trình có tên là “Trẻ Em Trước Hiểm Họa”. Tuy nhiên, hiện nay chưa có số liệu thống kê đầy đủ tình trẻ em bị nhiễm HIV tại Việt Nam. Theo báo cáo của Bộ y tế tính đến cuối năm 2007 số trẻ dưới 19 tuổi nhiễm HIV chiếm tỷ lệ 9,2%. Thực tế cho thấy, rất nhiều trẻ trong số này và những người chăn sóc không được hưởng lợi từ những chính sách của Nhà Nước và gặp khó khăn trong việc tiếp cận với Giáo Dục và Dạy nghề, chăm sóc y tế và chăm sóc, điều trị HIV miễn phí và các khoản trợ cấp xã hội. Nguyên nhân là do sự kỳ thị và phân biệt đối xử đối với trẻ em bị nhiễm HIV ở Việt Nam phổ biến ở cả cộng đồng và từ những người cung cấp dịch vụ. Chính điều này hạn chế trẻ em đòi hỏi quyền lợi được chăm sóc và bảo vệ, cản trở sự tiếp cận với các dịch vụ xã hội, tạo ra môi trường không ổn định, có nhiều đe dọa và hạn chế sự tham gia của trẻ vào các hoạt động xã hội. Trẻ nhiễm HIV có xu hướng bị cô lập bởi những người xung quanh trong trung tâm, sự tiếp xúc với người thân rất hạn chế. Dịch HIV không những gây cản trở sự tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc, điều trị cho trẻ em nhiễm HIV mà còn trực tiếp tác động đến mọi mặt của đời sống vật chất tinh thần của trẻ. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên chủ yếu là do nhận thức của xã hội về HIV còn hạn chế. Trong khi đó, những trẻ em nhiễm HIV/AIDS đều có nguyện vọng được tiếp tục sống cùng gia đình và người thân, được người lớn bảo vệ , chăm sóc, nuôi dưỡng và được điều trị mỗi khi ốm đau như mọi trẻ em khác. Các em muốn mình được bình đẳng, không bị kỳ thị, phân biệt đối xử, không bị bạo lực và đặc biệt là muốn được tiếp tục cắp sách tới trường, được vui chơi cùng bạn bè...Nhằm bảo vệ trẻ em trên thế giới có AIDS , Việt Nam đã thực hiện có hiệu quả các chủ trương chính sách được ban hành. Luật “Bảo Vệ, Chăm sóc và Giáo Dục Trẻ Em” sửa đổi được Quốc Hội Việt Nam thông qua vào năm 2004, trong đó đã dành riêng một chương IV, với 17 điều quy định trách nhiệm của cá nhân, gia đình, các tổ chức xã hội và Nhà nước trong việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em nhiễm HIV và trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Điều 53 của Luật quy định rõ:” Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS không bị phân biệt đối xử, được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để chữa bệnh, nuôi dưỡng tại gia đình hoặc tại cơ sở trợ giúp trẻ em”. Trong chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em Việt Nam, giai đoạn 2001-2010 đã đưa mục tiêu bảo vệ trả em nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS là một trong các mục tiêu quan trọng. Theo Uỷ Ban Dân Số, Gia Đình và Trẻ Em Việt Nam, để công tác phòng chống AIDS cho trẻ em đạt hiệu quả thiết thực thì phải biến những cam kết bằng hành độngcụ thể: “Thường xuyên truyền thông thay đổi hành vi và chú trọng các chương trình can thiệp giam tác hại cho thanh thiếu niên. Tích cực hỗ trợ, bảo vệ, chăm sóc và điều trị cho trẻ nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS”. Như vậy, không chỉ bằng lời hứa suông, bằng những văn bản khô cứng, để bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ nhiễm và bị ảnh hưởng bởi HIV/AISD, chúng ta phải sát cánh hành động vì trẻ em và cùng trẻ em bằng tất cả tình thương và trách nhiệm với thế hệ trẻ. Chương III: KIẾN NGHỊ VỀ BẢO VỆ CHĂM SÓC TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT Pháp luật Việt Nam trong những năm gần đây đã có những đổi mới tích cực trong đường lối, chính sách nhằm chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền trẻ em tại Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Dựa trên việc xem xét các quy phạm pháp luật và phân tích tình hình thực tiễn về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em tại Việt Nam, nhóm tác giả chúng tôi xin đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trên. Thứ nhất: Hệ thống pháp luật phải ngày càng được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện các mục tiêu bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Cụ thể khái niệm “Trẻ em” và “Người chưa thành niên” phải được quy định thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam. Nghĩa là phải mở rộng độ tuổi của trẻ em từ 0 đến 18 tuổi trong Luật Bảo Vệ, chăm sóc và Bảo vệ trẻ em. Vấn đề nuôi con: Nhà nước cần xem xét để có những quy định bổ sung nhằm khắc phục những mặt bất cập của những văn bản hiện hành về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như: giấy tờ xin con nuôi ( xem xét lại thời hạn 6 tháng đối với một số giấy tờ trong hồ sơ xin nhận con nuôi), thơi hạn tạm trú trong thời gian làm thủ tục xin con nuôi của người nước ngoài, tình hình báo cáo của cha mẹ nuôi trong thời gian con nuôi chưa đến 18 tuổi. Ký kết hiệp định song phương về nuôi con nuôi đối với những nước có số lượng người nước ngoài nhận nhiều trẻ em Việt Nam làm con nuôi; ký gia nhập, phê chuẩn Công ước La Hay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác giữa các nước về nuôi con nuôi nước ngoài nhằm tạo cơ chế pháp lý Quốc tế để đảm bảo quyền lợi của trẻ em ngay ở nước ngoài, đồng thời góp phần hoàn chỉnh các quy định của pháp luật quốc gia trong lĩnh vực này. Thứ hai: Bộ giáo dục và đào tạo phải có trách nhiệm nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện hơn nữa các chương trình giáo dục, đặc biệt là chương trình giáo dục tiểu học cho phù hợp với sự phát triển cùa trẻ em; cần ban hành văn bản quy định cụ thể về dạy thêm và học thêm đối với học sinh tiểu học. Bởi vì hiện nay tình trạng về chứng rối loạn tâm thần ở lứa tuổi học sinh đang có chiều hướng gia tăng và kéo theo các vấn đề tiêu cực khác. Thứ ba: Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến bảo vệ, chăm sóc trẻ em nhằm phổ cập đồng đều trong các tầng lớp nhân dân nhận thức đúng đắn về quyền trẻ em thông qua việc huy động sự tham gia cùa các phương tiện truyền thông đại chúng, tài liệu, tập huấn, hội nghị, đảm bảo các quyền lợi, các nhu cầu chính đáng của trẻ em, làm cho mọi người biết đến hiểu biết thì tìm hiểu phải được; xóa bỏ dần các tư tưởng lạc hậu, phong kiến còn tồn tại trong xã hội có tác động xấu đến thực hiện quyền trẻ em. Thứ tư: Tiếp tục tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm giữa các gia đình, các thành viên của xã hội về công tác chăm sóc, giáo dục trẻ. Tuyên dương những trẻ em chăm ngoan, vượt khó học giỏi, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ. tăng cường công tác vận động phối hợp với các ban ngành, đoàn thể, các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước, các tổ chức phi Chính phủ tạo điều kiện về vật chất, tinh thần chăm lo cho trẻ em, đặc biệt là đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Thứ năm, để bảo vệ trẻ em một cách tốt nhất trước hết phải cho các em biết mình có những quyền gì? cách thức bảo vệ như thế nào?. Không có gì tốt nhất bằng cách các em tự bảo vệ chính bản thân các em. Do đó để trẻ em biết mình có những quyền gì? Cách bảo vệ như thế nào? Thì ngay từ khi các em bắt đầu biết tư duy phải cho các em biết các em có những quyền cơ bản nào. Từ đó nhóm tác giả chúng tôi thiết nghĩ, phải đưa vào chương trình giáo dục môn học về quyền trẻ em, nhằm mục đích tác động vào ý thức của các em một cách từ từ, để đến một khi các em thực sự hiểu rõ mình có những quyền cơ bản nào? Những người xung quanh có những hành động có xâm phạm đến quyền của mình hay không? Có thể bảo vệ bản thân bằng cách nào? Thứ sáu, để tạo ra cơ chế bảo vệ trẻ em một cách kịp thời, nhanh chóng nhất thì nên thành lập một cơ quan chuyên về bảo vệ trẻ em, khi tiếp nhận các hành vi tố cáo của trẻ em nếu có căn cứ thì cơ quan phải trực tiếp can thiệp ngay. Các cơ quan này phải đặt mục tiêu bảo vệ trẻ em một cách tốt nhất là hàng đầu, tôn trọng những ý kiến của trẻ em

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docgiaikhnckhsv13_treemcohoancanhdacbiet.doc