Hải Phòng là một trong ba địa phương đầu tàu kinh tế phía Bắc - đã nhanh chóng đề ra 10 giải pháp cấp bách kiềm chế lạm phát, cắt giảm 10% kinh phí chi ngân sách thường xuyên, Theo ước tính của Sở Tài chính, tiết kiệm chi 10% trên địa bàn sẽ tạo ra một con số không hề nhỏ: khoảng 28 tỷ đồng. Năm nay, Hải Phòng phấn đấu thu ngân sách nội địa vượt 5% trở lên so với mức dự toán HĐND thành phố giao, nếu đơn vị nào thu không đạt thì giảm chi tương ứng. Từng đơn vị hành chính, sự nghiệp sẽ được tiếp tục rà soát, có phân bổ kế hoạch tiết kiệm chi cụ thể cho từng đơn vị, từng lĩnh vực tiết kiệm. Các ngành liên quan sẽ chủ động phối hợp kiểm tra hoạt động các DN, bảo đảm thu đúng, đủ, kịp thời vào ngân sách Nhà nước, đồng thời bãi bỏ các loại phí, lệ phí trái quy định. Ngoài lương cơ bản và một số khoản chi cần thiết, các đơn vị đều phải triệt để tiết kiệm, tạm dừng mua mới các phương tiện sử dụng ngân sách Nhà nước dù đã có trong dự toán.
Công ty TNHH một thành viên Điện lực Hải Dương đầu tư xây dựng 101 công trình trong năm 2006. Trong đó, có 4 công trình trọng điểm là: Cải tạo nâng công suất trạm 110 kV Phả Lại; Trạm 110 kV Nghĩa An; Trạm 110 kV Đại An và Trạm 110 kV Nhị Chiểu. Tổng vốn đầu tư các công trình này lên tới 75,580 tỷ VND, trong đó có 32,570 tỷ VNd là vốn vay các ngân hàng thương mại. Yếu tố hiệu quả - tiết kiệm trong đầu tư được Công ty đặc biệt quan tâm.
23 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3103 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trình bày các nguyên tắc cần tuân thủ khi quản lý hoạt động đầu tư và biểu hiện của các nguyên tắc này trong công tác quản lý hoạt động đầu tư hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: Trình bày các nguyên tắc cần tuân thủ khi quản lý hoạt động đầu tư và biểu hiện của các nguyên tắc này trong công tác quản lý hoạt động đầu tư hiện nay.
Các nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư tuân theo những nguyên tắc của quản lý kinh tế nói chung và được vận dụng cụ thể vào quản lý đầu tư.
Các nguyên tắc quản lý kinh tế do con người đặt ra nhưng không phải do suy nghĩ chủ quan, mà phải tuân thủ các đòi hỏi khách quan như:
Nguyên tắc phải thể hiện được yêu cầu của các quy luật khách quan.
Các nguyên tắc phải phù hợp với mục tiêu của quản lý.
Các nguyên tắc phải phản ánh đúng đắn tính chất và các quan hệ quản lý.
Các nguyên tắc quản lý phải đảm bảo tính hệ thống, tính nhất quán và phải được đảm bảo bằng pháp luật.
Các nguyên tắc quản lý phản ánh các yêu cầu khách quan của các quy luật chi phối lên quá trình quản lý. Tức là muốn biết có nguyên tắc nào thì trước tiên phải biết có quy luật nào. Đây là vấn đề chưa được các nước xã hội chủ nghĩa giải đáp rõ ràng, vì nó đang còn trong quá trình tìm kiếm và nhận thức.
Nguyên tắc thống nhất giữa chính trị và kinh tế, kết hợp hài hòa hai mặt kinh tế xã hội
Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế, nhằm đảm bảo quan hệ đúng đắn giữa kinh tế và chính trị,và tạo động lực đồng chiều cho mọi người dân trong xã hội, là một trong những nguyên tắc cơ bản của việc quản lý kinh tế có căn cứ khoa học trong phạm vi quốc gia. Phát triển luận điểm của Mác và Ănghen về sự tương quan giữa chính trị và kinh tế, Lênin đã xác định sự thống nhất biện chứng và sự tác động qua lại giữa hai hoạt động của con người: chính trị và kinh tế.
Chính trị là lĩnh vực của những quan hệ nhất định trong xã hội diễn ra như là hoạt động có ý thức của con người. Đó là một hình thức nhận thức phản ánh mức độ lớn nhất các quan hệ kinh tế của con người. Ngoài những yếu tố khách quan, chính trị bao gồm cả yếu tố chủ quan.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa có hai đối sách đối lập nhau: Đối sách của Nhà nước tư bản chủ nghĩa và đối sách của giai cấp công nhân do đảng cộng sản lãnh đạo. Mối liên hệ và tác động qua lại giữa chính trị và kinh tế trong xã hội tư bản chủ nghĩa được thực hiện qua sự đấu tranh thường xuyên giữa hai lực lượng đó.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa không có sự phân chia đó, vì nhân dân là người chủ thực sự của tư liệu sản xuất, nắm quyền lực chính trị trong tay. Nhưng cũng không dễ có chính sách thích nghi ngay với yêu cầu, khi chưa có cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của Lênin, sự thích nghi của chính trị với kinh tế không thể tránh khỏi, nhưng không phải ngay tức khắc đã trơn tru, không phải giản đơn và trực tiếp. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước này hay nước khác,vẫn chưa giải quyết được vấn đề thích nghi đầy đủ giữa chính trị với nhu cầu phát triển kinh tế trong khuôn khổ được chấp nhận của con người.
Sự thống nhất và sự tác động khách quan khác nhau giữa chính trị và kinh tế được thể hiện ở các đặc điểm sau:
Một là, sự thống nhất và mối liên hệ lẫn nhau giữa chính trị và kinh tế không có nghĩa là sự đồng nhất giữa chúng, vì đó là hai phạm vi khác nhau của hoạt động con người, tuy chúng được phát triển trong sự thống nhất và phụ thuộc lẫn nhau. Không thể nhìn thấy ngay lợi ích kinh tế trực tiếp và đầy đủ trong mọi hành động chính trị. Đôi khi muốn đạt được lợi ích kinh tế nào đó, cần có hàng loạt biện pháp chính trị quá độ. Có thể có lợi ích chính trị trong những trường hợp mà lợi ích kinh tế trực tiếp không đáng kể và được con người chấp nhận.
Hai là, trong sự thống nhất giữa chính trị và kinh tế, suy đến cùng vai trò quyết định thuộc về kinh tế. Nhà nước xã hội chủ nghĩa giữ vai trò người cải tạo kinh tế, trên cơ sở vận dụng tự giác các quy luật khách quan. Thực tế đó là lý do để đánh giá cao vai trò của chính trị, để giải thích chính trị như là nhân tố quyết định so với kinh tế. Nhưng cho dù phạm vi chính trị có phức tạp đến đâu chăng nữa, thì suy cho cùng cũng do các điều kiện kinh tế quy định.
Ba là, chính trị không phản ánh một cách thụ động thực tế kinh tế. Nó là phương tiện mạnh mẽ tác động đến các quá trình kinh tế khách quan. Sự tác động ngược lại của chính quyền Nhà nước đén sự phát triển kinh tế có 3 loại: tác động cùng hướng thì sự phát triển kinh tế sẽ nhanh; tác động ngược hướng thì kìm hãm sự phát triển kinh tế, hoặc nó cản trở sự phát triển trong những hướng nhất định; và thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo hướng khác. Rõ ràng trong trường hợp thứ hai và thứ ba, chính quyền có thể gây thiệt hại to lớn cho sự phát triển kinh tế, dường lối chính trị sai sẽ dẫn đến sự bế tác về kinh tế.
Dưới chủ nghĩa xã hội, chính trị và kinh tế không thể tách rời nhau vì chính sách của đảng là cơ sở của mọi biện pháp lãnh đạo kinh tế, hướng dẫn sự phát triển không ngừng của nền kinh tế.
Nội dung của nguyên tắc thống nhất giữa lãnh đạo chính trị và kinh tế là:
Phải đảm bảo sự lãnh đạo của đảng trên mặt trận kinh tế và quản lý kinh tế. Cụ thể là:
1. Đảng phải vạch ra đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội.
2. Đảng phải chỉ rõ con đường, biện pháp, thủ thuật, phương tiện để thực hiện đường lối chủ trương đã vạch ra.
3. Đảng phải động viên được đông đảo đảng viên, quần chúng, đoàn kết nhất trí thực hiện đường lối, chủ trương; đảng phải nắm chắc công tác nhân sự.
Phải phát huy vai trò điều hành, quản lý của Nhà nước cụ thể là:
1.Nhà nước phải dùng quyền lực của mình để thống nhất ban hành luật pháp, thể chế.
2. Nhà nước phải biến đổi các đường lối của đảng thành các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3. Nhà nước phải chăm lo giải quyết vấn đề cán bộ, vấn đề lao động, vấn đề xã hội.
4. Nhà nước phải triển khai thực hiện kế hoạch đã vạch ra.
5. Nhà nước phải kiểm tra, tổng kết việc thực hiện kế hoạch, tìm tòi mọi giải pháp có thể phát triển đất nước.
Vừa phát triển kinh tế, vừa phải quan tâm đến vấn đề an ninh, quốc phòng của đất nước.
Trong phạm vi nhỏ hơn (các doanh nghiệp), nguyên tắc kết hợp lãnh đạo chính trị và kinh tế là sự ràng buộc mà các doanh nghiệp phải tuân thủ về luật pháp, thông lệ kinh doanh trong quá trình hoạt động. Còn trong quan hệ làm ăn kinh tế trước mắt mà mất cảnh giác thì dễ bị thôn tính về mặt chính trị, bị hòa tan vào chủ nghĩa tư bản.
Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo địa phương và vùng lănh thổ
Nhà nước phải có một thể chế thống nhất. Bộ máy Nhà nước được tổ chức hoạt động theo các cấp hành chính nhàn nước và theo quy định là cấp dưới phải phục tùng cấp trên. Địa phương phải phục tùng Trung ương. Đó là quản lý lãnh thổ của chính quyền địa phương.
Các đơn vị thuộc các ngành kinh tế - kỹ thuật đều nằm trên một địa bàn lãnh thổ nhất định. Các đơn vị đó phải chịu sự quản lý lãnh thổ của Ngành (Bộ), đồng thời nó cũng phải chịu quản lý lãnh thổ của chính quyền địa phương trong một số mặt theo chế quy định. Hai mặt đó tạo nên sự thống nhất giữa cơ cấu kinh tế ngành với cơ cấu kinh tế lãnh thổ trong một cơ cấu kinh tế chung.
Nguyên tắc này đòi hỏi quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ phải phối hợp, gắn bó với nhau trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, có trách nhiệm chung trong việc hoàn thành kế hoạch Nhà nước của ngành cũng như lãnh thổ, có trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của từng bên và của cả hai bên theo luật định.
Nhà nước ta có phương hướng phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, phía Nam và miền Trung đến 2010 tầm nhìn đến 2020. Trong đó nhấn mạnh mục tiêu nâng tốc độ tăng trưởng GDP, tốc độ xuất khẩu bình quân đầu người,...
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ bao gồm 8 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh. Theo quyết định của Thủ tướng, vùng sẽ phải tăng tỷ trọng đóng góp trong GDP của cả nước từ 21% năm 2005 lên khảng 23-24% vào năm 2010 và 28-29% vào năm 2020. Giá trị xuất khẩu bình quân đầu người mỗi năm từ 447 USD lên 1.200 USD năm 2010 và 9.200 USD năm 2020.
Vùng kinh tế này sẽ được ưu tiên phát triển các ngành kỹ thuật cao như công nghiệp phần mềm, thiết bị tin học, tự động hóa, thép chất lượng cao... Nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, một loạt dự án xây dựng sẽ được phê duyệt gồm các tuyến đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Ninh Bình, đường xe điện ngầm, đường sắt nội đô,... Hà Nội có nhiệm vụ đưa công nghiệp, đặc biệt các sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm ra xa nội thành, còn Hải Phòng có thể tăng quy mô dân số nội thị vào năm 2010 lên đến 750.000 - 900.000 người.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước, Long An cần đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm giai đoạn 2006 - 2010 ở mức 1,2 lần, tăng tỷ lệ đóng góp của vùng trong GDP cả nước từ 36% hiện nay lên 40 - 41% vào năm 2010, tăng giá trị xuất khẩu bình quân đầu người mỗi năm từ 1.493 USD năm 2005 lên 3.620 USD năm 2010 và 22.310 USD năm 2020. Khu đô thị tổng hợp ở Tây Bắc TP HCM, trung tâm đào tạo chất lượng cao ở Bình Dương, Vũng Tàu,... sẽ được đầu tư xây dựng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nội dung của nguyên tắc là phải đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập trung và dân chủ trong quản lý kinh tế. Tập trung phải dựa trên cơ sở dân chủ, dân chủ phải thực hiện trong khuôn khổ tập trung.
Biểu hiện của tập trung là:
Thông qua công tác kế hoạch hóa để vạch ra mục tiêu phát triển đất nước.
Thông qua và thực thi hệ thống pháp luật quản lý kinh tế.
Thực hiện chế độ một thủ trưởng ở tất cả các đơn vị, các cấp.
Biểu hiện của dân chủ là:
Xác định rõ vị trí, trách nhiệm, quyền hạn của các cấp.
Hạch toán kinh tế.
Chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận mở cửa.
Giáo dục, bồi dưỡng trình độ kiến thức cho quần chúng.
Kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo địa phương, vùng lãnh thổ.
Hiện nay ở Việt Nam, việc đầu tư công không được kiểm soát chặt chẽ trong thời gian dài là một trong những nguyên nhân chính khiến lạm phát tăng cao. Trong báo cáo kiểm toán năm 2007, Kiểm toán Nhà nước kết luận, đã có nhiều sai phạm, thiếu sót trong đầu tư xây dựng cơ bản, diễn ra ở mọi khâu: từ khâu lập và giao dự toán cho tới khâu giám sát, thực hiện; tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún diễn ra trong những năm vừa qua vẫn chậm được khắc phục, dẫn đến việc bố trí vốn cho các dự án vượt quá khả năng. Công tác quản lý nguồn vốn đầu tư lỏng lẻo đã tạo các kẻ hở gây thất thoát vốn đầu tư ngân sách và vốn tín dụng đầu từ Nhà nước.
Ông Lê Hải Mơ, Phó Viện trưởng, Viện Khoa học tài chính (Học Viện Tài Chính) cho rằng: “Chúng ta đã duy trì thời gian khá dài tình trạng sử dụng lãng phí nguồn lực về vốn, về tài sản ở khu vực Nhà nước. Qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, chúng ta đã hình thành một cơ cấu đầu tư không có lợi cho tăng trưởng nhanh và tăng trưởng bền vững nên mặc dù Việt Nam đầu tư rất cao 40 – 41%, nhưng tăng trưởng chỉ khoảng 7%, nếu cố tăng lên nữa sẽ nóng. Tình trạng đầu tư của chúng ta như vậy thì khi gặp tình thế khó khăn sẽ sinh ra trì trệ”.
Một trong những lý do xảy ra thiếu sót, sai phạm trong đầu tư công là công tác giám sát đầu tư của các bộ, ngành, địa phương không nghiêm túc. Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện chỉ có hơn 51% số dự án được thực hiện giám sát, nhưng trong số này thì chất lượng báo cáo giám sát nhiều dự án cũng chưa đạt yêu cầu, nội dung sơ sài. Về vấn đề này, ông Vương Đình Huệ, Tổng kiểm toán Nhà nước cho biết: “Kiểm toán Nhà nước có hai việc: Một là, phải nghiên cứu hướng đến những vấn đề mới phát sinh của nền kinh tế để tập trung vào trọng điểm. Hai là, quay trở lại để đánh giá những cái gì đã xảy ra. Hai yếu tố này đều quan trọng như nhau. Trước đây hầu hết là tiến hành hậu kiểm nên chúng tôi mới chỉ quan tâm đến việc diễn ra rồi mới đánh giá. Tới đây chúng tôi sẽ chủ động hơn trong việc định hướng nội dung kiểm toán để giúp cho Quốc hội giám sát tốt hơn và Chính phủ điều hành tốt hơn”.
Đầu tư còn dàn trải, số lượng dự án duyệt chờ ngân sách cấp vốn có xu hướng tăng thực tế đang là áp lực lớn đối với ngân sách Nhà nước trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp như hiện nay. Do đó vấn đề đặt ra là cần xác định rõ mục tiêu ưu tiên đầu tư, lĩnh vực, công trình cần đầu tư để tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực thiết yếu đó phát triển; đồng thời mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế tư nhân. Việc làm này không những giúp cơ quan chức năng quản lý tốt hơn nguồn vốn đầu tư mà còn tận dụng được mọi nguồn lực để phát triển.
Giáo sư tiến sỹ khoa học Nguyễn Quang Thái, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội khoa học kinh tế Việt Nam, phân tích: “Đối với nước ta trong quá trình chuyển đổi thì cần tiếp tục coi trọng đầu tư công. Tuy nhiên nên cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào các lĩnh vực mà đầu tư công có thể không cần thiết. Nguồn vốn dôi ra đó tập trung vào nhiệm vụ và trách nhiệm xã hội, vào những vấn đề mà các thành phần kinh tế khác không thể làm được”.
Bên cạnh đó, việc phân cấp quản lý trong đầu tư và xây dựng cần cụ thể, rõ ràng hơn, từ khâu thẩm định, đấu thầu, bố trí nguồn vốn cho đến quản lý, thực hiện các dự án đầu tư. Phân cấp quyết định đầu tư cần được gắn liền với trách nhiệm huy động vốn thực hiện, trách nhiệm khi để xảy ra thất thoát, lãng phí và không hiệu quả của mỗi cá nhân, cơ quan cụ thể khi đã được phân cấp.
Nâng cao chất lượng quản lý nguồn vốn ngân sách không những có vai trò quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn góp phần kiềm chế lạm phát. Việc Chính phủ chỉ đạo các Bộ ngành, địa phương cắt giảm chi tiêu công, đình hoãn, giãn tiến độ các công trình chưa thật cần thiết không chỉ góp phần kiềm chế lạm phát mà cho thấy sự quyết tâm của Chính phủ trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.
Nguyên tắc gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội
Đây là một nguyên tắc hết sức quan trọng nhằm duy trì và phát triển các đặc trưng phải có của chủ nghĩa xã hội.
Văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã khẳng định: Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần:
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp.
Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước giữ vị trí then chốt; đi đàu trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương vè năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.
Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng. Khuyến khích việc tích lũy, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã. Tổng kết việc chuyển đổi và phát triển hợp tác xã theo Luật hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo diều kiện giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.
Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tạp thể và kinh tế Nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản Nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đàu tư nước ngoài.
Chú trọng phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. Nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Phát triển các loại hình trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn.
Huyện Bắc Hà, Lào Cai có trên 85% dân số là người dân tộc thiểu số. Những năm gần đây, kinh tế của huyện có chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2005-2007 đạt 14%. Để phát triển bền vững, huyện đã chú trọng huy động các nguồn lực tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Cùng với phát triển kinh tế, đề án đẩy mạnh phong trào xây dựng làng văn hóa và đời sống văn hóa cơ sở, chú trọng xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở, trọng tâm là nhà văn hoá thôn, bản được chú trọng thực hiện. Trong 2 năm 2006 - 2007, mặc dù mới chỉ có cơ chế hỗ trợ của cấp xã nhưng toàn huyện đã xây dựng được thêm 16 nhà văn hóa thôn, trị giá mỗi nhà từ 75 - 100 triệu đồng. Bên cạnh đó, nhiều phong tục, tập quán lạc hậu được cải biến theo hướng tiến bộ. Đời sống văn hóa ở khu dân cư được nâng lên, gần 4.700 hộ đạt tiêu chuẩn văn hóa, 83 thôn đạt Thôn văn hóa, 90% cơ quan, đơn vị đạt danh hiệu văn hóa.
Đáng chú ý, giá trị văn hóa được bảo tồn và phát huy cùng với sự phát triển của ngành du lịch. Những năm qua, huyện đã chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển du lịch như hệ thống đường giao thông, nhà nghỉ, khách sạn. Bên cạnh đó, cung cách phục vụ đã mang tính chuyên nghiệp hơn. Nếu như năm 2000, Bắc Hà chỉ thu hút được 23.000 lượt khách du lịch/năm thì đến năm 2007 và 7 tháng đầu năm 2008, toàn huyện đã đón khoảng gần 110.000 lượt khách, trong đó 65% là khách nước ngoài. Ngoài du dịch sinh thái và nghỉ dưỡng, huyện đang mở rộng nhiều loại hình du lịch mới và hấp dẫn như du lịch mạo hiểm, du lịch lễ hội. Đặc biệt, nhiều hoạt động lễ hội truyền thống địa phương được duy trì và phát triển. Những giá trị văn hóa truyền thống như lễ hội xuống đồng, lễ cúng cơm mới của người Tày Nùng, lễ cúng rừng của người Mông được duy trì và phát triển cũng góp phần tích cực thu hút chú ý của du khách.
Nguyên tắc kết hợp hài hòa các loại lợi ích trong đầu tư
Đây là nguyên tắc đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải xử lý thỏa đáng mối quan hệ biện chứng giữa các loại lợi ích có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, bao gồm:
Lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải đảm bảo đủ động lực cho người lao động sống và làm việc, nhờ đó gắn bó người lao động một cách văn minh và chặt chẽ trong doanh nghiêp.
Lợi ích của khách hàng, dó là lợi ích của những người mua sản phẩm của doanh nghiệp với các yêu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp và cách phục vụ của doanh nghiệp.
Lợi ích của Nhà nước và xã hội. Đó là nghĩa vụ đối với Nhà nước và các ràng buộc pháp luật khác mà doanh nghiệp phải thực hiện, là các thông lệ xã hội (môi sinh, môi trường, nghĩa vụ cộng đồng…) mà doanh nghiệp phải tuân thủ.
Lợi ích của các bạn hàng, đó là lợi ích của các cá nhân và đơn vị tham gia cung ứng một phần hoặc toàn bộ các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Họ phải thỏa mãn các lợi ích của mình khi thực hiện mối quan hệ với doanh nghiệp.
Hiện nay, trong các doanh nghiệp khi xảy ra mâu thuẫn giữa doanh nghiệp và công nhân thường xảy ra đình công. Trong khi công nhân luôn muốn được hưởng quyền lợi đúng và đủ với năng lực và lao động của mình thì doanh nghiệp lại muốn có lợi nhuận tối đa. Một số doanh nghiệp đã liên tục yêu cầu công nhân phải sản xuất tăng ca nhưng lại không tăng lương tương xứng, hay trốn đóng BHXH cho người lao động.
Lấy ví dụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai- một địa phương có khá nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong vòng 6 tháng (tính đến hết ngày 10/6/2008) tỉnh này đã xảy ra 70 vụ đình công, (trong đó 57 vụ xảy ra ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhiều hơn so với cùng kỳ năm 2007 là 12 vụ). Có quá nửa số vụ đình công xảy ra do tranh chấp về lợi ích, như yêu cầu điều chỉnh mức tiền lương, trả tiền thâm niên, tiền thưởng cuối năm, hỗ trợ tiền nhà ở, tiền tàu xe, tiền chuyên cần,…Một số vụ khác thì công nhân yêu cầu đưa tiền độc hại vào lương cơ bản, giao kết hợp đồng lao động, huy động làm thêm giờ, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động và chế độ đối với lao động nữ. Đối với người lao động, thiệt thòi sau mỗi vụ đình công nhẹ thì phải làm cật lực để bù lại tiền lương, năng suất công việc của những ngày nghỉ làm; nặng thì mất thời gian đi tìm việc làm mới. Đối với các công ty, thiệt hại còn lớn hơn nhiều. Ông Yoo Jae Sung, TGĐ Công ty Taekwang Vina cho biết: "Vụ đình công trong 5 ngày cuối năm 2007 đã gây thiệt hại cho công ty tới 4 triệu USD”. Tương tự, ông Kitahashi Akihiko, TGĐ Công ty Mabuchi Motor cũng than thở: "Chỉ trong gần 5 ngày đình công đầu năm 2008, công ty bị ngừng trệ sản xuất đã thiệt hại tới 3,5 triệu USD”.
Nguyên tắc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hoạt động đầu tư
Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức và hoạt động quản lý Nhà nước phải dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước. Nguyên tắc này không cho phép các cơ quan Nhà nước thực hiện việc quản lý Nhà nước một cách chủ quan, tùy tiện mà phải dựa vào pháp luật, làm đúng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước. Để thực hiện nguyên tắc này phải có ba điều kiện: xây dựng và hoàn chỉnh pháp luật, giáo dục pháp luật cho toàn dân, phải xử lý một cách nghiêm minh mọi hành vi phạm pháp luật (kể cả nhân dân và viên chức Nhà nước).
Nguyên tắc mở rộng đầu tư với các nước
Nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là: mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo nguyên tắc các bên cùng có lợi, không xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Chính phủ cùng các Bộ, Ngành và các doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế.
Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giêng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước đang phát triển. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước đang phát triển và các tổ chức quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động ở các diễn đàn đa phương.
Hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện có kết quả nhiệm vụ công tác đối ngoại, làm cho cả thế giới hiểu rõ hơn đất nước, con người, công cuộc đổi mới của việt nam, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và hợp tác ngày càng rộng rãi của thế giới.
Thực hiện chính sách đối ngoại và thu hút đầu tư mở rộng, hiện nay Việt Nam đã giao lưu thương mại với hơn 180 nước và vùng lãnh thổ, đầu tư trên 5.300 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 50 tỉ đôla vào Việt Nam. Lợi thế lớn của Việt Nam là nằm ở vị trí trung tâm trong vùng kinh tế của Trung Quốc và các nước Châu Á, nên rất thuận lợi cho giao thương quốc tế. Việt Nam có một nền chính trị ổn định và một xã hội an toàn, thân thiện, đồng thời với số dân 80 triệu người, nguồn lao động có văn hóa, cần cù và cầu tiến, Việt Nam thực sự là một thị trường tiềm năng lớn trong khu vực. Mặt khác Việt Nam là thành viên các nước Asean và Khu vực mậu dịch tự do AFTA với tổng dân số là 500 triệu người, và đang tích cực đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO ... Do vậy hàng hóa sản xuất tại Việt Nam dễ dàng thâm nhập vào các nước Asean, Trung Quốc, Mỹ và các nước Châu Âu với nhiều ưu đãi về thuế quan dành cho quốc gia đang phát triển.
Nhằm cải thiện môi trường đầu tư ngày càng tốt hơn, Chính phủ Việt Nam đang có một số chủ trương chính sách mới, đó là:
Thứ nhất: Chính phủ Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư chung cho các loại hình doanh nghiệp, đối xử bình đẳng quốc gia, không phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, hoàn toàn xóa bỏ phân biệt về giá và lệ phí đối với nhà đầu tư nứơc ngoài.
Thứ hai: Ngoài các chương trình hợp tác đa phương, Chính phủ Việt Nam đã ký hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 50 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, tích cực đàm phán gia nhập WTO. Các cam kết quốc tế của Việt Nam đều hướng tới mục tiêu chung là nhằm mở cửa thị trường, tự do hóa hoạt động đầu tư nước ngoài.
Thứ ba: Tiếp tục thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước, đồng thời đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước với phạm vi rộng lớn hơn, bao gồm cả một số tổng công ty, doanh nghiệp lớn làm ăn có hiệu quả, kể cả các ngành trước nay Nhà nước giữ độc quyền như: Điện lực, Bưu chính Viễn thông, Ngân hàng, ... Các nhà đầu tư nước ngoài đều được mua cổ phiếu của các doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư: Chính phủ đã cho phép chuyển đổi một số Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, và đang có chủ trương mở rộng tỉ lệ mua cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp.
Đồng Nai là tỉnh có vị trí quan trọng trong vùng vùng trọng điểm kinh tế phía Nam, đứng thứ 3 cả nước trong thu hút đầu tư nước ngoài với hơn 700 giấy phép đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với vốn đăng ký khoảng 8 tỷ USD; đứng thứ nhất trong quy hoạch phát triển các KCN với 17 KCN đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập và còn đang tiếp tục phát triển nhanh.
- Về ngành nghề khuyến khích đầu tư: Đồng Nai tạo điều kiện các Nhà nước đầu tư tìm cơ cơ hội đầu tư vào tất cả các ngành nghề Chính phủ Việt Nam không cấm đầu tư, phù hợp với thoả thuận song phương, đa phương và các nguyên tắc của WTO, trong đó đặc biệt quan tâm khuyến khích các dự án thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng, các dự án công nghiệp phụ trợ, các dự án có công nghiệp kỹ thuật cao,…
- Về cơ chế quản lý: Đồng Nai thực hiện cơ chế quản lý một cửa tại chỗ. Các dự án thuộc thẩm quyền của địa phương cấp giấy phép, sẽ đựơc xem xét cấp giấy phép không quá 15 ngày, trừơng hợp đặc biệt sẽ cấp phép ngay trong ngày.
- Về chính sách ưu đãi đầu tư: Đồng Nai thực hiện miễn giảm tiền thuê đất, miễn giảm phí sử dụng hạ tầng,... Đối với các dự án đầu tư vào các xã nghèo, các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa, các ngành nghề cần khuyến khích đầu tư. Đồng Nai rất sẵn lòng đón tiếp nếu các nhà đầu tư quyết định là điểm đến để đầu tư.
Đối với Nghệ An, phát triển kinh tế đối ngoại phải đảm bảo nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững quốc phòng, an ninh; phát triển thu hút nguồn lực từ bên ngoài lồng ghép với nguồn lực bên trong; tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách để quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, làm cho kinh tế đối ngoại phát triển liên tục, ổn định và bền vững.
Thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập của Đảng và Nhà nước, phát triển kinh tế đối ngoại là để phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực. Khai thác các thế mạnh của Nghệ An về vị thế địa lý và tài nguyên lao động, tham gia vào tiến trình phân công và hợp tác kinh tế quốc tế. Trước mắt, trong điều kiện nguồn vốn ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp trong giai đoạn đầu cần sử dụng đầu tư nước ngoài và ngoại tỉnh để tạo ra các đột phá về tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, phát triển khoa học công nghệ, tăng xuất khẩu từ nay đến năm 2010.
Tạo môi trường thuận lợi và có các cơ chế chính sách phát huy các lợi thế và điều kiện sẵn có để thu hút được nhanh và nhiều vốn đầu tư nước ngoài và ngoại tỉnh. Trong điều kiện canh tranh đầu tư ngày càng gay gắt, tỉnh cần vận dụng cao nhất cơ chế chính sách của Trung ương, vận dụng cơ chế chính sách một cách linh hoạt, chủ động tạo các giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài thích hợp. Tranh thủ phát triển kinh tế đối ngoại trong điều kiện quan hệ đầu tư và thương mại của các nước đang dành ưu đãi cho Việt Nam.
Xem hướng Đông là thế mở để hợp tác kinh tế là tất yếu, song phải khẩn trương mở ra phía Tây, coi phía tây là một hướng phát triển quan trọng của tỉnh. Xây dựng kinh tế Cửa khẩu, trước mắt hợp tác kinh tế với Lào theo nguyên tắc hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển. Sử dụng các tiềm năng, tài nguyên, nguyên liệu của Lào. khuyến khích một số doanh nghiệp Nghệ An có điều kiện đầu tư sang Lào làm ăn kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường Lào. Mở rộng quan hệ với ASEAN về hướng Tây nơi đang có nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Tuy nhiên, cần làm nhanh để tranh thủ vốn của TW đầu tư cho cữa khẩu để tăng giao lưu hàng hoá và thu ngân sách. Sau năm 2006, việc gia nhập AFTA sẽ tạo ra điều kiện áp dụng chung một mức thuế suất 0 - 5 % thì thu ngân sách sẽ giảm dần. Để tạo nguồn thu ổn định và lâu dài cần tăng khối lượng hàng hoá giao lưu và phát triển nhanh các dịch vụ.
Gắn hội nhập kinh tế quốc tế, coi từng bước cải cách hành chính, quốc tế hoá các thủ tục Hải quan, xuất nhập cảnh, cùng cả nước tham gia AFTA là biện pháp cấp thiết để mở rộng thị trường (kể cả xuất khẩu và nhập khẩu). Nâng cao chất lượng các dịch vụ như cung ứng vốn, vận tải, thông tin liên lạc…, tạo điều kiện cho kinh tế đối ngoại phát triển.
Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả
Tiết kiệm và hiệu quả là hai mặt của cùng một vấn đề, đó là làm sao để với một cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn tài nguyên, lực lượng lao động xã hội hiện có và sẽ có trong một giai đoạn phát triển kinh tế nào đó, có thể sản xuất ra được một khối lượng của cải vật chất và tinh thần nhiều nhất, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của xã hội, chứng minh tính hơn hẳn của hệ thống quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa so với hệ thống quản lý kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi tính toán doanh nghiệp đều phải đạt được các mục tiêu đề ra một cách thiết thực và an toàn, thể hiện ở các chỉ tiêu có hiệu quả kinh tế cao:
e =
E = -
Trong đó:
e: Hiệu quả so sánh (tương đối)
E: Hiệu quả tuyệt đối
K: Tổng kết quả thu được
C: Tổng chi phí bỏ ra
Ci: Chi phí bổ sung năm i
C0: Chi phí ban đầu
Ki: Kết quả thu được năm i
n: Số năm khai thác, sử dụng doanh nghiệp (trong một chu kỳ tồn tại và hoạt động).
Các đơn vị tiền tệ được tính quy đổi về cùng một đơn vị (thứ nguyên) theo kỹ thuật “hiện đại hóa vốn”.
Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra cho doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế sản xuất nhỏ, tiết kiệm thường đóng khung trong tiết kiệm tiêu dùng cá nhân, hoặc người ta chỉ lo tiết kiệm trong việc sản xuất từng đơn vị sản phẩm, không tính đến và cũng không thể đáp ứng nhu cầu to lớn của toàn xã hội về tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng, không thể đảm bảo hiệu quả kinh tế cho nền sản xuất xã hội.
Yêu cầu của nguyên tắc này chính là các hoạt động kinh tế phải đạt được kết quả cao nhất trong phạm vi có thể.
Khả năng tiết kiệm có nhiều, trong đó có thể bao gồm các việc sau:
Có đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, phù hợp với đòi hỏi của các quy luật khách quan.
Giảm chi phí vật tư. Đây là một việc làm có ý nghĩa kinh tế to lớn. Tiết kiệm nguồn vật tư tương đương với việc mở rộng cơ sở nguyên vật liệu trong công nghiệp khai thác mà không cần đầu tư thêm cho xây dựng cơ bản. Nó còn đảm bảo cho việc tiết kiệm lao động sống vì nó giảm bớt nhu cầu về sức lao động cần cho việc bốc dỡ, vận chuyển và bảo quản các vật tư đang sử dụng, giảm bớt thời gian công chúng, do đó làm giảm giá thành.
Việc tiết kiệm vật tư được thực hiện bằng cách:
Áp dụng kỹ thuật mới và quy trình công nghệ tiên tiến
Cải tiến kết cấu sản phẩm, giảm trọng lượng
Nâng cao chất lượng sản phẩm
Sử dụng vật liệu thay thế và phế phẩm
Tiết kiệm lao động sống. Tuy nguồn dự trữ về sức lao động ở nước ta rất lớn nhưng không vì thế mà không có biện pháp quan trọng để sử dụng hợp lý và tiết kiệm chúng, đặc biệt là vấn đề nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, kể cả lao động quản lý một cách khoa học.
Để tiết kiệm lao động có hiệu quả phải cải tiến bộ máy quản lý, giảm bớt chi phí hành chính theo hướng gọn nhẹ, thạo việc và linh hoạt
Phải đầu tư có trọng điểm, tránh phân tán tản mạn, coi trọng tính đồng bộ, tính hệ thống của đầu tư xây dựng cơ bản.
Tiết kiệm trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Cần có biện pháp bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn tài nguyên. Tránh tình trạng rừng bị chặt đốn bùa bãi, các hầm mỏ bị khai thác ẩu, đất đai sử dụng không hợp lý trở thành đất bạc màu, hoặc bị lãng phí trong xây dựng làm mất nhiều đất, động vật quý hiếm bị đánh bắt vô tổ chức, các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị mai một dần đi và sức khỏe con người cũng bị tổn hại nghiêm trọng.
Hải Phòng là một trong ba địa phương đầu tàu kinh tế phía Bắc - đã nhanh chóng đề ra 10 giải pháp cấp bách kiềm chế lạm phát, cắt giảm 10% kinh phí chi ngân sách thường xuyên,… Theo ước tính của Sở Tài chính, tiết kiệm chi 10% trên địa bàn sẽ tạo ra một con số không hề nhỏ: khoảng 28 tỷ đồng. Năm nay, Hải Phòng phấn đấu thu ngân sách nội địa vượt 5% trở lên so với mức dự toán HĐND thành phố giao, nếu đơn vị nào thu không đạt thì giảm chi tương ứng. Từng đơn vị hành chính, sự nghiệp sẽ được tiếp tục rà soát, có phân bổ kế hoạch tiết kiệm chi cụ thể cho từng đơn vị, từng lĩnh vực tiết kiệm. Các ngành liên quan sẽ chủ động phối hợp kiểm tra hoạt động các DN, bảo đảm thu đúng, đủ, kịp thời vào ngân sách Nhà nước, đồng thời bãi bỏ các loại phí, lệ phí trái quy định... Ngoài lương cơ bản và một số khoản chi cần thiết, các đơn vị đều phải triệt để tiết kiệm, tạm dừng mua mới các phương tiện sử dụng ngân sách Nhà nước dù đã có trong dự toán.
Công ty TNHH một thành viên Điện lực Hải Dương đầu tư xây dựng 101 công trình trong năm 2006. Trong đó, có 4 công trình trọng điểm là: Cải tạo nâng công suất trạm 110 kV Phả Lại; Trạm 110 kV Nghĩa An; Trạm 110 kV Đại An và Trạm 110 kV Nhị Chiểu. Tổng vốn đầu tư các công trình này lên tới 75,580 tỷ VND, trong đó có 32,570 tỷ VNd là vốn vay các ngân hàng thương mại. Yếu tố hiệu quả - tiết kiệm trong đầu tư được Công ty đặc biệt quan tâm.
Công ty luôn coi việc khảo sát để lập dự án, lập bản vẽ thiết kế thi công chiếm vị trí quan trọng đặc biệt. Công ty chỉ đạo các đơn vị liên quan phối hợp chặt chẽ với cơ quan tư vấn nhằm nâng cao chất lượng hồ sơ. Việc làm này đã giảm thiểu sai sót giữa kết quả khảo sát lập dự án đầu tư với việc lập bản vẽ thi công và tổng dự toán, giảm thời gian chỉnh sửa hồ sơ và khi thi công và hạn chế chi phí phát sinh.
Khâu thường gặp khó trong đầu tư xây dựng là công tác đền bù và GPMB. Lường trước việc này, Công ty đã chủ động phối hợp với chính quyền địa phương để tính toán đúng giá trị đền bù; mọi thông tin liên quan được phổ biến công khai, đầy đủ tới từng hộ dân có đất bị thu hồi... Do vậy, các dự án luôn được bà con nhân dân đồng thuận, không phải dừng thi công do mắc mớ về đền bù GPMB.
Mặt khác, Công ty cũng rất thận trọng khi lựa chọn giải pháp thi công, do vậy đã hạ thấp đáng kể chi phí đền bù hoa màu, giảm bớt chi phí đầu tư. Hoạt động giám sát và nghiệm thu công trình được Công ty thực hiện rất chặt chẽ, khoa học. Công ty có 65 cán bộ có Chứng chỉ tư vấn giám sát chất lượng công trình xây dựng. Những cán bộ này được phân bổ để giám sát chặt chẽ và nghiệm thu một cách nghiêm túc. Vì vậy, các công trình đều đảm bảo kỹ thuật và chất lượng, không xảy ra sai sót đáng tiếc trong thi công.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24957.doc