Tự do hóa lãi suất hiện nay là một xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia trong việc điều hành cơ chế lãi suất và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó trong tiến trình hội nhập nền kinh tế với thế giới.
Kinh nghiệm của một số ngân hàng Trung ương các nước trong điều hành cơ chế lãi suất đã chỉ ra những bài học cho Việt Nam, giúp chúng ta chọn được bước đi đúng đắn và phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của nước ta hiện nay.
Qua phân tích diễn biến lãi suất tín dụng của Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt từ 6/2002 với cơ chế lãi suất thỏa thuận mà theo đó, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở cung-cầu vốn thị trường và uy tín của khách hàng vay, chúng ta có thể thấy Việt Nam đã và đang từng bước tiến tới tự do hóa lãi suất. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, chúng ta cũng đã gặp không ít những khó khăn cần khắc phục. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn xác định mục tiêu và bước đi tiếp theo là hướng tới một cơ chế lãi suất tự do hoàn toàn, phù hợp với xu thế chung của thời đại.
79 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 924 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tự do hoá lãi suất: Thực trạng, giải pháp trong tiến trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áo về lãi suất của các ngân hàng thương mại, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố và thị phần tín dụng bằng VND của mỗi ngân hàng thương mại.
(2) Md là mức độ và chiều hướng biến động cung-cầu vốn tín dụng kỳ tháng tiếp theo: Đây là nhân tố quan trọng hàng đầu, tác động đến diễn biến lãi suất thị trường, được xác định dựa vào quan hệ về khối lượng vốn và tốc độ gia tăng giữa vốn huy động và cho vay đối với nền kinh tế của hệ thống tổ chức tín dụng trong kỳ hiện tại; đồng thời, kết hợp với sự phân tích, dự báo các nhân tố ảnh hưởng đến cung-cầu vốn tín dụng trong kỳ tiếp theo như: khả năng tiết kiệm của dân cư và huy động vốn từ nước ngoài (vốn đầu tư trực tiếp, ODA và kiều hối), nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và dân cư, tính “mùa vụ” về huy động và cho vay vốn của tháng trong năm, khả năng huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng.
(3) L là mức độ và chiều hướng biến động của lạm phát: Nhân tố này vừa phản ánh hệ quả của diễn biến nền kinh tế-xã hội và cũng là nguyên nhân trực tiếp làm cho lãi suất thị trường tăng lên hoặc giảm xuống.
(4) E là mức độ và chiều hướng biến động của tỷ giá VND/úD và Ri là mức độ và chiều hướng biến động của lãi suất thị trường quốc tế: Theo mô hình RVND = f(E,Ri,k)
- RVND là lãi suất VND, k là hệ số tín nhiệm của dân cư đối với
VND. Trong điều kiện đô la hoá nền kinh tế, thì lãi suất VND bị tác động khá nhạy cảm và thuận chiều với biến động của E và Ri, còn hệ số k chậm thay đổi hơn. Căn cứ vào diễn biến thực tế và dự báo chiều hướng biến động của E, Ri và k để có thể lượng tính mức cân bằng có thể của phương trình nói trên và mức độ biến động của RVND .
(5) Ms là mức độ và chiều hướng biến động vốn khả dụng của các
ngân hàng thương mại, khả năng cung ứng tiền của Ngân hàng Nhà nước bằng các công cụ chính sách tiền tệ theo chủ trương “thắt chặt hay nới lỏng tiền tệ”, phù hợp với mục tiêu, diễn biến kinh tế vĩ mô: Đây là “van” bơm tiền ra hay rút tiền về có tác động tức thời đối với lãi suất thị trường, thể hiện vai trò kiểm soát lãi suất thị trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
Bảng 5: Biến động của lãi suất cơ bản trong mối quan hệ với lãi suất cho vay ngắn hạn và lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng:
Đơn vị: %/tháng
Thời gian
Lãi suất cơ bản
LSCV ngắn hạn bq ở thành thị
LSCV ngắn hạn bq ở nông thôn
LS thị trường nội tệ liên NH
T8/2000
0,75
0,775
0.90
0.62
T9/2000
0,75
0,775
0,90
0,60
T10/2000
0,75
0,775
0,90
0,56
T11/2000
0,75
0,775
0,90
0.58
T12/2000
0,75
0,775
0,90
0,61
T1/2001
0,75
0,775
0,90
0,60
T2/2001
0,75
0,775
0,90
0,57
T3/2001
0,725
0.75
0,875
0,59
T4/2001
0,70
0,725
0,850
0,58
T5/2001
0,65
0,70
0,825
0,55
T6/2001
0,65
0,675
0,80
0,53
T7/2001
0,65
0,675
0,80
0,55
T8/2001
0,65
0,675
0,80
0,57
T9/2001
0,65
0,675
0,80
0,58
T10/2001
0,60
0,675
0,80
0,54
T11/2001
0,60
0,675
0,80
0,54
T12/2001
0,60
0,675
0,80
0,53
T1/2002
0,60
0,65
0,82
0,56
T2/2002
0,60
0,65
0,82
0,56
T3/2002
0,60
0,65
0,82
0,55
T4/2002
0,60
0,65
0,82
0,61
T5/2002
0,60
0,65
0,82
0,60
T6/2002
0,60
0,65
0,82
0,54
T7/2002
0,60
0,68
0,87
0,56
T8/2002
0,620
0,68
0,87
0,61
T9/2002
0,620
0,68
0,87
0,59
T10/2002
0,620
0,70
0,87
0,58
T11/2002
0,620
0,70
0,89
0,59
T12/2002
0,620
0,70
0,89
0,58
T1/2003
0,620
0,72
0,89
0,55
T2/2003
0,620
0,72
0,89
0,59
T3/2003
0,620
0,75
0,90
0,53
T4/2003
0,625
0,79
0,91
0,54
T5/2003
0,625
0,79
0,91
0,57
T6/2003
0,625
0,79
0,91
0,57
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Trên cơ sở tổng hợp chiều hướng và mức độ tác động của các nhân tố nói trên để xác định mức cụ thể lãi suất cơ bản, giữ nguyên hoặc tăng, giảm với biên độ khoảng 0,025 - 0,05%/tháng. Có thể thấy rằng, lãi suất cơ bản không phải là thương số của phép chia lãi suất cho vay thông thường mà nó có nội hàm phản ánh tương đối khách quan, tổng hợp các mối quan hệ tác động trên thị trường tiền tệ để hình thành nên lãi suất, đồng thời cũng thể hiện mục tiêu điều hành chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước. Điều này làm cho lãi suất cơ bản có thể tiếp tục đóng vai trò phát tín hiệu để định hướng lãi suất thị trường.
Bảng số liệu sau đây (bảng 5) cho thấy, lãi suất cơ bản biến động phù hợp với lãi suất thị trường, không có sự biến động đột biến, nhằm hạn chế rủi ro, tránh xáo trộn thị trường tiền tệ và ngoại hối. Lãi suất cơ bản có chênh lệch thực tế thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn ở khu vực thành thị khoảng 0,05%-
0,2%/tháng, thấp hơn lãi suất cho vay ở khu vực nông thôn khoảng 0,15%-
0,3%/tháng, cao hơn 0,08-0,1%/tháng so với lãi suất thị trường nội tệ liên ngân
hàng. Mức chênh lệch này phản ánh mối quan hệ giữa lãi suất cơ bản với lãi suất thị trường được xác lập tương đối hợp lý kể cả trước và sau thời điểm 1/6/2002
- Thời gian trước và sau thời điểm 1/6/2002, nhiều ngân hàng thương mại tiếp tục sử dụng lãi suất cơ bản làm cơ sở để ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng vay, với biên độ 0,3%/ tháng hoặc lớn hơn đối với khoản vay có thời hạn dài; Theo cam kết giữa ban quản lý dự án hỗ trợ tài chính nông thôn I, II với ngân hàng thế giới (bên tài trợ), thì lãi suất cơ bản được lấy làm cơ sở để ấn định lãi suất bán buôn vốn cho các ngân hàng thương mại; mỗi khi Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản, đều nhận được phản ứng tích cực từ thị trường tiền tệ và mối quan tâm của các tổ chức, cá nhân. Điều này phản ánh mức độ tin cậy nhất định của ngân hàng thương mại và khách hàng vay đối với lãi suất cơ bản và tác dụng của nó trong việc định hướng lãi suất thị trường tiền tệ.
- Do sự cạnh tranh trên thị trường tín dụng, nhiều ngân hàng thương mại đề nghị ngân hàng Nhà nước điều chỉnh linh hoạt hơn lãi suất cơ bản để phát tín hiệu cho chiều hướng lãi suất thị trường, tạo cơ sở cho ngân hàng thương mại và khách hàng vay thoả thuận lãi suất cho vay được nhanh chóng hơn.
4.3.3. Một số yêu cầu đòi hỏi đối với các tổ chức tín dụng khi áp dụng cơ chế
cho vay theo lãi suất thoả thuận.
Bên cạnh những yếu tố tích cực thì khi thực hiện các cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, các tổ chức tín dụng cũng sẽ gặp phải những vấn đề, thậm chí rủi ro phát sinh từ cơ chế này và cần có cách nhìn nhận, giải quyết đúng. Có lẽ cũng dễ nhận thấy nguy cơ lớn nhất là sẽ có một bộ phận khách hàng nhất định nào đó chấp nhận một mức lãi suất vay thoả thuận ở mức cao, thậm chí khá cao so với mặt bằng bình thường để được vay vốn ngân hàng, cho dù có nhữung yếu tố rủi ro, không đảm bảo an toàn nhất định.
Trước kia khi vẫn còn cơ chế cũ thì thực ra lãi suất vẫn được “thoả thuận” giữa khách hàng và ngân hàng, nhưng chỉ đến giới hạn tối đa cho phép (lãi suất trần hoặc lãi suất cơ bản cộng biên độ tối đa). Theo cơ chế cho vay mới, nếu không có những nhận thức đúng, các tổ chức tín dụng rất dễ bị những nguy cơ
rủi ro nghiêm trọng khi áp dụng cơ chế này trong thực tế một cách quá đơn giản, thậm chí sai lầm là rủi ro cao thì vẫn cho vay nhưng lãi suất cao là được. Nhưng vấn đề mà tổ chức tín dụng phải quan tâm ở đây là liệu lợi nhuận tăng thêm do lãi suất cho vay cao có đủ để bù đắp những chi phí rủi ro hay không? Câu trả lời chắc chắn là không. Dù lãi suất cho vay được thoả thuận có cao đến mấy trên thực tế cũng không thể bù đắp nổi thiệt hại nếu rủi ro thật sự xảy ra. Còn nếu cho rằng không phải với khách hàng vay vốn lãi suất cao như vậy đều sẽ bị rủi ro và lợi nhuận tăng thêm từ nhiều khách hàng sẽ bù đắp cho một người. Cách nghĩ phần nào có tính chất như “hoạt động bảo hiểm” thế này cũng không ổn, có phần nào may rủi, không biết cứ bao nhiêu người không hay bao nhiêu dư nợ không bị rủi ro có thể gánh trách nhiệm bù đắp cho một trường hợp rủi ro. Ngoài ra chưa kể đến một tác động khác là với nhu cầu vay vốn rất lớn, đặc biệt tại khu vực nông nghiệp và nông thôn trong khi nguồn vốn để cho vay vẫn còn có hạn thì rất có thể những người rủi ro cao, chấp nhận lãi suất vay vốn cao sẽ chiếm mất “chỗ” được vay vốn của những người có nhu cầu vay vốn khác, an toàn hơn, ít rủi ro hơn nhưng chỉ chấp nhận lãi suất vừa phải. Và như vậy bài toán cho ai vay, giữa người khách hàng có rủi ro cao hơn, chấp nhận lãi suất cao hơn và người khách hàng ít rủi ro hơn nhưng chỉ áp dụng lãi suất vay cũng phải thấp hơn không chỉ phụ thuộc vào cá nhân cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng mà còn cả nhận thức và chiến lựoc kinh doanh của ngân hàng. Đây thực sự là một vấn đề rất quan trọng, tổ chức tín dụng, ngân hàng nên định hướng thế nào, chọn nhóm khách hàng nào, đặc biệt trong bối cảnh nguồn vốn cho vay vẫn có hạn, cạnh tranh huy động để có nguồn vốn cho vay rất khốc liệt.
Vậy thì cần phải định hướng cho các tổ chức tín dụng như thế nào liên quan đến việc áp dụng cơ chế vay theo lãi suất thoả thuận tránh được nguy cơ rủi ro trên? Xét riêng về hoạt động tín dụng trong thực tế hiện nay của các ngân hàng thương mại thì lãi suất cho vay cao chủ yếu do lãi suất huy động đầu vào cao và do chi phí hoạt động, chi phí quản lí cao, trong đó có bao gồm cả các chi phí điều chuyển vốn, chi phí thẩm định, theo dõi quản lý nợVà khi áp dụng cơ
chế cho vay theo thoả thuận thì lãi suất cho vay cao còn do rủi ro của khách hàng vay vốn. Đây cũng chính là một điểm rất cần phải chú ý trong khi vận dụng phương thức cho vay thoả thuận trong thực tế. Bởi vì nếu hiểu đúng rủi ro của khách hàng cao thì cũng chỉ là sẽ dẫn đến các chi phí hoạt động, thẩm định, theo dõi quản lý nợphải cao thêm phù hợp để loại trừ bớt hay giảm thiểu rủi ro. Chúng ta đều biết rằng trên thực tế bao giờ cũng tồn tại một sự không cân xứng về thông tin có được của người cho vay và người đi vay càng không “cân xứng” mà khi vẫn chấp nhận cho vay thì lãi suất vay vốn phải cao hơn bình thường. Sẽ thật là sai lầm nếu trong trường hợp ngân hàng vẫn cho khách hàng chấp nhận rủi ro cao và phần thu lãi vay tăng thêm do gia tăng chênh lệch đầu ra là phần để dự trữ và bù vào khi có rủi ro thật sự xảy ra. Như đã phân tích ở phần đầu bài viết, lãi suất cho vay tăng thêm không thể bù lại thiệt hại nếu món vay thật sự trở thành xấu, thành nợ thất thoát. Giả sử có thể làm được điều đó thì sẽ phải có rất nhiều khách hàng tốt cũng phải chịu một lãi suất vay vốn cao mà đáng lẽ họ không phải chịu như vậy. Phương châm kinh doanh đúng đắn, cách làm hợp lí mà một tổ chức tín dụng, ngân hàng phải làm khi đồng ý cho vay khách hàng với một lãi suất cao hơn bình thường là ngân hàng phải chấp nhận mất công sức nhiều, chấp nhận chi phí nhiều hơn để giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra thông qua các biện pháp như thẩm định kĩ hơn, theo dõi quản lí nợ tốt hơn khách hàng đóNói cách khác là ngân hàng phải đầu tư chi phí nhiều hơn cho việc khai thác, xử lí thông tin, phân loại khách hàng, quản lí và theo dõi trong quá trình vaynhằm có được tình trạng “thông tin cân xứng hơn” so với khách hàng vay vốn. Nếu thực hiện như thế trong trường hợp này ngân hàng cũng không thể có được chênh lệch lãi suất đầu ra và đầu vào cao hơn bình thường.
II. Những điều kiện thuận lợi và khó khăn để thực hiện tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
1. Những điều kiện thuận lợi:
1.1.Về tình hình kinh tế vĩ mô:
Thực tiễn đã chứng minh thực hiện tự do hoá lãi suất ở Việt Nam là nhu
cầu tất yếu. Tuy nhiên, để có thể thả nổi lãi suất thì Việt Nam hiện nay chưa đủ điều kiện thực hiện.
Về tình hình kinh tế vĩ mô, trong thập kỷ qua, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam nhìn chung khá cao, từ 6% đến 7%, đã có rất nhiều tiến bộ. Nhưng sự tăng trưởng này chưa thực sự vững chắc, còn tiềm ẩn những nhân tố bất lợi, thiếu bền vững. Chúng ta chưa chủ động kiểm soát lạm phát, tỷ giá chưa ổn định và ngân sách còn mất cân đối. Tuy nhiên, theo dự báo nền kinh tế nước ta sẽ tiếp tục tăng trưởng trong vài năm tới, đây là điều kiện quan trọng để chúng ta thực hiện lãi suất thoả thuận hiện nay.
1.2. Về tình hình thị trường tài chính
Thị trường tài chính Việt Nam còn hết sức kém phát triển và lạc hậu so với các nước trong khu vực. Sự lạc hậu, sơ khai của thị trường tài chính Việt Nam thể hiện ở tình trạng các công cụ tài chính còn nghèo nàn về chủng loại và nhỏ bé về lượng giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh và trên thị trường mở trong những năm qua.
1.3.Về tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và các thể
chế tài chính trung gian khác.
Hệ thống Ngân hàng Việt Nam còn nhiều yếu kém trên các mặt: Quản lý yếu kém, dễ đổ vỡ do vốn tự có thấp, nợ quá hạn cao, tính cạnh tranh và sinh lời thấp. Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đa số về thị phần tín dụng (trên 70%), tổng tài sản có của hệ thống này cũng chiếm 80% tổng tài sản có của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, các ngân hàng này lại cho vay các doanh nghiệp nhà nước là chủ yếu. Mặc dù đã có những cải cách nhất định song việc tồn đọng nợ quá hạn là rất lớn do nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Trong khi đó các ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhỏ bé, dịch vụ đơn điệu, chi nhánh không nhiều. Vì vậy đã làm giảm tính cạnh tranh của hệ thống ngân hàng.
1.4. Chế độ công bố thông tin tài chính, chế độ kế toán và kiểm toán
Nhìn chung, chế độ công bố thông tin tài chính, chế độ kế toán và kiểm
toán chưa hiệu quả. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng CIC của Ngân hàng Nhà nước đã đi vào hoạt động nhưng còn trong giai đoạn thí điểm và do đó chưa có cơ quan đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập. Điều này gây khó khăn và là thách thức các tổ chức tín dụng trong việc mở rộng tín dụng hơn nữa theo cơ chế lãi suất thương mại thực sự.
1.5. Tình hình dự trữ ngoại tệ quốc gia
Dự trữ ngoại tệ quốc gia chưa đủ mạnh để có thể thả nổi lãi suất. Trong khi đó kinh nghiệm về xây dựng, quản lý, điều hành, giám sát và tác động vào mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo cơ chế của Ngân hàng Nhà nước còn rất mới, bởi vì những công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ mới được đưa vào hoạt động.
1.6. Năng lực tài chính và khả năng thanh toán
Năng lực tài chính, khả năng thanh toán cũng như hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế còn chưa đồng đều.
Và một tác nhân quan trọng còn gây cản trở quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam hiện nay là các luật, văn bản pháp quy về hoạt động thương mại, phi thương mại trong cơ chế thị trường, cách xử lý vi phạm chưa rành rọt, thiết đồng bộ, thậm chí còn chồng chéo.
Như vậy, hiện nay Việt Nam nên tiếp tục tháo gỡ những khó khăn trên để
có thể thực hiện tự do hóa hoàn toàn lãi suất khi hội đủ những điều kiện.
2. Những khó khăn trong tiến trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
+ Hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá còn yếu cả ở thị trường trong và ngoài nước. Phần lớn các doanh nghiệp là loại vừa và nhỏ; vốn tự có và tỷ suất lợi nhuận đạt thấp, huy động vốn trực tiếp từ thị trường khó khăn; doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhưng phần lớn thua lỗ kéo dài nên vốn tín dụng vẫn là nguồn vốn chủ yếu hỗ trợ cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy cơ chế lãi suất chưa thể hoàn toàn tự do hoá mang tính thị trường.
+ Các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ mới đưa vào vận hành,
chưa đủ lớn về quy mô và cường độ để tác động tức thời đối với thị trường tiền tệ, thay thế ngay các công cụ trực tiếp. Vì thế điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn đầu chuyển đổi nền kinh tế chúng ta vẫn phải sử dụng kết hợp giữa công cụ gián tiếp và trực tiếp.
+ Công tác thanh tra kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước tuy đã trưởng thành một bước đáng kể nhưng chưa đủ mạnh và chưa bao quát được hết so với những đòi hỏi mới của nền kinh tế. Công tác kế toán và kiểm toán chưa nề nếp và chưa đạt tới được chuẩn mực của quốc tế. Khuôn khổ pháp lý và quy chế phòng ngừa rủi ro trong thị trường tài chính và tiền tệ chưa đầy đủ và đồng bộ, nếu tự do hoá lãi suất quá sớm sẽ không kiểm soát được.
+ Tình hình tài chính và năng lực thể chế trong đánh giá và kiểm soát rủi ro của hệ thống các ngân hàng thương mại ở Việt Nam chưa đủ vững chắc, nên tự do hoá lãi suất có thể sẽ khuyến khích các Ngân hàng chấp nhận cả những người đi vay mạo hiểm, từ đó ảnh hưởng đến tính lành mạnh của các ngân hàng thương mại. Khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại còn yếu kém, bất cập chênh lệch nhau khá lớn, việc cải tổ hệ thống ngân hàng thương mại đang ở giai đoạn đầu có nhiều khó khăn: vốn tự có nhỏ làm giảm khả năng mở rộng tín dụng và làm tăng rủi ro tíndụng; hiệu quả sử dụng vốn thấp; chất lượng tín dụng cũng rất thấp, nợ quá hạn lớn; trình độ quản trị kinh doanh còn thấp so với các ngân hàng trong khu vực, khả năng sinh lời thấp. Tất cả là cản trở đối với quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam.
+ Tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế chưa được thu hẹp và có nguy cơ mở rộng; tỷ giá hối đoái chưa ổn định; niềm tin của dân chúng vào sự phát triển và ổn định của nền kinh tế chưa cao; vì thế yếu tố tâm lý khá nhạy cảm và tác động mạnh tới thị trường tiền tệ mỗi khi ngân hàng Nhà nước điều chỉnh lãi
suất.
Từ những lý do nêu trên đây cho thấy thời điểm hiện nay chưa phải là thời điểm thích hợp để tiến hành tự do hoá lãi suất hoàn toàn hay nói cách khác không thể tự do hoá lãi suất một cách đột ngột hay nóng vội. Do đó cần phải duy
trì và kiểm soát lãi suất với một mức độ nhất định trong giai đoạn qua độ chuyển đổi nền kinh tế và chuẩn bị các điều kiện và bước đi thích hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam và bối cảnh của nền kinh tế thế giới để tiến tới tự do hoá lãi suất hoàn toàn trong thời gian tới.
III. Mục tiêu và bước đi tiếp theo của quá trình tự do hoá lãi suất
ở Việt Nam
1. Mục tiêu quan điểm của quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
Cũng như các nước, mục tiêu quan điểm của quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các tổ chức tài chính trung gian trong việc huy động tiết kiệm ở trong nước với mức cao để đảm bảo tăng trưởng tín dụng có chất lượng và tốc độ cao, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đối nội, đối ngoại của đồng Việt
Nam.
Chính sách lãi suất thực thi trong những thời gian tới đây theo hướng lãi suất được hình thành trên cơ sở nguyên tắc của cơ chế thị trường nhưng với bước đi thích hợp, thận trọng, dần dần, phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường tiền tệ, từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất, quốc tế hoá thị trường tài chính trong nước, đồng thời với các biện pháp phát triển thị trường tiền tệ và nâng cao năng lực tài chính và năng lực điều hành của các tổ chức tín dụng; xử lý lãi suất nội tệ trong mối quan hệ với lãi suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối.
Cơ chế lãi suất mới phải thực dương, linh hoạt, phản ánh đúng cung-cầu vốn trên thị trường, không để xảy ra biến động xấu với kinh tế –xã hội, phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng. Các bước đi của tự do hoá lãi suất phải đi đôi với sử dụng công cụ điều tiết lưu thông tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trường và cải cách doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp Nhà nước để nâng cao hiệu quả sản xuất, doanh nghiệp, đảm bảo khả năng trả nợ vay ngân hàng.
Từng bước tự do hoá lãi suất nhưng vẫn đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường, phù hợp với mục tiêu và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiến
trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, điều kiện thực tế thị trường tiền tệ trong nước và hạn chế đến mức tối đa rủi ro và tác động xấu của biến động thị trường tiền tệ thế giới.
Quá trình tự do hoá lãi suất được thực hiện trong điều kiện ổn định kinh tế vĩ mô; hệ thống tổ chức tín dụng có khả năng hoạt động an toàn và đủ vững vàng trước sự cạnh tranh về lãi suất; ngân hàng Nhà nước có cơ chế giám sát và can thiệp đủ mạnh và các công cụ của chính sách tiền tệ để phản ứng kịp thời rủi ro có thể xảy ra đối với thị trường từ việc tự do hoá lãi suất; năng lực tài chính thực tế của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước cần phải ở mức an toàn để giảm thiểu áp lực của việc tăng lãi suất vào giai đoạn thả nổi; mức độ hội nhập thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta không thể ngồi chờ một cách bị động mà phải tạo ra những điều kiện, tận dụng những cơ hội, thực hiện các giải pháp ngắn hạn, dài hạn cần thiết để thực hiện thành công mục tiêu tự do hoá lãi suất.
2. Bước đi tiếp theo của tự do hoá lãi suất
Tính đến thời điểm hiện nay, một bộ phận lớn lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam (trừ lãi suất trái phiếu của ngân hàng thương mại), lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ (trừ lãi suất tiền gửi bằn đô la Mỹ của các pháp nhân tại các tổ chức tín dụng), lãi suất thị trường liên ngân hàng đã được tự do hoá. Từ tháng
6/2002, lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với nền kinh tế về cơ bản cũng
được tự do hoá.
Như trình bày ở phần trên, bước đi trong tiến trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam được thực hiện từ tiền gửi trước, sau đến lãi suất cho vay là bước đi thích hợp với mục tiêu và điều kiện kinh tế, thị trường tiền tệ Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi có thể gây ảnh hưởng không tốt đến những ngân hàng thương mại quy mô nhỏ, có khả năng chi trả thấp.
Vì vậy, phương án về lộ trình tiếp theo của tiến trình tự do hoá lãi suất ở
Việt Nam trong thời gian tới nên thực hiện theo trình tự sau đây:
Bước 1 : Xoá bỏ việc khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ của các pháp nhân tại các tổ chức tín dụng, tự do hoá lãi suất hoàn toàn ngoại tệ.
Bước 2 :Xoá bỏ các hình thức lãi suất ưu đãi cho vay trong hệ thống ngân hàng thương mại.
Bước cuối cùng : Thả nổi lãi suất trái phiếu bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Như vậy đến đây đã hoàn tất quá trình tự do hoá lãi suất. Lãi suất được hình thành hoàn toàn dựa trên cung-cầu về vốn tín dụng trên thị trường.
Thực hiện lộ trình tự do hoá lãi suất nói trên có tính khả thi và phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của Việt Nam, bởi vì:
+ Tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại mở rộng huy động và cho vay vốn trung và dài hạn phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ và đa dạng hoá công cụ nợ trên thị trường tiền tệ; tăng cường tính cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng, lãi suất tín dụng sẽ dần phản ánh đúng cung- cầu trên thị trường tiền tệ.
+ Phù hợp với chủ trương cải cách ngân hàng thương mại, đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, đặc biệt các ngân hàng thương mại có quy mô nhỏ.
Như vậy, kể từ khi bắt đầu đổi mới hoạt động ngân hàng, cơ chế kiểm soát, điều hành lãi suất của Việt Nam đã dần dần được nới lỏng, giảm dần sự can thiệp trực tiếp của ngân hàng Nhà nước thông qua công cụ kiểm soát và hướng dẫn tới sự tự do hoá lãi suất với những bước đi cụ thể. Đặc biệt đối với việc bỏ biên độ lãi suất, từ tháng 6/2002, lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đã cơ bản được tự do hoá theo cơ chế lãi suất thoả thuận, phù hợp với quan hệ cung-cầu về vốn, tín dụng của thị trường tiền tệ trong nước.
Có thể nói rằng, lãi suất thoả thuận là một bước tiến quan trọng trong tiến trình tự do hoá lãi suất. Tuy nhiên, liên quan đến cơ chế điều hành lãi suất hiện nay còn nhiều vấn đề phải tiếp tục xem xét nhằm hoàn thiện, đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế trong tiến trình hội nhập và hướng tới tự do hoá lãi suất hoàn
toàn khi điều kiện kinh tế, xã hội cho phép. Vì vậy việc đánh giá một cách khách quan thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của Việt Nam trong thời gian qua, kết hợp với bài học kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và thế giới là cơ sở quan trọng để xác định hướng hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian tiếp theo, từ đó kiến nghị giải pháp trước mắt và lâu dài cho tiến trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam.
Chương III
Giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện tiến trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
I. Điều kiện để tiếp tục tiến trình tự do hoá lãi suất
+ Những kinh nghiệm về xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ nói chung và cơ chế điều hành lãi suất nói riêng trong 15 năm đổi mới hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam thời gian qua cho thấy những cải cách trong cơ chế, chính sách lãi suất là hoàn toàn đúng hướng, thận trọng, thu được những kết quả to lớn và đã hướng dần tới mục tiêu tự do hoá lãi suất.
+ Những bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới và trong khu vực, đặc biệt các nước đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đã và đang thực hiện quá trình tự do hoá tài chính nói chung và tự do hoá lãi suất nói riêng, qua đó học tập những kinh nghiệm thành công và nhận biết được những khó khăn cũng như những sai lầm có thể gặp trên con đường tiến tới tự do hoá lãi suất.
+ Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng đã và đang phát huy hiệu lực trên thực tế, đây là thuận lợi lớn cho việc xây dựng điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ, việc giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng được nâng lên tầm pháp lý cao hơn, đảm bảo cho Ngân hàng Nhà nước phát huy đúng vai trò, chức năng trong quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thông qua những công cụ của chính sách tiền tệ.
+ Quá trình cải cách hệ thống ngân hàng thương mại đã và đang được thực hiện nhất quán và đồng thời chắc chắn sẽ có những kết quả cả về qui mô hoạt động, chất lượng, kinh nghiệm quản lý, khả năng cạnh tranh, hoà nhập với thị trường, cộng đồng tài chính quốc tế. Chính xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, những cam kết quốc tế về tài chính tiền tệ (Hiệp định thương mại Việt – Mỹ) buộc Việt Nam phải có bước đi trong tiến trình tự do hoá tài chính, trong đó tự
do hoá lãi suất là hạt nhân của tiến trình tự do hoá tài chính.
+ Chiến lược phát triển kinh tế 10 năm và kế hoạch 5 năm tới của Việt Nam về phát triển kinh tế xã hội được đặt ra với các mục tiêu chủ yếu là: Tổng giá trị sản phẩm quốc dân (GDP) tăng bình quân hàng năm tối thiểu là 7% trong
5 năm 2001-2005, đến năm 2010 ít nhất gấp đôi năm 2000 (bình quân hàng năm trong 10 năm tăng 7,2%). Phát triển được một bước quan trọng tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất kĩ thuật. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nhiệp và nền kinh tế, đảm bảo được nhu cầu thiết yếu cho tiêu dùng, một phần đáng kể cho sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu. Ổn định kinh tế vĩ mô, cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh, tăng dự trữ ngoại tệ, kiểm soát được bội chi ngân sách Nhà nước, lạm phát, nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Tích luỹ nội bộ nên kinh tế năm 2005 đạt 27% GDP, đến năm 2010 đạt trên 30% GDP, xuất khẩu tăng bình quân 13-15%. Tốc độ tăng dân số đến năm 2005 giảm xuống còn 1,23%; giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp xuống dưới mức cho phép. Vì vậy, đây vừa là yêu cầu đặt ra vừa là điều kiện cho tiến trình tự do hoá lãi suất trong thời gian tới.
II. Giải pháp trước mắt của tiến trình tự do hoá lãi suất
1. Củng cố thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường đấu thầu trái phiếu, tín phiếu kho bạc Nhà nước, nghiệp vụ thị trường mở với quy mô đủ lớn, hoạt động hiệu quả và có chiều sâu, để lấy mức lãi suất hình hành trên các thị trường này làm cơ sở để xác định lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.
Như đã đề cập ở phần trước, lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam hiện nay trên thị trường được xác định trên cơ sở lãi suất cho vay đối với khách hàng tốt nhất (có chất lượng uy tín) của 15 ngân hàng thương mại, trong đó có bốn ngân hàng thương mại Nhà nước, nên các mức lãi suất này chưa phản ánh đúng một cách chính xác lãi suất cho vay phổ biến tốt nhất cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trong khi đó do điều kiện thực tế thị trường tiền tệ trong nước, thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển, nghiệp vụ thị trường mở bắt đầu được thực hiện nhưng chưa có chiều sâu. Thị trường trái phiếu, tín phiếu
kho bạc Nhà nước chưa phản ánh đúng lãi suất của thị trường tiền tệ nên chưa thể căn cứ vào các lãi suất trên các thị trường này làm cơ sở để xác định lãi suất cơ bản.
Theo kinh nghiệm của một số nước trong khu vực, lãi suất cơ bản của họ thường được xác định dựa trên lãi suất hình thành trên các thị trường tiền tệ như: thị trường liên ngân hàng, thị trường mở, thị trường trái phiếu, tín phiếu kho bạc Nhà nướcVì vậy trong thời gian tới đây, chúng ta cần phải củng cố hoạt động của các thị trường này, để lấy mức lãi suất làm cơ sở để xác định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.
2. Củng cố hoạt động của các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ điều hành gián tiếp như lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc. Tạo ra các môi trường và hàng hoá để các công cụ tiền tệ có thể hoạt động có hiệu quả.
Nghiệp vụ thị trường mở: đảm bảo hàng hoá cho thị trường mở thông qua việc phát hành thường xuyên với khối lượng lớn trái phiếu, tín phiếu kho bạc, trái phiếu, tín phiếu ngân hàng Nhà nước. Đảm bảo cho các giao dịch được thông suốt, tự do hoá giá cả của các hàng hoá trên thị trường mở (đấu thầu trên cơ sở khối lượng), mở rộng đối tượng tham gia, tin học hoá các tác nhân tham gia thị trường liên ngân hàng và thị trường mở.
Lãi suất tái chiết khấu: ngoài những chứng từ có giá được sử dụng để tái cấp vốn, tái chiết khấu cho các tổ chức tín dụng là tín phiếu kho bạc Nhà nước, tín phiếu ngân hàng Nhà nước như hiện nay, mở rộng thêm các loại giấy tờ có giá khác như : trái phiếu chính phủ còn thời hạn thanh toán dưới 1 năm, các thương phiếu có độ tín nhiệm cao đồng thời phải đưa ra những quy định cụ thể về những trường hợp được thực hiện tái cấp vốn, tái chiết khấu phù hợp với những nguyên nhân gây ra biến động về cung- cầu vốn dẫn đến tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ; qua đó để tránh những trùng lặp giữa nghiệp vụ tái cấp vốn với nghiệp vụ thị trường mở. Bên cạnh đó, cần xem xét để một số chi nhánh ngân hàng Nhà nước thực hiện tái cấp vốn, tái chiết khấu cho các tổ chức tín
dụng để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng ở nông thôn tiếp cận với nguồn vốn này và phát triển thị trường tiền tệ, tín dụng.
Dự trữ bắt buộc: thực hiện dự trữ bắt buộc thống nhất cho tất cả các tài sản nợ của các tổ chức tín dụng, tránh tình trạng phân đoạn trong huy động nguồn vốn; thực hiện thời hạn tính trữ bắt buộc theo tuần; từng bước đưa tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống mức trung bình của thế giới, trên cơ sở phát triển thị trường tiền tệ và các công cụ điều tiết tiền tệ gián tiếp khác, có như vậy mới đảm bảo sự can thiệp thị trường tiền tệ kịp thời khi có những diễn biến bất thường xảy ra trong quá trình tự do hoá lãi suất.
3. Sử dụng vai trò, vị trí của Hiệp hội ngân hàng trong việc phối hợp nhằm ổn định mặt bằng lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng, tránh việc cạnh tranh không lành mạnh thông qua lãi suất.
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường, đó là cạnh tranh giữa các chủ thể, giữa các doanh nghiệp với nhau.Tuy nhiên không thể thiếu vai trò quản lý nhà nước thông qua hệ thống luật pháp, công cụ của mình và vai trò của các tổ chức nghề nghiệp, thông thường là Hiệp hội ngành nghề. Hoạt động của các ngân hàng thương mại ũng không nằm ngoài tính quy luật đó.
Một diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ nước ta từ đầu năm đến nay đó là các ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau đưa lãi suất vốn nội tệ tăng lên quá cao, trong khi đó lãi suất ngoại tệ giảm xuống quá thấp. Trước tình hình đó, dư luận đặt vấn đề phát huy vai trò của Hiệp hội ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước trong điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ mà không rơi vào tình trạng can thiệp về mặt hành chính vào tính tự chủ kinh doanh của ngân hàng thương mại; trong việc bàn bạc thống nhất phối hợp hành động vì lợi ích chung giữa các ngân hàng hội viên.
Trước hết phải nói về ngân hàng Nhà nước. Trên thực tế đã phải thực hiện một số biện pháp quản lí Nhà nước của mình phù hợp với giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế để làm hạ nhiệt lãi suất quá nóng trên thị trường tiền tệ; đồng thời linh hoạt trong điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ.
Trong quá trình xét duyệt đề án phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại theo quy định của Luật các Tổ chức Tín dụng, ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu ngân hàng Đầu tư-Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp-Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long, cân nhắc một số mức lãi suất của mình. Với chức năng tự chủ trong kinh doanh, 3 ngân hàng đó đã giảm mức lãi suất huy động vốn kỳ hạn ngắn.
Tiếp đến ngân hàng Nhà nước tổ chức cuộc họp với 4 ngân hàng thương mại Nhà nước, chiếm tới 70% thị phần huy động vốn và cho vay, để bàn biện pháp giảm lãi suất trên thị trường. Qua cuộc họp, các ngân hàng thương mại này đã cắt giảm lãi suất huy động vốn kỳ hạn ngắn. Riêng ngân hàng ngông nghiệp và phát triển nông thôn, có quy mô lớn nhất, chiếm tới trên 25% thị phần huy động vốn và thị phần cho vay trong toàn quốc, với mạng lưới đông nhất còn quyết định giảm cả lãi suất điều hoà vốn trong hệ thống của mình; đồng thời giảm mức lãi suất mà các chi nhánh đi vay các ngân hàng thương mại khác.
Bắt đầu từ tháng 8-2003, ngân hàng Nhà nước quyết định giảm đáng kể
lãi suất tái cấp vốn từ 6,0%/năm xuống 5,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ
5,0%/năm xuống 4,2%/năm; tỷ lệ dự trữ bắt buộc cả nội tệ và ngoại tệ có mức giảm 0,5%-1,0% so với mức thực hiện trước đó.
Tiếp đến là nói đến hiệp hội ngân hàng: Nhận thức rõ việc giữa các ngân hàng thương mại cạnh tranh đơn phương tăng mặt bằng lãi suất lên quá cao, chẳng những ảnh hưởng chung đến lợi ích trong hệ thống, đến hiệu quả nền kinh tế, mà còn ảnh hưởng đến tình hình tài chính của bản thân mỗi ngân hàng, trung tuần tháng 8-2003 vừa qua, hiệp hội ngân hàng Việt Nam tiếp tục có cuộc họp riêng với 4 ngân hàng thương mại Nhà nước, với sự tham dự của lãnh đạo ngân hàng Nhà nước để bàn biện pháp sát thực hơn nữa hạ mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế. Cuộc họp đã thống nhất các ngân hàng thương mại lấy mức lãi suất huy động vốn kỳ hạn 6 tháng làm lãi suất cơ bản giữa các ngân hàng hội viên; đồng thời thường xuyên thông báo cho nhau việc thay đổi các mức lãi suất của mình thông qua Hiệp hội Ngân hàng.
Tất cả các biện pháp đó của ngân hàng Nhà nước và của Hiệp hội Ngân hàng đã chứng tỏ một mặt tôn trọng tính tự chủ kinh doanh của các ngân hàng thương mại, sử dụng đúng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ và tôn trọng tính quy luật về lãi suất phản ánh cung-cầu vốn trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường; mặt khác thúc đẩy sự hợp tác và điều hoà lợi ích giữa các thnàh viên của Hiệp hội Ngân hàng, thực hiện vai trò quản lý Nhà nước về lãi suất trong quá trình chuyển đổi kinh tế. Thực tế là lãi suất huy động vốn kỳ hạn ngắn của hầu hết các ngân hàng thương mại đã giảm xuống. Riêng Hội sở chính ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam thì quyết định từ ngày 25-8/2003, giảm từ 0,01%
- 0,04% ở hầu hết các kỳ hạn huy động vốn.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, cơ chế điều hành lãi suất thỏa thuận cho phép các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất và cạnh tranh với nhau trong việc huy động tiền gửi, cũng như cho vay, từ đó dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, lôi kéo khách hàng cuả nhau, gây bất lợi cho các tổ chức tín dụng. Vì vậy các tổ chức tín dụng trên địa bàn, các ngân hàng thương mại Nhà nước đã phối hợp với nhau thông qua Hiệp hội ngân hàng để thoả thuận duy trì mặt bằng lãi suất kinh doanh nhằm đảm bảo lợi ích chung cho các tổ chức tín dụng cũng như khách hàng vay vốn, không gây xáo trộn về lãi suất trên thị trường. Vì vậy khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận càng cần thiết phải sử dụng vai trò, vị trí của Hiệp hội ngân hàng trong việc phối hợp nhằm ổn định mặt bằng lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh thông qua lãi suất.
4. Công bố lãi suất tiền gửi và cho vay bằng đồng Việt Nam tính theo năm, các kỳ hạn cụ thể đối với lãi suất cho vay và huy động được tính trên cơ sở lãi suất năm, như đối với lãi suất ngoại tệ, cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thời gian qua, lãi suất tiền gửi và cho vay tại tổ chức tín dụng trong nước tương đối cao để phù hợp với mức lạm phát từng thời kỳ nếu tính lãi suất theo lãi suất theo năm sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của người vay do mức lãi suất quá cao. Hiện nay lãi suất đang được duy trì ở mức thấp nên có hoàn toàn có điều
kiện để xác định và công bố lãi suất theo năm đối với cả tiền gửi và tiền cho vay, phù hợp với lãi suất ngoại tệ và thông lệ quốc tế. Hơn thế nữa việc tính lãi suất theo năm sẽ phản ánh một cách chính xác các chi phí về vốn đối với người gửi, người vay và tổ chức tín dụng.
5. Chính phủ hạn chế và đi đến chấm dứt hoàn toàn việc phát hành trái phiếu, tín phiếu kho bạc Nhà nước trực tiếp đối với dân chúng với lãi suất cố định, mà thực hiện đấu thầu trái phiếu, tín phiếu qua Ngân hàng Nhà nước và thị trường chứng khoán
Tất cả nhằm hình thành lãi suất của các công cụ nợ của Chính phủ trên cơ sở thị trường và quan hệ cung-cầu vốn. Tránh việc cạnh tranh không lành mạnh giữa lãi suất tín dụng Nhà nước và lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng, đồng thời tiết kiệm chi phí cho Ngân sách Nhà nước.
II. Giải pháp lâu dài nhằm tiếp tục quá trình tự do hoá lãi suất:
1. Xem xét bỏ việc khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ đối với pháp nhân tại các tổ chức tín dụng.
Lãi suất tiền gửi loại này do tổ chức tín dụng ấn định như đối với tiền gửi ngoại tệ của dân cư, để tiến tới tự do hoá hoàn toàn lãi suất tiền gửi ngoại tệ.
Từ cuối năm 1998 đến nay, nhằm góp phần tăng cường hoạt động quản lý ngoại hối, hạn chế các tổ chức tín dụng găm giữ ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi để hưởng lãi suất cao và tránh rủi ro về tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước đã qui định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ đối với pháp nhân tại tổ chức tín dụng, mức lãi suất này thường thấp hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân cư cùng kì hạn từ 2%-2, 5%/năm. Tuy nhiên do mức lãi suất tiền gửi thấp một số tổ chức kinh tế không muốn gửi tiền tại các tổ chức tín dụng của Việt Nam, mà mang gửi tại các tổ chức tín dụng của nước ngoài để hưởng mức lãi suất cao hơn, gây mất nguồn ngoại tệ trong nước. Với cơ chế quản lý tỷ giá như hiện nay, tỷ giá được xác định theo thị trường hàng ngày, tương đối ổn định, không gây đột biến, tỷ lệ kết hối giảm, lãi suất gần đây liên tục giảm, nên tâm lý găm giữ ngoại tệ của các tổ chức kinh tế không như thời gian trước đây. Vì vậy đây là
thời điểm hoàn toàn thích hợp để xoá bỏ hoàn toàn việc không chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ của các pháp nhân tại các tổ chức tín dụng, nhằm tự do hoá lãi suất hoàn toàn ngoại tệ.
2. Tách hoạt động cho vay chính sách ra khỏi các hoạt động cho vay thương mại của các ngân hàng thương mại, nhằm thực hiện việc xoá bỏ các hình thức lãi suất cho vay ưu đãi trong hệ thống ngân hàng.
Xoá bỏ các hình thức lãi suất cho vay ưu đãi trong hệ thống ngân hàng thương mại là tất yếu trong quá trình tự do hoá lãi suất. Theo kinh nghiệm tự do hoá lãi suất của các nước, thì việc đề cập đến vấn đề xoá bỏ các mức lãi suất ưu đãi trong quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam hiện nay là quá muộn. Các nước thường tiến hành việc xóa bỏ kiểm soát này vào thời kì đầu của quá trình tự do hoá lãi suất. Sở dĩ như vậy là vì, việc tồn tại các mức lãi suất ưu đãi có ảnh hưởng tới các mức lãi suất cho vay thương mại của các trung gian tài chính. Thông thường các ngân hàng thương mại hiện nay vẫn dùng nguồn vốn tự huy động để cho vay ưu đãi theo các mục tiêu chỉ định, nhưng việc cấp bù phần giảm lãi suất cho vay chưa được thực hiện đầy đủ (chỉ thực hiện khi kết quả kinh doanh bị lỗ). Trong những trường hợp như vậy, lãi suất cho vay thương mại sẽ bị đẩy lên cao để bù đắp cho những khoản vay ưu đãi. Bên cạnh đó, việc cho vay ưu đãi trường hợp thường gắn liền với rủi ro tín dụng, do người vay gây ra, nhưng cũng có thể do chính các ngân hàng thương mại gây ra, vì họ nghĩ rằng các khoản cho vay đó đã được Nhà nước bảo lãnh, nên không quan tâm đến hiệu quả đầu tư, giám sát quá trình sử dụng vốn vay
Xoá bỏ các hình thức lãi suất cho vay ưu đãi trong hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay không làm tăng mặt bằng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, do đó không làm ảnh hưởng đến quá trình cơ cấu kinh tế hiện nay. Tóm lại việc tồn tại quá lâu các hình thức cho vay ưu đãi ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hoạt động đầu tư tín dụng, làm tê liệt động cơ nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ thẩm định, giám sát vốn vay, ảnh hưởng đến tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của ngân hàng thương mại.
3.Thả nổi lãi suất trái phiếu của các tổ chức tín dụng
Khi kinh tế vĩ mô ổn định, thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển, các công cụ của chính sách tiền tệ hoạt động có hiệu quả, thì mới thả nổi lãi suất trái phiếu của các tổ chức tín dụng. Đây là khâu cuối cùng của quá trình tự do hoá lãi suất.
Theo qui định hiện hành, khi các tổ chức tín dụng muốn phát hành kỳ phiếu, trái phiếu phải có đề án xin phép ngân hàng Nhà nước trong đó đề cập cụ thể đến kế hoạch phát hành như: khối lượng vốn huy động, thời điểm phát hành, kết thúc, địa bàn phát hành đặc biệt là lãi suất huy động. Việc qui định như vậy để khi một tổ chức tín dụng huy động dưói hình thức này không gây ảnh hưởng đến nguồn vốn tín dụng của các tổ chức tín dụng khác, không gây xáo trộn thị trường tiền tệ nói chung. Vì vậy việc thả nổi lãi suất kỳ phiếu, trái phiếu của các tổ chức tín dụng chỉ nên thực hiện khi các yếu tố kinh tế vĩ mô ổn định, thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển, các công cụ của chính sách tiền tệ hoạt động có hiệu quả trong việc điều tiết thị trường tiền tệ.
4. Thực hiện cơ chế điều hành hệ thống lãi suất chỉ đạo:
Khi thị trường tiền tệ thực sự phát triển theo hướng ổn định và có đủ điều kiện để thực hiện tự do hoá lãi suất hoàn toàn, thì có thể bỏ cơ chế diều hành theo lãi suất cơ bản để chuyển hẳn sang cơ chế điều hành hệ thống lãi suất chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước- lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cho vay qua đêm.
Sau khi bỏ biên độ lãi suất, thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận, thì vai trò của lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam thực chất chỉ còn mang tính hướng dẫn, tham khảo cho các tổ chức tín dụng, không còn vai trò kiểm soát và tác động trực tiếp đến lãi suất trên thị trường. Vì vậy, khi thị trường tiền tệ thực sự phát triển theo hướng ổn định và có đủ điều kiện để tự do hoá lãi suất hoàn toàn, cần phải chuyển sang cơ chế điều hành hệ thống lãi suất chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng theo
hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay có bảo đảm bằng thế chấp hồ sơ tín dụng hoặc cầm cố thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn khác và cho vay qua cửa sổ chiết khấu đặc biệt. Các hình thức này có thời hạn cho vay ngắn, có thể cho vay trong vài ba ngày, thậm chí cho vay qua đêm để bù đắp thiếu hụt khả năng thanh toán sau khi các tổ chức tín dụng đã thực hiện vay mượn lẫn nhau trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Lãi suất của các hình thức tái cấp vốn này do ngân hàng Nhà nước qui định, thường cao hơn các mức lãi suất khác, để thực hiện điều tiết và chỉ đạo mặt bằng lãi suất trên thị trường cũng như thực hiện vai trò ngân hàng Nhà nước là người cho vay cuối cùng. Lãi suất này được quy định từng thời kỳ tuỳ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ nói chung, có chú ý đến cung – cầu tín dụng trong nước và quốc tế, đặc biệt chú ý đến trên thị trường vốn và tỷ giá ngoại tệ.
Các tổ chức tín dụng có thể tự do và không hạn chế số lượng tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước. Nhưng để hạn chế hoặc khuyến khích thì ngân hàng Nhà nước quy định mức lãi suất tiền gửi cao hay thấp, thậm chí lãi suất tiền gửi loại này có thể bằng không. Mức lãi suất tiền gửi luôn có khoảng cách nhất định với lãi suất tái chiết khấu và cho vay qua đêm nói trên. Đối với 2 loại lãi suất này, ngân hàng Nhà nước sẽ tạo ra khoảng giới hạn nhất định có tính chất khung lãi suất cho thị trường tiền tệ.
Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở là lãi suất đấu thầu các loại tín phiếu và các loại giấy có giá ngắn hạn. Ngân hàng Nhà nước tham gia tổ chức nghiệp vụ thị trường mở và chi phối mức lãi suất đấu thầu. Mức lãi suất này thường nằm giữa 2 loại lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tiền gửi nói trên.
Lãi suất thị trường liên ngân hàng để thực hiện việc vay mượn ngắn hạn lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng trong trường hợp thiếu vốn mà chưa đến phiên giao dịch trên thị trường mở. Vì vậy lãi suất thị trường liên ngân hàng luôn dao động xung quanh lãi suất thị trường mở và phụ thuộc vào lãi suất tái cấp vốn của ngân hàng Nhà nước. Lãi suất thị trường liên ngân hàng có vai trò chi phối lãi suất huy động và cho vay của tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế
theo hướng: lãi suất huy động thường thấp hơn lãi suất thị trường liên ngân hàng và cao hoan lãi suất tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước; lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất chiết khấu của ngân hàng Nhà nước và cao hơn lãi suất thị trường liên ngân hàng.
Như vậy cơ chế điều hành hệ thống lãi suất này là sự tác động gián tiếp của lãi suất tái cấp vốn của ngân hàng Nhà nước đến lãi suất tín dụng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, thông qua lãi suất trung gian của nghiệp vụ thị trường mở và thị trường liên ngân hàng. Khi đó ngân hàng Nhà nước đã thực sự sử dụng các biện pháp kinh tế để tác động và điều hành thị trường thay thế cho các biện pháp can thiệp mang tính hành chính. Muốn vậy, ngân hàng Nhà nước cần sớm hoàn thiện và phát triển hơn nữa thị trường liên ngân hàng, cũng như sớm đưa vào sử dụng cơ chế lãi suất cho vay qua đêm, để phát huy vai trò của công cụ lãi suất điều hành của ngân hàng Nhà nước, góp phần thực hiện hiệu quả hơn nữa mục tiêu chính sách tiền tệ của mình.
Tóm lại, sau gần 15 năm đổi mới hoạt động ngân hàng nói chung và đổi mới cơ chế điều hành lãi suất nói riêng, tính đến thời điểm hiện nay, về cơ bản lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam, lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng đã được tự do hoá. Lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với nền kinh tế cũng được tự do hoá theo cơ chế lãi suất thoả thuận từ tháng 6/2002. Như vậy, nghiên cứu chương III đã chỉ ra những cơ sở khoa học và thực tiễn của quá trình tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất tín dụng ngân hàng theo hướng tự do hoá; từ đó xác định mục tiêu, quan điểm và bước đi cụ thể tiếp theo của quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. Đồng thời kiến nghị các giải pháp đồng bộ và đề xuất các điều kiện để tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá ở Việt Nam trong thời gian tới.
Kết Luận
Tự do hóa lãi suất hiện nay là một xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia trong việc điều hành cơ chế lãi suất và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó trong tiến trình hội nhập nền kinh tế với thế giới.
Kinh nghiệm của một số ngân hàng Trung ương các nước trong điều hành cơ chế lãi suất đã chỉ ra những bài học cho Việt Nam, giúp chúng ta chọn được bước đi đúng đắn và phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của nước ta hiện nay.
Qua phân tích diễn biến lãi suất tín dụng của Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt từ 6/2002 với cơ chế lãi suất thỏa thuận mà theo đó, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở cung-cầu vốn thị trường và uy tín của khách hàng vay, chúng ta có thể thấy Việt Nam đã và đang từng bước tiến tới tự do hóa lãi suất. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, chúng ta cũng đã gặp không ít những khó khăn cần khắc phục. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn xác định mục tiêu và bước đi tiếp theo là hướng tới một cơ chế lãi suất tự do hoàn toàn, phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Trên cơ sở đó, khoá luận đã đề ra các điều kiện nhằm tiếp tục tiến trình tự do hóa lãi suất; từ đó người viết cũng xin mạnh dạn kiến nghị một số giải pháp: giải pháp trước mắt là cần phải phát huy cơ chế lãi suất thỏa thuận hiện nay; và giải pháp lâu dài là nhằm tiến tới một cơ chế tự do hóa hoàn toàn về lãi suất trong thời gian tới.
Do vốn kiến thức và thời gian nghiên cứu có hạn, trong quá trình làm khóa luận không tránh khỏi những sai sót, kính mong các thầy cô giáo, bạn bè đóng góp ý kiến, giúp đỡ để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ kế hoạch đầu tư (1996), Chính sách và biện pháp huy động vốn, Nxb
Thống Kê Hà Nội
2. Cox Daviv (1997), Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, Nxb sự thật, Hà Nội
3. Học viện ngân hàng (1999), Định hướng điều hành lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Tài liệu hội thảo khoa học.
4. Dương Thu Hương (1993), Điều hành cung ứng tiền tệ theo tín hiệu thị
trường, Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện khoa học ngân hàng, Hà Nội
5. Dương thu Hương (1996), Điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn 1996-
2000, Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện khoa học ngân hàng, Hà Nội
6. Đại học kinh tế Quốc dân Hà Nội (1992), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb
Giáo Dục, Hà Nội.
7. Marx.K (1963), Tư bản quyển 2,3 tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Mishkhin (1999), Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, Nxb Khoa học kĩ
thuật, Hà Nội.
9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1997), Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của ngân hàng Trung ương ở các nước tư bản phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1996), Báo cáo thường niên, Cty in công
đoàn Việt Nam, Hà Nội.
11. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1997), Báo cáo thường niên, Cty in công
đoàn Việt Nam, Hà Nội.
12. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1998), Báo cáo thường niên, Cty in công
đoàn Việt Nam, Hà Nội.
13. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1999), Báo cáo thường niên, Cty in công
đoàn Việt Nam, Hà Nội.
14. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2000), Báo cáo thường niên, Cty in công
đoàn Việt Nam, Hà Nội.
15. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2001), Báo cáo thường niên, Cty in công
đoàn Việt Nam, Hà Nội.
16. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2002), Báo cáo thường niên, Cty in công
đoàn Việt Nam, Hà Nội.
17. Ngân hàng thế giới (1998), Các hệ thống tài chính và sự phát triển, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Nguuyễn Bá Nha (1997), Lãi suất trong nền kinh tế thị trường, Nxb Thống kê, Hà Nội.
19. Samuelson (1995), Kinh tế học, Nxb Thống kê, Hà Nội.
20. Tạp chí ngân hàng, số 11-2003
21. Tạp chí thị trường tài chính, số ra ngày 15-7-2003
22. Tạp chí thị trường tài chính, số ra ngày 15-9-2003
23. Tạp chí thị trường tài chính, số ra ngày 1-11-2003
24. Trang web www.imf.org www.worldbank.com www.vnexpress.net www.vneconomic.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8347.doc