Đề tài Tự do hóa lãi suất Việt Nam, thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT 1. KHÁI NIỆM 2 2. PHÂN LOẠI LÃI SUẤT 2 2.1 Phân loại theo nguồn sử dụng : 2 2.2 Phân loại theo giá trị thực: 3 2.3 Phân loại theo độ dài thời gian: 4 2.4 Phân loại theo loại tiền: 4 2.5 Phân loại theo phương pháp tính lãi: 4 3. LÃI SUẤT HOÀ VỐN BÌNH QUÂN 6 4. PHÂN LOẠI LÃI SUẤT TÍN DỤNG 7 5. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÃI SUẤT 7 5.1 Mức cung cầu tiền tệ 7 5.2 Lạm phát 10 5.4 Các chính sách của Nhà nước 13 5.5 Cân đối ngân sách Nhà nước : 15 5.6 Các nhân tố khác 16 II. LÍ LUÂN VỀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 1. CÁC CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT 16 1.1 Cơ chế điều hành gián tiếp: 16 1.2 Cơ chế điều hành trực tiếp 17 1.3 Các mức lãi suất thường được công bố 17 2. THẾ NÀO LÀ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 18 3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 19 PHẦN II: THỰC TRẠNG A. QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT 20 I. KHU VỰC TÀI CHÍNH VÀ TIẾN TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT TRƯỚC NĂM 2000 20 1. CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG HAI CẤP VÀ ĐỢT TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT ĐẦU TIÊN 20 2. CẢI CÁCH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BƯỚC HAI 23 II. TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT TỪNG BƯỚC TỪ NĂM 2000 ĐẾN 2002 1. CẢI CÁCH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT BƯỚC BA: CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CƠ BẢN THAY CHO LÃI SUẤT TRẦN 28 2. CẢI CÁCH LÃI SUẤT BƯỚC 4: ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT THEO CƠ CHẾ LÃI SUẤT THOẢ THUẬN 32 B. ĐÁNH GIÁ CHUNG 33 I. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TIẾN TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT II. ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NHNN 1. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT LÃI SUẤT CỦA NHNN 36 2. NHỮNG YẾU KÉM CÒN TỒN TẠI 38 III. NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA TRÊN CON ĐƯỜNG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM SAU KHI THỰC HIỆN CƠ CHẾ LÃI SUÂT THOẢ THUẬN PHẦN III: BIỆN PHÁP I. NHÓM BIỆN PHÁP VĨ MÔ 1. NGÂN HÀNG NÀH NƯỚC CẦN BAN HÀNH VĂN BẢN PHÁP LÝ TẠO ĐIỀU KIỆN CHO THƯƠNG PHIẾU LƯU HÀNH TẠI VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN 48 2. NHÀ NƯỚC CẦN SỚM BAN HÀNH LUẬT THANH TOÁN SÉC TẠO CƠ SỞ PHÁP LÝ VỮNG CHẮC CHO VIỆC MỞ RỘNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT 48 3. NHÀ NƯỚC CẦN NGHIÊN CỨU SỬA ĐỔI QUY ĐỊNH VỀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 48 4. XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TRÊN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ 49 4.1 Lựa chọn lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất mục tiêu trong từng thời kỳ 49 4.2 Xây dựng mô hình kiểm soát lãi suất của NHNN 50 4.3 Quản lý các loại lãi suất thị trường 51 II. NHÓM CÁC BIỆN PHÁP VI MÔ 1. XÂY DỰNG VÀ TỪNG BƯỚC HOÀN THIỆN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 53 1.1 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin tài chính 53 1.2 Xây dựng và phát triển thị trường tài chính 53 2. NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG 53 KẾT LUẬN

doc59 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2118 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tự do hóa lãi suất Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o vay với lãi suất thấp hơn (hoặc cao hơn) lãi suất cơ bản đối với khu vực ngoài quốc doanh. Chính vì thế, WB đã khuyến cáo rằng các ngân hàng cần phải công bố cho khách hàng của mình được biết về lãi suất thực tế, tất cả các chi phí cấu thành và mức lãi suất thực tế có hiệu lực áp dụng sau khi kí kết các khế ước vay vốn. Quá trình này sẽ làm tăng thêm tính minh bạch trong các giao dịch và giúp các ngân hàng ngăn ngừa đưa vào các khoản phí bất hợp pháp và vào các giao dịch. Ngoài ra, cũng cần phải xác định các loại lãi suất khác nhau một cách chính xác, công khai và thông báo cho các ngân hàng, các doanh nghiệp, công chúng là lãi suất này liên quan tới những chủ trương gì, chúng được sử dụng để làm gì, và giữa các loại lãi suất có liên quan với nhau như thế nào. II. ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NHNN 1. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CƠ CHẾ KIỂM SOÁT LÃI SUẤT CỦA NHNN Những thành công ban đầu của NHNN về thiết kế cơ chế kiểm soát lãi suất là: hình thành hệ thống lãi suất điều tiết của NHNN, sử dụng phối hợp các công cụ để điều tiết lãi suất thị trường…nhưng bên cạnh đó hiệu quả kiểm soát và chi phối mặt bằng lãi suất thị trường còn hết sức hạn chế bởi những yếu tố nền tảng cho cơ chế kiểm soát lãi suất thực sự chưa được thiết lập. Điều này được thể hiện ở các khía cạnh sau: Thứ nhất, chưa chủ động trong điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường tiền tệ, do đó chưa thực hiện được vai trò hướng dẫn sự biến động lãi suất thị trường. Cụ thể, mức lãi suất tái cấp vốn và lãi suất trần tăng lên vào tháng 1/1998 diễn ra sau khi mức lãi suất cho vay ngắn hạn của các NHTM đã nhích lên từ tháng 10/1997 trước đó. Tương tự, mức lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm từ 13,2% xuống 12% vào tháng 2/1999 sau khi mức lãi suất cho vay ngắn hạn bắt đầu xu hướng giảm của nó vào tháng 12/1998 từ 14,7% xuống 14,5% vào tháng 1/1999 và 14% vào tháng 2/1999. Từ thời điểm 2/1999 đến 8/2001, mức lãi suất thị trường giảm liên tục; từ 14% xuống còn 9,3% đối với lãi suất ngắn hạn và từ 14,7% xuống còn 10,3% đối với các mức lãi suất cho vay trung hạn trong khi diễn biến lãi suất trần và lãi suất cơ bản lại tách khỏi xu hướng thị trường. Sự tăng lên của lãi suất tái cấp vốn vào tháng 2/2003 tới 6,6% năm cũng lại là sự khẳng định những diễn biến của mặt bằng lãi suất thị trường đã bắt đầu xu hướng tăng của nó từ thời điểm cuối năm 2002. Quyết định giảm lãi suất tái cấp vốn xuống 6% năm vào đầu tháng 6/3002 cũng không hề gây ảnh hưởng gì tới tâm lý của những người tham dự thị trường tiền tệ. – lãi suất thị trường tiền tệ vẫn tiếp tục tăng. Thứ hai, những phản ứng của lãi suất thị trường đối với những thay đổi của lãi suất chủ đạo có sự khác nhau giữa các bộ phận thị trường tín dụng cũng như giữa các thành phần kinh tế xét cả về độ trễ cũng như mức độ phản ứng. Thực tế cho thấy mối quan hệ giữa các loại lãi suất chủ đạo rất lỏng lẻo và không được phối hợp một cách hiệu quả trên cơ sở xác định chức năng rõ ràng cho từng loại lãi suất. Bảng 5: Quan hệ giữa lãi suất thị trường tiền tệ với lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc. Năm Lãi suất tái cấp vốn Lãi suất chiết khấu Lãi suất huy động của TCTD Lãi suất đấu thầu TPKB Lãi suất 3 tháng TTNTLNH Lãi suất trúng thầu mua NVTTM Lãi suất cho vay ngắn hạn Lãi suất cho vay qua đêm Lãi suất cơ bản 1995 25,2 16,3 13,2 23,3 25,2 1996 15 10,2 10,8 16,4 18 1997 13,2 9,6 10,5 10,8 13,2 1998 6 9,4 11,7 12 14,4 1999 6 5,4 5,4 8 8,6 11,4 2000 6 5,4 4,8 5,2 8,2 4,4 10,2 9,0 2001 4,8 4,2 5,4 5,4 7,2 4,8 9 10,8 7,8 2002 4,8 4,2 6 6 7,3 4,9 9,2 10,8 7,2 2003 5 3 6,2 5,5 6,7 4,8 9,6 10,8 7,5 Nguồn NHNN Các mức lãi suất nói trên là lãi suất bình quân _ Nhịp độ và biên độ giữa lãi suất thị trường tiền gửi, tín dụng với lãi suất thên thị trường nội tệ liên ngân hàng không đồng thời. Hiện nay, tuy NHNN đã hình thành tương quan hợp lý về lượng (lãi suất cho vay ngắn hạn > lãi suất nội tệ liên ngân hàng > lãi suất trúng thầu TPKB), nhưng lãi suất huy động ngắn hạn của các TCTD lãi suất trúng thầu TPKB thì mới bảo đảm cho TCTD bảo toàn vốn và khuyến khích TCTD đầu tư chứng khoán, tăng hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở. _ Hiện nay, NHNN điều hành lãi suất thông qua các loại lãi suất như lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất trên thị trường mở và lãi suất liên ngân hàng qua đêm. Mối liên hệ các loại lãi suất còn lỏng lẻo, nhiều khi tách rời nhau, biến động chưa phù hợp cơ chế lãi suất thị trường: vai trò điều tiết lãi suất thị trường của lãi suất trên nghiệp vụ thị trường mở còn rất hạn chế. Có thể nói, cơ chế lãi suất hiện nay là phức tạp và chưa đủ sức hướng dẫn lãi suất thị trường. _ Tuy NHNN đã lựa chọn lãi suất thị trường mở là lãi suất định hướng và bước đầu xây dựng khung lãi suất, nhưng khung lãi suất này chưa phát huy được vai trò định hướng lãi suất thị trường. Việc sử dụng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu làm “trần” và “sàn” để khống chế lãi suất thị trường liên ngân hàng không có khả năng thực hiện được, vì lãi suất liên ngân hàng trong nhiều trường hợp biến đông vượt qua khỏi biên độ này. Có thể lấy một ví dụ điển hình khi thị trường rơi vào tình trạng căng thẳng nguồn vốn VND, vào khoản quý IV năm 2000 và quý III & IV năm 2001. Lãi suất liên ngân hàng tăng lên tới 6,0% từ 4,5% năm vào tháng 7/2000 tới hơn 7% vào tháng 11-12/2000 và tăng nhẹ từ 4,9% vào tháng 7/2001 tới 5,5% vào tháng 11-12/2001, trong khi lãi suất tái cấp vốn không biến động. Hầu hết thời gian trong giai đoạn quan sát từ tháng 8/2000 đến tháng 10/2002, lãi suất liên ngân hàng biến động vượt khỏi lãi suất tái cấp vốn. _ Khi NHNN thay đổi lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở, thì các NHTM chưa có phản ứng ngay với sự thay đổi này mà phải cộng hưởng nhiều nhân tố và thường phải sau nhiều tháng; mức độ thay đổi không giống nhau, đôi khi ngược chiều nhau. _ Lãi suất tín phiếu kho bạc được coi là lãi suất chuẩn và thấp nhất trên thị trường tiền tệ; tuy nhiên, lãi suất của TPKB trên thực tế thường bằng hoặc lớn hơn lãi suất cùng kì hạn của NHTM, việc đấu thầu TPKB tại các phiên giao dịch tại NHNN chưa hoàn toàn thực hiện theo đấu thầu lãi suất. Vì vậy, chúng ta chưa hình thành được lãi suất chuẩn cho thị trường tiền tệ. _ Lãi trên thị trường tiền tệ liên NHTM hiện nay giữa các TCTD chưa phản ánh đúng quan hệ cung - cầu vốn, quan hệ vay mượn trên thị trường diễn ra một chiều giữa các NHTM Nhà nước có vốn dư thừa là bên cho vay đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, NHTM cổ phần. _ Lãi suất VNIBOR chưa phản ánh cung cầu vốn ngắn hạn trên thị trường nên chưa có tác dụng tham chiếu. Sở dĩ có điều nay là do: cơ cấu các ngân hàng tham gia chào trên màn hình xác định lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng chưa hợp lý; chất lượng của các loại lãi suất chào của các ngân hàng chưa cao do các ngân hàng chưa tham gia thường xuyên thị trường, chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm đối với các ngân hàng tham gia chào vốn. 2. NHỮNG YẾU KÉM CÒN TỒN TẠI Thứ nhất, NHNN chưa thiết kế được một cơ chế kiểm soát lãi suất chủ đọng theo đúng thông lệ quốc tế. Theo kinh nghiệm của các nước, cơ chế kiểm soát mặt bằng lãi suất bao gồm việc lựa chọn một mức lãi suất mục tiêu, thiết kế hệ thống lãi suất điều tiết để khống chế mức lãi suất mục tiêu đó, đồng thời đảm bảo điều kiện để chuyển tải những ảnh hưởng của mức lãi suất mục tiêu tới toàn bộ mặt bằng lãi suất thị trường. Hiện nay, NHNN đang lựa chọn lượng tiền cơ sở (MB) (hoặc dự trữ của hệ thống NHTM) là mục tiêu hoạt động. Tuy nhiên, trong thực tế sự biến động của lượng tiền vượt quá khả năng kiểm soát của NHNN. Vì thế, NHNN không thể tác động vào mặt bằng lãi suất thông qua việc sử dụng khối tiền MB. Mặc dù từ đầu năm 2003, NHNN đã chủ trương lựa chọn lãi suất NVTTM làm mục tiêu hoạt động nhưng sự tương thích của loại lãi suất này với vai trò lãi suất mục tiêu cũng như hiệu quả điều tiết của cặp lãi suất chủ đạo cũng đang còn nhiều vấn đề nghiên cứu. Trong thực tế, cơ chế phối hợp công cụ CSTT theo chức năng của nó chưa được hình thành còn bởi bản thân các công cụ CSTT chưa sử dụng theo đúng chức năng của nó. Công cụ tái cấp vốn chủ yếu được dùng để cung ứng các khoản tín dụng theo nhu cầu của các TCTD. Bên cạch đó, cá phương tiện thường xuyên thông qua các hoạt động cho vay thanh toán bù trừ và tiền gửi của các NHTM tại NHNN cũng chưa được tận dụng nhằm tạo thành khung điều chỉnh thường xuyên (fine tuning operations) sự biến động của các mức lãi suất liên ngân hàng. Lãi suất cho vay thanh toán bù trừ quy định như hình thức lãi suất phạt trong khi lãi suất tiền gửi quy định quá thấp va chỉ áp dụng với phần dự trữ bắt buộc, vì thế, không tạo nên công cụ huy động vốn khi cần thiết. Kết quả là lãi suất liên ngân hàng - mức lãi suất mà NHNN cần kiểm soát, có những thời kỳ, cao hơn tất cả các mức lãi suất chủ đạo và biến động tách rời với các mức lãi suất này. Thứ hai, NHNN chưa kiểm soát một cách chủ động các giao dịch liên ngân hàng và vì thế mà chưa kiểm soát được sự biến động của lãi suất liên ngân hàng. Theo kinh nghiệm của các nước, các điều kiện tiền tệ trên thị trường liên ngân hàng thường được sử dụng làm căn cứ để xác định liều lượng cũng như chiều hướng tác động thường xuyên của Ngân hàng Trung ương. Trong thực tế, thị trường nội tệ liên ngân hàng có tổ chức đã được thành lập ở Việt Nam từ năm 1993 theo Quyết định số 132/QĐ-NH1, ngày 10/7/1993 nhưng hoạt động không hiệu quả và chấm dứt ngay sau khi thành lập. Lý do của sự thất bại này chủ yếu bởi các điều kiện về vốn thời kì đó không thuận tiện cho các giao dịch liên ngân hàng cộng với mô hình tổ chức chưa phù hợp. Từ đó đến nay, các giao dịch liên ngân hàng vẫn diễn ra tự phát và trực tiếp, ngoài khả năng kiểm soát của NHNN với những đặc điểm sau: i./ Thị trường liên ngân hàng (TTLNH) bị chi phối bởi thị phần hoạt động của 4 NHTM Nhà nước, biến động khoảng từ 67-76% thị trường. ii./ Thời hạn giao dịch bình quân trên TTLNH còn dài. Các giao dịch có thời hạn vài tuần chiếm tỷ lệ khoảng trên 50%, các giao dịch qua đêm chỉ chiếm tỷ lệ trên dưới 20%, số còn lại được giao dịch với thời hạn vài tháng đến vài năm. iii./ Chưa có cơ chế đảm bảo an toàn cho các giao dịch liên ngân hàng bao gồm quy chế thành viên và các yêu cầu thế chấp, cầm cố. Phần lớn các quan hệ vay mượn được thực hiện trên cơ sở tín chấp hoặc bảo đảm bằng số dư tiền gửi tại các ngân hàng cho vay. iv./ Lãi suất liên ngân hàng chưa phản ánh chính xác thực trạng cuang cầu vốn khả dụng. Với cơ chế kiểm soát và chế độ thông tin báo cáo hiện hành, NHNN không thể cập nhật được các thông tin về thực trạng cung cầu vốn khả dụng trên thị trường liên ngân hàng. Các quyết định can thiệp vào cung cầu vốn khả dụng và khả năng thanh toán của hệ thông NHTM hiện nay dựa trên cơ sỏ dự báo những biến động dự trữ của hệ thống NHTM theo quyết định 37/2000/QĐ-NHNN1 ngày 24/1/2000. Mức độ chính xác của phương pháp dự báo cung cầu vốn khả dụng theo quyết định này còn hết sức khiêm tốn xuất phát từ sự thiếu chính xác và cập nhật của thông tin cũng như khả năng phân tích của nhân viên dự báo. Thiếu cơ chế hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng tập trung, NHNN sẽ khó nắm bắt được thông tin chính xác về lãi suất liên ngân hàng cũng như cập nhật thông tin thường xuyên về lượng cung và cầu vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Điều này cũng có nghĩa là NHNN không nắm bắt được kịp thời các dấu hiệu phản ánh thực trạng các điều kiện tiền tệ ngắn hạn - mục tiêu tác động trực tiếp của CSTT. Trong những năm gần đây và đặc biệt sau khi thực hiện cơ chế cho vay thoả thuận, doanh số giao dịch liên ngân hàng đã tăng lên nhanh chóng từ vài nghìn tỷ VND trong năm 1998 tới vài trăm nghìn tỷ trong các năm 200 – 2001, chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2002,doanh số giao dịch này đã là 130.000 tỷ VND cao hơn rất nhiều lần doanh số giao dịch NVTTM. Số lượng cung như loại TCTD tham gia thị trường liên ngân hàng cũng ngày càng phong phú và đa dạng: Bảng Quy mô thị trường liên ngân hàng Việt Nam (đơn vị nghìn tỷ VND)(Theo loại hình TCTD) Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 6 tháng 2002 Doanh số Số dư Doanh số Số dư Doanh số Số dư Doanh số Số dư Doanh số Số dư NHTMNN 84,5 7,2 102,1 10 133,6 12,6 153,2 17,6 103 16 NHTMCP 3,4 1,8 15,2 0,58 12,6 2,5 22,5 3,2 9,8 5,5 NHLD&NN 52,9 4,9 11,4 2,5 44,5 9,8 45,2 11,9 17,9 11,2 Tổng số 140,7 13,9 161,7 13,08 190,7 24,9 220,9 32,7 130,7 32,7 Vì thế, yêu cầu phải kiểm soát giao dịch liên ngân hàng cũng như cập nhật thông tin thường xuyên về lãi suất liên ngân hàng tiến hành song song với việc thúc đẩy tính hiệu quả củ thị trường tiền tệ liên ngân hàng là yếu tố nền tảng đảm bảo thiết lập được cơ chế kiểm soát một cách có hiệu quả. Thứ ba, mức độ nhạy cảm của mặt bằng lãi suất tín dụng đối với những tác động của CSTT còn hạn chế do bản thân lãi suất tín dụng đang bị chi phối bởi các yếu tố phị thị trường. Chính sách kiểm soát lãi suất trực tiếp đã thực sự hạn chế khả năng phản ánh cung cầu tín dụng, đặc biệt trong điều kiện thị trường tín dụng căng thẳng nguồn vốn. Có thể thấy điều này trong khu vực tín dụng nông thôn khi mức lãi suất thực tế thường được áp dụng kịch trần, cá biệt có trường hợp vượt trần khống chế. Bên cạnh đó,thị phần tín dụng còn bị chia sẻ bởi nguồn tín dụng do các tổ chức phi ngân hàng cung ứng với các mức ưu đãi khác nhau như Quỹ hỗ trợ phát triển, các Quỹ hỗ trọ theo các chương trình tài trợ của các tổ chức phi chính phủ, nguồn vốn ODA và đặc biệt là nguồn vốn cho vay chỉ định của Chính phủ. Nguồn tín dụng chủ yếu là dài hạn với lãi suất ưu đãi do tận dụng được những nguồn vốn giá rẻ hoặc có hỗ trợ từ ngân sách của các tổ chức này phần nào đã làm giảm tính chất thị trường của mặt bằng lãi suất. Ngay cả khi chính sách lãi suất thoả thuận được áp dụng, sự chi phối của bộ phận tín dụng ưu đãi này cũng sẽ làm sai lệch thước đo lãi suất thị trường. Đặc biệt, mức độ cạnh tranh thấp của thị trường tín dụng chính thức cũng hạn chế tính thị trường của việc hình thành lãi suất. Tính chất độc quyền của các NHTM Nhà nước được thể hiện rỗ rệt khi nó được hưởng các lợi thế so sánh về quy mô, về cơ cấu khách hàng và sự hỗ trợ của Ngân hàng Trung ương cũng như của Chính phủ Bảng 6: Tỷ lệ tập trung trong hệ thống ngân hàng của Việt Nam và một số nước trong khu vực Nước Thị phần tiền gừi của 5 NH lớn nhất Tỷ lệ tiền gửi của 5 NH lớn nhất thuộc sở hữu Nhà nước Tỷ lệ tiền gửi của 5 NH lớn nhất thuộc sở hữu các NH nước ngoài Việt Nam 76,69% 100% 0% Cam pu chia 67% 16% 71% Indonexia 53,5% 44% 7% Nam Triều tiên 48% 30% 0% Malayxia 30% 0% 18% Philippin 46% 12% 13% Thái lan 75% 31% 7% Trung Quốc 75% - - Nguồn WB Chiếm đến hơn 70% thị phần tiền gửi và cho vay, các NHTM Nhà nước đang chi phối hoạt động của thị trường này và do đó, chi phối mặt bằng lãi suất tiền gửi và tiền vay của cả thị trường. Điều này thể hiện rõ rệt hơn sau khi NHNN thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận. Tất cả các NHTM Nhà nước đều tham gia tăng lãi suất để huy động vốn dưới hình thức phát hành kì phiếu, mức lãi suất huy động biến động trong khoảng 0,65-0,67% tháng loại 6 tháng cao hơn lãi suất cơ bản được công bố cùng thời kỳ 0,62% tháng cùng với những hình thức trả lãi hấp dẫn. Các ngân hàng cổ phần và một số ngân hàng liên doanh thực sự bị chi phối trong trào lưu này và buộc phải tăng lãi suất để có thê giữ chân các khách hàng cũ trong khi các khách hàng vay vốn chưa sẵn sàng chấp nhận sự tăng lên của lãi suất đầu ra. Thứ tư, điều quan trọng làm cản trở ảnh hưởng của lãi suất liên ngân hàng tới các mức lãi suất thị trường khác còn xuất phát từ sự phân cách giữa các bộ phận thị trường tín dụng và vì thế, sự di chuyển vốn của chúng không được thông suốt. Trước hết sự phân cách này được thể hiện một cách rõ rệt giữa thị trường tín dụng nông thôn và thị trường tín dụng đô thị, dẫn đến vốn bị ứ đọng ở khu vục đô thị trong khi thiếu hụt ở khu vực nông thôn làm cho mặt bằng lãi suất chênh lệch khá cao, khoảng từ 100-200 điểm /tháng giữa hai khu vực này. Ngay cả sau khi áp dụng chính sách lãi suất thoả thuận, thì lượng vốn huy động của hệ thống cũng chỉ đáp ứng thường xuyên khoảng 60-65% nhu cầu sử dụng như trước tháng 6/2002. Lý do chủ yếu là do tính chất độc quyền xuất phát từ ưu thế tuyệt đối của hệ thống NHPTNNo&NT trong khu vực tín dụng nông thôn mà các ngân hàng khác không thể có như màng lưới rộng, cơ chế cho vay, thu nợ được thực hiện theo nhóm hay dưới hình thức ngân hàng lưu động, nhân viên ngân hàng quen với địa bàn và có mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền cơ sở… Điều này giúp các TCTD nông thôn giảm thiểu rủi ro tín dụng vốn ở mức cao trên địa bàn nông thôn. Thiếu các lợi thế này, các TCTD đô thị khó có khả năng tiếp cận được địa bàn và đưa vốn về nông thôn để thực hiện cạnh tranh lãi suất. Hai là, mặt bằng lãi suất không thống nhất giữa nguồn tín dụng chính thức và nguồn không chính thức. Nguồn tín dụng chính thức là nguồn vốn được cung ứng bởi các TCTD, trong khi nguồn không chính thức được hình thành từ các khoản vay của gia đình, bạn bè, vay nặng lãi… và là nguồn chủ yếu cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các điều tra chọn mẫu cho thấy chỉ khoảng 24,7% doanh nghiệp thử tiếp cận nguồn vốn này và 82% trong số họ thành công. Số còn lại chủ yếu sử dụng nguồn vốn tín dụng phi chính thức mà chủ yếu (38,8%) là từ bạn bè, người thân và vay nặng lãi(11,2%). Nếu xét từ góc độ ngân hàng, nguồn vốn tín dụng ngân hàng chỉ cung ứng xấp xỉ 20% vốn đầu tư và khoảng 41% vốn lưu động cho khu vực DNNVV, trong đó các NHTM nhà nước chiếm tới 61% nguồn tín dụng cung ứng. Nếu so sánh tốc độ tăng trưởng của khu vục DNNVV , đặc biệt là sau khi luật doanh nghiệp có hiệu lực năm 2000, với mức tăng dư nợ tín dụng trong khu vực này cũng có thể rút ra kết luận tương tự. Trong khi số vốn đăng kí của các doanh nghiệp mới tăng bình quân cả nước là 84% , có những địa bàn số vốn đăng ký tăng tới hơn 400-600% từ năm 2000 đến năm 2001 như cần thơ, quảng ninh … thì mức tăng trưởng khách hàng ở khu vực này là không đáng kể, chỉ biến động trên dưới mức 10%, có những địa phương tỷ lệ này giảm xuống như nha Trang, vũng Tàu. Sự di chuyển nhu cầu tín dụng giữa hai bộ phận thị trường này cũng như mong muốn mở rộng phạm vi của khách hàng của các NHTM là không dễ khi gặp phải sự cản trở từ những yếu tố phi lãi xuất: Các DNNVV thường khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu đảm bảo tiền vay của các NHTM do vướng mắc trong các quy định về quyền sử dụng đất, trong việc chứng minh tinh pháp lý của các tài sản đảm bảo, thậm chí không có tài sản đảm bảo. Mặc dù nghị định 178/1999/NĐ-CP và nghị định 85/2002/NĐ-CP cho phép các NHTM có quyền quyết định các khoản vay không cần bảo đảm nhưng điều khoản này chủ yếu chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước: Bản thân tình trạng non yếu của khu vực doanh nghiệp này làm cho các NHTM ngần ngại khi quết định cho vay. Các DNNVV, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân thường có quy mô sản xuất nhỏ, tỷ lệ vốn tham gia vào dự án xin vay thấp, trong khi đó, các thông tin báo cáo tài chính không đủ độ tin cây, phần lớn không qua kiểm toán. Không tạo được lòng tin đối với các NHTM , các hồ sơ xin vay của khu vực DNNVV dễ bị từ chối ở khu vực thị trường tín dụng chính thức: Bên cạnh đó,không thể không đề cập đến tâm lý phân biệt đối sử giữa các thành phần kinh tế, tâm lý ngại rủi ro và thói quen xet duyệt món vay một cách thụ động của bản thân cac NHTM.Các doanh nghiệp cũng trở nên ngại ngần khi tiếp cận thị trường tín dụng chính thức khi vướng phải các thủ tục xin vay phức tạp và cho rằng họ sẽ không nhận được sự quan tâm đúng mức của cán bộ ngân hàng… sự phân cách giữa hai bộ phận thị trường tín dụng chính thức và thị trường tín dụng phi chính thức bởi những lý do liên quan đến mức độ rủi ro, đến cách nhìn nhận và ứng sử có phân biệt của các NHTM đối với các thành phần kinh tế khác nhau…….đã tạo nên sự khác biệt về lãi xuất giữa hai bộ phận thị trường này và làm giảm mức độ nhay cảm của mặt bàng lãi xuất trước những thay đổi của CSTT. Tính cấp thiết của việc hình thành một cơ chế kiểm soat lãi suất thich hợp là vấn đề không cần bàn cãi. Tuy nhiên, để có một cơ chế kiểm soát lãi xuất đầy đủ hiệu lực tác động của nó lại là một vấn đề cần có một sự quan tâm thích đáng. Trước hết là việc lựa chọn và xác đinh mức lãi xuất mục tiêu phù hợp và sau đó là thiết kế cơ chế sử dụng phù hợp với các công cụ CSTT để duy trì mức lãi xuâts mục tiêu đó.Cải cách hoạt động thị trường tín dụng theo hướng hạn chế sự phân cách trong phạm vi thị trường được coi là giải pháp quan trọng nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các NHTM và đảm bảo hiệu lực chuyển tải những ảnh hưởng của mức lãi xuất mục tiêu tới mặt bằng lãi xuất thị trường. III. NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA TRÊN CON ĐƯỜNG TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM SAU KHI THỰC HIỆN CƠ CHẾ LÃI SUÂT THOẢ THUẬN Trong thời điểm hiện nay chúng ta đang áp dụng thực hiện cơ chế “lãi suất thoả thuận” trong hoạt động tín dụng thương mại, đó là một bước chuyển đổi quan trọng và mạnh mẽ về chính sách lãi suất và chính sách tín dụng theo nguyên tắc thị trường. Lãi suất thoả thuận, về bản chất kinh tế, chính là lãi suất thị trường. Vì vậy, nó chỉ hoạt động và phát huy tác dụng trong điều kiện thị trường tài chính phát triển. Những điều kiện cơ bản bao gồm: Thị trường tài chính phát triển có chiều sâu Hệ thống NHTM hoạt động trên nguyên tắc thị trường và hiệu quả NHTƯ có đủ năng lực điều hành chính sách tiền tệ và kiểm soát thị trường tài chính. Với những điều như vậy việc thực hiện lãi suất thoả thuận hiện nay ở Việt nam đặt ra không ít thách thức: 1/ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM VỐN CÒN HẾT SỨC KÉM PHÁT TRIỂN VÀ LẠC HẬU SO VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC Xét về độ sâu tài chính, mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn lạc hậu so với hầu hết các nước trong khu vực. Sự nông cạn của thị trường sẽ làm cho các công cụ thi trường kém phát huy tác dụng, trong đó bao gồm cả lãi suất. Sự yếu kém của thị trường tài chính Việt Nam được phản ánh các chỉ số tài chính cơ bản: các chỉ số M2/GDP, tín dụng/GDP, tiền gửi/GDP… đều ở mức thấp so với các chỉ số của các nước trong khu vực. Sự lạc hậu, sơ khai của thị trường tài chính Việt Nam cũng bao gồm cả tình trạng các công cụ tài chính còn nghèo nàn về chủng loại và nhỏ bé về lượng giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và trên thị trường mở- thij trường tiền tệ trong những năm qua. 2./ CƠ CHẾ LÃI SUẤT THỊ TRƯỜNG HAY LÃI SUẤT THỎA THUẬN ĐÒI HỎI MỘT CHẾ ĐỘ THÔNG TIN TƯƠNG XỨNG Tại điều 1 của Quyết định 546/2002/QĐ-NHNN, quy định “Tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam, pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam”. Đó là một quy định rất phù hợp với cơ chế thị trường và điều đó đặt ra yêu cầu về chế độ thông tin phù hợp nhằm đảm bảo để các NHTM có thể cho vay một cách độc lập với mức lãi suất phù hợp theo từng đối tượng khách hàng ở các thời điểm nhất định. Cũng có thể nói cách khác, các doanh nghiệp cần được định mức tín nhiệm một cách tương ứng để tránh tình trạng ”Bằng đầu như vại ”. Việc xác định đâu là doanh nghiệp có nhu cầu vốn thực sự cho sản xuất kinh doanh cũng đòi hỏi một chế độ thông tin, cập nhật và minh bạch như chế độ công bố thông tin tài chính, chế độ kế toán và kiểm toán chuẩn mực quốc tế… Doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ…,đặc biệt là các trường hợp lừa đảo thường sẵn sàng chấp nhận vay “mọi giá”. Tình trạng khách hàng chấp nhận “vay với mọi giá” nhắc nhở các ngân hàng về lợi nhuận cao gắn với rủi ro cao và do đó hãy cảnh giác với các trường hợp này. Xây dựng thể chế thị trường, như việc tăng cường công khai về thông tin, điều kiện bảo đảm an toàn và giám sát tài chính là việc cần thiết phải tiến hành song song với quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế về tài chính tiền tệ nhằm tránh những thất bại của thị trường, đảm bảo thị trường hoạt động hiệu quả. Sự chậm trễ của các nước Đông Á trong việc củng cố thể chế thị trường là một bài học quý giá cho Việt Nam. Tuy nhiên hiên nay Việt Nam chưa có cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng, hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn, chuẩn mực Việt Nam là một trở ngại lớn và làm lệch lạc việc đánh giá hiệu quả kinh doanh và kiểm tra giám sát đối với hoạt động của các ngân hàng và doanh nghiệp trong nước. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã đi vào hoạt động nhưng vẫn còn trong giai đoạn thí điểm và do đó, chưa có cơ quan đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập. Điều này đưa đến khó khăn cho ngân hàng thương mại trong việc đưa ra một mức lãi suất thỏa thuận phù hợp vói mức độ tín nhiệm của từng doanh nghiệp và diễn biến thị trường. Hơn nữa đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng ngân hàng hơn nữa theo cơ chế thương mại – lãi suất thương mại thực sự. 3. HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM CÒN NHIỀU YẾU KÉM CŨNG LÀ THÁCH THỨC CHO QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI SANG LÃI SUẤT THỊ TRƯỜNG Chỉ có hệ thống ngân hàng lành mạnh mới có thể đưa ra hệ thống lãi suất phù hợp và hiệu quả. Điều này có thể đựơc lý giải như sau: khi ngân hàng hoạt động lành mạnh, có hiệu quả; có năng lực quản lý rủi ro; có khả năng đánh giá doanh nghiệp…thì ngân hàng mới có khả năng đưa ra một mức lãi suất cho vay thấp nhất ứng với một mức rủi ro nhất định. Ngược lại, khi các NHTM hoạt động kém hiệu quả (chi phí cao, quản lý rủi ro kém…) thường có khuynh hướng đưa ra mức lãi suất cao hơn bình thường. Đối với lãi suất huy động, các NHTM hoạt động yếu kém thường đưa ra mức lãi suất khá cao để huy động được nhiều tiền từ công chúng nhằm duy trì hoạt động cầm chừng của nó. Điều này nhắc nhở những người gửi tiền hãy cảnh giác vơi những ngân hàng chào lãi suất cao bất thường. Giống như hệ thống ngân hàng ở các nước đang phát triển, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều yếu kém trên các mặt: quản lý yếu kém (nhất là quản lý rủi ro lãi suất), dễ đổ vỡ do vốn thấp, nợ quá hạn cao, cạnh tranh và sinh lời thấp. Đây là những thách thức lớn đối với hệ thống NHTM Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang cơ chể thị trường, chấp nhận một cơ chế kinh doanh thực sử trên một sân chơi bình đẳng, đặc biệt là khi tiến tới tự do hoá lãi suất một các đầy đủ hơn nữa trong thời điểm hội nhập đang đến gần. Tính cạnh tranh thấp trong hệ thống ngân hàng Việt Nam Trong quá trình tự do hoá tài chính và hội nhầp quốc tế về ngân hàng, các NHTM trong nước sẽ phải cạnh tranh quyết liệt hơn, NHTM nào có đủ sức cạnh tranh làm ăn có lãi sẽ tồn tại, ngược lại ngân hàng nào làm ăn thua lỗ sẽ có thể bị đóng cửa. Trước sức ép của cạnh tranh, các ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực quản lý, cắt giảm chi phí… để cho vay với lãi suất hấp dẫn nhất. Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đa số cả về quy mô và thị phần: với 6 NHTM Nhà nước nhưng thị phần huy động và tín dụng đã chiếm trên 70%; tổng tài sản có của hệ thống NHTM quốc doanh cũng chiếm gần 80% tổng tài sản có của hệ thống NHTM Việt Nam; các NHTM quốc doanh lại cho vay DNNN là chủ yếu. Điều này gây khó khăn trong quá trình cải cách NHTM quốc doanh nhằm chuyển hoạt động của hệ thống ngân hàng này sang kinh doanh trên cơ sở thương mại thực sự, tạo lập một sân chơi bình đẳng trong lĩnh vực ngân hàng đồng thời cản trở việc phát huy tác dụng của quy luật kinh tế thị trường, vì vậy, tính cạnh tranh trong khu vực ngân hàng còn thấp. Từ khi Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế, việc cho phép thành lập các NHTM cổ phần, các chi nhánh NHTM nước ngoài, ngân hàng liên doanh đã phần nào giảm bớt tính độc quyền của các NHTM quốc doanh. Tuy nhiên, dường như tình hình thay đổi không nhiều bởi vì vốn của các NHTMCP quá nhỏ bé, dịch vụ đơn điệu, mạng lưới các chi nhánh không nhiều, năng lực cạnh tranh thấp; các hoạt động của các chi nhanh NHTM nước ngoài còn bị hạn chế về tiền Đồng (các chi nhánh NHTM nước ngoài chỉ được phép huy động vốn bằng VND không vượt quá 25% vốn được cấp, từ các cá nhân Việt Nam và pháp nhân Việt Nam). Sự dễ tổn thương của hệ thống ngân hàng Việt Nam Các NHTM Việt Nam có mức vốn rất thấp, nợ quá hạn cao (nhất là các NHTMCP). Sự dễ tổn thương của hệ thống NHTM Việt Nam có thể là thách thức lớn khi hệ thống này chuyển sang cơ chế thị trường thực sự, đặc biệt là sự tự do lãi suất, thả nổi tỉ giá trong điều kiện hội nhập quốc tế. Các NHTMCP Việt Nam là khu vực dễ tổn thương nhất. Các NHTMCP dường như được thành lập khá dễ dàng từ những năm 1993-1996 và phát triển vớI tốc độ khá nhanh. Từ 15 NGTMCP vào năm 1990, năm 1997 đã tăng lên 53 NHTMCP. Đến nay, một số ngân hàng cổ phần không đủ vốn điều lệ như quy định, quản lý yếu kém đã bị đóng cửa (bị sát nhập, bị mua lại…) và chỉ còn 43 NHTMCP. Nợ quá hạn của hệ thống NHTM Việt Nam có chiều hướng gia tăng kể từ năm 1997. Hệ thống hạch toán, phân loại tài sản theo các quy định quốc tế về nợ quá hạn đã cho thấy các ngân hàng thương mại đã phải đối mặt với nhiều khó khăn theo tiêu chuẩn mới. PHẦN III: BIỆN PHÁP I. NHÓM BIỆN PHÁP VĨ MÔ 1. NGÂN HÀNG NÀH NƯỚC CẦN BAN HÀNH VĂN BẢN PHÁP LÝ TẠO ĐIỀU KIỆN CHO THƯƠNG PHIẾU LƯU HÀNH TẠI VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN Hiện nay Việt Nam đã có pháp lệnh về Thương phiếu được ra đời năm 1999 nhưng cho đến nay thương phiếu trong nước vẫn chưa xuất hiện do nhiều lý do, một trong những lý do đó là môi trường pháp lý liên quan đến hối phiếu. Do đó, cần nghiên cứu các Quy tắc thống nhất về nhờ thu và Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế để cải thiện phương thức uỷ nhiệm thu và thư tín dụng tại Việt Nam theo hướng đa dạng hoá các phương thức trên, cũng như gắn bó hối phiếu với các phương thức thanh toán. Khi hối phiếu có cơ sở phát sinh sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro thông qua nghiệp vụ cho vay chiết khấu hối phiếu. 2. NHÀ NƯỚC CẦN SỚM BAN HÀNH LUẬT THANH TOÁN SÉC TẠO CƠ SỞ PHÁP LÝ VỮNG CHẮC CHO VIỆC MỞ RỘNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Một trong những điều kiện để tiến tới “tự do hoá lãi suất ” là nền kinh tế phải đảm bảo nguồn cung ứng tín dụng dồi dào cho xã hội, bởi khi cung tín dụng không đủ đáp ứng cho nhu cầu tín dụng thì lãi suất khó có thể tự do hoá được. Muốn vậy, phải tạo điều kiện để mọi cá nhân và tổ chức kinh tế mở tài khoản và thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông giảm, nguồn cung ứng cho tín dụng tăng. Bên cạnh đó việc nghiên cứu ban hành luật séc theo hướng khắc phục những bất cập trong quy định về thanh toán séc sẽ góp phần nâng cao tính pháp lý của thể thức thanh toán này cũng tạo ra nền tảng cho việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam. 3. NHÀ NƯỚC CẦN NGHIÊN CỨU SỬA ĐỔI QUY ĐỊNH VỀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Nhà nước cần sớm ban hành văn bản đánh giá lại tài sản cố định hiện có tại các hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, các NHTMQD cũng cần nhanh chóng cơ cấu lại nợ vay NH, đối với những khoản nợ vay không có khả năng thu hồi phải có biện pháp giải quyết dứt điểm bằng cách nhà nước bù lỗ, lấy vốn chủ sở hữu để bù đắp…Tách hẳn những loại cho vay thuộc diện chính sách sang cho NHCSXH. Tiếp đến cho phép các ngân hàng này phát hành cổ phiếu mới nhưng nhà nước vẫn là cổ đông lớn nhất của NH (nếu thấy cần thiết) trên số vốn đã được xác định lại. Chỉ có bằng cách này nhà nước chủ động giao quyền chủ động tài chính hoàn toàn cho các ngân hàng, chủ động trong điều hành về mọi mặt nâng cao khả năng cạnh tranh một cách lành mạnh với các hệ thống ngân hàng khác và với các ngân hàng nước ngoài, tạo tiền đề tốt cho tiến trình tự do hoá lãi suất. 4. XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TRÊN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ Một trong những Chương trình hành động của NHNN thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 BCH TƯ Đảng khóa IX ngày 12/5/2004, việc nghiên cứu hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất thị trường của NHNN là một trong nhiều công việc trọng tâm của NHNN. 4.1 Lựa chọn lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất mục tiêu trong từng thời kỳ Lấy lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng là lãi suất mục tiêu cho từng thời kỳ. Có 2 cách xác định lãi suất liên ngân hàng trên thế giới: Một là, xác định lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng dựa trên cơ sở tính bình quân lãi suất chào hàng của một số ngân hàng lớn. Hai là, xác định lãi suất giao dịch bình quân thực tế dựa trên giao dịch bình quân thực tế của các ngân hàng qua các mạng trực tuyến giữa NHTW và các NHTM. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, cách tính toán thứ nhất tỏ ra phù hợp hơn trong việc xác định lãi suất liên ngân hàng mà trước hết là lãi suất tiền gửi liên ngân hàng. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa hiệu quả của lãi suất liên ngân hàng phù hợp với cung cầu thị trường, chúng ta phải đổi mới cách tính toán: _ Các ngân hàng tham gia chào lãi suất: Mở rộng hơn số lượng và cơ cấu các ngân hàng tham gia chào lãi suất, bao gồm các NHTMNN, các NHTMCP đô thị và nông thôn lớn, các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng này phải đáp ứng các điều kiện sau: + Có khả năng tài chính mạnh, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 5%, hệ số an toàn vốn năm sau cao hơn năm trước. + Thường xuyên tham gia các thị trường liên ngân hàng thông qua hệ thống giao dịch điện tử có trung tâm điều hành tại NHNN, không có nợ quá hạn trên thị trường liên ngân hàng. + Có trách nhiệm cao trong việc chào lãi suất trên thị trường. Để hỗ trợ cho các ngân hàng này, NHNN có những chế tài cần thiết như: quy định rõ ràng quyền lợi của họ trong các hoạt động tái cấp vốn, thị trường mở, cung cấp thông tin, xếp hạng tín nhiệm…Các ngân hàng này có trách nhiệm đưa ra lãi suất chào chính xác và xác thực với với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Ngược lại, các ngân hàng có thể bị loại vai trò này nếu như không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. NHNN có thể đưa ra các giới hạn về giá trị và thời hạn của khoản vay trên thị trường liên ngân hàng để ngăn chặn tình trạng vay/ cho vay quá mức, đi vay ngắn hạn để cho vay dài hạn của các ngân hàng. _ Căn cứ vào lãi suất bình quân đầu vào của từng ngân hàng, vào nhu cầu vốn khả dụng của ngân hàng và cung cầu vốn trên thị trường, các ngân hàng thành viên đưa ra lãi suất chào hàng của mình trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng căn cứ vào lãi suất liên ngân hàng và các chi phí có liên quan về giấy tờ, chi phí ngân hàng…;các đặc điểm kinh tế-xã hội ở từng địa bàn, vào mức độ tín nhiệm của khách hàng để làm cơ sở đưa ra lãi suất vay/ cho vay đối với khách hàng của mình. Đây sẽ là lãi suất cho vay và đi vay bình quân trên thị trường liên ngân hàng, được công bố theo từng thời hạn khác nhau và dao động xung quanh lãi suất thị trường mở. Ở đây, lãi suất được xác định trong nghiệp vụ thị trường mở chính là cơ sở để xác định lãi suất lãi suất ngắn hạn, vì lãi suất của các khoản vay đều xuất phát từ lãi suất tín phiếu chính phủ và cộng thêm các phụ phí có liên quan. Căn cứ vào dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trong từng thời kỳ mà NHNN tính toán và công bố lãi suất mục tiêu (thay thế cho lãi suất cơ bản) để định hướng cho thị trường. Sử dụng các công cụ điều hành CSTT để điều chỉnh lãi suất thị trường mục tiêu của NHNN. 4.2 Xây dựng mô hình kiểm soát lãi suất của NHNN Xây dựng mô hình lãi suất chuẩn của thị trường Lãi suất chuẩn của thị trường được xây dựng dựa trên lãi suất của tín phiếu kho bạc vì đây là loại chứng khoán có độ an toàn và tính lỏng cao nhất. Để có thể xây dựng được lãi suất chuẩn trong thời gian tới thì cần phải chú ý một số vấn đề: _Loại bỏ lãi suất chỉ đạo của kho bạc nhà nước hiện nay đối với đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc vì nó mang tính hành chính không mang tính thị trường. Nên sử dụng đấu thầu lãi suất trong các phiên đấu thầu trái phiếu. _ Mở rộng và tạo điều kiện cho các thành viên tham gia thị trường thường xuyên trên thị trường đấu thầu với số lượng tiền đấu thầu lớn. Để tạo ra tính sôi động của thị trường thì cần phải có khoảng 10-15 thành viên thường xuyên tham gia thị trường. Có thể là số lượng này không dễ đạt tới trong thời gian trước mắt, nhưng đó là con số phải đạt tới để có thể tạo ra tính thị trường của bản thân thị trường tiền tệ và của lãi suất. _ Đa dạng hoá các kỳ hạn của tín phiếu kho bạc: hiện nay kỳ hạn của trái phiếu kho bạc ở Việt Nam vẫn còn đơn điệu và thường là 364 ngày, 2 năm, 3 năm, 5 năm. Để có thể xây dựng đường cong lãi suất chuẩn thì tất yếu phải đa dạng hoá các kỳ hạn của trái phiếu kho bạc, ví dụ là 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm. Khi đó đường cong lãi suất dựa trên các giao điểm giữa thời hạn và lãi suất tương ứng mới chính xác. Xây dựng hành lang lãi suất NHNN thực hiện điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá có sự điều tiết gián tiếp của NHNN thông qua lãi suất định hướng. Lãi suất chủ đạo này sẽ tác động tới lãi suất thị trường thông qua thị trường liên ngân hàng để định hướng lãi suất biến động phù hợp với các mục tiêu của CSTT. Nên xây dựng một hành lang lãi suất hẹp hoặc một lãi suất kỳ vọng trong từng thời kỳ. Lãi suất kỳ vọng này sẽ thay đổi trong từng thời kỳ để đạt tới các mục tiêu CSTT tốt nhất. NHNN sẽ can thiệp kịp thời để lãi suất thị trường dao động xung quanh lãi suất kỳ vọng này. Vì vậy, NHNN nên bỏ hình thức chiết khấu và lãi suất chiết khấu mà tập trung sử dụng lãi suất tái cấp vốn, thay vào đó là lãi suất tiền gửi của các TCTD tại NHNN. NHNN có thê sử dụng một hành lang lãi suất mà trong đó, trần lãi suất nên là lãi suất tái cấp vốn hoặc lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng, tức là loại lãi suất của những giao dịch chiếm tỷ trọng lớn trên thị trường. Sàn lãi suất là lãi suất tiền gửi của các TCTD. Lãi suất thị trường dao động xung quanh lãi suất thị trường mở. Lãi suất thị trường mở sẽ đóng vai trò điều chỉnh lãi suất thị trường cho phù hợp với lãi suất mục tiêu của NHNN. NHNN thay việc công bố lãi suất cơ bản hiện nay bằng việc công bố lãi suất mục tiêu của NHNN (có thể lấy lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng làm lãi suất mục tiêu). Như vậy, lãi suất cơ bản vẫn được sử dụng như luật NHNN đã quy định, song nó được thay đổi hoàn toàn về cách thức tính toán. Trong điều hành lãi suất thị trường tiền tệ, NHNN phải gắn chặt với điều hành các công cụ thị trường tiền tệ. Tuỳ theo tình hình thực tế mà NHNN sử dụng các công cụ gián tiếp như thị trường mở, tái cấp vốn dưới dạng tái chiết khấu, cầm cố, hoặc SWAP, trong đó chú trọng nghiệp vụ thị trường mở. 4.3 Quản lý các loại lãi suất thị trường Bỏ lãi suất cơ bản của NHNN theo cách tính toán hiện nay Lãi suất cơ bản được NHNN áp dụng từ tháng 8/2000 cho đến nay. Lãi suất này được xác định hàng tháng dựa trên cơ sở tham khảo lãi suất cho vay của 15 NHTM áp dụng với khách hàng tốt nhất. Tuy có những ưu thế so với các cơ chế lãi suất trần trước đây, song nó vẫn thể hiện sự can thiệp hành chính của NHNN, các TCTD không thể phản ứng kịp thời để phòng tránh rủi ro lãi suất và thanh khoản. Còn quá nhiều loại lãi suất cho vay ưu đãi, cạnh tranh không lành mạnh về lãi suất giữa các TCTD. Dường như lãi suất cơ bản thoát ly lãi suất cho vay bình quân của các TCTD, tính tham khảo đối với TCTD hầu như không còn nữa. Hiện nay, với những biến động về lạm phát và diễn biến sức mạnh của thị trường tiền tệ trong nước và ngoài nước, lãi suất cơ bản chưa phản ánh đúng tình hình thị trường. Nó chủ yếu mang tính định hướng mà NHNN muốn đưa ra cho các TCTD tham khảo khi thực hiện chính sách lãi suất của mình. Vì vậy, việc xoá bỏ lãi suất cơ bản theo cách tính hiện nay vào thời điểm này là cần thiết để NHNN chuyển sang cơ chế điều hành lãi suất khác. Loại bỏ bớt các loại lãi suất ưu đãi Theo kinh nghiệm tự do hoá lãi suất trên thế giới, việc xoá bỏ các mức lãi suất ưu đãi thường được tiến hành vào thời kỳ đầu của quá trình tự do hoá lãi suất để không làm ảnh hưởng tới các loại lãi suất cho vay của các TCTD. Ở Việt Nam , theo dõi tiến trình chuyển biến của lãi suất, ta thấy việc xoá bỏ các loại lãi suất ưu đãi muộn hơn so với các nước và ngược lại các nước. Điều này gây ảnh hưởng xấu tới các hoạt động tín dụng của NHTM, đến hạnh toán tài chính của các ngân hàng về chi phí đầu vào và tính toán lợi nhuận. Do đó chúng ta phải loại bỏ bớt các loại lãi suất ưu đãi, trừ lãi suất vay vốn đối với các đối tượng chính sách trong xã hội và các chương trình kinh tế - xã hội của Chính phủ. Điều này có thể thực hiện bằng cách tách toàn bộ các hoạt động cho vay chính sách ra khỏi các hoạt động tín dụng thương mại, xoá bỏ bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước dưới các hình thức cho vay chỉ định, bảo lãnh vay, khoan nợ, giãn nợ, bù lỗ, từng bước xoá bỏ việc chỉ định các NHTM bảo lãnh cho doanh nghiệp nhà nước. Có thể là, lãi suất ưu đãi đối với các đối tượng chính sách bằng khoảng 60% - 70% lãi suất thị trường liên ngân hàng. Các loại lãi suất ưu đãi nên tập trung vào Ngân hàng Chính sách Xã hội. Quản lý các loại lãi suất của các tổ chức khác Hiện nay, chúng ta có nhiều tổ chức tài chính vi mô hoạt động ngân hàng, họ tự định ra lãi suất của mình nên có lúc lãi suất nơi này cao hơn lãi suất thị trường và lãi suất do NHNN công bố. Điều này làm ảnh hưởng đến cơ chế lãi suất thị trường nói chung. Do đó, các hoạt động ngân hàng của các tổ chức phi ngân hàng phải được quản lý chặt chẽ theo Luật các TCTD và lãi suất của các tổ chức này cũng phải tuân theo cơ chế lãi suất chung. Đó là dựa vào lãi suất ngắn hạn liên ngân hàng cộng thêm các khoản chi phí khác để tính ra lãi suất cho vay đối với các hoạt động tín dụng trong cộng đồng. Đối với lãi suất tín dụng nhà nước của Kho bạc Nhà nước Việc hoàn thiện cơ chế lãi suất thị trường tiền tệ chịu ảnh hưởng rất lớn từ lãi suất huy động vốn từ các tổ chức thuộc Bộ Tài chính. Để tạo ra sự hỗ trợ tốt hơn đối với cơ chế lãi suất thị trường tiền tệ, ngoài ra việc phải bảo đảm lãi suất thực dương, lãi suất tín dụng nhà nước (tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình…) nên được xác định thông qua đấu giá lãi suất hoặc bảo lãnh. II. NHÓM CÁC BIỆN PHÁP VI MÔ XÂY DỰNG VÀ TỪNG BƯỚC HOÀN THIỆN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin tài chính Xây dựng thể chế thị trường, tăng cường tính công khai về thông tin, điều kiện bảo đảm an toàn và giám sát tài chính tiền tệ nhằm tránh những thất bại của thị trường. Có như vậy thị trường mới bảo đảm hoạt động hiệu quả. Không những vậy phải xây dựng hệ thống kế toán kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tế. Phát triển các công ty đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp là một việc làm cần thiết trong hoàn cảnh hiện nay. Bên cạnh đó dần dần hoàn thiện và đưa vào hoạt động trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, phải tăng cường học hỏi các đối thủ cạnh tranh về nhiều mặt nhưng đồng thời cũng phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn theo thôngn lệ quốc tế, ứng dụng linh hoạt theo từng thời điểm cụ thể của chúng ta. Xây dựng và phát triển thị trường tài chính Thị trường tài chính của chúng ta còn rất non trẻ nhưng được đánh giá là đầy tiềm năng. Để khai thác triệt để tiềm năng này thì cần phải phát triển thị trường tài chính một cách đầy đủ và lành mạnh. Phát triển các công cụ tài chính NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG Xu thế hội nhập quốc tế, NHTM Việt Nam phải cạnh tranh với các chi nhánh NH nước ngoài với sức mạnh về nguồn vốn, về kinh nghiệm, công nghệ…có lợi thế hơn hẳn. Do vậy, “tự do hoá lãi suất ” chỉ nên xuất hiện trong một môi trường cạnh tranh lành. Muốn vậy, các NHTM phải từng bước củng cố, hoàn thiện và phát triển hoạt động kinh doanh của mình một cách vững chắc để có thể đủ sức mạnh cạnh tranh một cách bình đẳng với NHTM trong nước và nước ngoài bằng các biện pháp cụ thể sau: NHTM cần mở rộng hình thức cạnh tranh chủ động thông qua việc nâng cao chất lượng phục vụ và dịch vụ ngân hàng. Đây là một biện pháp rất hiệu quả mà sự vươn tới không có giới hạn, là sân chơi lành mạnh cho các NHTM dùng hết khả năng của mình để cạnh tranh. Cạnh tranh bằng nâng cao chất lượng dịch vụ chỉ có tác dụng tốt cho các NHTM và mang lại lợi ích cho dân chúng và cho các doanh nghiệp. Chất lượng phục vụ bao gồm rất nhiều lĩnh vực có liên quan đến khách hàng, chẳng hạn như: thủ tục giấy tờ gọn nhẹ, thời gian xử lý nghiệp vụ nhanh chóng, tư vấn cho khách hàng hiệu quả, thái độ giao tiếp tốt đối với khách hàng, nơi đón tiếp sạch sẽ, thuận tiện… Nâng cao chất lượng phục vụ và dịch vụ ngân hàng chính là quan tâm va nâng cao lợi ích của khách hàng. Trong đó, lợi ích về kinh tế thể hiện qua chi phí vay vốn là quan trọng nhất. Nó không chỉ thể hiện trực tiếp qua lãi suất vay vốn mà còn các chi phí về thủ tục giấy tờ, thời gian đi lại…Vì với các doanh nghiệp thời gian là tiền bạc. Ngoài lợi ích kinh tế, việc cạnh tranh nâng ao chất lượng phục vụ và dịch vụ ngân hàng còn đảm bảo cho khách hàng được hưởng các lợi ích tốt hơn như sự tôn trọng, sự thoải mái, thuận tiện… Mở rộng tín dụng đến nhiều đối tượng khách hàng như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân vay sản suất, tiêu dùng…cũng như đa dạng hoá các loại hình cho vay. NHTM cần quan tâm đến cách công tác tiếp thị, thiết lập bộ phận nghiên cứu và thực thi các biện pháp tiếp thị cho phù hợp với từng loại khách hàng để có hiệu quả tốt nhất. NHTM cần thực hiện tốt công tác cân đối tín dụng Thực hiện tốt công tác cân đối tín dụng sẽ tạo điều kiện cho tăng trưởng tín dụng cân bằng với tăng trưởng huy động vốn, muốn vậy các NHTM cần: _ Tổ chức tốt công tác điều hoà vốn trong nội bộ hệ thống ngân hàng để đảm bảo nguồn vốn không bị ứ đọng. _ Tăng cường đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác: góp vốn, mua cổ phần của cac doanh nghiệp, tham gia thị trường tiền tệ… _ Tham gia các hoạt động cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ, bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán, bất động sản theo quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ cho việc tăng trưởng tín dụng. _ NHTM cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng của công tác quản lý nguồn nhân lực. Bất kỳ tổ chức nào kể cả ngân hàng chỉ có thể thực hiện thành công mục tiêu hoạt động của mình đều phụ thuộc vào việc ngân hàng có thể tổ chức, phát triển và quản lý nguồn nhân lực của mình có hiệu quả hay không. Ngân hàng phải phát triển một cơ cấu tổ chức nhằm đạt được chiến lược và thực hiện kế hoạch hoạt động của mình. Từ cơ cấu tổ chức này sẽ giúp ngân hàng xác định nhu cầu nhân sự theo những tiêu chí cơ bản như số lượng, trình độ và kỹ năng của nhân viên và có thể thay đổi việc bố trí, đào tạo và huấn luyện nguồn nhân lực. Ngân hàng cũng cần xác định trách nhiệm cụ thể rõ ràng cho kết quả, cấu trúc công việc cá nhân nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc và phân bổ nhân viên trong các phòng ban với số lượng cần thiết kèm theo các kỹ năng phù hợp để đáp ứng yêu cầu của từng bộ phận Nhân viên ngân hàng sẽ làm việc không hết năng suất khi công việc nhàm chán, không có hứng thú cũng như khi công việc không xác định hay xác định mơ hồ. Vì vậy, công việc của nhân viên cần được mô tả chi tiết v nếu có thể được cần đo lường kết quả đạt được cụ thể của từng cá nhân, từng phòng ban sau mỗi kỳ. Ngân hàng cũng cần quan tâm đến việc xây dựng kế hoạch đào tạo thường xuyên, định kỳ đến từng cán bộ, nhân viên ngân hàng để thúc đẩy, nâng cao trình độ của họ trong nhận thức va trong công việc NHTM cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng của công nghệ thông tin ngân hàng, xây dựng một hệ thống công nghệ đảm bảo thu thập những thông tin quản trị cần thiết cho ngân hàng kịp thời để làm cơ sở cho những quyết định kinh doanh ngân hàng. KẾT LUẬN Lãi suất là vấn đề liên quan tới mọi vấn đề tài chính tiền tệ. Tầm quan trọng của nó được càng được khẳng định khi chúng ta đang trong tiến trình hội nhập kinh tế, để chuẩn bị thật tốt cho tương lai chúng ta đang cố gắng nỗ lực từng bước để có thể đạt tới tự do hóa lãi suất. Tiến hành tự do hoá lãi suất trong thời điểm hiện nay là tất yếu nhưng nó phải được thực hiện khi các điều kiện đã chín muồi. Để chuẩn bị được những điều kiện đó phải có sự cải tổ phối hợp đồng bộ cả vi mô và vĩ mô trong các lĩnh vực. Trong thời gian tới nên chăng chúng ta phải kết hợp đồng bộ các biện pháp nhằm xây dựng một trình tự hợp lý để đạt được hiệu quả như ý muốn. Có thể nói những điều chúng ta đã đạt được là những thành tựu đáng ca ngợi nhưng tiến trình tự do hoá lãi suất thời gian qua cũng đã cho thấy những bài học kinh nghiệm đáng quý cho bước đường tiếp theo để chúng ta thực sự đạt được “tự do hoá lãi suất”. Đây chắc chắn sẽ là tiền tốt cho quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập sau này. Con đường đi đến tự do hóa hoàn toàn lãi suất còn ở phía trước và chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta nhiều thành quả xứng đáng. Lời cuối cùng xin được trân thành cảm ơn thầy cô và bạn bè đã giúp em hoàn thành đề án này MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Tài chính Tiền tệ Ngân hàng (Frederic S.Mishkin) 2. Giáo trình Ngân hàng Thương mại (NXB Thống kê) 3. Giáo trình Tài chính Tiền tệ (KTQD) 4. Cải cách Ngân Hàng Thương Mại 5. Bàn về các công cụ của CSTT ở Việt Nam hiện nay 6. Kỷ yếu hội nghị khoa học: Tiến trình Tự do hóa tài chính ở Việt Nam hiện nay 7. Nghiên cứu tình huống: Việt Nam con đường đi đến tự do hóa lãi suất 8. Tạp chí Ngân hàng _Số 8/2002: + Lãi suất thỏa thuận - những thách thức trên con đường chuyển đổi cơ chế lãi suất ở Việt Nam _Số 10/2003: + Hiệu quả cơ chế kiểm soát lãi suất của ngân hàng nhà nước thực trạng và nhân tố ảnh hưởng + Một số ý kiến góp phần hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất và phát triển thị trường tiền tệ _Số 1/2004: + Một vài ý kiến về việc xây dựng lãi suất liên ngân hàng Việt Nam _ Số 11/2004: + Những tác động chủ yếu của tiến trình hội nhập đến hoạt động của Ngân hàng Nhà nước _Số 12/2004: + Về điều hành lãi suất thị trường tiền tệ của NHNN Việ Nam trong thời gian tới + Bàn về tự do hóa lãi suất ở Việt Nam _ Số 1/2005: +Tiến trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực Ngân Hàng ở Viêt Nam _ Số 9/2005: +Diễn biến lãi suất thị trường và điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước trong 8 tháng đầu năm 2005

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72398.DOC
Tài liệu liên quan