Đường lối kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng-an ninh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nền tảng chính trị trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Thấm nhuần Tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng trong những năm đổi mới đều khẳng định sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại do Người nêu lên. Nghị quyết Đại hội VII của Đảng ( 1991 )khẳng định ; Trong điều kiện mới càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
24 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2170 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại:
LỜI MỞ ĐẦU
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy trong xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một yêu cầu quan trọng.
Nhân dân ta có lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động sản xuất nhân dân Việt Nam đã thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường, sự thông minh sáng tạo, ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Trong truyền thống dân tộc ấy Hồ Chí Minh nhìn thấy nổi bật lên sức mạnh của lòng yêu nước. Tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc, vì phải luôn luôn đối đầu với nhiều khó khăn của tự nhiên và chiến tranh xâm lược, sự đô hộ của kẻ thù từ nhiều phương kéo đến. Lòng yêu nước Việt Nam đã trở thành sức mạnh, một thứ đạo lý, một lẽ sống của mỗi người dân, cũng là một tiêu chí cao nhất để đánh giá con người trong xã hội ta.
Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc đã phát huy lòng yêu nước truyền thống và nâng thành lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa. Tinh thần, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường và lòng yêu nước phát huy được sức mạnh to lớn, tạo nên truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh đã làm nổi bật sức mạnh của con người Việt Nam, đó là sức mạnh thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và trong cuộc đấu tranh hiện tại, sức mạnh của sự thông minh và dũng cảm, của lòng tin chân chính không gì lay chuyển. Sức mạnh ấy bền vững và được nhân lên nhiều lần dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh sức mạnh thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản thế giới, của nhân dân lao động thế giới. Trong quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Vịêt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy phải dựa vào sức mạnh của dân tộc là chủ yếu, đồng thời phải khai thác sức mạnh của thời đại. Những nội dung, nguyên tắc về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thời đại ngày nay, đặc biệt là giai đoạn hiện nay đang diễn ra một cuộc đấu tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng cũng như về hoạt động thực tiễn mà chúng ta cần nhận thức đúng đắn để tiến hành những hoạt động quốc tế phù hợp phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Do vậy phải giáo dục cho nhân dân có được niềm tin về lý tưởng XHCN trong điều kiện thế giới có nhiều biến đổi. Cần phải xử lý nghiêm minh, công bằng đối với những hành vi vi phạm pháp luật làm suy thoái tư tưởng, băng hoại đạo đức xã hội. Hội nhập quốc tế mà không được chệch hướng XHCN, bảo đảm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào cách mạng thế giới.
Không ngừng bảo vệ và pháy huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, làm cho bản sắc văn hoá được giữ vững và phát triển. Giữ vững tinh thần độc lập tự chủ trong tiếp thu sức mạnh bên ngoài, kết hợp sức mạnh trong nước. Việc giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc chính đáng, ý thức bảo vệ văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc văn hoá nước ngoài là những yêu cầu cấp thiết được đặt ra đối với việc “mở cửa”. Công tác đối ngoại được xác định có vai trò quan trọng đối với việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được vận dụng và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nội dung cuả tư tưởng này rất phong phú, sâu sắc về thời đại, về sự kết hợp các sức mạnh này trong thực tiễn đấu tranh. Tư tưởng của Người còn thấm đượm chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, tính cách mạng triệt để nên ảnh hưởng to lớn đến cuộc đấu tranh lâu dài cho nhân dân các nước vì sư nghiệp”Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người”
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại:
Đặt cách mạng Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới
Tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc sẽ không bình thường nếu không có sự quan hệ hợp tác với thế giới bên ngoài. Mở rộng quan hệ quốc tế đã trở thành đường lối chiến lược của tất cả các quốc gia từ thế kỷ XX. Với Việt Nam, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ và phát triển đất nước đã để lại những bài học kinh nghiệm vô giá, trong đó có bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế.
Ngày nay, những thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đã và đang tạo dựng được luôn có sự đóng góp to lớn của nhân tố quốc tế và thời đại. Điều đó thể hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng ta mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự kết hợp tài tình giữa đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các dân tộc thuộc địa với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới. Tư tưởng này bao gồm một hệ thống luận điểm đề cập đến những vấn đề bức thiết nhất của nhân loại tiến bộ là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh là người đã giải quyết thành công những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong xu hướng phát triển của nhân loại tiến bộ.
40 năm đã trôi qua kể từ khi trái tim người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam ngừng đập, Bác kính yêu của chúng ta đã đi vào thế giới của Người Hiền, nhưng tư tưởng, đạo đức và sự nghiệp cao cả của Người thì vẫn còn sống mãi trong tình yêu của hàng triệu trái tim Việt Nam và nhân dân tiến bộ toàn thế giới. Người ra đi, để lại một di sản quý báu cho dân tộc, đó là bản Di chúc thiêng liêng, là những lời dặn dò cuối cùng mà Bác đã chuẩn bị trong nhiều năm, đồng thời đó là niềm tin sắt son mà Người gửi gắm cho các thế hệ mai sau. 40 năm đã trôi qua, kể từ khi Bác viết những dòng cuối cùng trong bản Di chúc lịch sử, là thời gian thích hợp nhất để toàn Đảng, toàn dân ta suy ngẫm về trách nhiệm của chúng ta trong việc thực hiện lời căn dặn của Bác đồng thời khẳng định lại những thắng lợi trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc theo con đường Hồ Chí Minh.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đề cập rất nhiều vấn đề từ đấu tranh giành độc lập đến xây dựng đất nước, từ đối nội đến đối ngoại, từ việc chung đến việc riêng. Trong bộn bề những việc đại sự của một bậc vĩ nhân, một thiên tài trước lúc 'đi gặp cụ Các-Mác, cụ Lê-nin', Bác vẫn giành trước hết và phần nhiều nói về đoàn kết, từ đoàn kết trong Đảng đến đoàn kết dân tộc và sau nữa là đoàn kết quốc tế. Đến những dòng Di chúc cuối cùng, Người vẫn tâm nguyện 'Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới'. Theo Hồ Chí Minh mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều phải dựa trên sự kết hợp của sức mạnh đoàn kết trong toàn Đảng, toàn dân tộc với sự giúp đỡ của bè bạn quốc tế. Đó là 'bài học lớn mà mỗi cán bộ, đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi'. Trong đó, đoàn kết quốc tế là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Những hoạt động quốc tế sôi nổi của Người trong suốt những năm tháng tìm đường cứu nước, trong những năm tháng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đã hình thành và phát triển những nhận thức quý báu của Người về nhân tố quốc tế đối với cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN Việt Nam. Từ đó vạch ra những đường lối, bước đi đúng đắn cho con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ở nước ta trên cơ sở vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Trong những hoạt động không mệt mỏi nhằm hình thành một mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ cuộc kháng chiến vì nền độc lập của Việt Nam, Hồ Chí Minh rất coi trọng sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên khắp thế giới. Người phân biệt rõ 'bạn' và 'thù' để triệt để sử dụng sách lược 'thêm bạn bớt thù' trong nghệ thuật chiến tranh cách mạng cũng như trong đường lối đối ngoại Việt Nam. Người khẳng định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta không thể tách rời sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ của các nước XHCN và bầu bạn khắp năm châu. Vì vậy, một trong những dự kiến đầu tiên, ngay sau khi chiến tranh kết thúc của Hồ Chí Minh là thay mặt cho nhân dân ta, Người sẽ đi thăm, cảm ơn các nước anh em, bè bạn trên thế giới đã ủng hộ, giúp đỡ chúng ta và mở rộng hơn nữa khối đoàn kết quốc tế đối với Việt Nam. Ước nguyện bình dị mà cao đẹp với tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng ấy của Người đã không kịp thực hiện.
Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh gắn bó trọn vẹn với dân tộc, với Đảng, với nhân dân và bạn bè quốc tế. Trước khi qua đời, điều mà Bác băn khoăn, day dứt nhất là sự bất hoà trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Thực tế lịch sử đã thừa nhận, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh với uy tín, nhiệt huyết cách mạng và chủ nghĩa quốc tế trong sáng của mình đã đóng góp quan trọng vào sự đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách mạng trên thế giới. Vì vậy, khi Người qua đời 'để lại muôn vàn tình thân yêu' cho toàn Đảng, toàn dân, cho các cháu thiếu niên, nhi đồng và bầu bạn quốc tế thì những cống hiến vĩ đại đó của Người đã được Đảng, nhân dân ta và bạn bè quốc tế trân trọng, suy ngẫm, học tập và vận dụng.
Khi Bác đã đi vào cõi vĩnh hằng, thực hiện lời dạy trong bản Di chúc của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn thể nhân dân Việt Nam đã và đang làm hết sức mình để xây dựng đất nước 'đàng hoàng hơn, to đẹp hơn', không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới nhằm nâng cao vị thế Việt Nam đồng thời đóng góp vào nền hoà bình, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc. Nhờ kiên trì đường lối ngoại giao hoà bình ấy theo tư tưởng Hồ Chí Minh, những năm cuối của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta đã đấu tranh làm thất bại âm mưu chia rẽ quốc tế, cô lập cách mạng Việt Nam của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari 1973 rút quân về nước tạo điều kiện cho ta hoàn thành nốt nhiệm vụ giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Trong giai đoạn cả nước cùng đi lên xây dựng CNXH và tiến hành công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta vẫn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đề ra nhiệm vụ đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới, với các dân tộc bị áp bức, coi đó là một nguyên tắc, một trong những nhân tố quyết định thành công của cách mạng nước ta. Bằng những việc làm vô tư, trong sáng trong việc giúp đỡ bạn bè, cùng với việc không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị với tất cả các nước, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, vai trò, uy tín của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Triết lý ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng, kế thừa, phát triển của Đảng ta trong điều kiện, hoàn cảnh quan hệ quốc tế mới đã buộc các thế lực thù địch nước ngoài phải từ bỏ chính sách bao vây cấm vận Việt Nam. Thế giới đã thừa nhận sự thành công của Việt Nam trong việc tham gia, hội nhập, hợp tác ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới. Ngày nay, trong bối cảnh quốc tế đang có nhiều biến động phức tạp, khó lường, các quan hệ kinh tế- chính trị đan xen, Đảng và Nhà nước ta vẫn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại 'độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển' với chính sách đối ngoại rộng mở : 'Việt Nam sẵn sàng là bạn , là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế' như Đại hội X của Đảng đã khẳng định. Chúng ta đang tích cực hội nhập quốc tế bằng cả sức mạnh dân tộc và thời đại để thực hiện thắng lợi mục tiêu 'dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh' như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
Tư tưởng quốc tế Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân
Chính sự kết hợp ở đỉnh cao lòng yêu nước nồng nàn, tình nhân loại bao la, tinh thần nhân văn sâu sắc, tư tưởng thiết tha giải phóng con người, mà Hồ Chí Minh được toàn dân tộc Việt Nam và quốc tế tôn vinh là Nhà yêu nước vĩ đại, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Từ khi Người hoạt động cách mạng trên đất châu Âu, bạn bè quốc tế đã thấy ở Nguyễn Ái Quốc sự tỏa sáng của một nền văn hóa tương lai; qua Nguyễn Ái Quốc, cảm nhận được điều mới mẻ của ngày mai, cảm thấy sự yên bình mênh mông của tình hữu ái quốc tế, tình nhân ái bao la cho dân tộc và cho nhân loại. Tìm hiểu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng trong công việc hằng ngày là điều kiện giúp mỗi người chúng ta hoàn thiện mình, góp phần vào sự thành công của sự nghiệp cách mạng của dân tộc theo con đường mà Người, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn.
Đây là sự kết hợp thành công, sự thống nhất hai giá trị cao cả của thời đại trong Hồ Chí Minh. Hai yêu cầu này đối với người cách mạng là không thể thiếu. Không thể xem nhẹ mặt này, coi trọng mặt kia; càng không thể tách rời hai mặt đó. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh được thể hiện nhất quán trong sự chỉ đạo của Người đối với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Kiên định nguyên tắc độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm độc lập, tự do thực sự cho các dân tộc. Và, chính sự thống nhất biện chứng giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính của mỗi dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân toàn thế giới là cơ sở để các dân tộc yêu chuộng hòa bình có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn quốc tế ngày càng khẳng định điều này. Hồ Chí Minh suốt đời đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình và phấn đấu không mệt mỏi vì sự bình đẳng giữa các dân tộc, cho phẩm giá của con người. Với Hồ Chí Minh, quyền cơ bản và thiêng liêng nhất của con người là quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do và bình đẳng giữa con người với con người, giữa các dân tộc với nhau. Người nhấn mạnh tư tưởng này trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945. Đó là sự thể hiện khát vọng ngàn đời của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là ước nguyện của nhân loại yêu chuộng hòa bình. Với Hồ Chí Minh, đó chính là sự thể hiện bước tiến của nhân loại trong việc vươn lên giành lấy và bảo vệ những quyền cơ bản cao quý, khi Người dẫn Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp 1791 và Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Và sau này, Người tiếp tục khẳng định cô đọng trong câu nói bất hủ "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Tư tưởng này của Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo và tài tình mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa dân tộc và quốc tế trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam đầy sóng gió, khó khăn và vô cùng phức tạp.
Kiên trì độc lập tự chủ gắn với đoàn kết quốc tế, phấn đấu vun đắp cho tình cảm trong sáng, thủy chung giữa các dân tộc có chung ước nguyện, Hồ Chí Minh khẳng định, trước hết phải đem sức ta mà giải phóng cho ta; phải có ý chí tự lực tự cường thì mới nhận được sự tôn trọng, ủng hộ của người khác; đồng thời, xem việc "giúp bạn là tự giúp mình". Hồ Chí Minh nhấn mạnh vấn đề đoàn kết, coi việc giữ gìn sự đoàn kết phải như giữ gìn con ngươi của mắt mình; đoàn kết từ trong Đảng mở rộng ra toàn dân tộc; và đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới. Đoàn kết là nguyên nhân đưa đến những thắng lợi của cách mạng Việt Nam: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công". Mặt khác, chính sự hy sinh to lớn của dân tộc Việt Nam cho phẩm giá của con người trở thành tấm gương sáng đối với các quốc gia, dân tộc có chung hoàn cảnh, cũng như lay động lương tri của nhân loại tiến bộ, yêu chuộng hòa bình. Tình đoàn kết của quốc tế là một trong những nguyên nhân làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, qua hai cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ nhưng rất đỗi vinh quang.
Kiên trì kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cùng với sức mạnh tổng hợp của dân tộc được khơi nguồn từ sự nghiệp chính nghĩa vì độc lập, tự do và phát triển của chúng ta, sức mạnh tổng hợp về vật chất và tinh thần của Việt Nam được huy động cao độ, đã được nhân lên gấp bội khi hợp lưu với khát vọng của các dân tộc, của nhân loại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định sự thống nhất về ước nguyện được sống trong hòa bình của nhân dân Việt Nam với nhân dân thế giới nói chung, với đông đảo nhân dân Mỹ yêu chuộng các giá trị cao đẹp của con người, mà một trong những dịp đó là cuộc trả lời phỏng vấn nhà báo Anh Phê-lích Gơ-rin, ngày 18-11-1965, như sau: "Nhân dân Mỹ chủ yếu là có thiện ý. Chính vì vậy mà đại đa số nhân dân Mỹ không thể ủng hộ chính sách xâm lược của Tổng thống Giôn-xơn.
Tôi muốn nói với nhân dân Mỹ rằng cuộc chiến tranh xâm lược mà Chính phủ Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam không những chà đạp thô bạo lên các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, mà còn đi ngược lại nguyện vọng và lợi ích của nhân dân Mỹ".(1)
Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng thể hiện việc chống lại các tư tưởng áp bức, thống trị, can thiệp dưới các chiêu bài khác nhau; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, ích kỷ; chống lại sự áp đặt, xâm hại lợi ích dân tộc khác dưới các hình thức khác nhau.
3.Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.
HCM nêu cao tinh thần “tự lực cánh sinh,dựa vào sức mình là chính” ,“muốn người ta giúp cho,thì trước hết phải tự giúp mình đã”,“. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ Dtộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được hưởng độc lập”.Với tư tưởng này khi Người gửi lời kêu gọi tới anh em ở thuộc địa có viết; “Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng công thức của Mác,chúng tôi xin nói với anh em rằng,công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được băng sự nỗ lực của bản thân anh em”.Người còn nói “đem sức ta mà giải phóng cho ta,… họ còn giúp đỡ ~ người anh em mình ở phương Tây trong sự nghiệp giải phóng hoàn toàn”
Muốn tranh thủ sức mạnh thời đại cần phải có 1 đường lối độc lập tự chủ đúng đắn.Kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập Dtộc mình với bốn mục tiêu của thời đại: hoà bình,độc lập Dtộc,dân chủ,chủ nghĩa XH.(liên hệ thực tiễn của VN.)
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế,tranh thủ sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ,nhân dân ta không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả.Bác thường nói: “phải coi cuộc đấu tranh của bạn như cuộc đấu tranh của ta”.
4.Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ
Thấm thoắt đã 40 năm kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi về thế giới vĩnh hằng nhưng tư tưởng của Người vẫn tỏa sáng dẫn dắt chúng ta. Di chúc của Người - từ bản thảo đầu tiên viết năm 1965 đến những đoạn bổ sung trong những năm tiếp sau - là lời nhắn nhủ chân tình về những điều cần làm cho kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công.
Hướng về nhân dân thế giới, Người dự định đến ngày chiến thắng, sau khi đi chúc mừng và thăm hỏi đồng bào hai miền Nam Bắc, “sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta” . Có thể cảm nhận ở đây phong thái của một nhà cách mạng lão thành, một cụ già phương Đông, rất trọn vẹn trong nghĩa tình, rất chu đáo trong ứng xử. Không chỉ một bức thư hay bức điện cảm tạ mà phải đi đến tận nơi, bày tỏ hết tấm lòng biết ơn chân thành tới những người đã từng giúp mình trong những năm tháng gian nan vất vả. Phong cách đó nói lên tình cảm bao la, tư tưởng sâu sắc mà trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ thường nhắc nhở đồng bào, đồng chí. Đó là quan điểm về hội nhập và đoàn kết quốc tế.
Cuộc hành trình tìm đường cứu nước qua khắp năm châu đã tạo nên ở Hồ Chí Minh một cách nhìn mới về thế giới, về mối liên hệ giữa Việt Nam và thế giới. Người đã vượt qua tầm nhìn hạn hẹp của các bậc tiền bối để hướng ra bên ngoài, gắn kết giữa sự nghiệp cứu nước với công cuộc cách mạng của các dân tộc.
Vào nửa sau thế kỷ XIX, các thủ lĩnh nghĩa quân của phong trào kháng Pháp hay các nhà văn thân dưới ngọn cờ Cần Vương đều thu hẹp hoạt động trong từng địa phương, chưa mở rộng đến phạm vi toàn quốc, lại càng không có mối liên hệ với bên ngoài. Đến đầu thế kỷ XX, các sĩ phu cấp tiến đã đón nhận làn gió mới từ Duy tân Minh Trị, Biến pháp Mậu Tuất cho đến Cách mạng Tân Hợi, hoặc hướng về nền dân chủ phương Tây với hy vọng cải cách chế độ phong kiến thối nát. Làn sóng yêu nước ở Việt Nam được khởi sắc với việc mở Đông Kinh nghĩa thục và các trường học khác, với phong trào Đông Du từng đợt cử thanh niên sang Nhật Bản học tập văn hóa và huấn luyện võ bị. Nhưng những hoạt động đó đều không mang lại kết quả, một trong những nguyên nhân chính là do thời đại đã đổi thay. Nơi mà các nhà chí sĩ trông chờ không còn là quê hương của phong trào cách mạng nữa, ý tưởng duy tân cũng như lý tưởng dân chủ đã đi vào quá khứ để thay thế bằng chủ nghĩa thực dân, mở rộng bá quyền thuộc địa. Giới cầm quyền Pháp - Nhật câu kết với nhau để dẹp trừ sự phản kháng, để ngăn chặn trào lưu cách mạng nước ta.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đi theo con đường khác và rút ra kết luận: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả” . Có thể coi đây chính là điểm khởi phát của tư tưởng hội nhập và đoàn kết quốc tế, bao hàm hai điều mới: một là, tầm nhìn được mở rộng ra toàn thế giới, không chỉ thu hẹp ở phương Đông; hai là, quan điểm đoàn kết đặt vào tất cả những ai làm cách mạng, không bị ràng buộc bởi châu Á hay châu Âu, bởi da vàng hay da trắng như luận điệu tuyên truyền của thuyết Đại Đông Á thời đó. Nghĩa là Hồ Chí Minh đã phát hiện một trong những nhân tố dẫn đến thành công của sự nghiệp cứu nước phải là hội nhập với thế giới, đoàn kết với phong trào cách mạng trên thế giới. Chính từ đây, Người đã đưa cách mạng Việt Nam đi vào quỹ đạo quốc tế và trở thành một bộ phận của phong trào cách mạng quốc tế.
Dưới ánh sáng của học thuyết Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã tham gia phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, gắn kết công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với phong trào cách mạng vô sản. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử cách mạng Việt Nam và cũng là sợi dây nối bền chặt giữa cách mạng Việt Nam với phong trào vô sản quốc tế. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã đóng góp tích cực vào phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít trên thế giới: “Cuộc cách mạng Đông Dương là một bộ phận cách mạng thế giới và giai đoạn hiện tại là một bộ phận dân chủ chống phát-xít” . Khi phát-xít Nhật đầu hàng, lực lượng cách mạng đã phát huy thế chủ động của mình, cùng toàn thể đồng bào vùng lên giành chính quyền, tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam độc lập.
Trên cương vị người đứng đầu Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh tư tưởng hội nhập và đoàn kết quốc tế trong thời chiến cũng như thời bình,
Với đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa ngày nay, cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài được mở rộng, hoạt động đối ngoại không chỉ thu hẹp trong các cơ quan ngoại giao mà đã bao gồm toàn xã hội. Bất cứ ai, từ học giả, doanh nhân cho đến bất cứ người dân thường nào cũng đều có cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài. Chính sự gặp gỡ đó là dịp giao lưu văn hóa, thể hiện đất nước và con người Việt Nam, phản ánh thành tựu kinh tế và xã hội Việt Nam. Cho nên tạo được những ấn tượng đẹp, tình cảm sâu trong con mắt người nước ngoài cũng là đóng góp vào thành quả của đối ngoại nhân dân. Đồng thời sự giao lưu với nước ngoài cũng tạo điều kiện để chúng ta hiểu biết về thế giới, về văn hóa thế giới và qua đó có thể tiếp thu điều hay, lẽ phải, đồng thời hạn chế những mặt xấu, tiêu cực. Như vậy, đối ngoại nhân dân chính là một mặt trận góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh và đảng ta về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong suốt tiến trình cmvn.
Để giành được độc lập cho tổ quốc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân đồng thời giữ vững nền độc lập tự do ấy, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã kết hợp nhuần nhuyễn và sáng tạo nguồn sức mạnh dân tộc với nguồn sức mạnh thời đại thành nguồn sức mạnh tổng hợp cực kỳ to lớn nhấn chìm tất cả bè lũ xâm lược cướp nước và tay sai bán nước.
Sức mạnh dân tộc (nội lực) Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta, quân đội ta và nhân dân ta đoàn kết một lòng, muôn người như một từ đó đã huy động tới mức cao nhất sức người, sức của phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Cả nước cùng ra trận với khí thế hào hùng của lịch sử bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước trên nền tảng văn hóa nhân nghĩa, khoan hòa, trí dũng, với ý chí không có gì quí hơn độc lập tự do. Tất cả mọi giới, mọi tầng lớp, mọi lực lượng từ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đến gái, trai, già, trẻ; từ nông thôn, thành thị đến miền xuôi, miền ngược đều tham gia giết giặc cứu nước; từ hai bàn tay không của bà mẹ, tầm vông vạt nhọn, cuốc thuổng, giáo mác, chông tre, súng kíp, bom 3 càng đến con ong, con rắn cũng trở thành vũ khí tiêu diệt kẻ thù; từ mặt đất nóng bỏng đạn bom cày xới, dưới địa đạo khắc nghiệt trong lòng đất, trên mặt nước bưng biền đến bầu trời của đất nước ta, đâu đâu cũng là trận địa vùi xác quân thù. Khi Việt Nam đứng ở tuyến đầu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược thì sức mạnh thời đại (ngoại lực) đã đạt tới đỉnh cao về sự ủng hộ và giúp đỡ chí tình, toàn diện cho Việt Nam của chủ nghĩa quốc tế vô sản, của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào không liên kết (thế giới thứ ba), của nhân dân tiến bộ trên thế giới kể cả nhân dân tiến bộ ở nước Pháp và nước Mỹ. Việt Nam đại diện cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới. Từ nền tảng của tình hữu nghị quốc tế trong sáng do Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công vun đắp để có được kết quả: Việt Lào hai nước chúng ta, tình sâu như nước Hồng Hà, Cửu Long; Việt Nam Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông; Vì Việt Nam, Cu Ba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình; từ trong lòng nước Mỹ, nhân dân tiến bộ Mỹ đã xuống đường đấu tranh ủng hộ Việt Nam, đòi chính quyền Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt nam; từ các cuộc biểu tình rầm rộ và liên tục nhiều năm liền của nhân dân các nước trên thế giới … đã tạo thành dòng thác sức mạnh thời đại ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nhân tố quan trọng, quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta. Nhân tố hết sức quan trọng đó là: Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với cách mạng vô sản thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cách mạng Việt nam là một bộ phận trong cách mạng thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân Việt nam. Từ nguồn sức mạnh tổng hợp cực kỳ to lớn được Chủ tịch Hồ Chí Minh kết hợp nhuần nhuyễn và sáng tạo giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã đưa cách mạng Việt Nam tiến lên từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: Từ nền tảng của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), giành độc lập cho đất nước, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đầu tiên ở Việt Nam và Đông Nam Á ra đời (2/9/1945), đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954) “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đánh bại hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược. Từ thắng lợi to lớn đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược của Đảng là vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh chống Mỹ xâm lược ở miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước, quân và dân ta đã đánh bại tất cả các cuộc chiến tranh do Mỹ đặt ra như: Đánh bại “Chiến tranh đặc biệt” (Công thức của cuộc chiến tranh này là: cố vấn Mỹ + ngụy quân, ngụy quyền ở miền Nam) bằng phong trào đồng khởi toàn miền Nam, bằng chiến thắng vang dội Ấp Bắc (1963), Thạnh Phú (1964). Đánh bại “Chiến tranh cục bộ” (công thức của cuộc chiến tranh này là: ồ ạt đưa quân Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam với quân ngụy và quân chư hầu) bằng trận Vạn Tường (1965), Plâyme, Bàu Bàng, Dầu Tiếng (1965). Giành thắng lợi ở các mùa khô: 1965 – 1966, 1966 – 1967. Mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy toàn miền Nam vào Tết Mậu Thân (1968). Đánh thắng “cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc” của không quân Mỹ bằng chiến thắng vang dội “Điện Biên Phủ trên không” với 12 ngày đêm trên bầu trời Thủ đô Hà Nội năm 1972, buộc Mỹ ký kết Hiệp định Pari (1973), rút hết quân Mỹ ra khỏi miền Nam. Đánh bại “Việt Nam hóa chiến tranh” (công thức cuộc chiến tranh này là: rút hết quân Mỹ, dùng người Việt đánh người Việt ở miền Nam) và làm nên kỳ tích “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” bằng đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh
cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975).Học tập và làm theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta quyết tâm thực hiện thật tốt Di chúc thiêng liêng của Người. Tăng cường học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; về sửa đổi lối làm việc; về phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn; về nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân; về đoàn kết, hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng, các nước khu vực và thế giới; về hội nhập kinh tế và văn hóa thế giới. Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về lòng yêu nước thương dân, về sức mạnh của nhân dân, lấy dân làm gốc; về sản xuất và tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; về tăng cường quốc phòng - an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về nền văn hóa dân tộc và hiện đại; về đạo đức cách mạng; về đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân... Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi. Đó là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng và là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó cũng là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Từ Đại hội 8, đất nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trong chặng đường hiện nay còn phải tiếp tục hoàn thành một số nhiệm vụ của chặng đường trước.
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, cho nên tất yếu còn mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; tuy nhiên cơ cấu, nội dung, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội.
Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa diễn ra trong những điều kiện mới, với nội dung giai cấp và nội dung dân tộc gắn kết với nhau bằng những hình thức mới. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái để giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại phải gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu là sản phẩm của nền kinh tế phát triển với trình độ xã hội hóa cao các lực lượng sản xuất hiện đại, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng chế độ đó là một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cộng nói riêng và quan hệ sản xuất mới nói chung với bước đi vững chắc. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển nền kinh tế đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người phát triển toàn diện, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Chủ trương của Đảng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Iv- Đường lối kinh tế và chiến lược phát triển.
Đường lối kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng-an ninh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nền tảng chính trị trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Thấm nhuần Tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng trong những năm đổi mới đều khẳng định sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại do Người nêu lên. Nghị quyết Đại hội VII của Đảng ( 1991 )khẳng định ; Trong điều kiện mới càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đổi mới, quan điểm “ Làm bạn với các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” của Hồ Chí Minh được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và vận dụng sáng tạo. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định : Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.Trước nguy cơ “ diễn biến hoà bình”, trước việc một số thế lực phản động lợi dụng vai trò giúp đỡ, viện trợ, đặt nhân quyền cao hơn chủ quyền để can thiệp vào công việc nội bộ các nước, hiện nay, hơn lúc nào hết chúng ta cần quán triệt lời dạy của Hồ Chí Minh : Mỗi một người phải nhớ rằng có độc lập mới có tự lập, có tự cường mới có tự do. Người còn chỉ rõ ; Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước là quan trọng nhưng không được ỷ lại, không được mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập. Vận dụng tư tưởng trên đây của Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế toàn cầu hoá và thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định : chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Thực tiễn công cuộc đổi mới vì mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ở nước ta trong suốt thời gian qua đã chứng minh rằng : Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại luôn được Đảng ta quán triệt, vận dụng một cách sáng tạo và đưa lại những thành tựu to lớn, tạo thế và lực cho dân tộc ta vững bước vào thế kỉ XXI.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Giáo trình tư tưởng HCM
-Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học
-Báo điện tử :
: www.cpv.org.vn/
www.tapchicongsan.org.vn/
vietbao.vn/
www.qdnd.vn/
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25271.doc