Thị trường chứng khoán được coi là cốt lõi của thị trường vốn. Đó là cầu nối giữa hoạt động của các nhà kinh doanh, tức là giữa những người "cần vốn" và người "có vốn". Trong thị trường chứng khoán thường được chia thành hai thị trường.
Thị trường sơ cấp: còn được gọi là thị trường cấp I là nơi phát hành lần đầu các chứng khoán để đưa vào lưu thông. Thị trường này có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là giai đoạn động viên các nguồn tài chính.
Thị trường thứ cấp: là thị trường trao đổi các chứng khoán đã phát hành. Ở đây các nhà đầu tư có thể bán chứng khoán vào bất kỳ lúc nào. Hình thức này rõ ràng là linh hoạt, mềm dẻo hơn so với quan hệ tín dụng thông thường. Chính thị trường này mới là nơi có sức hấp dẫn và lôi cuốn những người có tiền.
Hai thị trường này có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau, bởi vì thị trường sơ cấp có hiệu quả hay không lại tuỳ thuộc vào hiệu quả hoạt động của thị trường thứ cấp. Đầu năm 2000 này ở Việt Nam đã có thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động, mong rằng nó sẽ phát triển bền vững và là nơi để những nhaf đầu tư và những người nhàn rỗi có cơ hội đầu tư tốt.
51 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1554 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được cất trữ cho đến khi thu hồi hết thì doanh nghiệp mới đi mua sắm lại tài sản cố định mà nó được sử dụng ngay. Doanh nghiệp có thể dùng nó để mua sắm thêm máy móc thiết bị hoặc hiện đại hoá thiết bị máy móc này. Điều đó ở một chừng nào đó mang ý nghĩa của tái sản xuất mở rộng tài sản cố định.
Vấn đề đặt ra là: Làm thế nào để có thể tính khấu hao tài sản cố định một cách chính xác, hợp thời phù hợp với mức độ hao mòn hữu hình của tài sản cố định? Mức độ chính xác của tiền trích khấu hao ảnh hưởng trực tiếp đến viềc bảo toàn vốn cố định. Nếu như tổng số tiền tính khấu hao cơ bản thấp hơn giá trị mua sắm ban đầu của tài sản cố định thì vốn cố định của doanh nghiệp sẽ bị thâm hụt. Trong điều kiện đó số tiền tính khấu hao sẽ không đủ để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định.
Việc tính khấu hao chính xác tất yếu phải tính cả hao mòn vô hình của tài sản cố định. Do đó, người ta cần phải quan tâm đến xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật, để dự đoán về khả năng hao mòn vô hình, từ đó xác định tuổi thọ kinh tế của tài sản cố định, thông thường thì tuổi thọ kinh tế được rút ngắn hơn so với tuổi thọ kỹ thuật của máy móc nhằm ngăn ngừa được hiện tượng mất giá do hao mòn vô hình gây ra.
Mặt khác tiền trích khấu hao là yếu tố chi phí cấu thành nên giá thành của sản phẩm. Do vậy tính khấu hao chính xác sẽ góp phần cho việc xác định giá thành chính xác. Điều này vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp, bởi vì bất cứ một nhà doanh nghiệp thực sự nào cũng cần phải biết so sánh giữa kết quả thu được và chi phí thực sự mà anh ta bỏ ra tránh tình trạng "lãi giả"-các xí nghiệp đã ăn vào vốn của mình nhưng vẫn tưởng rằng mình đang làm ăn có lãi.
Vậy thế nào là sự bảo toàn vốn cố định? Điều đó có nghĩa là: Trong quá trình vận động, cho dù vốn cố định được biểu hiện dưới hình thái nào đi chăng nữa, thì khi kết thúc một vòng tuần hoàn, vốn cố định vẫn được tái lập ít nhất cũng bằng quy mô cụ thể có thể trang lại tài sản bằng hoặc hơn cũ ở thời điểm hiện tại.
Để có thể bảo toàn vốn cố định thường thường người ta sử dụng các biện pháp như: đánh giá lại tài sản cố định, lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp, sửa chữa và xác định hiệu quả kinh tế của công tác sửa chữa lớn tài sản cố định, kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định, trong các doanh nghiệp.
Nhận thức rõ tầm quan trọng cửa công tác bảo toàn vốn sẽ có một ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Việc bảo toàn vốn không chỉ là cơ sở bảo đảm cho doanh nghiệp thực hiện các quá trình sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng mà còn tạo ra cơ sở để các doanh nghiệp có thể so sánh thực sự đúng đắn giữa chi phí bỏ ra và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại.
3-Vốn lưu động
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên liên tục.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Trong cùng một lúc, vốn lưu động của doanh nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới những hình thái khác nhau, muốn cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn đầu tư vào các hình thái khác nhau đó. Mức tồn tại hợp lý và đồng bộ của vốn lưu động sẽ giúp cho quá trình luân chuyển được thuận lợi. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì quá trình luân chuyển của các hình thái vốn lưu động sẽ giúp gặp khó khăn, cản trở và có thể gây ra gián đoạn trong sản xuất.
Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn lưu độnh thể hiện sự vận động của vật tư- vốn lưu động nhiều hay ít sẽ phản ánh vật tư hàng hoá nằm trên các khâu nhiều hay ít. Nhưng mặt khác vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay lãng phí.
Để tổ chức và quản lý vốn lưu động, người ta phải tiến hành phân loại chúng. Thông thường có nhiều cách phân loại vốn lưu động. Nhưng cách phổ biến nhất là phân loại dựa vào vai trò của vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại này vốn lưu động được chia thanh những loại sau:
- Thứ nhất: Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất bao gồm: vốn nguyên liệu chính, vốn vật liệu phụ, vốn phụ tùng thay thế, vốn vật tư bao bì đóng gói và vốn công cụ lao động lao động nhỏ.
Thứ hai: vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất bao gồm: vốn về sản phẩm đang chế tạo, vốn và bán thành phẩm tự chế và vốn về chi phí chờ phân bổ.
Thứ ba: Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông bao gồm: vốn thành phẩm, vốn thanh toán và vốn tiền mặt.
Dựa vào cách phân loại trên, người ta có thể xác định được kết cấu vốn lưu động. Kết cấu vốn lưu động là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số vốn lưu động. Việc nghiên cứu kết cấu vốn lưu động sẽ cho ta xác định được trọng tâm quản lý chúng. Tất nhiên việc quản lý phải trên tất cả các mặt, các khâu và từng thành phần vốn lưu động, thế nhưng việc tập trung các biền pháp quản lý những bộ phận chiếm tỷ trọng lớn có ý nghĩa quyết định đến việc tăng nhanh vòng quay và tiết kiệm vốn lưu động.
Thông thường thì việc xác định nhu cầu vốn lưu động được xác định cho từng khâu và mỗi khâu lại được xác định cho từng yếu tố vốn lưu động.
Trong khâu dự trữ sản xuất người ta phải xác định nhu cầu về nguyên liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng, nhiên liệu và công cụ lao động nhỏ trên cơ sở của mức tiêu hao bình quân một ngày về các loại tài sản lưu động đó và thời gian dự trữ định mức của từng loại.
ở khâu sản xuất người ta phải xác định về nhu cầu về vốn sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm tự chế và chi phí chờ phân bổ. Căn cứ vào phí tổn sản xuất bình quân một ngày, độ dài của chu kỳ sản xuất, hệ số sản phẩm đang chế tạo, số dư đầu kỳ và chi phí chờ phân bổ, chi phí chờ phân bổ phát sinh trong kỳ và chi phí chờ phân bổ trong kỳ.
Trong khâu lưu thông người ta chỉ có thể xác định nhu cầu của vốn thành phẩm dựa vào giá thành công xưởng của thành phẩm hàng hoá sản xuất bình quân mỗi ngày kỳ kế hoạch, số ngày hàng hoá nằm trong kho và hệ số hàng hoá nhập kho.
Trong khâu này còn có các hình thức khác của vốn lưu động như vốn trong thanh toán và vốn bằng tiền, những loại này chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố khách quan, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì sự co giãn của chúng lại càng rõ nét, chính vì thế rất khó xác định nhu cầu của chúng.
Sau khi đã xác định được nhu cầu về vốn lưu động cho cả ba khâu: Dự trữ, sản xuất, và lưu thông, tổng hợp lại ta sẽ có nhu cầu vốn lưu động tối thiểu, thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp.
Do đặc điểm chu chuyển của vốn lưu động, việc xác định nhu cầu thường xuyên cần thiết của vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh được coi là một biện pháp quan trọng nhất đối với vốn lưu động. Tuy nhiên do các yếu tố trên thị trường thường xuyên biến động, vốn lưu động cần phải được bảo toàn để có thể bảo đảm cho quá trình sản xuất tiếp theo. Sự luân chuyển của vốn lưu động trên thực tế luôn chịu tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan làm cho vốn lưu động có khả năng thâm hụt. Các yếu tố này thường thể hiện là: hàng hoá bị ứ đọng, kém phẩm chất, mất phẩm chất hoặc không phù hợp với nhu cầu thị trường, sự rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh, bị lỗi kéo dài, nền kinh tế lạm pháp làm cho giá cả tăng vọt, vốn lưu động trong thanh toán bị chiếm dụng, nợ nần dây dưa không được thanh toán.
Vì vậy, doanh nghiệp phải chủ động bảo toàn vốn lưu động của mình nhằm bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh được thuận lợi. Nghĩa là: Đảm bảo cho số vốn cuối kỳ đảm bảo đủ mua được một số lượng hàng hoá tương đương với đầu kỳ khi giá cả tăng lên. Có như vậy mới đảm bảo sản xuất giản đơn tài sản lưu động trong điều kiện quy mô sản xuất ổn định.
4- các nguồn vốn của doanh nghiệp
ở trên chúng ta nói nhiều đến vốn cố định và vốn lưu động- đó là những điều kiện vật chất không thể thiếu được cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên phải cần tìm hiểu các nguồn vốn đó được lấy ở đâu ? làm thế nào có thể huy được được vốn.
Trước đây trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung ngân sách nhà nước cấp toàn bộ vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho việc thiết lập các xí nghiệp quốc doanh, cấp toàn bộ vốn lưu động cho các xí nghiệp mới bước vào hoạt động và cấp một phần vốn lưu động tăng thêm cho xí nghiệp mở rộng quy mô sản xuất. Hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự của các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh doanh khác nhau, nhiều xí nghiệp quốc doanh tỏ ra sự yếu kém của mình. Theo số liệu kiểm kê 1/1/1990, số các xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ rất lớn, khoảng 30% các xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ rất lớn, khoảng 30% các xí nghiệp quốc doanh địa phương ở trong tình trạng lỗ kéo dài, thực trạng đó kéo dài, thực trạng đó đặt ra cho các nhà quản lý kinh tế nói chung và các nhà quản lý tài chính nói riêng một vấn đề là: làm thế nào để đưa các xí nghiệp làm ăn thua lỗ đó thoát khỏi tình trạng hiện nay. Sự giải thể của một số doanh nghiệp và nhiều vấn đề có liên quan
II/ Vốn của Doanh nghiệp
1/ Vốn của doanh nghiệp
Quá trình sản xuất kinh doanh của cac doanh nghiệp trên các lĩnh vực sản xuất, lưu thông dịch vụ … thể hiện sự khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ và tính chất sản xuất kinh doanh, sự khác biệt đó phần lớn là do đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng doanh nghiệp quyết định cho dù sự khác biệt này thể hiện đến đâu chăng nữa thì theo ngôn ngữ kinh tế học, người ta cung có thể khái quát nó bằng đầu vào và đầu ra.
Để có các đầu ra là các hàng hoá và dịch vụ thì doanh nghiệp phải tổ chức tốt đầu vào. Đầu vào thể hiện bằng nhiều yếu tố, nhưng tựu chung lại thì chúng đều nằm trong hai yếu tố cơ bản: Sức lao động và tư liệu lao động.
Để có yếu tố đầu vào, trước hết nà doanh nghiệp phải huy động trong tay mình được một lượng tiền nhất định. Số tiền này được đầu tư vào xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc trang thiết bị và nguyên vật liệu cũng như trả lương cho công nhân. Nói một cách khác đi, só tiền đó được đưa vào sản xuất kinh doanh, trong quá trình này, số tiền được ứng ra ban đầu được thể hiện ở nhiều hình thái khác nhau của vật chất. Do có sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động, hàng hoá, dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Cuối cùng các hình thái vật chất khác nhau đó lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu, số tiền thu được do tiêu thu sản phẩm sẽ được sử dụng một phần do tiêu thụ cá nhân và nộp thuế, bảo hiểm…Phần còn lại tiếp tục được chuyển hoá thành các điều kiện sản xuất cho các chu kỳ sản xuất tiếp theo. Toàn bộ quá trình đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau:
TLSX Trả lương, nộp thuế
T - H - SX …SX -H' -T'
SLD TLSX …SX Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm T' phải đảm bảo bù đắp toàn bộ chi phí bỏ ra và có lãi. Theo ý nghĩa đó phần để dành chp sản xuất lấy từ tiền bán sản phẩm kông chỉ được bảo tồn mà còn được tăng thêm do hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo cho sản xuất kinh doanh được gọi là vốn. Vốn được biểu hiện cả bằng tiền mặt lẫn giá trị các vật tư, tài sản và hàng hoá của doanh nghiệp. ở đây cũng phải phân biệt giữa vốn và tiền tệ thông thường khác. Tiền sẽ được gọi là vốn khi chúng được lo sản xuất kinh doanh, ngược lại nó không được coi là vốn khi nó được dùng để mua sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của cá nhân và xã hội.
Theo trình bày ở trên thì vốn luôn được bảo tồn và tăng trưởng những điều đó không có nghĩa răng: Nếu như các giá trị đầu tư vào sản xuất kinh doanh không được bảo tồn thì không coi là vốn. Sự bảo tồn tăng trưởng của vốn là nguyên lý và điều kiện đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp. Thế những nền kinh tế thị trường lại chứa đựng trong nó hàng ngàn, hàng vạn những yếu tố rủi ro, bất ngờ, các yếu tố này luôn là những yếu tố khó giải cho các nhà doanh nghiệp.
Toàn bộ sự phân tích trên cho ta hiểu khái quát về vốn nói chung. Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Tuy nhiên trong quá trình vận động và chu chuyển, vốn được biểu hiện bằng những hình thái vật chất khác nhau. Chính sự khác nhau của hình thái vật chất về vốn sẽ quyết định đặc điểm, mà đặc điểm chu chuyển vốn lại là căn cứ khoa học để chúng ta xác định được phương thức quản lý chúng.
2/ Vốn cố định của doanh nghiệp
Để tiến hành sản xuất và kinh doanh, trước hết nhà doanh nghiệp phải mua sắm, xây dựng và lắp đặt những tư liệu lao động cần thiết cho hoạt động của mình. Thông thường những tư liệu đó là: Nhà xưởng, kho tàng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải ….
Những vật liệu này có thể tham ra vào những chu kỳ sản xuất, sau mỗi chu kỳ sản xuất , chúng bị hao mòn đi một phần nhưng vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu và do đó: Giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm . Để đơn giản hoá công tác quản lý, tư liệu lao động được chia làm hai loại :
-Thứ nhất: Tài sản cố định là những tư liệu lao động có đủ hai điều kiện sau:
+ Thời gian sử dụng trên một năm
+ Giá trị đạt đến một mức độ nhất định tuỳ theo sự quy định của từng thời kỳ.
Thứ hai: Công cụ lao động nhỏ là những tư liệu lao động bị thiếu một hoăc cả hai điều kiện nói trên.
Như vậy, vốn cố định là giá trị ứng ra để đầu tư vào những tài sản cố định nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông thường để có các tài sản cố định, doanh nghiệp phải ứng ra ban đầu và một số lượng vốn lớn, thế nhưng việc thu hồi vốn đó phải mất đị một hệ thốngời gian dài qua nhiều chu kỳ sản xuất. Sự thiếu vốn được thể hiện bằng việc chuyển dần giá trị tài sản cố định vào giá trị sản phẩm. Điều đó quyết định đến hình thái biểu hiện của vốn cố định trên hai góc độ: Vốn dưới dạng hình thái hiện vật, và vốn bằng tiền.
Tính chất và đặc điểm chu chuyển của vốn cố định đòi hỏi phải có cách quản lý nó một cách phù hợp. Làm thế nào để xác định được lượng hao mòn của tài sản cố định để dựa vào giá thành ? Cần phải quản lý chúng như thế nào để thực hiện được tái sản xuất tài sản cố định ? để giải quyết vấn đề này người ta phải dựa vào sự hao mòn của tài sản cố định để tiến hành khấu hao.
Một trong những đặc điểm nổi bật của tài sản cố định là : Chúng luôn luôn bị hao mòn là khi sử dụng lẫn khi không sử dụng. Hao mòn của tài sản cố định gắn liền với quá trình sử dụng và sự tác dụng của các yếu tố tự nhiên gọi là hao mòn hữu hình, mức độ hao hữu hình, mức độ hao mòn hữu hình tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng tài sản cố định. Ngoài hao mòn hữu hình tài sản cố định còn bị hao mòn vô hình, bị mất giá do sự tiến bộ của khoa học công nghệ.
Như vậy, chi phí về tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh thể hiện bằng sự hao mòn tài sản cố định. Một bộ phận giá của tài sản cố định tương ứng và mức hao mòn đó được dịch chuyển dần dần vào giá trị sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định.
Quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định nên người ta thường gọi là khấu hao cơ bản. Nhưng thực ra thì quỹ khấu hao không chỉ đảm bảo cho tái sản xuất giản đơn tài sản cố định mà còn có thể thực hiện tái sản xuất mở rộng tài sản cố định. Sở dĩ có thể nói được như vậy là vì: thời gian sử dụng của tài sản cố định là tương đối dài, mà tiền khấu hao lại được trích lập hàng năm. Trong khi vốn cố định dưới hình thức hiện vật còn sử dụng tốt, thì bộ phận khác của nó đã trở về hình thái tiền lệ ban đầu. Bộ phận này không phải là được cất trữ cho đến khi thu hồi hết thì doanh nghiệp mới đi mua sắm lại tài sản cố định mà nó được sử dụng ngay. Doanh nghiệp có thể dùng nó để mua sắm thêm máy móc thiết bị hoặc hiện đại hoá thiết bị máy móc này. Điều đó ở một chừng nào đó mang ý nghĩa của tái sản xuất mở rộng tài sản cố định.
Vấn đề đặt ra là: Làm thế nào để có thể tính khấu hao tài sản cố định một cách chính xác, hợp thời phù hợp với mức độ hao mòn hữu hình của tài sản cố định? Mức độ chính xác của tiền trích khấu hao ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo toàn vốn cố định. Nếu như tổng số tiền tính khấu hao cơ bản thấp hơn giá trị mua sắm ban đầu của tài sản cố định thì vốn cố định của doanh nghiệp sẽ bị thâm hụt. Trong điều kiện đó số tiền tính khấu hao sẽ không đủ để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định.
Việc tính khấu hao chính xác tất yếu phải tính cả hao mòn vô hình của tài sản cố định. Do đó, người ta cần phải quan tâm đến xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật, để dự đoán về khả năng hao mòn vô hình, từ đó xác định tuổi thọ kinh tế của tài sản cố định, thông thường thì tuổi thọ kinh tế được rút ngắn hơn so với tuổi thọ kỹ thuật của máy móc nhằm ngăn ngừa được hiện tượng mất giá do hao mòn vô hình gây ra.
Mặt khác tiền trích khấu hao là yếu tố chi phí cấu thành nên giá thành của sản phẩm. Do vậy tính khấu hao chính xác sẽ góp phần cho việc xác định giá thành chính xác. Điều này vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp, bởi vì bất cứ một nhà doanh nghiệp thực sự nào cũng cần phải biết so sánh giữa kết quả thu được và chi phí thực sự mà anh ta bỏ ra tránh tình trạng "lãi giả"-các xí nghiệp đã ăn vào vốn của mình nhưng vẫn tưởng rằng mình đang làm ăn có lãi.
Vậy thế nào là sự bảo toàn vốn cố định? Điều đó có nghĩa là: Trong quá trình vận động, cho dù vốn cố định được biểu hiện dưới hình thái nào đi chăng nữa, thì khi kết thúc một vòng tuần hoàn, vốn cố định vẫn được tái lập ít nhất cũng bằng quy mô cụ thể có thể trang lại tài sản bằng hoặc hơn cũ ở thời điểm hiện tại.
Để có thể bảo toàn vốn cố định thường thường người ta sử dụng các biện pháp như: đánh giá lại tài sản cố định, lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp, sửa chữa và xác định hiệu quả kinh tế của công tác sửa chữa lớn tài sản cố định, kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định, trong các doanh nghiệp.
Nhận thức rõ tầm quan trọng cửa công tác bảo toàn vốn sẽ có một ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Việc bảo toàn vốn không chỉ là cơ sở bảo đảm cho doanh nghiệp thực hiện các quá trình sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng mà còn tạo ra cơ sở để các doanh nghiệp có thể so sánh thực sự đúng đắn giữa chi phí bỏ ra và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại.
3-Vốn lưu động
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên liên tục.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Trong cùng một lúc, vốn lưu động của doanh nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới những hình thái khác nhau, muốn cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn đầu tư vào các hình thái khác nhau đó. Mức tồn tại hợp lý và đồng bộ của vốn lưu động sẽ giúp cho quá trình luân chuyển được thuận lợi. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì quá trình luân chuyển của các hình thái vốn lưu động sẽ giúp gặp khó khăn, cản trở và có thể gây ra gián đoạn trong sản xuất.
Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn lưu động thể hiện sự vận động của vật tư- vốn lưu động nhiều hay ít sẽ phản ánh vật tư hàng hoá nằm trên các khâu nhiều hay ít. Nhưng mặt khác vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay lãng phí.
Để tổ chức và quản lý vốn lưu động, người ta phải tiến hành phân loại chúng. Thông thường có nhiều cách phân loại vốn lưu động. Nhưng cách phổ biến nhất là phân loại dựa vào vai trò của vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại này vốn lưu động được chia thanh những loại sau:
- Thứ nhất: Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất bao gồm: vốn nguyên liệu chính, vốn vật liệu phụ, vốn phụ tùng thay thế, vốn vật tư bao bì đóng gói và vốn công cụ lao động lao động nhỏ.
Thứ hai: vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất bao gồm: vốn về sản phẩm đang chế tạo, vốn và bán thành phẩm tự chế và vốn về chi phí chờ phân bổ.
Thứ ba: Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông bao gồm: vốn thành phẩm, vốn thanh toán và vốn tiền mặt.
Dựa vào cách phân loại trên, người ta có thể xác định được kết cấu vốn lưu động. Kết cấu vốn lưu động là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số vốn lưu động. Việc nghiên cứu kết cấu vốn lưu động sẽ cho ta xác định được trọng tâm quản lý chúng. Tất nhiên việc quản lý phải trên tất cả các mặt, các khâu và từng thành phần vốn lưu động, thế nhưng việc tập trung các biền pháp quản lý những bộ phận chiếm tỷ trọng lớn có ý nghĩa quyết định đến việc tăng nhanh vòng quay và tiết kiệm vốn lưu động.
Thông thường thì việc xác định nhu cầu vốn lưu động được xác định cho từng khâu và mỗi khâu lại được xác định cho từng yếu tố vốn lưu động.
Trong khâu dự trữ sản xuất người ta phải xác định nhu cầu về nguyên liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng, nhiên liệu và công cụ lao động nhỏ trên cơ sở của mức tiêu hao bình quân một ngày về các loại tài sản lưu động đó và thời gian dự trữ định mức của từng loại.
ở khâu sản xuất người ta phải xác định về nhu cầu về vốn sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm tự chế và chi phí chờ phân bổ. Căn cứ vào phí tổn sản xuất bình quân một ngày, độ dài của chu kỳ sản xuất, hệ số sản phẩm đang chế tạo, số dư đầu kỳ và chi phí chờ phân bổ, chi phí chờ phân bổ phát sinh trong kỳ và chi phí chờ phân bổ trong kỳ.
Trong khâu lưu thông người ta chỉ có thể xác định nhu cầu của vốn thành phẩm dựa vào giá thành công xưởng của thành phẩm hàng hoá sản xuất bình quân mỗi ngày kỳ kế hoạch, số ngày hàng hoá nằm trong kho và hệ số hàng hoá nhập kho.
Trong khâu này còn có các hình thức khác của vốn lưu động như vốn trong thanh toán và vốn bằng tiền, những loại này chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố khách quan, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì sự co giãn của chúng lại càng rõ nét, chính vì thế rất khó xác định nhu cầu của chúng.
Sau khi đã xác định được nhu cầu về vốn lưu động cho cả ba khâu: Dự trữ, sản xuất, và lưu thông, tổng hợp lại ta sẽ có nhu cầu vốn lưu động tối thiểu, thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp.
Do đặc điểm chu chuyển của vốn lưu động, việc xác định nhu cầu thường xuyên cần thiết của vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh được coi là một biện pháp quan trọng nhất đối với vốn lưu động. Tuy nhiên do các yếu tố trên thị trường thường xuyên biến động, vốn lưu động cần phải được bảo toàn để có thể bảo đảm cho quá trình sản xuất tiếp theo. Sự luân chuyển của vốn lưu động trên thực tế luôn chịu tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan làm cho vốn lưu động có khả năng thâm hụt. Các yếu tố này thường thể hiện là: hàng hoá bị ứ đọng, kém phẩm chất, mất phẩm chất hoặc không phù hợp với nhu cầu thị trường, sự rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh, bị lỗi kéo dài, nền kinh tế lạm pháp làm cho giá cả tăng vọt, vốn lưu động trong thanh toán bị chiếm dụng, nợ nần dây dưa không được thanh toán.
Vì vậy, doanh nghiệp phải chủ động bảo toàn vốn lưu động của mình nhằm bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh được thuận lợi. Nghĩa là: Đảm bảo cho số vốn cuối kỳ đảm bảo đủ mua được một số lượng hàng hoá tương đương với đầu kỳ khi giá cả tăng lên. Có như vậy mới đảm bảo sản xuất giản đơn tài sản lưu động trong điều kiện quy mô sản xuất ổn định.
4- Các nguồn vốn của doanh nghiệp
ở trên chúng ta nói nhiều đến vốn cố định và vốn lưu động- đó là những điều kiện vật chất không thể thiếu được cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên phải cần tìm hiểu các nguồn vốn đó được lấy ở đâu ? làm thế nào có thể huy được được vốn.
Trước đây trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung ngân sách nhà nước cấp toàn bộ vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho việc thiết lập các xí nghiệp quốc doanh, cấp toàn bộ vốn lưu động cho các xí nghiệp mới bước vào hoạt động và cấp một phần vốn lưu động tăng thêm cho xí nghiệp mở rộng quy mô sản xuất. Hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự của các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh doanh khác nhau, nhiều xí nghiệp quốc doanh tỏ ra sự yếu kém của mình. Theo số liệu kiểm kê 1/1/1990, số các xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ rất lớn, khoảng 30% các xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ rất lớn, khoảng 30% các xí nghiệp quốc doanh địa phương ở trong tình trạng lỗ kéo dài, thực trạng đó kéo dài, thực trạng đó đặt ra cho các nhà quản lý kinh tế nói chung và các nhà quản lý tài chính nói riêng một vấn đề là: làm thế nào để đưa các xí nghiệp làm ăn thua lỗ đó thoát khỏi tình trạng hiện nay. Sự giải thể của một số doanh nghiệp và nhiều vấn đề có liên quan đến sự hoạt động của chúng. Chính sự bất ổn định này đão tạo ra một sự chưa được nhất quán trong việc hình thành các nguồn vốn cho các doanh nghiệp ở nước ta.
Tuy nhiên, dù thay đổi cụ thể như thế nào chăng nữa khi mọi doanh nghiệp với mọi hình thức sở hữu trong các lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ đều có thể huy động được vốn từ các nguồn sau:
- Vốn ngân sách cấp
- Nguồn vốn nội bộ do bản thân nhà doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư vào tài sản cố định và tài lưu động nhằm thực hiện mục đích kinh doanh.
-Vốn tín dụng
-Nguồn vốn do liên doanh ký kết.
-Các nguồn vốn có thể huy động thông qua thị trường vốn.
-Nguồn vốn từ nước ngoài.
5. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Vốn là điều kiện vật chất cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Thế nhưng một điều thực sự quan tâm là: vốn được sử dụng với hiệu quả như thế nào? Người ta thường so sánh doanh thu, lợi nhuận… với số vốn được huy động và sử dụng bình quân trong năm.
Tuy nhiên dù tính theo cách nào cũng cần thiết xuất phát từ mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể đạt được một doanh thu lớn nhưng không có lợi nhuận hoặc bị lỗ thì điều đó cũng không thể nói rằng kinh doanh có hiệu quả.
Do vậy, hiệu quả của vốn phải được thể hiện bằng lợi nhuận tạo ra trên một đồng vốn trong kinh tế thị trường, chỉ tiêu này rất quan trọng, nó sẽ chỉ co nhà doanh nghiệp rằng: Doanh nghiệp nên tiếp tục sản xuất hay phải chuyển sản xuất sang lĩnh vực khác, khả năng còn có thể tồn tại và đi lên hay là tuyên bố phá sản.
Tuy nhiên ngoài chỉ tiêu này, để biết được tình hình sử dụng vốn cố định và vốn lưu động còn có thể dùng các chỉ tiêu khác như: Hiệu suất sử dụng vốn cố định, hàm lượng vốn cố định.
Trong việc đánh giá tình hình sử dụng vốn lưu động, người ta thường dùng chỉ tiêu số lần luân chuyển của vốn lưu động, sự tiết kiệm tương đối và tuyệt đối do tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động.
Chỉ tiêu riêng các doanh nghiệp quốc doanh, hiện nay hiệu quả sử dụng vốn cố định của các doanh nghiệp này rất thấp. Theo điều tra thì trong toàn bộ các xí nghiệp quốc doanh, hệ số sinh lời bình quân là 7% trong một năm.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động cũng ở trong tình trạng tương tự, xét trong toàn bộ khu vực kinh tế quốc doanh, người ra nhận thấy vốn lưu động chu chuyển chậm, hệ số sinh lời thấp khoảng 11%.
Hãy đặt giả sử rằng toàn bộ số vốn cố định và vốn lưu động của xí nghiệp là vốn vay ngân hàng với lãi suất 3% tháng (tức là 36%/năm) thì toàn bộ ngành kinh tế quốc doanh bị lỗ như thế nào.
G. một số giải pháp tạo vốn cho doanh nghiệp quốc doanh ở Việt Nam hiện nay
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 và những năm tiếp theo. Đảng và nhà nước ta đã chỉ rõ "chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân". Tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là những vấn đề đang được Chính phủ, ngành ngân hàng và các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Bởi vì có huy động được vốn mới đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá phấn đấu mục tiêu năm 2020 cơ bản nước ta trở thành nước công nghiệp như đại hội Đảng đã đề ra.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, vào giai đoạn đầu của công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Không một nước nào không ở tình trạng tình trạng "đói vốn" đầu tư một cách gay gắt. Tuy nhiên tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, mỗi quốc gia từng doanh nghiệp có những biện pháp phù hợp để huy động vốn.
Đất nước chúng ta đang tiến lên xã hội chủ nghĩa xã hội bởi vậy trong các thành phần kinh tế mà Đảng và nhà nước ta xây dựng, thành phần kinh tế nhà nước có một vai trò hết sức quan trọng, là nhân tố trung tâm của nền kinh tế có tính chất quyết định đối với tính chất xã hội nếu chúng ta đang xây dựng. Do vậy các doanh nghiệp nhà nước - Đại diện cho thành phần kinh tế nhà nước đóng một vai trò trung tâm cũng đang ở thực trạng nêu trên. Do đó ở đây em xin nêu một số giải pháp tạo vốn của doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
Thứ nhất: tiếp tục xắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nó trên thị trường.
Một vấn đề nổi cộm trong các DNNN ta là sự tách rời lợi ích của những người quản lý doanh nghiệp với lợi ích kinh doanh củadoanh nghiệp. Không phải trong mọi trường hợp hễ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cũng tự động gia tăng lợi ích tối đa của người quản lý. Trái lại trong nhiều trường hợp lợi ích của người quản lý thoả mãn thì hơn khi doanh nghiệp từ bỏ phương thức làm ăn có hiệu quả nhất. Nảy sinh vấn đề này nên chăng là do không có sự rành mạch về quyền sở hữu ở các DNNN. Xét trên góc độ tích luỹ vốn, việc không tạo ra được các chủ sở hữu đích thực đối với những tài sản thuộc về DNNN không chỉ có hại cho chúng không được sử dụng một cách hiệu quả mà còn tạo điều kiện cho tiêu tiền lãng phí. Vì bởi lẽ cần phải tiếp tục cải tổ 1 khu vực là hết sức cần thiết. Cần phải nhanh chóng chuyển đổi một số các DNNN, không thiết yếu sang hình thức đa sở hữu hoặc sang các thành phần kinh tế khác nhau như công ty TNHH, Tổng công ty 91…
Cổ phần hoá một bộ phận quan trọng các DNNN. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp, mà tiến hành cổ phần hoá 100% hoặc chuyển vào toàn bộ vốn, tài sản bán cho cán bộ công nhân viên trong đơn vị và ngoài doanh nghiệp. Kể cả bán cho người nước ngoài vào Việt Nam. Có loại hình doanh nghiệp khi cổ phần hoá nhà nước chỉ nên giữ lại một tỷ lệ nhất định, còn đại bộ phận cổ phần bán cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp bằng một phần nguồn vốn quỹ phúc lợi được chia theo thời gian đóng góp của từng người cùng với nguồn tiền đóng góp thêm của họ. Số còn lại bán cho các đối tượng bên ngoài.
Trên thực tế tiến độ cổ phần hoá ở nước ta diễn ra rất chậm vì có sự chống đối từ nhiều phía, trong đó có những người được hưởng lợi từ hiện trạng của khu vực DNNN. Vì vậy cần phải tạo môi trường luật pháp vàthể chế thuận lợi cho việc cổ phần hoá DNNN và coi đây là một trong những giải pháp cơ bản để tạo vốn trong các doanh nghiệp.
Thứ hai: cho phép các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Chúng ta biết rằng hoạt động trong lĩnh vực thị trường vốn là một trong những yếu tố quan trọng, cần thiết đối với tất cả các doanh nghiệp nhất là các DNNN. Để tồn tại và phát triển đòi hỏi sản phẩm của các doanh nghiệp cần phải có sức cạnh tranh. Doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, phù hợp với nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên để làm được vấn đề này, đòi hỏi phải có vốn. Vậy vốn lấy ở đâu? Để trả lời cho câu hỏi này mỗi doanh nghiệp có cách làm riêng. Có thể huy động vốn từ dân cư, từ các đại lý của doanh nghiệp. Có thể nói đây là nguồn vốn quan trọng giúp không ít doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ và đứng vững trên thị trường tự khẳng định mình. Tuy nhiên việc huy động vốn theo cách này còn nhiều điều phải bàn như: phương thức huy động như thế nào? thời hạn huy động bao lâu? Lãi suất bao nhiêu? Được sử dụng vào những mục đích gì và đặc biệt giới hạn huy động là bao nhiêu? Đều chưa được quy định chi tiết, dẫn đến mỗi doanh nghiệp tiến hành theo một cách khác nhau. Dẫn đến việc huy động và sử dụng nguồn vốn này không thể tránh khỏi sự tuỳ tiện và mức độ rủi ro lớn. Trên thực tế doanh nghiệp, doanh nghiệp vay vốn từ ngân hàng, với tư cách là các chủ nợ, các Ngân hàng thường giám sát chặt chẽ là khâu lập kế hoạch, mục đích sử dụng vốn vay trong thực tế. Công việc các DNNN huy động vốn từ các đại lý của họ sử dụng như thế nào, người cho vay không thể kiểm soát được, nên dễ gây rủi ro cho các chủ nợ. Cho nên để giảm bớt rủi ro, bảo vệ quyền lợi cho người vay và huy động tối đa vốn nhàn rỗi trong xã hội thì việc huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp với thời hạn, lâi xuất, mục đích sử dụng rõ ràng là cấp bách đối với doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên huy động vốn bằng việc phát hành trái phiếu đối với các doanh nghiệp là việc làm mới mẻ, do vậy cần có sự giúp đỡ của Ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tín dụng khác. Việc huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua phát hành trái phiếu chỉ thực sự đạt hiệu quả cao một khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và mức lãi suất huy động thích hợp với một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả.
Thứ ba: nhanh chóng triển khai hình thức tín dụng thuê mua đối với các doanh nghiệp.
Chúng ta đã biết rằng, vấn đề được xem là điểm nút tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá, cũng như hội nhập nước ta với các khu vực và quốc tế theo tình thần nghị quyết Đại hội 8 của Đảng là phải tăng tốc đổi mới công nghệ. Việc đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ hiện đại không phải doanh nghiệp nào cũng làm được. Bởi "lựcc bất tòng tâm" không chỉ ở các doanh nghiệp có kinh nghiệm mà ở hầu hết các DNNN. Qua thời gian qua cho thấy doanh nghiệp có kinh nghiệm huy động truyền thống là vay của các tổ chức tín dụng bằng các hình thức thế chấp, cầm cố và bảo lãnh ssong việc vay vốn để đổi mới công nghệ thì các DNNN gặp rất nhiều khó khăn. Bởi vì một mặt nguồn vốn trung và dài hạn của các Ngân hàng có hạn, mặt khác các DNNN thiếu những điều kiện nhất định về tài sản thế chấp, cầm cố. Vì vậy quan điểm thuê máy móc thiết bị đã trở thành xu hướng của nhiều doanh nghiệp. Để đi thuê phải có người cho thuê. Thực chất đi thuê và cho thuê là một giải pháp cấp tín dụng bằng hiện vật hoặc trợ giúp về mặt tài chính để các dnn mua máy móc thiết bị.
Tín dụng thuê mua là hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn, còn khá mới đối với nước ta. Vì vậy để nhanh chóng triển khai hình thức tín dụng này đòi hỏi phải khẩn trương hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ thuê mua. Xác lập và mở rộng đối tượng tài sản thuê mua, khách hàng thuê mua cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành tạo điều kiện cho tín dụng thuê mua hoạt động.
Thứ tư: giải quyết những vướng mắc trong việc thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vay vốn Ngân hàng, để các doanh nghiệp nhận được nguồn tài trợ nhiều hơn từ các tổ chức tín dụng.
Thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn hoặc bên thứ ba dùng tài sản thuộc sở hữu của mình đêr đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ với bên cho vay. Song trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc, đặc biệt đối với DNNN. Bởi hầu hết các tài sản của DNNN đã lạc hậu, giá trị trên sổ sách còn lớn, nhưng đánh giá giá trị còn lại để làm căn cứ cho vay thì rất thấp. Các thiết bị của doanh nghiệp chưa có giấy tờ sở hữu (trừ phương tiện vận tải; tài sản là bất động sản chiếm tỷ lệ nhỏ, từ đó giá trị tài sản thế chấp và cầm cố của các DNNN nhỏ hơn rất nhiều so với vốn cần vay). Để giải quyết vấn đề nghịch lý trong nền kinh tế là: doanh nghiệp thì thiếu vốn, Ngân hàng lại thừa vốn không cho vay được. Một mặt nhà nước cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo điều kiện cho Ngân hàng hoạt động. Mặt khác, Ngân hàng cũng nên xem xét đến những nhân tố như tư cách của doanh nghiệp, năng lực quản lý của doanh nghiệp, triển vọng của doanh nghiệp cũng như khả năng sinh lời và khả năng đối phó với những bất lợi của doanh nghiệp, kết hợp với đánh giá tài sản của doanh nghiệp từ đó có những quyết định hợp lý tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất cũng như công tác giải ngân của Ngân hàng được thuận lợi.
Vấn đề tạo nguồn vốn cho các DNNN là hết sức quan trọng để các DNNN tự khẳng định vai trò trung tâm của mình trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên vấn đề sử dụng và quản lý nguồn vốn trong doanh nghiệp cũng là việc quan trọng mang tính chất quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Xuất phát từ thực trạng này công tác quản lý vốn nói riêng còn lỏng lẻo tình trạng thất thoát vốn của nhà nước diễn ra thường xuyên, tình trạng lỗ thật, lãi giả còn chiếm nhiều trong các doanh nghiệp, mà nguyên nhân quan trọng đó là cách thức quản lý còn yếu kém. Để khắc phục tình trạng này phải có sự kết hợp từ hai phía nhà nước và doanh nghiệp. Trong đó khuyến khích nâng cao tình thần trách nhiệm của doanh nghiệp (cá nhân và tập thể cán bộ, công nhân viên), nhà nước chỉ đóng vai trò giám sát.
Về phía nhà nước
Nhà nước cần sớm triển khai việc đánh giá hệ số tín nhiệm đối với các doanh nghiệp để từ đó áp dụng những ưu đãi với mức khác nhau đối với từng doanh nghiệp, những doanh nghiệp có hệ số tín nhiệm cao sẽ được ưu đãi vay vốn trước, vay số lượng lớn, trong trường hợp cần thiết, có thể lấy uy tín làm yếu tố đảm bảo vay.
Bất kỳ một dự án vay vốn nào của doanh nghiệp đều phải được xem xét tính hiệu quả và khả năng trả nợ mới được phép triển khai. Tăng cường công tác hoạt động kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện những sai phạm trong việc huy động vốn doanh nghiệp, việc lập đề án, việc sử dụng vốn, việc tích luỹ vốn trả nợ.
Cơ quan quản lý doanh nghiệp cần phải xây dựng những nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát thường niên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, chế độ giám sát tình hình sử dụng và huy động vốn tại doanh nghiệp, có ý kiến kịp thời trước sự thay đổi nguồn vốn tại doanh nghiệp, phải gắn quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ quản lý doanh nghiệp trước sự thiếu hụt mất mát tài sản, tiền vốn.
Về phía doanh nghiệp
Vấn đề cốt lõi để quản lý và sử dụng tốt nguồn vốn là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải thực sự hiệu quả, doanh nghiệp phải làm ăn có lợi nhuận, có tích luỹ. Muốn vậy doanh nghiệp phải tự đánh giá lại mình về khả năng cạnh tranh, nguồn lực của doanh nghiệp , từ đó xây dựng kế hoạch kinh doanh cho phù hợp. Nghị định 59/CP ban hành ngày 3/10/1996 đã quy định cụ thể hơn cơ chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp, song cần xã hội hoàn chỉnh các chính sách kinh doanh, phương hướng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực một cách cụ thể để từng doanh nghiệp xác định nhiệm vụ, kế hoạch hành động cho mình.
Nghị định 59/CP là một luồng gió mới trong việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý, sử dụng và phát triển tài sản và tiền vốn tại doanh nghiệp. Tuy nhiên cần quy định cụ thể hơn quyền lợi và trách nhiệm của ban lãnh đạo, ban kiểm soát và các cấp quyết định xử lý. Vấn đề nhanh chóng hình thành và thiết lập ban kiểm soát, kiểm toán nội bộ doanh nghiệp để kịp thời phát hiện những sai sót về sử dụng vốn trong hoạt động.
Mặt khác phải quy định trách nhiệm của cá nhân, tập thể trong việc đi vay, cho vay, bảo lãnh vay, sử dụng vốn vay và trả nợ.
iii. những biện pháp huy động và sử dụng vốn cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp khi chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Trong việc tìm hiêur các giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển nền kinh tế trong thời gian tới, cần quán triệt quan điểm của Đảng và nhà nước coi vốn trong nước là quyết định, vốn bên ngoài là quan trọng. Trên cơ sở đó chúng ta cần đề ra hệ thống giải pháp huy động vốn phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thực tế của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á những năm qua mà đỉnh cao là năm 1997 đã cho chúng ta thấy nếu quốc gia nào không chủ động được trong vấn đề vốn trong nước và quản lý tốt nguồn vốn từ bên ngoài thì khi khủng hoảng, lạm phát người lao động mất việc làm và ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống chính trị.
Do đó, chúng ta cần thống nhất chủ trương của nhà nước là đa dạng hoá các nguồn và các giải pháp huy động vốn, nhằm huy động sự đóng góp nhân lực, vật lực, tài lực của các tổ chức kinh tế - xã hội, của các tầng lớp dân cư và của toàn xã hội cho đầu tư phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Thực tế cho thấy việc huy động vốn đầu tư phát triển ở nước ta thời gian qua còn một số mặt hạn chế và tồn tại cần được khắc phục. Đó là cách thức và công cụ huy động vốn còn nghèo nàn, đơn giản, thiếu tính hấp dẫn người đầu tư, chính sách lãi suất còn có sự bất cập với cơ chế thị trường, gây khó khăn cho việc huy động vốn, hệ thống pháp lý bảo đảm an toàn về nguồn vốn và tài sản cho các đối tượng vay và cho vay chưa đầy đủ và đồng bộ gây tiêu cực trong nền kinh tế, như tham nhũng lãng phí và thất thoát tài sản trong toàn bộ nền kinh tế. Trong thời gian tới nhà nước cần ban hành chính sách huy động vốn chung cho nền kinh tế với việc đề ra các giải pháp huy động cụ thể đối với từng nguồn vốn. Đặc biệt là giải pháp tạo vốn cho các dự án trong lĩnh vực kinh tế xã hội có ý nghĩa quan trọng.
Do vậy xu hướng hình thành và phát triển của thị trường vốn ở Việt Nam là hết sức cần thiết.
1. Khái niệm thị trường vốn
Việc chuyển nền kinh tế nước ta từng bước sang nền kinh tế thị trường đang đặt ra trước các doanh nghiệp nhiều vấn đề hết sức mới mẻ, chẳng hạn tìm kiếm các nguồn vốn ở đâu để tái sản xuất mở rộng? thị trường tài chính nói chung thị trường vốn nói riêng sẽ là nơi giải quyết nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp.
Thật ra cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thật hoàn hảo cho khái niệm này. Nhưng như thường thấy ở bất cứ thị trường nào, tối thiểu nó phải bao gồm những người mua hàng hoá được bán trên thị trường đó là gì và giá cả thị trường của thứ hàng hoá đó.
Kinh tế hàng hoá phát triển là cơ sở đã có cho một thị trường tiền tệ (mà người ta quan niệm đồng nghĩa với thị trường tín dụng) nhằm cung cấp các nguồn vốn ngắn hạn cho các doanh nghiệp. Thị trường vốn, ngược lại là thị trường ở đó tập trung các quan hệ cung cầu về vốn dài hạn. Điều này thể hiện ở chỗ nó tạo cho những doanh nghiệp hay cá nhân có các nguồn tiền tệ tiềm tàng ngoài con đường thông dụng là gửi tiết kiệm ở Ngân hàng còn có thể mua cổ phiếu, trái khoán… để hưởng lợi tức. Ngược lại với các doanh nghiệp "đói vốn" đầu tư dài hạn để mở rộng sản xuất có thể tìm kiếm được nguồn vốn thông qua việc phát hành và bán cổ phiếu. Do việc tập trung vốn được tiến hành chủ yếu bằng cách phát hành chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, trái khoán…) nên thị trường chứng khoán là tập trung của thị trường vốn.
Thị trường chứng khoán được coi là cốt lõi của thị trường vốn. Đó là cầu nối giữa hoạt động của các nhà kinh doanh, tức là giữa những người "cần vốn" và người "có vốn". Trong thị trường chứng khoán thường được chia thành hai thị trường.
Thị trường sơ cấp: còn được gọi là thị trường cấp I là nơi phát hành lần đầu các chứng khoán để đưa vào lưu thông. Thị trường này có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là giai đoạn động viên các nguồn tài chính.
Thị trường thứ cấp: là thị trường trao đổi các chứng khoán đã phát hành. ở đây các nhà đầu tư có thể bán chứng khoán vào bất kỳ lúc nào. Hình thức này rõ ràng là linh hoạt, mềm dẻo hơn so với quan hệ tín dụng thông thường. Chính thị trường này mới là nơi có sức hấp dẫn và lôi cuốn những người có tiền.
Hai thị trường này có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau, bởi vì thị trường sơ cấp có hiệu quả hay không lại tuỳ thuộc vào hiệu quả hoạt động của thị trường thứ cấp. Đầu năm 2000 này ở Việt Nam đã có thị trường chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động, mong rằng nó sẽ phát triển bền vững và là nơi để những nhaf đầu tư và những người nhàn rỗi có cơ hội đầu tư tốt.
2. Xu hướng hình thành thị trường vốn
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường vừa là điều kiện vừa là đối tượng thúc đẩy thị trường vốn ra đời.
Đối với quản lý kinh tế theo quan điểm của Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam, và Đại hội VII tiếp tục khẳng định đã làm cho nền kinh tế thị trường cả nước sống động.
Trong cơ chế quản lý theo kiểu tập trung quan liêu, bao cấp, nhu cầu hình thành thị trường vốn không cần đặt ra. Nhưng khi chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh, tự chủ tài chính thì tình hình đã hoàn toàn khác, vì vậy, chuyển sang hạch toán kinh doanh thật sự đang là một đòi hỏi khách quan đối với việc thi hành thị trường vốn ở nước ta. Thị trường vốn là nơi giải đáp được nhiều khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp do ưu thế vốn của nó. Đó là con đường tích tụ vốn nhiều nhất, linh hoạt nhất. Tạo điều kiện dễ dàng cho các nhà đầu tư di chuyển lĩnh vực đầu tư. Mặt khác lợi ích cá nhân được thể hiện cụ thể và rõ ràng nhất, có tác dụng kích thích mọi người tham gia thị trường vốn.
Việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước cũng là một động lực thúc đẩy nhanh chóng hình thành thị trường vốn.
3. Những điều kiện hình thành thị trường vốn ở nước ta
Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới chỉ ra rằng, để hình thành thị trường vốn cần phải có những điều kiện nhất định. Không thực sự chuyển sang nền kinh tế thị trường mà tổ chức thị trường vốn thì sẽ không mang lại lại hiệu quả gì, thậm chí còn phải trả giá đắt. Cũng không thể tổ chức quản lý thị trường vốn bằng biện pháp hành chính ra mệnh lệnh được. Những điều kiện tối thiểu cần có đó là:
Thứ nhất: Nền kinh tế hàng hoá phát triển, không chỉ ở khu vực quốc doanh, mà ở tất cả các thành phần kinh tế. Sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển mới thúc đẩy các doanh nghiệp tìm kiếm được các nguồn vốn. Để thực hiện điều này phải triệt để xoá bỏ bao cấp, đảm bảo quyền tự chủ về tài chính của các doanh nghiệp khuyến khích họ phát triển và đa dạng hoá các hình thức kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó sự ra đời của những công ty cổ phần trên nhiều lĩnh vực kinh tế là một trong những nhân tố quan trọng.
Thứ hai: muốn cho người mua và người bán gặp nhau trên thị trường vốn phải có những trung gian tài chính. Nói cách khác hệ thống Ngân hàng phải được xắp xếp tổ chức hiệu quả hơn để hiện đại về nghiệp vụ, tình thông về công nghệ thị trường chứng khoán.
Thứ ba: cần phải ban hành một hệ thống các văn bản pháp quy và luật làm nền tảng cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường và thị trường vốn ở nước ta.
Không có pháp luật, không thể thực thi được thị trường chứng khoán nói riêngm thị trường vốn nói chung.
Sau cùng, để có hoạt động tốt của thị trường chứng khoán (thị trường vốn) phải làm cho các doanh nghiệp, mọi công dân hiểu được lợi ích của thị trường chứng khoán từ đó thiết thực tham gia vào thị trường bằng cách tích cực mua cổ phiếum trái khoán. Đây là công việc cực kỳ khó khăn khi mới bước vào nền kinh tế thị trường. Song phải luân giáo dục và thuyết phục bằng những hành động cụ thể để làm cho người dân mạnh dạn đầu tư giúp cho lượng tiền trong gần 80 triệu dân luôn vận động để phục vụ sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Phần kết luận
Nói tóm lại nhìn từ góc độ tổng thể việc nghiên cứu về tuần hoàn và chu chuyển của tư bản có một ý nghĩa hết sức thiết thực đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta, đồng thời cũng là bài học lý thuyết cơ bản để sinh viên kinh tế chúng em hiểu rõ và làm tốt công việc sau này.
Một điều nhận thấy rằng: tuy mục đích của sản xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hoàn toàn khác hẳn so với dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng việc tận dụng khả năng công suất của máy móc thiết bị để tránh hao mòn hữu hình và vô hình, chú ý bảo quản và sửa chữa, tiết kiệm các chi phí về vốn cố định và vốn lưu động cũng là yếu tố khách quan trong việc quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. ở đất nước ta trong giai đoạn này, việc cố gắng đưa hết máy móc vào trong sản xuất, tận dụng công suất máy móc sửa chữa và bảo dưỡng… không chỉ có tác dụng tránh hao mòn, mà còn có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động xã hội lên một bước cao và nhất là tránh được tình trạng lãng phí nghiêm trong về sử dụng vốn cố định.
Tăng tốc độ chu chuyển và tìm mọi biện pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn là yêu cầu chung của mọi nền sản xuất . Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa , do bản chất của nó, càng yêu cầu và có đầy đủ khả năng để thực hiện tốt vấn đề đó. Ngày nay đất nước ta đang thực hiện quá trình đổi mới mọi mặt chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, con đường mà chúng ta đã lựa chọn là đúng đắn để đi tới đích dân giàu nước mạnh xã hội công bằng và văn minh, song bên cạnh những thuận lợi chúng ta còn gặp nhiều khó khăn nhất là trong vấn đề quản lý đặc biệt là quản lý vốn trong các doanh nghiệp. Vì vậy nghiên cứu lý luận và vận dụng lý luận đó một cách sáng tạo linh hoạt trong thực tiễn quản lý vốn doanh nghiệp là hết sức quan trọng.
Doanh nghiệp - thành phần kinh tế trung tâm của nền sản xuất ở đó nguồn vốn là xương sống trong cơ chế kinh tế doanh nghiệp do vậy phải phát huy tối đa vòng quay của vốn. Đây là vấn đề không chỉ mình các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm mà còn có bàn tay vô hình và hữu hình của nhà nước thông qua các chính sách vi mô và vĩ mô để hỗ trợ và định hướng cho doanh nghiệp.
Là sinh viên của chuyên ngành kiểm toán chúng em thấy rằng nghiên cứu lý thuyết "tuần hoàn và chu chuyển tư bản" có một vai trò quan trọng đối với vấn đề nhìn nhận thực tiễn hôm nay và mai sau. Thiết nghĩ để đưa ra một quyết định đúng đắn trong quản trị kinh doanh đòi hỏi nhà quản lý phải dựa trên những cơ sở khoa học của tình hình tài chính doanh nghiệp do vậy người kiểm toán ở đây góp phần vào sự thành công của quản lý.
Hơn bao giờ hết ngày nay khái niệm kinh tế tri thức đã thực sự hiện hữu trong đời sống xã hội, muốn không bị tụt hậu chúng ta phải biết tận dụng thời cơ để hội nhập trong đó nâng cao trình độ quản lý trong hoạt động của doanh nghiệp là cấp thiết.
Mặc dù có sự chuẩn bị về thời gian và được sự hướng dẫn của thầy giáo chuyên môn, song bản thân người viết trình độ có hạn nên không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Em rất mong được quý thầy cô cho ý kiến để xã hội đề tài này tiếp tục được hoàn thiện hơn, phục vụ quá trình những khoa học của chúng em.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Thành - người trực tiếp hướng dẫn cho em viết đề tài này
Hà Nội tháng 12 năm 2000
Tài liệu tham khảo
Tư bản của C.Mac quyển II tập I
NXB sự thật. Hà nội 1963
Các văn kiện Đại hộic Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại hội VI, VII, VIII và dự thảo Đại hội IX
Các văn kiện của nhà nước
-Luật tổ chức doanh nghiệp
Luật đầu tư nước ngoài .
Tạp chí nghiên cứu kinh tế thế giới
Các tạp chí kinh tế khác có liên quan.
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28262.doc