Đề tài Tỷ giá hối đoái

- Xây dựng phương pháp luận tính toán và xác định tỷ giá hoàn chỉnh và công bố tỷ giá chính thức hàng ngày. - Củng cố và hoàn thiện công tác thống kê, thông tin nhằm cung cấp tình hình và số liệu liên quan đến tỷ giá một cách chính xác, đầy đủ kịp thời phục vụ cho việc điều hành chính sách tỷ giá có hịệu quả. - Xây dựng cơ chế quản ký ngoại hối phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế VN, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, tương quan với các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước trong khối ASEAN. - Điều chỉnh lãi xuất tiền gửi bằng VND và tiền gửi bằng ngoại tệ, kiểm soát một cách có hiệu quả nguồ vốn vay tín dụng thuơng mại nước ngoài của các doanh nghiệp. - Tiếp tục duy trì việc kiểm soát chặt chẽ chính sách tiền tệ. - Phối hợp với công tác chống buôn lậu, tăng cường khống chế, kiểm soát chặt chẽ việc dùng ngoại tệ ở thị trường tự do vào mục đích buôn lậu. - Cần có giải pháp hấp dẫn, thuận tiện trong tập trung và huy động mọi nguồn ngoại tệ còn nằm rải rác trong dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế

doc26 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2137 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tỷ giá hối đoái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tỷ giá cố định đã từng đóng một vai trò quan trọng. Có thể nói, sau chiến tranh thế giới thứ II, Châu Âu bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế bị kiệt quệ và đình đốn. Trong thời gian chưa đầy một thập kỷ, các nước Châu Âu đã hồi phục được nền kinh tế của mình và đang trên đà phát triển với tốc độ kinh tế ngày càng cao. Một trong những nhân tố quan trọng giúp các nước này và thế giới tư bản nói chung phục hồi và thịnh vượng là nhờ vào việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định trên phạm vi quốc tế trong một thời gian dài, mà những nguyên tắc của nó được thể hiên trong hiệp ước Bretton Woods. Những ưu điểm của tỷ giá cố định là : Tỷ giá giữa các đồng tiền được ấn định cố định , không thay đổi cho nên đã khuyến khích được thương mại quốc tế phát triển, phát huy được lợi thế so sánh của mỗi quốc gia trong ngoại thương, thúc đẩy quá tình phân công lao động quốc tế tăng năng suất lao động, giảm thất nghiệp và ổn định giá cả . Tỷ giá cố định đã khuyến khích được sự chung chuyển tư bản giữa các quốc gia.Vốn tư bản được chuyển đến nhiều nghành nhiều quốc gia mà ở đó ầu tư có hiệu quả cao. Nhu vậy, xét trong phạp vi quốc tế thì tổng đầu tư sẽ nhiều hơn ,góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế trong mỗi quốc gia. Những hạn chế : Chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá được hình thành không do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối mà bằng sự ấn định chủ quan mang tính chất áp đặt của chính phủ. Vì tỷ giá là một công cụ tài chính hết sức nhậy cảm và quan trọng, chịu tác động bởi nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô, như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát lãi suất…Cho nên sự biến động thường xuyên của nó với mức độ khác nhau là điều khó tránh khỏi. Do đó, việc tỷ giá công bố (cố định) tách rời khỏi giá trị thực của đồng tiền là tất yếu. Nhìn chung, khi một đồng tiền được định giá thấp thì chính phủ đễ duy trì nó hơn la khi nó được định giá cao. Những quố gia có đồng tiền định giá cao phải bán nguồn dự trữ ngoại tệ của mình trên thị trường hối đoái, nhưng điều này là có giới hạn vì nó còn phụ thuộc vào nguồn dự trữ ngoại tệ của chính phủ. Ngược lại, những quốc gia có đồng tiền định giá thấp, chỉ cần bán đồng tiên của mình trên thị trường hối đoái là dự trư ngoại tệ sẽ tăng lên. Về khả năng thực hiên biện phấp này đối với chính phủ là không hạn chế, song điều này sẽ gây lạm phát trong nước. Chính hạn chế này đã khiến hệ thống Bretton Woods sụp đổ là một tất yếu. 2. Chế độ tỷ giá thả nổi. Sau khi hên thống Bretton Woods sụp đổ hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thả nổi tỷ giá. Tuy nhiên, thả nổi tỷ giá cũng được chia làm hai loại: Thả nổi tự do và thả nổi có quản lý. Chế độ thả nổi tự do là chế độ mà tỷ giá hối đoái không có sự can thiệp nào của chính phủ, hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. Chế độ tỷ giá này chỉ áp dụng ở các nước có nền kinh tế phát triển cao. Chế độ thả nổi có quản lý là chế độ mà về nguyên tắc, việc hình thành tỷ giá hối đoái cũng do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định, nhưng không phải hoàn toàn. Trong những trường hợp cần thiết chính phủ sẽ có những biên pháp can thiệp để dữ vững sức mua của đồng tiền trong nước. Chế độ tỷ giá thả nổi đã được sử dụng hơn 20 năm nay cho ta thấy những ưu điểm và hạn chế sau: Ưu điểm: Chế độ tỷ giá này được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, các quan hệ này thường xuyên biến động theo nhiều nhân tố kinh tế. Do đó tỷ giá luôn luôn linh họat. Hạn chế: Tính không ổn định là dặc trưng cơ bản của chế độ tỷ giá thả nổi. Mặc dù có một số quan điểm ủng hộ cho chế độ tỷ giá này và cho rằng biến động của tỷ giá chỉ ở trong một giới hạn nhất định, phản ánh mức độ khác nhau trong lạm phát giữa các quỗc gia và coi đó như là một công cụ bù trừ trong điều chỉnh những thay đổi thực tế của các yếu tố kinh tế. Trong thực tế, tính không ổn định của chế độ thả nổi tỷ giá thể hiên ở chỗ : tỷ giá biến động một cách thường xuyên, không thể dự đoán được chiều hướng tăng hay giảm của nó trong thời gian tới. Không ổn định về tỷ giá sẽ dẫn tới không ổn định về thị trường ngoại tệ và thị trường hàng hoá. Chế độ thả nổi là một trong những nguyên nhân làm tăng tốc độ lạm phát. Thực tế đã chứng minh được rằng việc áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi đã gây ra lạm phát ở hầu hết các quỗc gia, với tốc độ ngày càng cao. Tỷ giá của một đồng tiền giảm xuống đã trở thành nguyên nhân lạm phát trong nền kinh tế, do giá cả hàng hoá nhập khẩu tăng lên. Vì vậy, chế độ tỷ giá thả nổi trong một số trường hợp không những không kiềm chế được lạm phát mà còn làm cho lạm phát diễn ra ngày càng nhanh hơn. Qua việc phân tích hoạt động của các chế độ tỷ giá và phân tích hạn chế của chúng, chúng ta thấy rằng: Để ổn định (đối nội và đối ngoại) và phát triển kinh tế mỗi quốc gia, thì ổn định tỷ giá hối đoái đóng vai trò quan trọng, ổn định không có nghĩa là cố định tỷ giá mà là chủ động điều chỉnh (can thiệp) tỷ giá đi theo những chiều hướng có lợi trong những điều kiện cụ thể theo những mục tiêu đề ra. Ngày nay, để đạt được sự ổn định trong lĩnh vực tỷ giá thì ngoài những cố gắng, lỗ lự của mỗi quốc gia còn đặt ra yêu cầu khách quan không thể phủ nhận, đó là hợp tác có hiệu quả giữa các quốc gia trong lĩnh vực này. III. Các nhân tố ảnh hưởng và một số biện pháp chủ yếu điều chỉnh tỷ giá hối đoái 1. Các nhân tố ảnh hưởng Có rất nhiều nhân tố tác động gây ra sự biến động của tỷ giá hối đoái với những mức độ và cơ chế khác nhau. Trong thực tế, tỷ giá hối đoái bị chi phối đồng thời bởi tất cả các yếu tố trên với mức độ mạnh yếu khác nhau của từng nhân tố, tuỳ vào thời gian và hoàn cảnh nhất định. Việc tách rời và lượng hoá ảnh hưởng của từng nhân tố là việc làm không thể. Các nhân tố trên không tách rời mà tác động tổng hợp, có thể tăng cường hay át chế lẫn nhau, đến tỷ giá hối đoái làm cho tỷ giá hối đoái luôn biến động không ngừng. Cán cân thương mại ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Cấn cân thương mại của một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu. Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ thu được ngoại tệ. Để tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại tệ lấy nội tệ, mua hàng hoá dịch vụ trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá hối đoái giảm. Ngược lại, khi nhập khẩu hàng hoá dịch vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ trên thị trường. Hành động này làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác động của hai hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ tác động mạnh yếu của các nhân tố, đó chính là cán cân thương mại. Nếu một nước có thặng dư thương mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hối đoái sẽ giảm, đồng nội tệ lên giá. Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá. Đầu tư ra nước ngoài, có ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái, cư dân trong nước dùng tiền mua tài sản ở nước ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp (xây dựng nhà máy, thành lập các doang nghiệp...) hay đầu tư gián tiếp (mua cổ phiếu, trái phiếu...). Những nhà đầu tư này muốn thực hiện hoạt động kinh doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua ngoại tệ trên thị trường, luồng vốn ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ tăng. Ngược lại một nước nhận đầu tư từ nước ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm. Đầu tư ra nước ngoài ròng là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và luồng vốn chảy vào một nước. Khi đầu tư ra nước ngoài ròng dương, luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn dòng vốn chảy ra nước ngoài,tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm trong trường hợp ngược lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy luật tối ưu hoá, luồng vốn sẽ chảy đến nơi nào có lợi nhất, tức là hiệu suất sinh lời cao nhất. Một nền kinh tế sẽ thu hút được các luồng vốn đến đầu tư nhiều hơn khi nó có môi trường đầu tư thuận lợi, nền chính trị ổn định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ, nguồn lao động dồi dào có tay nghề, thị trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất cao và sự thông thoáng trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ. Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước cũng ảnh hưởng rất lớn tới tỷ giá hối đoái. Khi lãi suất thực tế trong nước tăng làm cho nhu cầu về nội tệ để đầu tư tăng do đó làm tăng sức mua của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ, làm tăng tỷ giá của đồng nội tệ và ngược lại. Lãi xuất tiền gửi bằng ngoại tệ tăng làm cho lượng ngoại tệ vào nhiều làm dịu nhu cầu về ngoại tệ làm cho tỷ giá đồng nội tệ tăng lên… Lạm phát ảnh hưỏng đến tỷ giá hối đoái. Khi một nước có lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không đổi, hàng hoá dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nứơc ngoài trong khi hàng hoá dịch vụ nước ngoài rẻ hơn trên thị trường trong nứơc. Như vậy lạm phát ảnh hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ giá hối đoái tăng nhanh hơn. Trên thị trưòng tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ giá hối đoái tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế, tốc độ lạm phát có ảnh hưởng lớn đến tỷ giá hối đoái. Sự chênh lệch về tốc độ lạm phát của một nước so với một số nước khác sẽ làm cho tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước đó so với đồng tiền nước ngoài bị biến động. Một nước có mức lạm phát cao hơn các nước khác thì sức mua của đồng tiền nước đó sẽ thấp hơn các nước khác. Khi đó thì tỷ giá hối đoái của đồng tiền xẽ thấp hơn so với đồng tiền các nước khác và ngược lại. Tình hình về quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường hối đoái : tại một thời điểm nào đó, nếu cung về ngoại tệ lớn hơn cầu về ngoại tệ thì tỷ giá ngoại tệ sẽ bị sụt mạnh, tỷ giá tiền trong nước sẽ được nâng lên và ngược lại, tình trạng này giống như quan hệ về cung cầu về hàng hoá trên thị trường. Sự tác động của các giao dịch trên thị trường hối đoái và các hoạt động đầu cơ ngoại tệ (chủ yếu trên thị trường tư nhân) làm cho tỷ giá biến động. Sự tăng truởng hay suy thoái của nền kinh tế cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Mức độ tăng, giảm GDP thực tế cũng sẽ làm tăng hay giảm nhu cầu về ngoại tệ, từ đó, làm cho tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ tăng lên hay giảm đi. Theo quy luật cung cầu, cư dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân nước ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút, cung ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Nhân tố cuối cùng và cũng là nhân tố quan trọng nhất tác động đến tỷ giá hối đoái đó là tâm lý số đông. Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức kinh doanh ngoại tệ là các tác nhân trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối. Hoạt động mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng vào tương lai. Điều này giải thích tại sao, giá ngoại tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân chúng trong tương lai. Nếu mọi ngưòi kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong tương lai, mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại; Mặt khác, giá ngoại tệ rất nhậy cảm với thông tin cũng như các chính sách của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng Chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt thương mại, mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá hối đoái sẽ giảm nhanh chóng. Là một phạm trù kinh tế phức tạp, tỷ giá hối đoái của một đồng tiền ổn định hay thường xuyên biến động là do có sự tác động của nhiều nhân tố. 2 Một số biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái Ngày nay, dấu hiệu giá trị cũng như các phương tiện lưu thông hiện đại được sử dụng rất phổ biến. Trong điều kiện ấy, vấn đề tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở cả tầm vi mô và vĩ mô đều thực sự trở thành vấn đề lớn trong chính sách tiền tệ của bất cứ quốc gia nào. Việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể sử dụng 1 số biện pháp sau: Điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu: 1 trong số những biện pháp mà ngân hàng Trung ương sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái là biện pháp điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu, nhằm thay đổi quan hệ cung cầu về ngoại tệ trong nước. Khi tỷ giá hối đoái trong nước bị giảm thấp đi, nếu NHNN tăng lãi suất tái chiết khấu thì những nguồn ngoại tệ sẽ chảy vào trong nước góp phần làm dịu bớt căng thẳng về ngoại tệ, do đó làm cho tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước nâng dần lên và ngược lại.Tuy nhiên, chính sách lãi suất tái chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định, vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động qua lại một cách gián tiếp, chứ không phải quan hệ trực tiếp nhân quả.Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó biến động của lãi suất không nhất thiết phải kéo theo biến động của tỷ giá. Lãi suất cao có thể thu hút vốn ngắn hạn từ nước ngoài, nhưng nếu tình hình kinh tế chính trị xã hội không ổn định thì khó có thể thực hiện được vì vấn đề an toàn vốn phải đặt lên trên hết. Khủng hoảng 1971-1973 ở Mỹ là một ví dụ. Mặc dù lãi suất trên thị trường New- York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp 3 thị trường Frankfurk nhưng vốn ngắn hạn không được chuyển vào Mỹ mà lại được đưa đến Tây Đức và Nhật Bản. Can thiệp ngoại hối: Thông qua việc áp dụng biện pháp điều chỉnh này, NHNN trực tiếp can thiệp vào thị trường hối đoái bằng các hoạt động mua bán vàng và ngoại tệ nhằm điều chỉnh quan hệ cung cầu về hàng và ngoại tệ trên thị trường, từ đó tỷ giá hối đoái của đồng tiền trong nước được điều chỉnh.Tuỳ điều kiện quốc gia mà việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ này có sự khác nhau về phạm vi, quy mô tác động. Với những nước có nền kinh tế phát triển cao, các nghiệp vụ thị trường hối đoái được thực hiện trên quy mô rộng lớn. đôi khi mở ra trên phạm vi cả một khu vực, thậm chí thế giới.Điều chỉnh tỷ giá theo phương pháp này, Chính phủ thường gặp phải phản ứng ngược chiều nhau của các doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân cư trong xã hội bắt nguồn từ lợi ích kinh tế. Những mâu thuẫn này thường xảy ra giữa những nhà xuất khẩu và nhập khẩu, giữa những người đang nắm trong tay lượng ngoại tệ lớn và những người trong túi chỉ có nội tệ. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, Chính phủ cần có lượng dự trữ ngoại tệ đủ lớn để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Điều đó có nghĩa là cần lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái. Nguồn vốn để hình thành quỹ này là phát hành trái phiếu kho bạc bằng tiền nội tệ và sử dụng vàng để lập quỹ bình ổn hối đoái. Hạn chế của công cụ này là nó chỉ tác động lớn khi khủng hoảng tiền tệ ít nghiêm trọng. Hơn nữa, việc lập quỹ bình ổn hối đoái đòi hỏi các quốc gia phải có một thực lực nhất định về kinh tế. Phá giá tiền tệ: Phá giá đồng tiền là việc Nhà nước chính thức hạ thấp sức mua của đồng tiền nước mình so với các ngoại tệ hay là việc nâng cao tỷ giá hối đoái của ngoại tệ.Kết quả của phá giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái. Đây là điểm giống nhau giữa phá giá đồng tiền và điều chỉnh tỷ giá hối đoái, nhưng không phải không có sự khác biệt. Điều chỉnh tỷ giá hối đoái là việc làm thường xuyên, liên tục của Nhà nước nhằm điều chỉnh,duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế, đẩy lùi lạm phát. Tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo nguyên tắc duy trì biên độ dao động cho phép tăng hoặc giảm một tỷ lệ nhất định so với tỷ giá hối đoái chính thức. Nó khác hẳn với phá giá đồng tiền- một biện pháp bất đắc dĩ của Nhà nước, chỉ áp dụng trong những trường hợp hết sức cần thiết khi sức mua của đồng nội tệ thường xuyên bị sụt thấp so với ngoại tệ. Tuy phá giá tiền tệ chỉ là biện pháp tình thế nhưng nếu được sử dụng đúng đắn nó cũng phát huy những tác dụng nhất định: -Kích thích các hoạt động xuất khẩu, từ đó góp phần tăng thu ngoại tệ, hạn chế nhập khẩu, giảm chi ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. -Khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn chế xuất khẩu vốn cũng như các hoạt động chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, làm tăng khả năng cung ngoại tệ, kết quả làm cho sức mua đối ngoại của tiền trong nước sẽ tăng dần lên. -Khuyến khích các hoạt động du lịch vào trong nước và hạn chế du lịch ra nước ngoài, kết quả làm cho quan hệ cung cầu về ngoại tệ bớt căng thẳng. Chương II: Thực trạng tỷ giá hối đoái ở việt nam trong những năm gần đây Diễn biến phức tạp của tỷ giá trong thời gian qua chính là tấm gương phản chiếu mọi hoạt động cuả đời sống kinh tế xã hội và là căn cứ thực tế cho việc thực hiện tốt yêu cầu trên. I. Tnh hình tỷ giá hối đoái trong những năm vừa qua Trong quá trình thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái NHNN đã thường xuyên phối hợp với các ngành hữu quan trong việc phát hiện những bất hợp lý của chế độ tỷ giá hiện hành để đề xuất những giải pháp sửa đổi, bổ xung, giúp cho chính sách tỷ giá ngày càng hoàn thiện hơn. Nhờ vậy, NHNN luôn nhận được sự ủng hộ từ các ngành liên quan trong quá trình hoạch định cũng như tổ chức thực hiện chính sách tỷ giá. Đây là nguyên nhân cho sự tồn tại một cách vững chắc chế độ tỷ giá hiện hành. Đó là một chế độ tỷ giá linh hoạt, năng động và có khuôn khổ, là một chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước. Mục tiêu hàng đầu của chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam là góp phần ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam. Kết quả của việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của Nhà nước ta trong thời gian qua đã và đang nhận được sự đồng tình của dư luận trong và ngoài nước. Những thành quả mà chúng ta đã đạt được đó là: Góp phần giữ vững sức mua của đồng Việt Nam, kìm hãm và đẩy lùi lạm phát, đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế. Góp phần tăng cường tính ổn định của môi trường kinh tế cũng như giải pháp để duy trì, mở rộng và phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bảo vệ lợi ích của các thành viên trong xã hội, kể cả những người cư trú và không cư trú. Củng cố lòng tin của mọi người vào đồng Việt Nam. Đây là một yếu tố tâm lý đóng vai trò quyết định trong việc duy trì sự ổn định đời sống kinh tế, chính trị xã hội. Nó khơi dậy , kích thích và thúc đẩy mọi tầng lớp dân cư,mọi thành phần kinh tế đầu tư vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, làm thay đổi nhanh chóng, làm lành mạnh hoá bộ mặt kinh tế của đất nước. Để có căn cứ đánh giá chính xác chính sách tỷ giá hối đoái của nước ta trong những năm qua và xây dựng các quan điểm điều hành tỷ giá hối đoái trong thời gian tới, ta cần điểm qua các giai đoạn hình thành và phát triển của chính sách tỷ giá hối đoái ở nước ta. Trước năm 1988, từ ngày 25/11/1955 tỷ giá chính thức giữa đồng Việt Nam và đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc là : 1NDT = 1.470 VND; 1Rup (Liên Xô) = 0,5 NDT, tỷ giá chéo là 735 VND= 1 Rup. Sau đổi tiền ( 1959) tỷ giá VND so với Rúp và NDT thay đổi. Đến năm 1977 các nước XHCN thoả thuận thanh toán với nhau bằng đồng Rúp chuyển nhượng (RCN). Mỗi RCN có hàm lượng vàng là 0,98712 gr. Bên cạnh tỷ giá trên, Nhà nước còn dùng tỷ giá thanh toán nội bộ để thanh toán giữa các tổ chức và các đơn vị có thu chi ngoại tệ với ngân hàng ngoại thương, tính thu chi ngân sách Nhà nước khi nhận viện trợ bằng đồng Rúp và cấp phát cho các tổ chức kinh tế để thanh toán với các đơn vị ngoại thương. Tỷ giá hối đoái nội bộ được điều chỉnh như sau: Năm 1958: 1 Rúp = 5,64 VND. Năm 1986: 1 Rúp = 18 VND. Năm 1987: 1 Rúp = 150 VND. Năm 1988: 1 Rúp = 700 VND. Đến tháng 3/1989 chế độ kết toán nội bộ bị huỷ bỏ. Trong giai đoạn trước 1988, với chế độ độc quyền ngoại thương và ngoại hối, Nhà nước trực tiếp can thiệp vào việc xác định tỷ giá, không xét tới quan hệ cung cầu thực tế trên thị trường ngoại hối. Nhà nước đã thi hành chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá. Quan hệ thương mại của chúng ta chủ yếu là với các nước trong khối SEV với hình thức phổ biến là hàng đổi hàng theo một tỷ giá cố định đã được thoả thuận theo hiệp ước song phương và đa phương giữa các chính phủ. Sau khi có chủ trương thu hút vốn nước ngoài (1985) và thông qua luật đầu tư nước ngoài (1987) luồng ngoại tệ bằng USD lần lượt vào Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta chỉ dùng tỷ giá chính thức do Ngân hàng Trung ương áp đặt nên vẫn còn khoảng cách khá xa so với sức mua thực tế của USD và thị trường chợ đen. Đơn vị tính: VND/USD. Năm Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường 1985 15 115 1986 80 425 1987 368 1270 1988 3000 5000 1989 3900 4100 Tuy nhiên mức chênh lệch giữa 2 loại tỷ giá tính theo tỷ lệ % cũng dần giảm rõ rệt ( năm 1985 là 666,67% năm 1989 chỉ còn 5,12%). Từ khi chúng ta xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá với những điều chỉnh mang tính hành chính này không còn phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta nữa. Việc từ bỏ chế độ này là một xu thế tất yếu khi chúng ta mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Từ những năm 1989- 1990 khi quan hệ ngoại thương được bao cấp với thị trường truyền thống Đông Âu và Liên Xô cũ bị gián đoạn khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng USD. Kể từ đó, cơ chế tỷ giá cố định đã được thay thế dần bằng cơ chế điều tiết của Nhà nước theo tín hiệu thị trường. Tuy nhiên để đi đến một chính sách tỷ giá tự chủ,có thể kiểm soát được các biến động thị trường, cơ chế quản lý ngoại tệ nói chung và cơ chế quản lý hối đoái nói riêng đã trải qua những điều chỉnh lớn. Có thể chia thành những giai đoạn như: Giai đoạn thả nổi tỷ giá hối đoái 1989- 1992: Trong giai đoạn này, tỷ giá giữa VND/USD biến động mạnh theo hướng tăng liên tục kèm theo các cơn sốt, các đột biến lớn. Thời kỳ này tỷ giá danh nghĩa tăng từ 4.200đ/1USD tới 12.720đ/USD. Theo thống kê của tạp chí ngân hàng, tỷ giá hối đoái giữa VND/USD từ 1989-1992 biến động như sau: Bảng 1: Tỷ giá danh nghĩa giữa USD/VND: 7.000 N¨m §i¹ ®iÓm Th¸ng 1 Th¸ng 3 Th¸ng 4 Th¸ng 5 Th¸ng 6 1989 Ng©n hµng 3.500 4.200 4.350 4.100 4.200 T­ nh©n 5.200 5.350 4.400 4.225 4.575 1990 Ng©n hµng 4.300 4.300 4.800 5.750 6.650 T­ nh©n 4.650 4.450 5.600 6.300 7.050 1991 Ng©n hµng 7.000 7.400 8.300 10.700 12.720 T­ nh©n 7.400 7.900 8.830 11.050 12.550 1992 Ng©n hµng 11.880 11.550 11.285 10.950 10.720 T­ nh©n 12.200 11.550 11.290 10.980 10.650 Số liệu trên cho thấy sự biến động mạnh của tỷ giá VND/USD từ năm 1990 trở đi. Đỉnh cao của mức tăng giá USD là cuối năm 1991. Ngày 4/12/1991 giá USD trên thị trường tư nhân tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 14.450 VND/USD và 14.580 VND/USD. Giá USD trong tháng 12/1990 đã tăng từ 60% đến 80% so với mức giá đầu năm. Mặc dù trong giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý của nhà nước đã có nhiều thay đổi, như chuyển từ hình thức quản lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình quân cho tất cả các nhóm hàng sang tỷ giá theo nhóm hàng hoá và duy trì tương đối ổn định các tỷ giá này, hoặc nếu có thay đổi thì cũng ở mức độ nhỏ nhằm duy trì ổn định hệ thống giá vật tư và xuất khẩu, nhập khẩu nên tỷ giá công bố vẫn xa mức tỷ giá hình thành trên thị trường. Hơn nữa phần ngoại thương ngoài kế hoạch ngày càng lớn khiến cho thị trường ngoại tệ ngầm ngày càng phát triển và có xu hướng phản ánh tương quan giá trị thực giữa đồng nội tệ với đồng ngoại tệ. Tình trạng leo thang của giá đồng USD đã kích thích tâm lý dự trữ USD, nhằm mục đích đầu cơ ăn chênh lệch giá. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có những quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố.Giai đoạn này ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Qua kiểm tra 26 đơn vị sử dụng ngoại tệ ở Thừa Thiên Huế thấy tất cả đều có sai phạm: Bán USD ra thị trường: 996,682 USD. Cho vay lấy lãi : 102,694 USD. Chuyển nhượng cho nhau hơn 2 triệu USD lấy chênh lệch 3,5 tỷ USD. Tình trạng tỷ giá hối đoái bị thả nổi thời kỳ này có nguyên nhân do cơ chế quản lý ngoại tệ chậm sửa đổi,không theo kịp bước chuyển của nền kinh tế thị trường. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là do những khó khăn trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Do mất nguồn nhập siêu từ Liên Xô cũ nên đất nước thiếu ngoại tệ nghiêm trọng.Điều này dẫn đến tình trạng phải mua USD để trả nợ đến hạn do đó đã dẫn đến "cơn sốt" USD theo chu kỳ vào cuối quý, cuối năm trong các năm 1990- 1991. Tình trạng leo thang giá USD đã thúc đẩy lạm phát do đồng Việt Nam bị mất giá mạnh và do giá hàng nhập khẩu tăng nhanh. Trước tình hình đó từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản lý ngoại tệ, đổi mới chính sách và cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng: Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có ngoại tệ phải bán cho Ngân hàng theo tỷ giá ấn định bằng biện pháp kinh tế như: mở trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi mua bán ngoại tệ với nhau theo thoả thuận. Thay đổi cách quản lý ngoại tệ , đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa Ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên cơ sở tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá chính thức. Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá mềm dẻo như trên cộng với sự điều tiết của Ngân hàng Nhà nước đối với lượng ngoại tệ mua bán tại các phiên giao dịch đã phá được tâm lý đầu cơ ngoại tệ ngăn chặn được xu hướng tăng giá quá mức của USD trên thị trường. Từ tháng 3/1992, giá USD bắt đầu giảm. Tỷ giá VND/USD vào thời điểm cuối năm 1991 tại các thị trường tư nhân Hà Nội có lúc lên tới 14.500 VND/1USD, đến tháng 3/1992 chỉ còn 11.550 VND/1USD đến cuối năm còn 10.650 VND/1USD và còn tiếp tục giảm tới cuối năm 1992. Giai đoạn 1993-1996: Trong dịp Tết Nguyên Đán Nhâm Thân 1993, có khoảng 60000 Việt kiều về ăn Tết mang theo lượng ngoại tệ 300-400 triệu USD dẫn tới cung USD tăng, đồng USD giảm nhanh.Có ngày giá USD giảm xuống còn 9.950 VND/USD tại Hà Nội, 9.750 VND/USD tại Hồ Chí Minh ( 13/01/1993). Việc tăng giá đồng nội tệ góp phần quyết định chuyển xuất siêu sang nhập siêu vì vậy Nhà nước phải can thiệp nhằm nâng giá USD. Từ tháng 3/1993, USD đã lên giá dần và duy trì hướng lên giá một cách ổn định. Từ cuối năm 1994, USD liên tục mất giá so với các đồng tiền chủ chốt khác, đặc biệt so với đồng Yên( Nhật Bản). Tuy nhiên, trên thị trường Việt Nam., giá USD vẫn tương đối ổn định. Tuy chỉ tăng 1,7% trong năm 1994 và 0,4% trong quý I năm 1995 nhưng đã tạo điều kiện cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu, phù hợp với chiến lược kinh tế hướng ngoại Giai đoạn 1997-2000: Từ năm 1997- 1998, chênh lệch lãi suất giữa VND và USD giảm dần, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực bùng nổ làm cho giá trị đồng tiền của các nước trong khu vực giảm nhanh( Đồng Rupiah Inđônêxia mất giá 130%, đồng Baht Thái Lan mất giá 100%, đồng Ringgit Ma-lai-xi-a mất giá 60%... Đồng thời lượng vốn đầu tư vào Việt Nam giảm mạnh. Xu hướng của các nhà đầu tư và dân chúng là rut VND để chuyển sang ngoại tệ tăng lên. Hơn nữa do năm 1996, khối lượng L/C trả chậm khá lớn và phần lớn đến hạn trả là năm 1997,do vậy làm tăng nhu cầu mua ngoại tệ trong nước để trả nợ đến hạn.Tất cả những điều kiện trên gây áp lực giảm giá VND.Trước tình trạng đó Chính phủ đã thực hiện hai lần tăng giá từ 11.113đ/ 1 USD năm 1996 lên 13.908đ/1USD năm 1998. Việc điều chỉnh giá lần này là một quyết định kịp thời. Nhiều chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng mức tỷ giá hiện nay chính là thời điểm dừng thích hợp. Việc tăng tỷ giá đã góp phần giảm nhập siêu 20,3% năm 1997 xuống còn 17,6% năm 1998. Trong năm 1999, với cơ chế điều hành tỷ giá mới, chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước ở nước ta hiện nay càng có cơ hội phát huy hiệu quả. Nếu trước tháng 2 năm 1999, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam là cơ chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch ở thời điểm tương ứng có khi lên đến 10% thì từ ngày 25/02/1999 NHNN Việt Nam đã công bố 2 quyết định mới về tỷ giá: Quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN7 về việc công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam với các ngoại tệ. Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 về việc quy định nguyên tắc xác định giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức được phép kinh doanh ngoại tệ. Từ ngày 26/2/1999, NHNN chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ( TTNTLNH) của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Căn cứ vào đó các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay không vượt quá 0,1% so với tỷ giá này. Việc điều chỉnh tỷ giá này nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam; giảm bớt sự mất cân bằng của đồng Việt Nam so với USD, dịch chuyển tỷ giá dần tới trạng thái cân bằng của nó. Nhờ cơ chế điều hành tỷ giá mới, tình hình tỷ giá hối đoái ở Việt Nam rất ổn định, không biến động nhiều lắm, tỷ giá giữa VND và USD giao động trong khoảng 14.000 - 14.014 đ/ 1 USD. Trong năm 2000, từ ngày 5/9, cơ chế tỷ giá trong kinh doanh ngoại tệ của các NHTM được thực hiện theo quyết định số 289/2000?QĐ-NHNN7 ngày 30/8/2000 của Thống đốc NHNN quy định mới về nguyên tắc xác định tỷ giá của các giao dịch hối đoái kỳ hạn , hoán đổi của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Còn nguyên tắc xác định tỷ giá giao ngay vẫn được thực hiện theo quyết định số 65/1999/QD-NHNN7. Trong quyết định số 189, Thống đốc NHNN quy định đối với giao dịch giữa VND và USD, mức tỷ giá áp dụng cho từng kỳ hạn cụ thể tối đa không quá trần của tỷ giá giao ngay áp dụng tại thời điểm ký kết hợp đồng dài hạn, hoán đổi( tỷ giá giao dịch do NHNN công bố cộng0,1%) cộng với mức gia tăng cho phép( tỷ lệ % của mức giá giao ngay) quy định đối với từng kỳ hạn cụ thể như sau:0,2% của trần tỷ giá giao ngay đối với kỳ hạn 30 ngày, 0,25% đối với kỳ hạn 31- 44 ngày, 0,4% đối với kỳ hạn từ 45 ngày đến 59 ngày; ... 1,48% đối với kỳ hạn từ 165 ngày đến 179 ngày, và 1,5% đối với kỳ hạn 180 ngày. Nếu trong năm 1999, đồng Việt Nam chỉ giảm 1% thì hết tháng 9 năm 2000 đã giảm 1,33% so với cuối năm 99 và đến cuối tháng 10 năm 2000 đã giảm 2,2% so với USD. Đặc biệt, trong tháng 10, VND đã giảm trung bình 8đ/ngày. Nhìn chung, trong năm 2000, VND đã giảm giá 2,3% trong khi đồng tiền của các nước trong khu vực châu á liên tục mất giá so với USD ở mức giảm từ 8-25%.Hiện tượng giảm giá VND liên tục trong thời gian qua là do ảnh hưởng của : - Biến động ngược chiều về xu hướng lãi suất ở Mỹ , châu Âu và châu á gây ảnh hưởng đến tỷ giá USD/VND. Sau 3 lần tăng lãi suất trong năm 1999, từ đầu năm 2000 tới nay, Cục dự trữ Liên bang Mỹ tiếp tục 3 lần tăng lãi suất, đưa lãi suất của Mỹ lên mức cao nhất kể từ năm 1991.Với lãi suất Mỹ tăng cao, có tác dụng thu hút các luồng vốn ngắn hạn bằng USD đổ vào Mỹ, khiến USD ngày càng có giá, cầu về USD trên bình diện quốc tế ngày càng gia tăng. Vì vậy mà tỷ giá USD so với các đồng tiền khác đều tăng. - Giá dầu trên thị trường quốc tế tăng cao, trong khi giá cà phê, gạo ngày càng giảm gây sức ép đối với cán cân thương mại và tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam. - Các đồng tiền trong khu vực mất giá so với USD gây ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái của VND. Trong khi lãi suất tại Mỹ và châu Âu có xu hướng tăng thì lãi suất tại khu vực Đông á và Việt Nam lại có xu hướng giảm sau khi tăng cao theo chương trình chống khủng hoảng trong hai năm 1997,1998. Hai xu hướng biến động ngược chiều này đã gây sức ép lớn làm giảm giá các đồng tiền trong khu vực kể cả đối với VND.So với thời điểm đầu năm, các đồng tiền trong khu vực đã mất giá từ 5-32% trong khi đó VND chỉ mất giá trên 2%, khiến cho khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể bị xói mòn nếu VND không giảm giá theo. Tình hình trên khiến cho Việt Nam muốn duy trì khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thương mại thì phải để cho VND giảm giá. Trong 7 tháng đầu năm 2001, kể từ đầu tháng 5- 25/6 , việc tỷ giá hối đoái của USD so với VND tăng liên tục trong nhiều tuần trên cả thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường tự do đã tạo ra những phản ứng rất khác nhau.Tính từ đầu năm đến tháng 7/2001, đồng USD lên giá chừng 3,7% so với VND trong khi lên tới 12% so với đồng Euro và 4% so với đồng Baht ( Thái Lan). Có thể nhận thấy tỷ giá USD có biểu hiện nóng lên "đột ngột" kể từ cuối năm 2000, nhưng đã phần nào dịu xuống trong tháng 3/2001 khi ảnh hưởng giảm lãi suất của đồng USD ( do sự đảo chiều trong chính sách tiền tệ của FED trước nguy cơ suy thoái của nền kinh tế Mỹ) thực sự tác động đến Việt Nam. Nhưng kể từ tháng 5/2001, tỷ giá tăng liên tục qua từng tuần và nhiều khi qua từng ngày trên cả hai thị trường chính thức và tự do. Trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá tăng khoảng 96đ/USD trong tháng 5 và kể từ giữa tháng 6 tỷ giá tăng liên tục từ 8- 14đ/ USD mỗi ngày. Tỷ giá USD trên thị trường tự do cũng có những biến động tương tự nhưng với mức giao động cao hơn và chênh lệch tỷ giá tại hai thị trường có xu hướng dãn rộng. Diễn biến tỷ giá USD trong năm 2000 và nửa đầu năm 2001: Trong n¨m 2000 1/2001 2/2001 3/2001 4/2001 5/2001 62001 Tû gi¸ liªn ng©n hµng 14..022- 14.501 14.543 14.558 14.573 14.595 14.696 14.865 T¨ng so víi th¸ng tr­íc(%) 33 24 15 22 101 169 Tû gi¸ TTTD(VND/1 USD) 14.160- 14.540 14.630 14.680 14.730 14.790 14.910 15.050 T¨ng (VND/ 1 USD) 90 50 50 60 120 140 Mặc dù tỷ giá có những biến động có vẻ như "bất thường" nhưng NHNN không áp dụng những biện pháp can thiệp thị trường mạnh hoặc sử dụng trở lại các biện pháp hành chính (như tăng tỷ lệ kết hối). Điều này khẳng định thêm việc quyết tâm theo đuổi chính sách điều hành tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cung cầu thị trường của NHNN. Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu kinh tế thì sự biến động tỷ giá một cách bất thường này là do các nguyên nhân: Do thực hiện chủ trương kích cầu, chúng ta liên tục hạ lãi suất VND trong khi đó lãi suất USD trên thị trường quốc tế lại liên tục tăng dẫn tới lãi suất USD trên thị trường Việt Nam buộc phải tăng theo và đã có lúc lãi suất 2 đồng tiền USD và VND cân bằng nhau. Hậu quả là đã có sự chuyển dịch từ VND sang USD làm cho nhu cầu USD tăng lên và cung về USD giảm đi đáng kể. Thêm vào đó, chênh lệch lãi suất tiền gửi của USD tại Việt Nam với thị trường quốc tế khá lớn cũng ảnh hưởng tới sự biến động tỷ giá. Do ảnh hưởng của tình hình cán cân thanh toán sau khi tổng hợp cán cân thương mại, cán cân vốn và tài chính vãng lai của nước ta trong thời gian qua. Thị trường Việt Nam có đặc điểm mang tính truyền thống là chuộng USD, thể hiện qua tình trạng khá phổ biến là ngoại tệ được sử dụng trong thanh toán trong dân cư dưới hình thức tiền mặt , gửi vào ngân hàng dưới dạng tiết kiệm và ít được chuyển ra VND ngay cả khi không có chênh lệch lớn về lãi suất giữa hai đồng tiền. Tuy nhiên, theo các chuyên gia của Dragon Capital nguyên nhân chính của lạm phát trong thời gian qua là sự tăng giá thức ăn và năng lượng trên thế giới đã tác động đến giá của các mặt hàng có quyền số lớn như đã nêu ở trên. Và nếu vậy thì theo họ các biện pháp chống lạm phát vừa qua mà chủ yếu là thắt chặt chính sách tiền tệ là chưa hoàn toàn trúng. Tỷ giá đồng nội tệ/USD tại mỗi thời điểm)/(tỷ giá đồng nội tệ/USD tháng 1-2005. (Nguồn Dragon Capital) Theo họ vấn đề là tỷ giá hối đoái. Đồng Việt Nam đã được neo vào đồng USD từ lâu. Lấy tỷ giá của đồng nội tệ/USD của các nước Việt Nam, Philippines (phil), Trung Quốc (China), Thái Lan và Malaysia ở mỗi thời điểm chia cho tỷ giá tương ứng ở tháng 1-2005 (để có điểm gốc là 1 cho tiện so sánh). Biến động tỷ giá như vậy từ 1-2005 đến tháng 4-2008 Trong thời gian này đồng USD đã mất giá đáng kể so với các đồng tiền khác (như Euro, Yên hay Bảng Anh) và cũng mất giá so với các đồng tiền của Philippines, Trung Quốc,  Thái Lan và Malaysia, nói cách khác các đồng tiền này đã lên giá so với USD (Pillipines cỡ 27%, Trung Quốc cỡ 16%, Thái Lan và Malaysia cỡ 20% vào tháng 4-2008 so với tháng 1-2005) như có thể thấy trên hình trên. Ngược lại đồng Việt Nam vẫn bị neo vào đồng USD (thậm chí còn mất giá so với USD). Lạm phát ở Việt Nam, Philippines, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia Theo cách nghĩ của lý thuyết kinh tế truyền thống đồng nội tệ (VND) yếu sẽ kích thích xuất khẩu, VND mạnh (lên giá) sẽ kích thích nhập khẩu và gây khó khăn cho xuất khẩu. Tuy nhiên cách suy nghĩ này không hoàn toàn đúng. Với đồng VND yếu (xem hình 3) xuất khẩu của Việt Nam đúng là đã tăng trưởng rất ngoạn mục (năm 2007 tăng  22,5%, 4 tháng đầu năm 2008 tăng 27,6% (tất cả đều được tính bằng USD nếu trừ đi phần USD mất giá thì thành tích tăng trưởng xuất khẩu chưa hẳn đã tốt).  Thế nhưng nhập khẩu còn tăng nhanh hơn nhiều, 44% năm 2007 và 71% trong 4 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước, làm cho nhập siêu ở mức báo động. Có thể thấy cách nghĩ truyền thống đã quá đơn giản hóa vấn đề và không thể đứng vững. Với khái niệm phản thân của mình, George Soros [Giả kim thuật Tài chính, The Alchemy of Finance, tr.27-45 và 69-80] gợi ý cách suy nghĩ thực tiễn hơn nhiều. Theo các chuyên gia của Dragon Capital, chính chế độ tỷ giá hối đoái này đã khuyếch đại tác động của sự tăng giá thức ăn và năng lượng thế giới lên giá cả ở Việt Nam và gây ra lạm phát tăng nhanh so với các nước đó 1 Những kết quả đạt được Thực tế trong giai đoạn vừa qua, tỷ giá hối đoái đã phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng Việt Nam và quan hệ cung cầu về ngoại tệ của nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước đã dần nới lỏng đối với cơ chế điều hành tỷ giá,biên độ giao dịch cho các ngân hàng thương mại đã dần được mở rộng liên tục so với tỷ giá chính thức. Chính cơ chế điều hành tỷ giá dựa trên tỷ giá chính thức đã tạo điều kiện cho NHNN dễ dàng kiểm soát và điều tiết thị trường ngoại hối. Việc dao động trong một biên độ nhất định đối với tỷ giá hối đoái chính thức đã giúp cho tỷ giá hối đoái có được sự ổn định tương đổi trong thời gian qua, góp phần không nhỏ để đạt mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế. Đồng thời thông qua xu hướng tỷ giá của các ngân hàng thương mại, NHNN có thể nắm bắt diễn biến của cung cầu ngoại tệ thực tế trong nền kinh tế, nhận biết được xu hướng vận động của tỷ giá hối đoái để có kế hoạch điều chỉnh kịp thời, tránh được những đột biến và những cú sốc có thể xảy ra đối với nền kinh tế. Việc điều hành tỷ giá trong một biên độ dao động nhất định đã hạn chế đầu cơ tỷ giá của các ngân hàng và các cá nhân( vì chênh lệch giữa giá mua vào và bán ra đã được giới hạn tối đa). Cơ chế tỷ giá thống nhất cũng tạo điều kiện cho việc hướng dẫn và vận hành thành công guồng máy ngân hàng, tránh được các rủi ro cũng như ảnh hưởng tiêu cực của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế đang chuyển đổi, tạo điều kiện chắc chắn cho các hoạt động của nền kinh tế. Phương án điều hành hiện tại cũng cho phép các ngân hàng thương mại tự do xác định tỷ giá trong một biên độ mềm dẻo phối hợp, tạo cho các hoạt động kinh doanh tiền tệ được tiến hành trên cơ sở khách quan tương đối, tôn trọng quy luật giá trị, quy luật cung cầu thực tế của nền kinh tế, đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho các doanh nghiệp trong quan hệ mua bán ngoại tệ với các ngân hàng thương mại. Việc chủ động điều chỉnh tăng tỷ giá USD/VND là một việc làm đúng hướng để hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần cải thiện tình hình thâm hụt cán cân thương mại và sức ép tiếp tục tăng giá USD. Việc điều chỉnh này cũng góp phần giảm bớt lỗ trong hoạt động giao dịch ngoại tệ. Đồng thời với việc thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt đã giúp các nhà hoạch định xác định được sức mua thực tế của VND góp phần phòng ngừa lạm phát có hiệu quả. Nhờ ổn định tỷ giá hối đoái mà chúng ta đã tạo môi trường đầu tư tương đối ổn định, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bảo vệ lợi ích các thành viên trong xã hội. 2. Những mặt hạn chế Trước những biến động của thị trường, việc thay đổi tỷ giá chính thức sở dĩ ở một chừng mực nào đó không giải quyết được ngay lập tức tạo biên độ đủ cho các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh vì nếu thay đổi tỷ giá chính thức lớn hơn sẽ gây ra những yếu tố tâm lý sai lệch về chính sách tỷ giá của NHNN tạo những hoạt động đầu cơ gây xáo trộn thị trường. Sự khác biệt giữa tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại và thị trường tự do đã gây hạn chế rất lớn trong vai trò điều tiết lợi nhuận thu được từ hoạt động xuất nhập khẩu. Chênh lệch này tạo ra sự bất bình đẳng trong quan hệ thương mại, một số trường hợp không tạo được lợi thế cạnh tranh đối ngoại và khuyến khích xuất khẩu. Trong thời gian qua, những biến động bất thường của tỷ giá gây tâm lý lo ngại, không tin tưởng vào đồng tiền Việt Nam. Sự dịch chuyển tỷ giá nhanh hơn trong thời gian qua cũng gây sức ép lớn đến thị trường ngoại tệ. Tính nhạy cảm của công chúng đối với sự dao động của tỷ giá rất lớn. Tỷ giá tăng lên làm sự bất ổn trên thị trường ngầm tăng lên. Khi tỷ giá USD/VND tăng sẽ làm cho giá hàng nhập khẩu tính bằngVND tăng lên tương ứng. Mà phần lớn hàng nhập khẩu của Việt Nam đều là vật tư nguyên liệu tiêu dùng cho sản xuất trong nước; vì vậy,sẽ làm đội giá thành các loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ, mà các yếu tố đầu vào phải nhập khẩu từ bên ngoài. Điều này làm cho giá cả sản phẩm hàng hoá dịch vụ gia tăng, lạm phát sẽ có cơ hội để bộc phát. Chương III: Một số giải pháp góp phần bổ xung hoàn Thiện chính sách tỷ giá hối đoái ở việt nam Trên cơ sở quán triệt các quan điểm trên cần thiết phải áp dụng một loạt những biện pháp sau đây trong đổi mới tỷ giá : - Lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý, diều tiết của nhà nước là thích hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta. Vì chế độ tỷ giá đó cho phép chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập và nó vừa theo quy luật cung - cầu thị trường, vừa phát huy vai trò quản lý, điều tiết linh hoạt của nhà nước(NN) để đạt được mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế. - NHNN tăng cường thanh tra, giám sát thực hiện biên độ tỷ giá trong các dịch vụ mua bán, ngoại hối, đảm bảo tính nghiêm túc trong việc thi hành quyết định của thống đốc NHNN, bảo đảm quyền lợi của khách hàng. Đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng tự do hoá dần. Tỷ giá chính thức và việc quy định biên độ giao dịch vẫn là một công cụ điều tiết và kiểm soát tỷ giá rất hiệu quả và phù hợp với thực lực của NHNN. Đứng trước tình hình đó, nếu NHNN lại tiếp tục chủ chương mở rộng biên độ giao dịch liên tục với mức độ quá lớn trong khi đó tỷ giá chính thức hầu như lại cố định sẽ tạo ra lực cộng hưởng nâng tỷ giá của thị trường tự do từ chỗ chỉ xoay quanh thậm chí chỉ ngang bằng với tỷ giá giao dịch của các NH Thương mại ngày nay càng tách xa và chênh lệch khá lớn. Đành rằng mở rộng nhanh biên độ giao dịch là để tìm ra một tỷ giá phù hợp phản ánh đúng hơn thị trường và quy luật cung - cầu song việc mở rộng biên độ giao dịch quá lớn như vậy sẽ tạo ra cơn lốc tâm lý không tích cực của người dân đối với chính sách tỷ giá của nhà nước. NHNN tích cực mở rộng biên độ giao dịch từ từ, đồng thời phải tăng dần tỷ giá chính thức. Có như vậy mới tránh được sự xáo trộn thị trường và kiềm chế tỷ giá thị trường tự do. Vì vậy, để điều hành tốt cơ chế tỷ giá nêu trên cần phải tập trung giải quyết những vấn đề có tính then chốt sau: Củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng – một cơ sở hạ tầng rất quan trọng để NHNN can thiệp và điều chỉnh tỷ giá . Là một bộ phận quan trọng của thị trượng tiền tệ, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng phải hoạt động thông suốt, liên tục không bị giới hạn bởi không gian và thời gian để tạo diều kiện cho các ngân hàng trong hoạt động mua bán ngoại tệ, qua đó giải quyết nhanh chóng nhu cầu thanh toán ngoại tệ của các doanh nghiệp. Nâng cao dự trữ của Nhà nước tương xứng với nhịp độ tăng kim ngạch xuất, nhập khẩu và khối lượng ngoại tệ đang có trên thị trường Việt Nam. Tập trung dự trữ ngoại tệ vào một đầu mối trung tâm là NHNN. Ngoại tệ của kho bạc nhà nước có được cũng phải bán ngay cho NHNN và khi cần sử dụng thì mua lại ở NHNN. Xác định được một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hoá rổ ngoại tệ mạnh để làm căn cứ cho việc ấn định tỷ giá đồng Việt Nam chứ không nên chỉ neo giữ VND vào USD. Với cơ cấu ngoại tệ đa dạng, NN vừa chủ động linh hoạt trong việc bố trí có lợi nhất các phương tiện thanh toán quốc tế, cân đối cơ cấu các khoản nợ có liên quan tới luồng chuyển dịch ngoại tệ vào đầu tư trực tiếp, vừa phân tán được độ rủi ro về tỷ giá, giảm thiểu sự phụ thuộc vào đồng đô la. Có chính sách khuyến khích các công ty xuất nhập khẩu đa dạng hoá cơ cấu tiền tệ trong giao dịch thương mại quốc tế để nâng cao sự cân bằng giữa cung và cầu ngoại tệ, qua đó góp phần đa dạng hoá tiền tệ của nền kinh tế một cách cân đối hơn. Chuẩn xác hoá các chỉ số kinh tế vĩ mô như: lạm phát, lãi suất, thực trạng cán cân thanh toán, nợ nước ngoài để giúp cho NN lựa chọn phương án để điều chỉnh tỷ giá có hiệu quả hơn. -Thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nghiêm ngặt. NHNN cần xây đựng quy chế thông tin, thống kê hệ thống hoá kịp thời luồng ngoại tệ ra, vào trong nước. Từ đó dự báo về quan hệ cung cầu trên thị trường để làm căn cứ điều hành chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối. Quản lý chặt chẽ các khoản vay nợ nước ngoài, đặc biệt là vay ngắn hạn. Kiểm soát chặt chẽ việc bảo lãnh trả chậm của các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp vay từ nước ngoài. Tổ chức hữu hiệu mạng lưới thu đổi ngoại tệ cho các khách hàng ra vào Việt Nam, trước hết là các sân bay, bến cảng, cửa khẩu, nhà ga trung tâm sau đến các thành phố, thị xã, các trung tâm kinh doanh, dịch vụ tập trung ở các địa phương. Song song với việc thực hiện các biện pháp trên, NHNN phải từng bước đảm bảo cho đồng VN thực hiện tốt các chức năng của mình, muốn vậy: Phải tạo thêm nhiều phương tiện chuyển tải giá trị làm phưong tiện lưu thông thanh toán để giảm bớt áp lực trong lưu thông . Cải cách hệ thống thanh toán, khuyến khích người dân mở tài khoản, séc cá nhân và thanh toán qua hệ hống ngân hàng. -Thưòng xuyên phát hiện những bất hợp lý trong giá xuất, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cũng như trong nội bộ luật thuế xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ – một trong những yếu tố quan trọng quyết định tới việc tính toán và xác định tỷ giá. - Chuẩn bị cho việc ra đời luật quản lý ngoại hối . Trước mắt cần tổ chức triển khai có hiệu quả những nghị định của chính phủ quản ký vay nợ, viện trợ, đầu tư nước ngoài và sử dụng tốt các công cụ như: cán cân thanh toán quốc tế, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, trạng thái hối đoái, chính sách lãi suất cũng như đưa ra các biện pháp kiểm soát được phần lớn luồng ngoại tệ ngoài quy định của nhà nuớc, dần dần hạn chế và đi đến xoá bỏ những biểu hiện ban đầu của hiện tượng đôla hoá - Xây dựng phương pháp luận tính toán và xác định tỷ giá hoàn chỉnh và công bố tỷ giá chính thức hàng ngày. - Củng cố và hoàn thiện công tác thống kê, thông tin nhằm cung cấp tình hình và số liệu liên quan đến tỷ giá một cách chính xác, đầy đủ kịp thời phục vụ cho việc điều hành chính sách tỷ giá có hịệu quả. - Xây dựng cơ chế quản ký ngoại hối phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế VN, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, tương quan với các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước trong khối ASEAN. - Điều chỉnh lãi xuất tiền gửi bằng VND và tiền gửi bằng ngoại tệ, kiểm soát một cách có hiệu quả nguồ vốn vay tín dụng thuơng mại nước ngoài của các doanh nghiệp. - Tiếp tục duy trì việc kiểm soát chặt chẽ chính sách tiền tệ. - Phối hợp với công tác chống buôn lậu, tăng cường khống chế, kiểm soát chặt chẽ việc dùng ngoại tệ ở thị trường tự do vào mục đích buôn lậu. - Cần có giải pháp hấp dẫn, thuận tiện trong tập trung và huy động mọi nguồn ngoại tệ còn nằm rải rác trong dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế - Cần chú ý đúng mức việc kiểm soát L/C nhập hàng trả chậm. Quản ký chặt chẽ để hướng nguồn vay nước ngoài vào những ngành mà nhà nước ưu tiên phát triển, chỉ vay nợ để phát triển sản xuất, không vay để tiêu dùng, ưu tiên các khoản vay dài hạn, khống chế trần lãi suất vay nước ngoài trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế. - Quản lý, kiểm soát được hoàn toàn các luồng vốn ra vào ở VN trên các lĩnh vực xuất, nhập khẩu đầu tư nước ngoài, vay, viện trợ, chuyển phí mậu dịch, kiều hối... - Trong điều kiện giảm phát, lãi suất thay đổi liên tục như hiện nay có thể có các ngân hàng phải giảm lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ. - Từng bước giảm giá danh nghĩa của đồng nội tệ xuống tương ứng với tỷ lệ lạm phát trong nước nhằm giảm bớt tâm lý thích dùng hàng ngoại của người dân, tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Điều này có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tăng thu ngoại tệ. - Nâng cao hơn nữa vai trò của VND trong lưu thông trên cơ sở đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa VND và USD với những nhân tố kinh tế cơ bản quyết định tỷ giá trung và dài hạn nhằm khai thác tốt các nguồn ngoại rệ của quốc gia trong điều kiện kinh tế ngoại thương, đầu tư như hiện nay. Có như vậy, Việt Nam mới không mất cân đối ngoại tệ. - Nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để sử dụng trong thanh toán và dự trữ,bao gồm một số đồng tiền của một số nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND. - Cần tạo hành lang pháp lý đầy đủ để tạo môi trường kinh doanh lành mạnh. Danh mục các tài liệu tham khảo 1. Giáo trình: “Lý thuyêt tiền tệ” - Trường ĐH Tài chính- Kế toán Hà Nội 2. “Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính” F.S Minshkin-NXB Khoa Học 4. “Tỷ giá hối đoái-phương pháp tiếp cận và nghệ thuật điều chỉnh” Nguyễn Công Ngiệp, Lê Hải Mơ NXB Tài Chính - 1996 5. Tạp chí thị trường tài chính - Các số năm 1999-2000 6. Các trang web: - www.tuanvietnam.net - Lạm phát, tỷ giá hối đoái và lãi suất: Vũng luẩn quẩn – TS Nguyễn Quang A - -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26314.doc
Tài liệu liên quan