Đề tài Tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của để tài: Trong điều kiện của một nền kinh tế thị trường mở, thương mại quốc tế trở thành phổ biến, việc thanh toán giữa các quốc gia nhất thiết phải sử dụng tiền tệ của nước này hay nước khác. Để thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ nước này sang nước khác, các quốc gia phải dựa vào tỷ giá hối đoái (hối suất). Tỷ giá hối đoái là mối quan hệ giữa giá trị đồng tiền nước này với giá trị đồng tiền nước khác. Tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết cán cân thương mại quốc tế theo mục tiêu đã định trước của nhà nước. Bởi vì tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu hàng hoá, xuất nhập khẩu tư bản (vốn), giá cả hàng hóa trong nước, do đó nó có cũng tác động không nhỏ đến nền kinh tế quốc dân của một nước. Qua nhiều thập kỷ, chính sách quản lý ngoại hối được xem là một trong những thử thách khó khăn nhất cho những nhà hoạch định chính sách Việt Nam. Trước đây trong điều kiện của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tác dụng điều tiết của tỷ giá hối đoái bị hạn chế rất nhiều và hầu như không phát huy tác dụng, trong một thời gian dài ở nước ta tỷ giá hối đoái cố định được ấn định rất cao, vừa không phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, vừa không phản ánh đúng giá trị của đồng tiền nội tệ. Tuy nhiên, trong xu thế cải cách từ một nền kinh tế kế hoạch đóng cửa sang một nền kinh tế thị trường mở, thể chế kinh tế mới ngày càng được xác lập và phát triển. Để thích ứng với nền kinh tế thị trường, đòi hỏi trong kinh tế đối ngoại cần triệt để phát huy tác dụng điều tiết của tỷ giá hối đoái đối với xuất nhập khẩu hàng hoá, xuất nhập khẩu tư bản. Chỉ sau một năm khi ra nhập WTO, nước ta đã phải đối mặt với khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 là sự phát triển và lan tỏa của cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ năm 2007. Vậy trong khủng hoảng, Việt Nam đã có những cách ứng phó gì? Kết quả thực hiện như thế nào? Bằng những chính sách tỷ giá như vậy chúng ta đã có thể vượt qua khủng hoảng hay chưa? Những vẫn đề ấy được giải quyết trong đề tài “Tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng” 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở lý luận về tỷ giá, đề tài tập trung nghiên cứu diễn biến tỷ giá ở nước ta trong thời kỳ khủng hoảng. Bên cạnh đó, nêu ra và phân tích những động thái của ngân hàng trung ương về việc điều chỉnh tỷ giá trong thời kỳ đó để rút ra kết luận xác thực về những giải pháp mà ngân hàng trung ương đã tiến hành. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài lấy tỷ giá hối đoái giữa VND với các ngoại tệ khác làm đối tượng nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu là những nội dung cơ chế chính sách của Nhà nước đối với TGHĐ. Bên cạnh đó, phân tích mục tiêu mà ngân hàng trung ương đã đạt được trong việc điều chỉnh tỷ giá. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp thống kê phân tích, phân tích tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, phương pháp nghiên cứu trường hợp. Đồng thời kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, phân tích, tập hợp các ý tưởng thực tiễn tại Việt Nam, cũng như dựa trên quy luật tất yếu khách quan của một vấn đề kinh tế xã hội để hình thành nên chuyên đề. 5. Kết cấu đề tài CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI I. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 1. Khái niệm tỷ giá hối đoái 2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái 3. Phân loại tỷ giá: II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TỶ GIÁ: 1. Quan hệ cung – cầu về ngoại hối trên thị trường 2. Mức chênh lệch lãi suất 3. Mức chênh lệch lạm phát 4. Sự can thiệp điều chỉnh của nhà nước 5. Các yếu tố khác CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG I. THỰC TRẠNG TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN 1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá 2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá hối đoái 3. Thời kỳ 1992-2/1999 4. Giai đoạn 1999 đến 2008: Thả nổi có điều tiết II. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VIỆT NAM THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG (2008-đầu 2010) 1. Năm 2008 2. Năm 2009 3. Đầu năm 2010 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM 1. Các giải pháp điều hành chính sách tỉ giá trong khủng hoảng. 2. Giải pháp điều hành chính sách tỉ giá hối đoái sau khủng hoảng: 3. Phương hướng điều hành chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay

docx32 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2978 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày. - Tỷ giá giao nhân ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc. - Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp đồng (có thể là 1, 2, 3 tháng sau). e. Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng tỷ giá chia ra làm hai loại: - Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào. - Tỷ giá bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra. II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TỶ GIÁ 1. Quan hệ cung – cầu về ngoại hối trên thị trường Cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau trong đó có cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có thể dẫn đến khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Sự cân bằng của cán cân thanh toán quốc tế lại phụ thuộc vào các nguốn cung và cầu ngoại tệ cấu thành nên cán cân thanh toán quốc tế. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì các hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa kịp thời được điều chỉnh trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao. 2. Mức chênh lệch lãi suất Lãi suất là công cụ được các ngân hàng trung ương sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường, điều chỉnh tỷ giá đối ngoại của nội tệ. Nước nào có lãi suất ngắn hạn cao hơn nước khác thì vốn sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, do đó sẽ làm cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm đi, tỷ gái hối đoái sẽ giảm xuống. Chính sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ. Tuy nhiên, đồng nội tệ lên giá tạo cho gái cả hàng hóa nhập khẩu trở nên rẻ hơn và do đó tạo ra áp lực giảm giá hàng nội địa, làm kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế. 3. Mức chênh lệch lạm phát Lạm phát là nhân tố ảnh hưởng cùng chiều đến tỉ giá hối đoái danh nghĩa của đồng nội tệ. Lạm phát cao làm gia tăng lãi suất tương đối của tiền gửi bằng ngoại tệ so với đồng nội tệ, kéo theo sự giảm giá của đồng nội tệ, tức là tỷ giá hối đoái tăng. Nói cách khác, lạm phát có tác động ngược chiều với giá trị của đồng nội tệ. Lạm phát cao hơn tương đối so với nước ngoài dẫn đến tỷ giá tăng lên, sức mua của nội tệ giảm giá so với ngoại tệ. Theo điều kiện ngang giá sức mua, đồng nội tệ sẽ giảm giá và ngược lại, giá trị nội tệ sẽ gia tăng nếu lạm phát của quốc gia thấp hơn tỷ lệ lạm phát của nước có đồng tiền đối ứng. Tóm lại, trong một cặp hai đồng tiền, đồng tiền của quốc gia có tỷ lệ lam phát cao hơn sẽ bị giảm giá so với đồng tiền của quốc gia có tỷ lệ lạm phát thấp hơn, và ngược lại. Lạm phát tác động trực tiếp đến giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu, làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của quốc gia trên thị trường thế giới, qua đó làm thay đổi tỷ giá hối đoái. Nếu tốc độ lạm phát của một quốc gia cao hơn nước khác, hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ của quốc gia này sẽ trở nên đắt hơn, khả năng cạnh tranh trơng thương mại quốc tế giảm xuống. Điều này đồng nghĩa với cung ngoại tệ giảm. Còn đối với nhập khẩu, giá trị nhập khẩu tăng nhẹ (do yếu tố lạm phát ở nước ngoài) nhưng mức tăng giá của hàng nhập khẩu thấp hơn so với mức tăng giá của hàng hóa trong nước (do tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn nước ngoài) nên cầu hàng nhập không giảm. Mặt khác, trong ngắn hạn, người tiêu dùng trong nước chưa kịp thay đổi thói quen tiêu dùng, các doanh nghiệp nội địa chua kịp sản xuất hàng thay thế hàng nhập, do đó nền kinh tế buộc phải trả một lượng ngoại tệ nhiều hơn để nhập hàng. Hậu quả là cầu ngoại tệ gia tăng, cung ngoại tệ giảm, tạo áp lực đẩy giá ngoại tệ lên, kéo nội tệ giảm giá. Do đó muốn quản lý được thị trường ngoại hối và điều tiết tỷ giá theo mục tiêu nhất định, cần kiểm soát lạm phát ở tỷ lệ hợp lý. Sự can thiệp điều chỉnh của nhà nước Vì tỷ giá có liên quan chặt chẽ tới ngoại thương cũng như các biến động kinh tế vĩ mô, cho nên tất cả các ngân hàng trung ương đều phải can thiệp vào tỷ giá khi cần thiết. Các biện pháp hành chính: nhà nước ban hành các chính sách, chế độ, quy định, qui chế, điều lệ… Áp dụng đối với hoạt động mua bán ngoại hối và các đối tượng tham gia mua bán ngoại hối. Phương pháp này có hiệu lực tức thời, nhanh chóng lập lại trật tự trên thị trường hối đoái, tăng chi phí lưu thông, xói mòn lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài, có thể gây ra những phản ứng từ phía các đối tác. Chính sách chiết khấu: là những chính sách thay đổi lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương, điều chỉnh lãi suất trên thị trường tiền tệ, làm thay đổi tỷ giá. Chính sách chiết khấu là chính sách điển hình của các nước kinh tế thị trường phát triển, những nước mà đồng tiền của họ có vị trí quan trọng trong thương mại và tài chính quốc tế, thường được mua bán trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, chính sách chiết khấu chỉ có ảnh hưởng nhất định và có hạn đối với tỷ giá, vì lãi suất không phải là nhân tố duy nhất tác động tới những biến động tỷ giá. Chính sách hối đoái: còn gọi là chính sách thị trường mở (open market policy): nhà nước thông qua ngân hàng trung ương trực tiếp mua bán ngoại hối trên thị trường để điều chỉnh tỷ giá. Chính sách này trên thực tế cũng chỉ có tác dụng rất hạn chế, vì muốn can thiệp vào thị trường một cách có hiệu quả, nha nước phải có một lượng dự trữ ngoại tệ rất lớn. Nâng giá hoặc phá giá tiền tệ: Nâng giá thường chỉ xảy ra khi đồng tiền nước đó bị định giá thấp quá so với giá trị thực hoặc dưới sực ép của các nước khác do xuất siêu lớn, hay do nước đó muốn tăng nhập khẩu để tạo cân bằng trong cán cân thương mại, hạn chế lạm phát. Ngoài ra, nâng giá đồng tiền còn được xem là công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa các đồng tiền bị mất giá chạy vào nước mình. Phá giá tiền tệ thường được tiến hành khi đồng tiền của nước đó bị mất giá trầm trọng. Phá giá là một trong những biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện tình trạng cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế. Các yếu tố khác Trên thực tế, tỷ giá còn chịu sự tác động của các yếu tố khác như những cú sốc kinh tế, chính trị, xã hội, hoạt động đầu cơ, hoặc các yếu tố tâm lý. Hành vi của các thành viên chủ yếu trên thị trường hối đoái cũng có thể có tác động tạm thời lên tỷ giá, bất chấp ảnh hưởng của những nhân tố cơ bản mang tính lâu dài. Chỉ cần sự kiện một nhà kinh doanh trên thị trường mua hoặc bán một lượng ngoại tệ lớn mà không rõ lý do, cũng có thể làm cho người khác hành động giống như vậy. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG I. THỰC TRẠNG TỶ GIÁ TẠI VIỆT NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN 1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đóng cửa và hướng nội. Đây là thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Các bạn hàng chủ yếu là các nước XHCN trong hội đồng tương trợ kinh tế. Hình thức trao đổi thương mại chủ yếu là hàng đổi hàng giữa các nước theo một tỷ giá đã được thoả thuận trong hiệp định ký kết song phương hay đa phương. Về giá cả, qua nhiều lần điều chỉnh, tổng điều chỉnh năm 1981-1982 và năm 1985, đến cuối năm 1987, đã điều chỉnh sát giá thị trường nhiều loại vật tư cơ bản và giá mua các loại nông sản. Cũng từ tháng 3-1989, bãi bỏ chế độ tỷ giá quyết toán nội bộ (khác xa với giá thực tế), đưa tỷ giá đồng Việt Nam/đô la Mỹ lên sát giá thị trường quốc tế. Có thể nói, trước năm 1987, toàn bộ chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Namthời kỳ này tập trung vào việc ấn định trực tiếp tỷ giá hối đoái theo chế độ tỷ giá hốiđoái cố định. Việc điều chỉnh tỷ giá giai đoạn này chủ yếu là do sự thay đổi bên ngoàinhư: việc mệnh giá đồng tiền, sự thay đổi hàm lượng vàng của các đồng ngoại tệ cóliên quan…Từ năm 1987 đến 3/1989, có một số sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái như sau: + Tại Quyết định số 290-CT ngày 10/10/1987, E(SUR/VND) = 150 thay cho5,64 từ năm 1959 (SUR mậu dịch); E(USD/VND) = 225 thay cho 18 từ năm 1985.Các tỷ giá này áp dụng để quyết toán nội bộ giữa đồng VND với SUR và USD. Cònđối với các đồng tiền của các nước khác XHCN, Ngân hàng Nhà nước căn cứ vào tỷgiá kết toán nội bộ trên và mối tương quan với USD trên thị trường quốc tế để quyđịnh tỷ giá kết toán nội vụ cụ thể cho từng đồng tiền. + Tại Quyết định số 326-CT ngày 30/11/1987, đã xác định thêm tỷ giá phi mậudịch đối với đồng SUR là 204; tỷ giá chính thức E(USD/VND) = 638 thay cho 225như trên.Có thể nói, trong vòng 1,5 tháng Nhà nước đã tiến hành điều chỉnh tỷ giá chínhthức với USD lên gần gấp 3 lần và đưa thêm một loại tỷ giá mới vào thị trường, đó làtỷ giá phi mậu dịch. + Tại Quyết định số 43-CT ngày 3/3/1989, Hội đồng Bộ trưởng đã quyết địnhkhông áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ đồng SUR và USD trong việc hạch toán, thanhtoán và quyết toán tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh trong nước và xuất nhậpkhẩu mà sử dụng tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố. Trong giai đoạn 1985 - 1988, tỷ giá trên thị trường là E(SUR/VND) = 1500,E(USD/VND) = 3000. Rõ ràng, 1 Rup nhập khẩu Nhà nước phải bù lỗ số tiền là 1.350đồng và 1 Đôla phải bù lỗ 2.775 đồng (năm 1987) và 2.362 đồng từ đầu tháng12/1987. Tổng số tiền phải bù lỗ cho kim ngạch năm 1987 lên đến 900 tỷ VND. Tìnhhình này dẫn đến một thực trạng là những địa phương, những ngành nghề nào đó càngxuất khẩu thì ngân sách càng phải bù lỗ nhiều. nếu bù lỗ không đủ hay chậm trễ sẽ dẫnđến tình trạng nợ chồng chất lẫn nhau và tiếu vốn kinh doanh. Do tỷ giá chính thức Equy định thấp, các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ tìm cách không bán cho ngânhàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng hạn chế việcchuyển tiền vào tài khoản để chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào hay sửdụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường 2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá hối đoái Trong giai đoạn này trên thế giới diển ra tình trạng sụp đổ của các nước Đông Âu, Liên Xô. Quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị trường truyền thống bị gián đoạn, khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng đồng Đô-la Mỹ. Quá trình đổi mới kinh tế thực sự diễn ra mạnh mẽ bắt đầu từ năm 1989. Năm Tỷ giá USD/VND Lạm phát Giá chính thức của nhà nước Giá thị trường tự do Tăng giảm % 1989 4.200 4.570 +8.80 +34.070 1990 6.650 7.550 +13.50 +67.50 1991 12.720 12.550 -0.02 +68.00 Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, tỷ giá VND/USD qua các năm có biến động lên xuống. Tuy nhiên tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có khuynh hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do, điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi đã: - Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá. - Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những cơn sốc USD làm mất ổn định nền kinh tế. - Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn. - Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Tình trạng leo thang của giá đồng Đôla đã kích thích tâm lý dự trữ đồng Đôla. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại không được dùng cho các hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết quả, thậm chí có những quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố. Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. 3. Thời kỳ 1992-2/1999 Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả của sự can thiệp của ngân hàng nhà nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá VND/USD dần dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của các doanh nghiệp được giải tỏa khỏi yếu tố đầu cơ, hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng thời, ngoại tệ từ bên ngoài vào nhiều nên kinh doanh cung cầu ngoại tệ đảo ngược so với cùng kì mọi năm, giá Đôla giảm mạnh, mức giá phổ biến trên thị trường tư nhân Hà Nội năm 1993 là 10.300 đến 10.400. Tình trạng giá USD giảm mạnh đã ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu quá mức, nên ngân hàng nhà nước lại phải can thiệp nhằm tăng giá đồng USD. Trong hầu hết các phiên giao dịch của quý I năm 1993, hệ thống ngân hàng phải mua Đôla vào nhằm ngăn chặn xu hướng giảm giá của đồng tiền này. Từ tháng 3/1993 USD đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên giá một cách ổn định (ở đây nói về tỷ giá danh nghĩa VND/USD). Tháng 10/1994, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng ra đời, thay thế hoạt động của 2 trung tâm giao dịch. Bởi thị trường liên ngân hàng có tính quy mô lớn hơn và mang tính thị trường khách quan, linh hoạt hơn, tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành của Ngân hàng Nhà nước cũng càng sát với thực tế hơn. Ngân hàng nhà nước đã thông qua thị trường liên ngân hàng để năm bắt tín hiệu của tỷ giá hối đoái, sử dụng tỷ giá chính thức công bố hàng ngày và biên độ quy định tỷ giá giao dịch cho các ngân hàng thương mại làm công cụ hỗ trợ, can thiệp và điều hòa tỷ giá thị trường theo mục tiêu của chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ. Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường ngoại hối rơi vào tình trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung. Trong hai năm 1997-1998, nhà nước đã ba lần chủ động điều chỉnh tỷ giá VND/USD, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch giữa các ngân hàng thương mại với các khách hàng trên thị trường ngoại tệ. Cuối giai đoạn, trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng tài chính ở khu vực, tỷ giá tăng lên do điều chỉnh của chính phủ là để tăng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Việc tỷ giá của Việt Nam không tăng quá nhanh như của các nước khác trong khu vực có tác động tích cực vì không tạo tâm lý hoang mang cho người dân, không gây ra một sức ép lớn lên nợ nước ngoài và không gây thiệt hại cho nhập khẩu. 4. Giai đoạn 1999 đến 2008: Thả nổi có điều tiết   Đây là giai đoạn nền kinh tế vận động mạnh hơn theo cơ chế thị trường với sự xuất hiện của đồng EUR nên việc Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá hàng ngày đểcác tổ chức tín dụng được phép mua bán trong biên độ nhất định không còn thích hợpvới quan hệ cung cầu trên thị trường và thông lệ quốc tế. Từ 26/2/1999, tỷ giá hối đoáichính thức công bố hàng ngày được xác định trên cơ sở bình quân mua bán thực tế trênthị trường ngoại tệ Liên Ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó, đồng thời biên độ giao dịch cũng rút xuống còn ±0,1 (Quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN7 và65/1999/QĐ-NHNN7). Qua tỷ giá áp dụng cơ chế này, tỷ giá giao dịch bình quân mà Ngân hàng Nhà nước công bố xoay quan mức 13.888, còn tỷ giá mua bán thực tế củacác Ngân hàng Thương mại khoảng 13.902. Tỷ giá thị trường tự do chênh lệch khôngđáng kể so với mức công bố của Ngân hàng Nhà nước.Bước đổi mới này rất quan trọng không những trong quan niệm, tư duy mà còncó ý nghĩa lớn trong cả thực tiễn quản lý. Với cơ chế này làm cho tỷ giá hối đoái trênthị trường vận động một cách khách quan hơn, phản ánh đúng hơn các quan hệ cungcầu về ngoại tệ trên thị trường, đồng thời cũng phù hợp với cơ chế điều hành tỷ giá củanhiều nước trên thế giới. II. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VIỆT NAM THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG (2008-đầu 2010) Năm 2008 Năm 2008 được coi là "năm bất ổn của tỷ giá" với những biến động tỷ giá rất phức tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tệ và thậm chí cả tin đồn. Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã được điều chỉnh 5 lần, một mật độ chưa từng có trong lịch sử. Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2008 - Nguồn: BIDV a. Giai đoạn đầu (từ 01/01-25/03/2008): Tỷ giá liên tục giảm, dưới mức sàn * Diễn biến tỷ giá: Tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị trường tự do, USD dao động từ mức 15.700 – 16.000 đồng/USD * Nguyên nhân: +Thời điểm này đang ở giai đoạn gần tết Dương lịch, do đó lượng kiều hối chuyển về nước khá lớn. +Các nhà đầu tư dự kiến VND sẽ tăng giá so với USD, cộng thêm chênh lệch lãi suất lớn giữa USD và VND nên các nhà đầu tư đẩy mạnh việc bán USD chuyển qua VND. Tập trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ Việt Nam (1,4 tỷ USD), các doanh nghiệp xuất khẩu vay USD để phục vụ sản xuất kinh doanh…Các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh bán USD. + Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng 12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008. b. Giai đoạn 2 (từ 26/03 – 16/07/2008): Tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do. * Diễn biến tỷ giá: Trong giai đoạn này, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần, còn trên  TTTD cao hơn khoảng 100-150 đồng, sau đó dịu lại khi NHNN nới biên độ từ 1% lên +/-2%(27/6) và kiểm soát chặt các bàn thu đổi * Nguyên nhân: + Nguyên nhân USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ yếu do tâm lý bất ổn của doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm ngoại tệ của giưois đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN xuất và nhập khẩu đến hạn cao; Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và quốc tế. + Nhà ĐTNN bắt đầu rút vốn khỏi Việt nam bằng việc bán trái phiếu CP khi lo ngại về tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị trường thế giới đẩy nhu cầu mua USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ USD). + Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất khẩu (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện tượng doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tế bán lại trên thị trường. c. Giai đoạn 3 (từ 17/07 – 15/10/2008): Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn. * Diễn biến tỷ giá Tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình ổn quanh mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 – tháng 11. * Nguyên nhân + Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng. Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm. + NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn. d. Giai đoạn 4 (từ 16/10 đến hết năm 2008): Tỷ giá USD tăng trở lại. * Diễn biến tỷ giá Tỷ giá USDVND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998 sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung hạn chế, cầu ngoại tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 7/11/2008, tăng tới mức 17.440 đồng/USD. * Nguyên nhân + Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh việc bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu (100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao khi muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của các ngân hàng nước ngoài cũng tăng mạnh (khoảng 40 triệu USD/ngày). + Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN không cho phép nhập vàng thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là đồng tiền thanh toán chính). + NHNN bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM đáp ứng nhu cầu nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu. Năm 2009 Tỷ giá USD/VNĐ lại tiếp tục tăng đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên TTTD tiến sát mức 18000đồng/USD. Trong bối cảnh nguồn ngoại tệ ròng vào VN là + trong 4 tháng đầu năm thì dường như yếu tố chính khiến cho tỷ giá USD/VNĐ tăng mạnh lại là do sự nắm giữ ngoại tệ. Diễn biến tỷ giá VNĐ/USD năm 2008-2009 a. Giai đoạn 1 (từ 01/01 –24/11/2009): Tỷ giá liên tục tăng * Diễn biến tỷ giá Tỷ giá biến động mạnh trên cả thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do.Cụ thể: -Từ tháng 1 đến tháng 3: tỷ giá LNH dao động trong khoảng 17.450 - 17.700 đồng/USD, cách giá trần khoảng từ 0 – 200đồng,còn TTTD cao hơn tỷ giá LNH khoảng 100 đồng -Từ tháng 4 đến tháng 9 :tỷ giá trên 2 thị trường dao động trong khoảng 18.180 - 18.500 đồng/USD. -Từ tháng 10 đến 25/11/2009: Biến động tỷ giá rất dữ dội từ 18.545 – 19.300đồng/USD, có lúc đạt đỉnh 20.000 đồng/USD trên TTTD và 19.750 đồng/USD trên thị trường liên ngân hàng. * Nguyên nhân + Hiện tượng nắm giữ ngoại tệ chờ giá lên của người dân + Có hiện tượng DN vay USD tuy chưa đến kỳ trả nợ nhưng đã mua sẵn USD để giữ vì sợ tỷ giá sẽ tăng. Chính lượng đặt mua nhiều của DN khiến cầu ngoại tệ tăng. Ngoài ra, do tâm lý bất ổn của cả DN và người dân khi tỷ giá tăng nhanh dẫn tới hiện tượng găm giữ ngoại tệ. + Do tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất cho các DN bằng tiền đồng, do lãi suất vay tiền đồng thấp, phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của chính phủ nên một số DN có ngoại tệ có xu hướng không muốn bán ngoại tệ và chỉ muốn vay tiền đồng. Đây là 1 tác động thiếu tích cực không mong muốn khi triển khai gói kích cầu. + Ngoài ra, còn 1 số nguyên nhân khác như: thâm hụt cán cân thương mại lớn các tháng cuối năm 2008, yếu tố tin đồn ,… b. Giai đoạn 2 (từ 25/11 đến hết năm 2009) * Diễn biến tỷ giá Tỷ giá bắt đầu giảm về quanh mức 18.500 đồng /USD * Nguyên nhân Nguyên nhân là do NHNN thực hiện các biện pháp bình ổn tỷ giá, đặc biệt có sự chung góp sức của các NHTM đã làm giảm tỷ giá sau 1 giai đoạn đầy biến động. Đầu năm 2010 a. Giai đoạn tháng 1-giữa tháng 2/2010 * Diễn biến tỷ giá Giá USD đã tăng khá mạnh trong 2 năm 2008 và 2009, sang đến tháng 1.2010 lại giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479 đồng/USD cho đến giữa tháng 2/2010. * Nguyên nhân: - Nguồn cung USD có thể sẽ tăng khá từ các nguồn: Từ nước ngoài, lượng USD vào nước ta sẽ tăng khá so với năm trước, kể cả nguồn vốn đầu tư trực tiếp (thực hiện tháng 1 tăng 33,3%); - Vốn hỗ trợ phát triển chính thức do năm trước cam kết, ký kết đạt mức kỷ lục; Vốn đầu tư gián tiếp khi các nhà đầu tư nước ngoài liên tục mua ròng trên thị trường chứng khoán; - Nguồn kiều hối từ Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; Nguồn thu từ khách quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại (tháng 1 tăng 20,4%); Kim ngạch xuất khẩu chuyển từ tăng trưởng âm sang tăng trưởng dương…Bên cạnh đó, các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép tâm lý găm giữ USD do lo sợ rủi ro tỷ giá giảm, chênh lệch giữa giá thị trường tự do với giá niêm yết trên thị trường chính thức đã giảm đáng kể. - Từ cuối năm 2009 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp “vượt trước ngăn chặn” với nhiều động thái để giảm sức ép tăng tỷ giá, như: Tăng tỷ giá liên ngân hàng đồng thời với việc giảm biên độ giao dịch từ ±5% xuống còn ±3%; Yêu cầu các tập đoàn và tổng công ty lớn của nhà nước bán lại ngoại tệ cho ngân hàng; Bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại có trạng thái dưới 5%; Hạ 3% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi USD… b. Giai đoạn từ giữa tháng 2/2010 đến nay : * Diễn biến tỷ giá: Tỷ giá tăng và dao động quanh mức 19.000 đồng/USD (18.900-19.100 đồng /USD) và đang có xu hướng giảm do nhưng chính sách tích cực từ phía NHNN. Ngày 11/02 Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng  tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ mức 17.941 VNĐ/USD lên mức 18.544 VNĐ/USD. * Nguyên nhân: - Ngày 30/12/2009, với chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước chính thức ban hành thông tư hướng dẫn việc các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước bán lại ngoại tệ cho các ngân hàng. Việc bán lại được thực hiện khá nhanh sau đó và tạo một nguồn cung đáng kể, hỗ trợ các ngân hàng cải thiện trạng thái ngoại tệ vốn căng thẳng trước đó. - Ngày 18/1/2010, Ngân hàng Nhà nước có Quyết định số 74/QĐ-NHNN giảm mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng. Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng đã làm tăng nguồn vốn khoảng 500 triệu USD (9.000 tỷ đồng) cho các ngân hàng thương mại để cho vay trên thị trường. - Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ban hành Thông tư số  03/2010/TT-NHNN, quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng là 1%/năm. Đây được xem là một “cú hích” mạnh khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức kinh tế có tiền gửi bằng USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4% - 4,5%/năm. Quy định này được bình luận là đặt các tổ chức đó vào thế “tự xử”, phải tính toán lợi ích và xem xét bán lại ngoại tệ, chuyển sang VND để có lãi suất tiền gửi cao hơn. Khớp với chính sách này, các ngân hàng thương mại đồng loạt tăng giá USD mua vào để thu hút nguồn ngoại tệ tiềm năng này. - Chênh lệch lãi suất vay vốn bằng VND và USD lớn khiến các doanh nghiệp cân nhắc và dịch chuyển sang vay USD. Lãi suất vay VND tăng cao đầu năm 2010, lên từ 15% - 17%, thậm chí 18%/năm…, trong khi lãi suất vay USD chỉ khoảng 6% - 9%/năm. Chênh lệch này khiến một bộ phận doanh nghiệp chọn “đường vòng” vay USD rồi bán lại lấy vốn VND, tăng cung ngoại tệ cho thị trường. Ngoài chênh lệch lãi suất lớn, lựa chọn này được hỗ trợ bởi kỳ vọng tỷ giá USD/VND sẽ ổn định, hoặc rủi ro biến động không quá lớn trong kỳ vay vốn. Thực tế, tỷ giá USD/VND gần như cố định kể từ tháng 2 đến nay. - Ngày 15/12/2009, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 25/2009/TT-NHNN mở rộng đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ, đặc biệt là các đối tượng xuất khẩu. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM 1. Các giải pháp điều hành chính sách tỉ giá trong khủng hoảng. Diễn biến, tác động dây chuyền và hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính ở Hoa Kì hầu như đã vượt qua tất cả mọi dự báo ban đầu. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu có những ảnh hưởng lớn đến kinh tế Việt Nam. Trong hoàn cảnh đó, Việt Nam đã có những điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ cũng như các ngoại tệ khác.Việc nới lỏng biên độ dao động tỷ giá giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường đã được thực hiện. Đặc biệt là lần đầu tiên điều chỉnh tỷ giá theo hướng giảm nhẹ giá trị của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ vào năm 2010 trong điều kiện thị trường có chiều hướng ổn định với 1 USD= 19.100 VNĐ để tỉ giá chính thức sát hơn với tỉ giá thị trường 1USD= 19.420 VND .Việc điều chỉnh này đã triệt tiêu dần khoảng cách giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá được hình thành tự do trên thị trường để hạn chế những biến động của tỉ giá hoặc nạn đầu cơ dựa vào tỉ giá Năm 2008, sáu tháng đầu năm vẫn là mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trước hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra đối với nền kinh tế thế giới, cùng những tác động bất lợi đến kinh tế trong nước, Chính phủ đã chuyển hướng mục tiêu từ kiểm soát lạm phát sang ngăn ngừa suy giảm kinh tế vào 6 tháng cuối năm. Năm 2009 và 2010, vẫn tiếp tục mục tiêu phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý, bền vững. Tóm lược chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2008 – 2010 Thời gian Mục tiêu của chính sách Phân loại chế độ tỉ giá của IMF Năm 2008 6 tháng đầu năm 6 tháng cuối năm Kiểm soát lạm phát Ngăn chặn suy giảm kinh tế Chế dộ tỉ giá cố định thông thường,biên độ giao dịch ± 1% Chế độ tỉ giá cố định thông thường, biên độ giao dịch ± 2% sau đó nâng lên ± 3% Năm 2009 và 2010 Ngăn chặn suy giảm kinh tế và kiềm chế lạm phát Chế độ tỷ giá cố định thông thường với biên độ dao động ±5%, sau đó giảm xuống ±3 % Để thực hiện mục tiêu của mình ngoài việc can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng dự trữ chính thức, Chính phủ còn sử dụng một loạt các công cụ pháp lý khác như: + Dự trữ bắt buộc Từ nửa đầu năm 2008, ngân hàng nhà nước đã 2 lần điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ từ 8% lên 10% tháng 7 năm 2007 và 10% lên 11% tháng 2 năm 2008. Đây đều là những thời điểm mà chỉ số giá tiêu dùng trong nước tăng mạnh, nhập siêu lớn và dòng vốn FDI cũng như kiều hối đổ về nước nhiều. Quyết định điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ của NHNN đã làm giảm nguồn cung ngoại tệ của các NHTM ra thị trường. Mặt khác, tăng dự trữ bắt buộc cũng góp phần làm tăng chi phí đầu vào của các NHTM kéo theo sự gia tăng lãi suất cho vay ngoại tệ qua đó tác động làm giảm cầu vốn ngoại tệ trên thị trường. Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ cao hơn so với nội tệ cũng khuyến khách hàng vay vốn bằng VND. Đồng thời, việc duy trì hoặc hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ sẽ có tác dụng tích cực hơn trong việc chống lạm phát. Tháng 3 năm 2009, NHNN quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ xuống còn 7%. Trong bối cảnh thị trường ngoại tệ đang căng thẳng, quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã tạo điều kiện cho các Ngân hàng giảm lãi suất cho vay USD qua đó khuyến khích khách hàng vay bằng USD. Tuy nhiên, việc NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ lớn hơn nội tệ (7% và 5%) làm cho lãi suất vay VND vẫn hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp. Từ đó có thể thấy quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc không có tác dụng nhiều trong việc điều hòa cung cầu ngoại tệ trên thị trường. + Quy định biên độ xác định tỷ giá kinh doanh Việc liên tiếp tăng biên độ giao dịch tỷ giá trong bối cảnh VND tăng giá so với USD và USD rớt giá so với các ngoại tệ khác trên thế giới đã làm cho tỷ giá VND/USD chịu thêm áp lực tăng giá. Trên thực tế từ tháng 12 năm 2007 đến đầu tháng 4 năm 2008 VND trên thị trường tự do và thị trường liên ngân hàng đều tăng giá qua đó góp phần giảm bớt giá trị nhập siêu. Tuy nhiên đi kèm với việc nới rộng biên độ tỷ giá, như đã đề cập ở phần dự trữ bắt buộc, NHNN cũng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ trong thời gian này. Tháng 2 tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tháng 3 tăng biên độ tỷ giá cho thấy sự thiếu nhất quán của các công cụ tiền tệ. Cụ thể, tháng 2 năm 2008 NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ thêm 1% làm giảm sức ép lên giá của VND và việc tiếp tục điều chỉnh biên độ tỷ giá lên +/-1% nhằm gia tăng áp lực cho VND giảm giá. Nhưng trong bối cảnh USD có xu hướng giảm từ cuối năm 2007 đến thời điểm này thì việc tăng biên độ giao dịch chỉ có tác dụng làm tăng giá VND nhanh hơn. Ngược lại nếu NHNN tăng biên độ tỷ giá để tạo cơ hội cho VND tăng giá nhằm giảm bớt áp lực nhập siêu thì giữa công cụ dự trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá đã có mâu thuẫn. Đầu năm 2008, biến động tỷ giá lại tương tự như những tháng đầu năm 2007. NHNN đã 3 lần điều chỉnh biên độ xác định tỷ giá kinh doanh từ +/- 0.75% lên +/- 1%, +/-2% rồi +/-3%. Tuy nhiên tỷ giá vẫn luôn bị cứng nhắc. Quý 1 năm 2008, trước tình hình VND tăng giá so với USD, NHNN đã phải điều chỉnh giảm tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá vào cuối tháng 3/2008 là 15.960 VND/USD so với mức 16091 VND/USD vào cùng kỳ tháng 1/2008, đồng thời nâng biên độ giao dịch lên mức ±1%. Lúc này, hấu hết NHTM phải mua bán tại mức giá sàn, thậm chí tỷ giá tại thị trường tự do thấp hơn giá giao dịch tại thị trường chính thức. Tỷ giá giảm một lần nữa tác động xấu đến cán cân thương mại. Sang quý 2 năm 2008, tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng lên 16541 VND/USD vào cuối tháng 6/2008, tỷ giá giao dịch tại các NHTM lại đụng trần, tỷ giá trên thị trường tự do tăng tới mức 19,400 VND/USD (giữa tháng 6/2008), khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen lên tới trên 2000 đồng. Để khắc phục tình trạng căng thẳng ngoại tệ như đã nói trên, ngày 24 tháng 3 năm 2009 Ngân hàng Nhà nước đã quyết định mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD từ +/-3% lên mức +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Sau khi biên độ giao dịch tỷ giá được điều chỉnh lên mức +/-5%, các NHTM đã điều chỉnh tỷ giá lên mức kịch trần, thu hẹp được khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và thị trường qua đó thu hút được một lượng khách hàng bán lại USD cho mình và hạn chế tình trạng chảy máu ngoại tệ ra khỏi ngân hàng, khắc phục một phần nào tình trạng thiếu cung ngoại tệ.Với một loạt các điều chỉnh về biên độ cũng như lãi suất ngoại tệ phối hợp cùng các biện pháp khác, thị trường ngoại tệ đã bắt đầu có dấu hiệu bình ổn. Tuy nhiên vào những tháng cuối năm tình trạng căng thẳng ngoại tệ lại bùng lên. Những diễn biến kinh tế tiêu cực này đã làm cho thị trường ngoại tệ căng thẳng trở lại bất chấp những nỗ lực từ đầu năm của Chính phủ. Trước tình hình này, ngày 26 tháng 11năm 2009, NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá công bố lên 17961VND/USD,đồng thời cũng thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống còn +/-3%. Lãi suất cơ bản tăng từ 7% lên 8%. Lãi suất chiết khấu tăng từ 5 lên 6%. Các biện pháp này được áp dụng nhằm giảm lượng tín dụng lưu thông trên thị trường, hướng tới ổn định đồng bạc Việt Nam.Đây là một sự can thiệp mạnh của NHNN vào tỷ giá với kỳ vọng có thể thu hẹp khoảng cách tỷ giá chính thức và tự do, qua đó bình ổn thị trường. Tuy nhiên các biện pháp này được đưa ra quá muộn và trong hoàn cảnh các ngân hàng vẫn thiếu nguồn cung USD buộc một số doanh nghiệp phải mua USD ngoài thị trường tự do nên các điều chỉnh trên vẫn chưa có tác dụng hạ nhiệt thị trường ngoại tệ trong năm 2009. Năm 2009, thị trường ngoại tệ diễn biến hết sức căng thẳng. Nguyên nhân của hiện tượng này trước hết là dòng vốn nước ngoài như FDI, FII, ODA, kiều hối đều giảm do nền kinh tế toàn cầu suy giảm vì cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Một nguyên nhân góp phần đáng kể căng thẳng USD trong giai đoạn này là tác động tiêu cực của gói kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ. Với chính sách này, lãi suất vay VND giảm một cách tương đối so với vay USD. Các doanh nghiệp nhập khẩu thay vì vay USD đã tăng cường vay VND sau đó mua USD thanh toán hàng nhập khẩu. Điều này làm tăng cầu vốn bằng VND và làm khan hiếm USD trong nền kinh tế. Trong khi đó, nguồn cung USD từ các doanh nghiệp xuất khẩu lại hạn chế. Do kỳ vọng USD tăng giá nên các nhà xuất khẩu găm giữ USD trên tài khoản. Cung USD giảm, cầu USD tạo áp lực tăng tỷ giá. Trước tình thế này, NHNN quyết định nâng biên độ giao dịch lên mức ±5% (24/3/2009) và sau đó giảm xuống ± 3% (26/11/2009). Tỷ giá mua bán niêm yết tại các NHTM luôn trong tình trạng bằng nhau và tăng kịch trần biên độ cho phép. Tỷ giá BQLNH trong suốt 9 tháng đầu năm 2009 được NHNN giữ gần như là cố định, tỷ giá BQLNH cuối tháng 9/2009 chỉ tăng 0.08% so với cuối tháng 1/2009. Trong khi đó, tỷ giá trên thị trường tự do liên tục tăng mạnh, ba tháng cuối năm 2009, hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do nóng nhất từ trước tới nay, thời điểm giữa tháng 11, tỷ giá được điều chỉnh hàng giờ. Khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen trong thời gian này lớn, trung bình khoảng 1,500 VND/USD. Năm 2010, USD lại tiếp tục căng thẳng, giá mua bán USD tại các NHTM luôn chạm trần. Sau một thời gian dài không điều chỉnh tỷ giá BQLNH, ngày 11/2/2010, NHNN đã bất ngờ tăng giá USD 3%. Mặc dù tăng tỷ giá nhưng áp lực về cầu USD vẫn không giảm. Tình trạng găm giữ ngoại tệ vẫn không suy giảm. Nhiều NHTM không cân đối được nguồn ngoại tệ đã buộc phải thương lượng giá với bên cung rồi cộng thêm khoản phí vào giá bán USD cho người có nhu cầu mua ngoại tệ. Tỷ giá bị chèn ép. Ngày 17.8.2010, lần thứ hai trong năm, NHNN điều chỉnh USD tăng 2%. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 18.544 đã tăng lên 18.932 VND/USD. Các NHTM được phép mua bán USD ở mức giá 19500 VND/USD, tăng 400VND/USD so với ngày 17.8.10. Việc tỷ giá được điều chỉnh một cách bất ngờ và nhát ngừng đã thành viên thị trường thêm hoang mang, và không làm “giảm nhiệt” thị trường ngoại tệ. Cuối năm 2010, khi các thông tin về tình hình kinh tế vĩ mô không khả quan như gia tăng tỷ lệ lạm phát, nợ nược ngoài, nợ công, thâm hụt ngân sách, dự trữ ngoại hối quốc gia suy giảm, cũng như việc tăng giá vàng trên thị trường Thế giới đã tạo áp lực lên tỷ giá. Hiện tượng các doanh nghiệp tự thỏa thuận giá mua bán ngoại tệ vượt mức trần cho phép đã trở thành phổ biến. Tỷ giá thị trường tự do có thời điểm đạt trên 21.500 VND/USD, lệch 2.000 VND/USD so với tỷ giá chính thức Số liệu thống kê cho thấy, từ tháng 6/2008 đến cuối 2010, Ngân hàng Nhà nước đã 5 lần điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng - Ngày 11/6/2008, điều chỉnh lên 16.461 VND/USD (+1,99%). - Ngày 25/12/2008, điều chỉnh lên 16.989 VND/USD(+ 3%) - Ngày 26/12/2009, điều chỉnh lên 17.961 VND/USD (+ 5,44%). - Ngày 11/2/2010, điều chỉnh lên 18.544 VND/USD (+ 3,36%). - Ngày 18/8/2010, điều chỉnh lên 18.932 VND/USD (+ 2,09%). 2. Giải pháp điều hành chính sách tỉ giá hối đoái sau khủng hoảng: Khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra từ giữa năm 2008, năm 2009 và những tháng đầu năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. Nền kinh tế đã vượt qua giai đoạn suy thoái, nhưng những khó khăn vẫn còn đang ở phía trước và những mất cân đối mới đang phát sinh. Trong bối cảnh kinh tế thế giới được dự báo tăng trưởng chậm hơn, giá cả hàng hóa tăng cao hơn năm 2010, khủng hoảng nợ công trong khu vực đồng Euro có nguy cơ lan rộng, USD bị giảm giá, giá vàng tăng, làm thay đổi các kênh đầu tư, gây biến động lớn thị trường tài chính quốc tế. Để tiếp tục duy trì mức tăng trưởng và ổn định nền kinh tế, NHNN nên tiếp tụp điều chỉnh tỷ giá theo hướng linh hoạt nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát và giảm suy thoái kinh tế. a. Điều hành linh hoạt tỷ giá cơ bản do NHNN công bố Xung quanh vấn đề tỷ giá, trong quản lý vĩ mô tồn tại quan điểm cho rằng giá trị đồng tiền Việt Nam đã bị đánh giá quá cao so với ngoại tệ. Điều này làm ảnh hưởng xấu đến đến hoạt động xuất nhập khẩu; đặc biệt khi Trung quốc thực hiện chính sách bán phá giá hàng hoá. Vì vậy, theo quan điểm này, Chính phủ phải tiến hành phá đồng tiền Việt Nam ở mức độ cao bằng cách gia tăng tốc độ điều chỉnh tỷ giá. Thừa nhận rằng, tỷ giá là một nhân tố hết sức quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, nó không phải là yếu tố duy nhất. Thật vậy, tình trạng hàng Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh với thị trường quốc tế hiện nay chủ yếu là do chất lượng hàng chưa cao, cơ cấu hàng xuất chưa đa dạng và chưa bắt kịp thị hiếu người tiêu dùng, năng suất sản xuất kém v.v.. Như vậy, liệu việc phá giá đồng Việt Nam có làm thay đổi được thực trang này hay không? Hay nó sẽ tạo áp lực lớn lên lạm phát, gây tâm lý bất ổn trong dân cư, làm mất lòng tin của dân chúng vào chính sách tiền tệ của Chính phủ nói chung và giá trị đồng Việt Nam nói riêng. Ngoài ra, phá giá tiền tệ trước mắt có thể khuyến khích xuất khẩu, nhưng trong dài hạn, giá cao của nguyên liệu nhập sẽ chuyển vào giá thành hàng xuất làm hàng xuất mất đi lợi thế do đồng tiền mất giá mang lại. Trong lĩnh vực đầu tư, đồng tiền không ổn định không những không khuyến khích các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn ra kinh doanh, mà còn khó thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Thêm nữa, trong điều kiện hiện nay của nền kinh tế, việc phá giá đồng Việt Nam sẽ tạo nên tâm lý sùng bái USD hoặc vàng, làm tăng cầu ngoại hối một cách giả tạo. Các yếu tố trên chứng tỏ rằng việc phá giá mạnh đồng Việt Nam hiện nay là không phù hợp và có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. b. Cần có sự phối hợp hài hoà giữa chính sách tỷ giá với chính sách lãi suất. Tỷ giá và lãi suất là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là các công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Tỷ giá và lãi suất luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động lên các hoạt động của nền kinh tế. Sự khập khểnh giữa chính sách lãi suất và tỷ giá có thể gây ra những hậu quá bất lợi nhý: bản tệ bị mất giá gây nguy cõ lạm phát, “chảy máu” ngoại tệ, ðầu cõ tiền tệ, hạn chế nguồn vốn ðầu tý nýớc ngoài v.v.. Vì vậy, trong quản lý vĩ mô, chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý một cách đồng bộ và phù hợp với thực trạng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, việc ban hành và thực hiện các chính sách này còn bất cập gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế. Chẳng hạn, vào cuối năm 2009, NHNN thực hiện chính sách sách hỗ trợ lãi suất 4% đối với các khoản vay VND, trong khi lãi suất tiền gửi USD tại các các NHTM không thay đổi. Kết quả là nhà xuất khẩu găm giữ USD trên tài khoản và tăng cường vay VND để được hưởng ưu đãi từ chính sách hỗ trợ lãi suất. Nhà nhập khẩu thay vì vay USD họ đã vay VND và mua USD để thanh toán hàng nhập. Cầu vốn VND và cầu USD tăng đột biến, tạo tạo áp lực tăng tỷ giá VND/USD và khan hiếm vốn VND trong nền kinh tế. Nếu lúc này, NHNN buộc các NHTM giảm lãi suất tiền gửi nói chung đặc biệt là tiền gởi thanh toán bằng USD xuống mức thấp nhất, thì trong ngắn hạn, điều này sẽ làm các nhà xuất khẩu dịch chuyển tiền gởi bằng USD sang VND làm giảm áp lực với tỷ giá và bớt canh thẳng về nguồn vốn tín dụng. Nói cách khác, các nhà hoạch định chính sách cần lưu ý mối quan hệ này trong việc hoạch định các chính sách tiền tệ, được như vậy thị trường tiền tệ Việt Nam sẽ hoạt động hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất, thương mại, đầu tư phát triển mạnh hơn. Cụ thể, NHNN tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận và hạn chế dần sự can thiệp trực tiếp vào tỷ giá. Khi nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, theo học thuyết ngang giá lãi suất, chính sách tự do hoá lãi suất đòi hỏi cơ chế tỷ giá cũng phải được thiếp lập trên quan hệ cung cầu tiền tệ. Nói cách khác, chế độ tỷ giá thả nổi được kiểm soát bằng các giải pháp kinh tế và chính sách tự do hoá lãi suất là giải pháp lâu dài mà NHNN cần thực hiện để điều hành chính sách tiền tệ trong tương lai c. Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở ngọai tệ một cách thận trọng Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ của chính sách tiền tệ. Bằng việc mua bán các giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương có thể nhanh chóng và chủ động trong việc đưa hoặc thu hồi tiền từ lưu thông. Với công cụ này, ngân hàng trung ương có thể đảm bảo nhu cầu vốn trong nền kinh tế và kiểm soát được giá trị đồng tiền. NHNN có thể điều tiết lượng USD trong nền kinh tế bằng việc mua bán các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng. Bằng cách này, NHNN có thể điều tiết tỷ giá một cách hiệu quả, nhanh chóng. Tuy nhiên, vận dụng nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu lực của chính sách tiền tệ. + Nghiệp vụ thị trường mở chỉ có thể ứng dụng khi nó có đủ lượng hàng hóa đúng chuẩn. Đó là các giấy nợ của ngân hàng trung ương, của chính phủ như: tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc v.v…. + Trong thị trường mở ngoại tệ, các giấy nợ này phải định giá bằng USD. Tại Việt Nam, nếu NHNN phát hành giấy nợ bằng USD, NHNN sẽ bị rủi ro tỷ giá khi USD tăng giá. Đối phó vời việc USD tăng giá là một việc làm phức tạp vì giá trị USD trên thị trường. Tóm lại, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ hiệu quả trong việc bình ổn giá trị VND, kiểm soát lạm phát; nhưng trong điều hành tỷ giá, tác động của nó rất hạn chế. Do vậy, như đã phân tích ở trên, NHNN không nên hoặc rất thận trọng trong việc sử dụng nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ trong điều hành tỷ giá tại Việt Nam 3. Phương hướng điều hành chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay * Phản ứng chính sách linh hoạt về tỷ giá trong những tình huống cụ thể và cần có định hướng rõ ràng về tỷ giá trong dài hạn làm căn cứ cho các điều chỉnh ngắn hạn. - Cần có cơ chế giám sát và theo dõi chặt chẽ sự biến động của tỷ giá cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài để nhận dạng xu hướng vận động của tỷ giá hối đoái đặc biệt giữa các đồng tiền đại diện cho các trung tâm kinh tế thế giới và toàn cầu như đồng đô la, đồng EUR... - Việt Nam đưa ra các phản ứng chính sách cần căn cứ vào các phản ứng chính sách của các đối tác thương mại lớn hoặc các trung tâm kinh tê thế giới. - Các kịch bản về các tình huống biến động tỷ giá hối đoái nên được xây dựng và có thể tiến hành mô phỏng chúng để lựa chọn kịch bản tối ưu nhất. Đây là việc tạo thế chủ động trong điều chỉnh tỷ giá hối đoái trước tính bất định của thị trường ngoại hối trong và ngoài nước. * Khai thác triệt để vai trò của các chính phủ thông qua các cơ quan chuyên trách về tiền tệ trong việc xây dựng một chế độ tỷ giá hối đoái có lợi cho thương mại chứ không nhất thiết phải thực thi chế độ tỷ giá sát với tỷ giá thị trường. - Chính phủ cần thực hiện các điều chỉnh tỷ giá vào thời điểm nào được coi là phù hợp nhằm tạo lợi thế thương mại tốt nhất cho doanh nghiệp hoặc những “khe hở” nào mà thị trường chưa thể vận hành tốt nhất. - Ngày 11/2/2011, Ngân hàng Nhà nước quyết định điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 18.932 VND/USD lên 20.693 VND/USD, đồng thời thu hẹp biên độ tỷ giá từ 3% xuống 1%. Từ Tháng 11/2009 đến nay, đây là lần thứ tư Việt Nam phá giá đồng nội tệ vì khó khăn thanh khoản trong thị trường ngọai hối. Giá biểu hối suất chính thức lên xuống do Ngân Hàng Nhà Nước ấn định bị khống chế chặt chẽ hơn trước sau khi đã phá giá.  * Cần tạo những khoảng cách nhất định giữa tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực tế sao cho có lợi cho hoạt động xuất khẩu hoặc nhập khẩu đối với từng loại thị trường và từng loại mặt hàng trong từng giai đoạn. - Việc triệt tiêu khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do có thể làm giảm lợi nhuận cục bộ của doanh nghiệp và có thể làm giảm tác động cần có của chính sách tỷ giá hối đoái. - Khi có sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái, những khác biệt về lợi thế thương mại ngắn hạn có thể mất đi hoặc hình thành dưới hình thức khác. - Vai trò của chính phủ cần được thể hiện rõ nét trong việc đưa ra chính sách tỷ giá phù hợp nhằm thay vì việc tự điều chỉnh các mất thằng bằng trong lợi thế thương mại bằng tín hiệu của thị trường bằng việc “khử” tình trạng mất thăng bằng bằng chính sách của chính phủ. Tức là có thể sử dụng cơ chế điều tiết của chính phủ để thay thế cho cơ chế tự điều chỉnh của thị trường nhằm thực hiện những mục tiêu như thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, bảo hộ hoặc phát triển những ngành đang có lợi thế so sánh. Một chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn gần như vô hiệu hoá hoàn toàn chính sách tỷ giá hối đoái của chính phủ. * Cần có chiến lược định vị đồng tiền Việt Nam trong hệ thống tiền tệ quốc tế - Cần nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam nhằm tạo cơ sở cho các điều chỉnh cục bộ hoặc điều chỉnh ngắn hạn và cũng như hình thành được định hướng dài hạn của chính sách tỷ giá hối đoái. - Cần chỉ rõ vị trí, vai trò và tác động của nền kinh tế Việt Nam trong các quan hệ thương mại hoặc trong hệ thống thương mại khu vực như trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)...trong dài hạn để định hướng vận hành chính sách điều chỉnh tỷ giá. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu về tỷ giá ở Việt Nam cho thấy, tỷ giá hối đoái là một công cụ hữu hiệu, linh hoạt trong quản lý và điều hành chính sách tiền tệ. Đây là nhân tố vô cùng nhạy cảm, có tác động sâu rộng đến các mặt đời sống kinh tế - xã hội của một quốc gia, tỷ giá cũng được xem là chiếc cầu nối quan trọng giữa kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và trên thế giới thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư và tài chính quốc tế; do đó, việc đi sâu nghiên cứu để có cơ sở vững chắc nhằm định hướng chính sách và các đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái là vấn đề quan trọng hiện nay. Trong xu hướng hội nhập, chính sách tỷ giá phải không ngừng được hoàn thiện nhằm phù hợp với những biến động của nền kinh tế. Việc điều hành tỷ giá cần phải có sự thận trọng nhất định và việc thực hiện các biện pháp quản lý cần phải đặt trong mối quan hệ hữu cơ hình thành nên hệ thống đan xen và hỗ trợ lẫn nhau để có được sự kết hợp linh hoạt, đồng bộ nhằm khai thác thế mạnh và hạn chế nhược điểm của từng biện pháp. Nước ta mới chỉ đang đi những bước đầu tiên trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, do đó không tránh khỏi những yếu kém và sai xót khi lựa chọn chế độ và điều hành chính sách tỷ giá hối đoái. Chính sách tỷ giá chỉ có thể đạt được những hiệu quả nhất định nào đó khi nó được phối hợp chặt chẽ với chính sách tài chính – tiền tệ và các chính sách kinh tế khác, đặc biệt là chính sách lãi suất, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách đầu tư, chính sách chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu và cơ cấu kinh tế. Trong giai đoạn khủng hoảng vừa qua, ngân hàng nhà nước đã phát huy vai trò của mình trong việc điều chỉnh tỷ giá thả nổi có kiểm soát và đã đạt được những kết quả khả quan. Sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ, tài khóa cũng là một yếu tố làm nên những thành công trong công cuộc ổn định kinh tế. Chúng ta hy vọng rằng, trong những năm tới, ngân hàng trung ương sẽ có những chính sách thích hợp để phát triển nền kinh tế, khẳng định vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Bài viết trên đây không tránh khỏi những thiếu sót, mong được sự đóng góp của thầy giáo và các bạn. Xin chân thành cảm ơn! Nên bỏ đi Danh mục tài liệu tham khảo 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. minh nhung 8. Giải pháp điều hành chính sách tỉ giá tại Việt Nam hiện nay – ĐH Ngân hàng thành phố HCM 9. Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc trong khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu và những vấn đề rút ra-PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng -Đại học Kinh tế quốc dân 10. 11. 12.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docx11111111111.docx
Tài liệu liên quan