Nói tóm lại việc áp dụng chứng khoán hoá ở Việt Nam là một đòi hỏi khách quan của Việt Nam. Sự thành công của nhiều quốc gia trên thế giới trong việc thực hiện chứng khoán hoá đã chứng minh rằng chứng khoán hoá tại các doanh nghiệp và đăc biệt là tại các ngân hàng sẽ giúp họ có thể huy động vốn một cách hiệu quả với chi phí thấp và thực hiện quản lý khoản mục nguồn vốn và tài sản tốt hơn.
Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu , đề tài đã nêu ra được một số vấn đề sau:
- Lý thuyết chung về chứng khoán hoá
- Điều kiện để thực hiện chứng khoán hoá thành công
- Ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hoá vào các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Tất nhiên vì đây là một vấn đề còn mới mẻ đối với nước ta hiện nay trên cả phương diện thực tiễn và lí thuyết vì hiện nay chưa có một văn bản pháp luật nào của Nhà nước đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên ứng dụng chứng khoán hoá ở Việt Nam là cần thiết. Do đó những công trình nghiên cứu nhằm nghiên cứu về chứng khoán hoá và các điều kiện cần thiết để chứng khoán hoá có thể đưa vào thực hiện ở Việt Nam. Những đề xuất mà nhóm nghiên cứu đưa ra dựa trên lý thuyết chung về chứng khoán hoá, những bài học kinh nghiệm của các quốc gia đi trước đã rất thành công trong nghiệp vụ này cũng như điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam. Để có thể áp dụng thành công nghiệp vụ này trong các NHTM thì ngoài vai trò trực tiếp của NHTM còn cần có sự khuyến khích từ phía Nhà nước cũng như sự hỗ trợ của các định chế tài chính khác trong nền kinh tế.
49 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1489 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hoá trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ín dụng có thế chấp mới và các khoản tín dụng mới này lại tiếp tục được chứng khoán hoá. Thông qua chứng khoán hoá tài sản, ngân hàng hoạt động thiên về chức năng môi giới tài sản hơn là chức năng chuyển hoá tài sản truyền thống của mình. Lợi thế của chức năng môi giới tài sản được thể hiện ở chỗ ngân hàng thu được lợi nhuận dưới dạng phí dịch vụ tín dụng từ khâu tổ chức quá trình chứng khoán hoá… Đồng thời, nếu so với trường hợp ngân hàng thực hiện chức năng chuyển hoá tài sản, tức là duy trì khoản tín dụng thế chấp 30 năm trên bảng cân đối tài sản cho đến khi đáo hạn, thì thông qua chứng khoán hoá, ngân hàng tránh được rủi ro lãi suất (do thời lượng không cân xứng), rủi ro về thanh khoản (tín dụng thế chấp 30 năm) và thuế quy chế. Một cách khaí quát, lợi nhuận của ngân hàng ngày càng trở nên có tính chất thu phí hơn là chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động.
Khả năng mở rộng chứng khoán hoá tài sản của ngân hàng rõ ràng là phụ thuộc vào:
Cung về tài sản có thể chứng khoán hoá;
Nhu cầu đầu tư vào các chứng khoán hoá;
Chi phí bảo hiểm tín dụng, chi phí quản lý, chi phí tổ chức, chi phí phát hành chứng khoán và các chi phí khác có liên quan.
5.Rủi ro của kỹ thuật CKH ( rủi ro hoàn trả trước hạn):
Một đặc điểm mang tính đặc thù của công nghệ chứng khoán hoá đối với người đầu tư là rủi ro hoàn trả tín dụng trước hạn. Để hiểu được ảnh hưởng của việc thanh toán trước hạn đến thu nhập của người đầu tư chứng khoán, ta cần hiểu bản chất của các luồng tiền mà nhà đầu tư dự tính sẽ nhận được hàng tháng trong trường hợp không có hoàn trả trước hạn:
Trong trường hợp không có hoàn trả trước hạn, thì các khoản thu nhập hàng tháng là bằng nhau và bao gồm phần gốc và phần lãi. Do phần thanh toán hàng tháng (do ngân hàng tính toán và đưa ra) là cố định không thay đổi, do đó, dễ thấy rằng thành phần lãi suất được thanh toán hàng tháng là giảm dần trong suốt thời gian hiệu lực của tín dụng, ngược lại thành phần gốc tăng lên. Trong khi người vay thế chấp thanh toán cho ngân hàng mức lãi suất là ia%, sau khi khấu trừ chi phí dịch vụ tín dụng ib% và phí bảo đảm tín dụng là ic% thì mức lãi suất CKH còn lại chỉ là i=(ia-ib-ic)%. Do đó người nắm giữ CKH không nhận được toàn bộ khoản tiền cho người thế chấp thanh toán hàng tháng cho ngân hàng.
Do lãi suất là yếu tố của kinh tế thị trường, được hình thành theo qui luật cung cầu cho nên có thể thay đổi theo thời gian. Nếu lãi suất thị trường (t) giảm thấp hơn lãi suất CKH (i) thì thị giá CKH sẽ tăng trên mức giá trị ban đầu và ngược lại. Tuy nhiên vấn đề định giá sẽ trở nên rất phức tạp một người vay tiền thế chấp trước hạn. Người vay thế chấp hoàn trả trước hạn dựa trên hai nguồn chính sau đây:
Tái tài trợ: Khi lãi suất tín dụng có thế chấp (t) trên thị trường giảm, đã làm tăng động lực những người vay tiền trước đó với lãi suất cao hoàn trả trước hạn nhằm giảm chi phí về lãi suất và đồng thời sử dụng nguồn tài trợ mới với lãi suất hiện hành thấp hơn. Tuy nhiên, việc tái tài trợ này phải chịu một số chi phí liên quan như chi phí giao dịch và chi phí ký hợp đồng mới. Nhiều ngân hàng áp dụng biện pháp phạt các khoản tiền trả trước hạn dưới hình thức thu phí. Ngoài ra, để được cấp một khoản tín dụng mới, người đi vay còn phải chịu một khoản phí, đó là phí cấp tín dụng. Kết quả là, lãi suất thị trường có thể giảm xuống một mức nhất định dứơi mức lãi suất ghi trong hợp đồng tín dụng mà những người vay tiền chưa quyết định hoàn trả tín dụng trước hạn.
Thu nhập chuyển nhượng bất động sản: Nhân tố thứ hai ảnh hưởng đến việc hoàn trả trước hạn là xu hướng bất động sản trước khi hợp đồng thế chấp đến hạn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến quyết định nhượng bất động sản trước khi hợp đồng thế chấp đến hạn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến quyết định chuyển nhượng bất động sản trước khi hợp đồng thế chấp đến hạn, ví dụ như: mức giá nhà đất, độ lớn của khoản vay, tình trạng nền kinh tế nói chung, và yếu tố thời vụ. Cũng cần phân biệt ba trường hợp chuyển nhượng bất động sản trong mối quan hệ với việc hoàn trả tín dụng trước hạn, đó là:
-Trường hợp nếu nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng và trong hợp đồng thế chấp tài sản được chuyển từ người bán sang người mua (assumable mortgage), nghĩa là người mua bất động sản sẽ thay thế người bán thanh toán số dư tín dụng còn lại cho ngân hàng và tài sản đã chuyển nhượng vẫn thuộc tài sản thế chấp của hợp đồng tín dụng. Do đó trường hợp này không được coi là hoàn trả trước hạn.
-Ngược lại, nếu việc chuyển nhượng bất động sản không đi kèm với trách nhiệm của người mua là phải thanh toán số dư tín dụng còn lại cho ngân hàng, thì được coi là hoàn trả trước hạn.
- Nếu được ngân hàng chấp thuận, thì việc thay thế tài sản thế chấp này bằng các tài sản thế chấp khác cũng không ảnh hưởng đến hoàn trả trước hạn.
Do ngân hàng đã bán các khoản thu gốc và lãi tín dụng cho người đầu tư chứng khoán, cho nên sau khi đã trừ đi các phí tín dụng, ngân hàng chuyển các khoản thu này cho người đâu tư chứng khoán thông qua công ty tín thác. Do đó, luồng tiền mà nhà đầu tư nhận được hàng tháng cũng phản ánh tỷ lệ hoàn trả trước hạn của vốn vay. Do tồn tại hoàn trả trước hạn cho nên thay vì khoản thu nhập cố định hàng tháng, nhà đầu tư sẽ nhận đựpc các khoản thanh toán hàng tháng biến động là khôngthể dự tính được.
Lãi suất thị trường giảm và tần số trả trước hạn tăng lên, một mặt có những thông tin tích cực, mặt khác, có những thông tin tiêu cực đến thị giá chứng khoán, đó là:
Những thông tin tích cực: Thứ nhất, lãi suất thị trường giảm đã làm tăng thị giá của các chứng khoán. Thứ hai, lãi suất giảm dẫn đến việc hoàn trả trước hạn khoản gốc tín dụng nhanh hơn; kết quả là thay vì việc hoàn trả gốc vốn vay từ từ cho đến hạn thì việc thu hồi gốc tiền vay được nhanh hơn.
Những thông tin tiêu cực: Thứ nhất, do có hoàn trả trước hạn nên thu nhập từ lãi suất giảm về số tuyệt đối. Điều này có nghĩa là, theo như dự tính thì lãi suất được thanh toán hàng tháng cho đến khi khoản tín dụng đến hạn, nhưng do hoàn trả gốc trước hạn cho nên thu nhập từ lãi suất cũng bị thu hẹp. Thứ hai, do lãi suất thị trường giảm, cho nên lãi suất tái đầu tư thu được từ khoản tiền thanh toán trước hạn giảm.
Có ba trường hợp ảnh hưởng của hoàn trả trước hạn đến mối quan hệ thị giá - lãi suất của chứng khoán:
- Các thông tin tich cực trội hơn (có giá trị hơn, có tính quyết định hơn) các thông tin tiêu cực. Trường hợp thứ nhất là khi lãi suất thị trường giảm thì thị giá chứng khoán tăng. Nghĩa là mối quan hệ giữa lãi suất thị trường và thị giá trái phiếu là mối tương quan nghịch.
-Các thông tin tiêu cực trội hơn các thông tin tích cực: Trường hợp thứ hai, khi lãi suất thị trường giảm thì thị giá trái phiếu cũng giảm. Thị giá giảm là do các thông tin tích cực (như khoản gốc được hoàn trả sớm và yếu tố lãi suất thị trường có lợi cho thị giá chứng khoán) không đủ bù đắp cho rủi ro thu nhập từ tái đầu tư giảm.
- Các thông tin tích cực và các thông tin tiêu cực đều trội trong những vùng khác nhau của lãi suất.Trường hợp thứ ba, mối quan hệ giữa lãi suất và thị giá: Khi lãi suất thị trường tăng trên mức lãi suất cho vay thế chấp , thì những thông tin tiêu cực trội hơn những thông tin tích cực, do đó tần số thanh toán trước hạn tăng nhanh, tăng rủi ro đối với người nắm giữ chứng khoán hoá, dẫn đến thị giá chứng khoán giảm; trong khi lãi suất thị trường tăng trên mức lãi suất cho vay thế chấp, thì tần số thanh toán trước hạn giảm xuống đến mức mà tại đó người vay tiền buộc phải bán tài sản thế chấp trước hạn; quan hệ giữa lãi suất – thị giá theo qui luật thị trường, do đó các thông tin tích cực trội hơn các thông tin tiêu cực.
II. Phát triển CKH trong các NHTM ở Việt Nam-một xu hướng tất yếu
1.Thực tiễn CKH ở VN:
Hiện tại chưa có một ngân hàng nào đưa kỹ thuật chứng khoán hoá vào hoạt động của mình. Có rất nhiều nguyên nhân giải thích cho hiện trạng này.
Thứ nhất: Chưa có hệ thống pháp luật phù hợp. Hiện tại chưa có một văn bản pháp luật cụ thể nào đề cập đến việc cho phép áp dụng kỹ thuật chứng khoán hoá, cũng như đưa ra những qui định cụ thể về hoạt động thực hiện như thế nào tại các ngân hàng ở Việt Nam.
Thứ hai: Thị trường chứng khoán ở Việt Nam mặc dù đã có nhưng có nhưng trình độ phát triển còn sơ khai. Thị trường chứng khoán của chúng ta những năm gần đây đạt rất nhiều thành tựu: Từ việc cụ thể hoá các văn bản pháp luật hướng dẫn cho các hoạt động của thị trường chứng khoán như: việc ban hành các thông tư hướng dẫn nghị định 144/2003/NĐ-CP- khung pháp lý cao nhất và quan trọng nhất về chứng khoán và thị trường chứng khoán; kế đến là việc ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP thay thế Nghị định 64/2002/NĐ về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước… Đến việc xuất hiện nhiều quĩ đầu tư nước ngoài, nhiều doanh nghiệp, ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường, và đặc biệt là sự đi vào hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán ở Hà Nội (tháng 3/2005). Tuy nhiên do thị trường chứng khoán ở Việt Nam ra đời không lâu nên thực sự vẫn tồn tại nhiều hạn chế, điều quan trọng nhất là thị trường phi tập trung chưa được hình thành mà theo kinh nghiệm các nước thì đây là thị trường rất quan trọng đối với các giao dịch chứng khoán hoá để chứng khoán được phát hành và mua bán.
Thứ ba: mặc dù các ngân hàng thương mại nhà nước có vai trò chủ đạo trên thị trường tài chính ở Việt Nam nhưng hiện nay tiến trình cải cách của các ngân hàng này diễn ra chậm chạp. Trong quá trình tái cơ cấu NHTM, vấn đề phát triển bền vững tài chính được Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước và NHTM đặc biệt quan tâm qua các biện pháp tăng vốn điều lệ, sáp nhập các NHTM cổ phần, xử lý nợ tồn đọng và ngăn ngừa nợ xấu phát sinh, cải thiện hệ thống kế toán phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, so với yêu cầu cạnh tranh của hệ thống NHTM Việt Nam trong thời gian tới thì vẫn chưa được như mong muốn. Năng lực tài chính của nhiều NHTM còn yếu, nợ quá hạn cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của các NHTM đều thua kém ngân hàng trong khu vực. Nếu tính cả nợ khoanh và nợ khó đòi thì hoạt động của nhiều ngân hàng đang ở tình trạng thua lỗ, thu nhập thuần tuý thấp, khả năng thiết lập các quỹ dự trữ bị hạn chế và khả năng thanh toán rất nhỏ. Do vậy nên chưa đáp ứng được yêu cầu về năng lực quản lý và khả năng tài chính để thực hiện được vai trò tổ chức tài chính trung gian trong giao dịch chứng khoán. Mặt khác bản thân các NHTMNN chưa thấy sự thực sự cần thiết áp dụng kỹ thuật chứng khoán hoá trong việc huy động và làm linh họat tài sản mà nó nắm giữ để đảm bảo các chuẩn mực quốc tế về an toàn vốn và hoạt động hiệu quả hơn. Nguyên nhân là do các NHTM ở VN đã quá quen với việc thực hiện các nghiệp vụ NH truyền thống là vay và cho vay; thêm vào đó là hằng năm ngân sách nhà nớc vẫn cấp bổ sung vốn tự có cho các NHTMNN hàng chục nghìn tỷ đồng.
Thứ tư: là do cầu trên thị trường. Trong nhiều năm qua các doanh nghiệp Việt Nam đã quá quen thuộc với tập quán vay tín dụng ngân hàng trong nước vì phương thức này đơn giản, thuận tiện, phù hợp với thực trạng trình độ quản trị tài chính của các doanh nghiệp hiên nay. Mặt khác các doanh nghiệp Việt Nam hiên nay đa số là doanh nghiệp vừa và nhỏ (so với các doanh nghiệp trong khu vực) nên nhu cầu về nguồn vốn lớn không cao do vậy cũng chưa tạo động lực mạnh mẽ phát triển hoạt động chứng khoán hoá ở Việt Nam.
Chính những nguyên nhân trên đây mà thị kỹ thuật chứng khoán hoá chưa được đưa vào hoạt động thực tiễn họat động của các NHTMVN mặc dù không ít cá nhân tổ chức thấy tính ưu việt của kỹ thuật này.
2.Xu thế áp dụng CKH của các nước khác trên thế giới:
Ngày nay, CKH trở thành một nghiệp vụ phổ biến tại hầu hết các thị trường chứng khoán trên thế giới, từ những thị trường phát triển đến những thị trường đang nổi nhờ kỹ thuật hữu hiệu này. Việc khảo sát hoạt động CKH ở một vài nước sẽ cho ta hiểu rõ hơn về kỹ thuật CKH và rút ra được những kinh nghiệm quí báu cho việc đưa CKH vào Việt Nam. Có thể nói rằng muốn thành công thì các nước trước hết phải định hướng đúng, ứng dụng các kỹ thuật phù hợp và cuối cùng là hành lang pháp lý chặt chẽ và theo hướng hỗ trợ.
Chính phủ các nước đều có định hướng phát triển nhà ở một mục tiêu kinh tế xã hội quan trọng thông qua CKH. Chứng khoán hoá được hình thành ở các nước từ nhu cầu đảm bảo nhà ở cho dân chúng, đặc biệt là thành phần có thu nhập thấp, nhu cầu phát triển các khu dân cư, chung cư (đô thị hoá). Các nhu cầu này xuất hiện từ phía từng cá nhân, hộ gia đình mong muốn có được một nơi ăn chốn ở để an cư lạc nghiệp và cả từ phía chính phủ mong muốn tận dụng nguồn vốn sẵn có trong dân cư để cải tạo bộ mặt các đô thị, tạo công ăn việc làm, kích thích sản xuất trong nước; đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội khác. Đây là định hướng phải có của các nước muốn ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hoá để giải quyết các nhu cầu nêu trên, và vì thế nó là kinh nghiệm cho các nước đi sau. Nếu có định hướng rõ ràng thông qua các qui định cụ thể, nhà nước mới tích cực đẩy mạnh CKH bằng những biện pháp hỗ trợ từ kỹ thuật đến pháp lý, từ đó mới có thể hoàn thành được mục tiêu đặt ra. Từ những định hướng CKH của chính phủ, nhà nước là tổ chức đầu tiên tạo lập những cơ sở ban đầu cho CKH từ cơ sở kỹ thuật (tạo lập các tổ chức thực hiện CKH ) đến cơ sở pháp luật (hành lang pháp lý, những ưu đãi trong đầu tư CKH …), hay nói các khác, sự tham gia của nhà nước trong qua trình CKH là cần thiết, và vì vậy đây cũng là kinh nghiệm không thể bỏ qua cho các nước đi sau (trong đó có Việt Nam).
Chứng khoán hoá ở các nước chủ yếu dựa trên cơ sở là các khoản cho vay mua nhà và xây dựng nhà có thế chấp. Vì gắn liền với mục tiêu tạo vốn cho việc phát triển nhà, đô thị hoá, nên CKH ở các nước đều có cơ sở là loại hình cho vay bất động sản và chủ yếu là cho vay mua trả góp các căn nhà được xây dung hàng loạt, các căn hộ trong các trung cư, các khu đô thị mới. Loại hình cho vay này tập chung vào các thành phần dân cư có thu nhập trung bình và thấp, thường có nhu cầu tương đồng về nhà ở, nên hàng loạt các khoản cho vay cùng tiêu chuẩn được thực hiện, và điều này tạo điều kiện thuận tiện hơn cho việc CKH chúng để huy động vốn trong nhân dân. Thông qua việc này nhà nước thực hiện nhanh hơn, mạnh hơn mục tiêu qui hoạch đô thị của mình. Việc xây dựng nhà hàng loạt còn tạo thêm công ăn việc làm , kích thích sản xuất trong nước, mặt khác lại làm giảm giá thành xây dựng nhà, giúp làm giảm chi phí rất nhiều cho người vay tiền mua nhà từ đó khuyến khích sở hữu nhà nhiều hơn. Tuy vậy cũng cần nói thêm là, một số nước khi chưa tiến hành đô thị hoá triệt để và mới bắt đầu ứng dụng kỹ thuật CKH, thì việc CKH vẫn có thể thực hiện đối với tập hợp các khoản cho vay mua nhà riêng lẻ, và dần dần khi nhu cầu đô thị hoá trở nên thúc bách, việc tài trợ cho dân chúng vay tiền mua nhà hàng loạt để mua nhà xây dựng trong các khu dân cư mới đã làm chuyển dịch việc cho vay riêng lẻ sang tài trợ hàng loạt. Mặt khác, đối với các quốc gia mà kỹ thuật CKH đã được ứng dụng phổ biến thì hầu hết các loại cho vay mua nhà đều có thể được CKH (Mỹ, Malaysia…). Malaysia còn có thêm tham vọng kiểm soát CKH loại hình cho vay này thông qua việc CKH toàn bộ các khoản cho vay mua nhà khi vừa mới được các tổ chức cho vay thực hiện.
Thành lập các tổ chức thực hiện CKH. Khía cạnh kỹ thuật quan trọng trong kinh nghiệm CKH của các nước là việc thực hiện CKH, mà trong đó việc thành lập hay cho phép thành lập các công ty CKH thể hiện mạnh mẽ nhất sự cam kết của nhà nước đối với việc ứng dụng CKH. Để CKH các khoản cho vay nhà ở, các quốc gia thường có hai hướng thực hiện, hoặc cho phép các ngân hàng CKH các khoản cho vay mua nhà của mình hoặc thành lập các công ty CKH chuyên mua các khoản cho vay và phát hành trái phiếu CKH. Hầu hết các nước hình thành CKH từ hướng thứ nhất, và phát triển kỹ thuật này theo hướng thứ hai. Các công ty CKH có thể là các công ty con của các tổ chức cho vay hay là công ty độc lập, có thể do tư nhân hoặc nhà nước thành lập nhằm thúc đẩy quá trình CKH. Các công ty này ngày càng chuyên môn hoá khả năng của mình khiến cho các ngân hàng càng nhận thấy rằng việc trực tiếp CKH các khoản cho vay của mình là việc làm không kinh tế, từ đó quá trình CKH ở các nước lại phổ biến theo hướng thứ hai. Ngoài ra, sự hỗ trợ của Chính phủ các nước bằng việc thường xuyên điều chỉnh và bổ sung các qui định để ngày càng đẩy mạnh thị trường này, cũng góp phần hoàn thiện và thúc đẩy hoạt động của các công ty CKH. Đến nay các nước ứng dụng CKH thành công đều đã thành lập các công ty CKH. Ngoài các công ty CKH, trung tâm của việc ứng dụng kỹ thuật CKH, các quốc gia còn thiết lập các tổ chức hỗ trợ cho hoạt động của các công ty CKH, các tổ chức này tham gia vào từng công đoạn trong một qui trình CKH nhằm thúc đẩy phần việc của mình trong qui trình này: Công ty bảo đảm cho các khoản vay mua nhà, tổ chức tài trợ mua nhà theo những chủ trương của nhà nước, các tổ chức uỷ thác phát hành các loại trái phiếu CKH …
Tuy nhiên, mỗi nước thị trường có bản chất khác nhau vì vậy hoạt động chứng khoán hoá cũng có những đặc điểm khác biệt. Chúng ta xem xét một vài ví dụ sau:
Hoạt động CKH tại Australia: Hoạt động CKH nổi lên như một trong những lĩnh vực tăng trưởng nhanh nhất trên các thị trường vốn Australia. Kể từ khởi điểm của thị trường này vào giữa thập kỷ 1980 các khoản nợ CKH đã tăng lên 18% tính đến thời điểm tháng 9 năm 1997. Cho đến nay CKH có thế chấp chiếm thế chủ đạo trên TTCK Australia trong khi những giao dịch CKH các khoản mua ô tô và thẻ tín dụng tỏ ra ít được thực hiện hơn. Sự tăng trưởng và phát triển của thị trường CKH các tài sản thế chấp của Australia có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường thế chấp. Sự thành công của những định chế tài chính phi ngân hàng trong việc thiết lập một thị phần tại thị trường này đã tạo ra sự phát triển đột biến đối với TTCK bất động sản và đặt nên móng cho sự phát triển CKH có thế chấp. Thị trường CKH tại nước này chủ yếi bao gồm những chứng khoán có lãi suất thả nổi. Đây chính là sự mở rộng của môi trường thê chấp với lãi suất thả nổi. Đầu tháng 7/1997 thị trường CKH tại Australia có hệ số tín nhiệm cao với mức xếp hạng AAA/A-1+ chứng khoán chiếm đa số với 79% trong tổng số chứng khoán. Những chứng khoán này tỏ ra là những sản phẩm thay thế đầy đủ cho các chứng khoán chính phủ phát hành ở qui mô nhỏ hơn. Những yếu tố này khuyến khích các nhà phát hành khác như những ngân hàng thương mại trong việc bắt đầu thực hiện các chương trình CKH. Hiện nay CKH ở Australia là một lựa chọn sống còn và là một biện pháp cạnh tranh để huy động thêm vốn. Sự tăng trưởng của thị trường Australia đã thu hút được sự chú ý của tất cả các thị trường trên thế giới. Một khung quản lý và pháp lý ổn định cho những nhà phát hành và những nhà đầu tư tạo nên môi trường thích hợp cho hoạt động CKH đâm chồi nảy lộc.
Hoạt động CKH tại Nhật Bản: Tại Nhật Bản các sản phẩm CKH (hay còn gọi là ABS) đã được sử dụng dưới các hình thức khác nhau từ đầu những năm 1930, khi pháp lệnh về chứng khoán có bảo đảm bằng tài sản thế chấp lần đầu tiên được ban hành (Teito Shoukenhou Luật số 15 năm 1931). Thị trường CKH đã không có bước phát triển đáng kể nào cho đến những năm 1970 và 1980 khi pháp lệnh kể trên có sự thay đổi, cho phép phát hành các chứng chỉ tín thác đối với các khoản phải thu của các hợp đồng cho vay mua nhà (Jutaku Loan Saiken Shintaku). Động lực đầu tiên thúc đẩy sự ra đời của CKH là việc ban hành luật điều chỉnh các trái quyền đặc biệt có liên quan đến kinh doanh thương mại (Law Relating to the Regulation of Business Concerning Specified Claims) hay còn gọi là luật Miti vào tháng 6 năm 1993. Mục đích của việc ban hành luật này là nhằm tạo điều kiện cho việc CKH một số tài sản của tổ chức đủ tiêu chuẩn. Các tài sản này được định nghĩa là các “trái quyền đặc biệt” bao gồm các khoản phải thu từ hợp đồng thuê mua, các khoản phải thu thẻ tín dụng, các khoản phải thu từ các hợp đồng bán trả góp và các khoản phải thu từ hợp đồng cho vay mua ô tô trả góp. Hình thức CKH đơn giản nhất lần đầu tiên được thấy ở Nhật vào đầu những năm 1990 với việc một số giao dịch đối với thương phiếu có tài sản thế chấp của Mỹ được thực hiện, đồng thời vào năm 1994 trên thị trường cũng thấy xuất hiện các trái phiếu có thế chấp bằng tài sản thực sự đầu tiên do công ty J-Cars và Công ty tín thác nhờ thu JLC phát hành. Tuy nhiên thị trường đã không thể phát triển như mong muốn khiến cho nhiều ngân hàng phải giải tán các tổ công tác CKH của mình. Việc thiếu các sản phẩm CKH trước hết là do môi trường kinh tế lúc bấy giờ, thêm vào đó thị trường lúc bấy giờ đã có sẵn các khoản cho vay giá rẻ do các ngân hàng cung cấp khiến cho CKH trở nên ít có khả năng thay thế cho các nguồn tài trợ truyền thống. Năm 1996, một số thay đổi về pháp luật cũng như trong cơ chế quản lý cùng với diễn biến phát triển của chu kỳ kinh tế đã dẫn đến kết quả là cơ chế lãi suất của CKH được cải tiến. Bộ luật ban hành 1996 đã coi các trái phiếu thế chấp bằng tài sản và thương phiếu là “chứng khoán”, đồng thời cho phép phát hành trên thị trường nội địa. Thị trường CKH Nhật Bản chia thành 3 khu vực khác nhau là: các ngân hàng, khu vực tài chính người tiêu dùng và khu vựcbất động sản. Khu vực ngân hàng tỏ ra có tiềm năng nhất với đa số các ngân hàng xem xét sử dụng CKH như một công cụ củng cố bảng cân đối kế toán và quan trọng là các tỷ lệ do Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) qui định. Khu vực tài chính người tiêu dùng chủ yếu là giao dịch với các hợp đồng cho vay mua ô tô, với các hợp đồng cho thuê tài chính. Tuy nhiên song song với việc giảm các công cụ tài chính ngân hàng, gắn liền với sự thay đổi trong khuôn khổ pháp lý, khu vực này cần xem xét tăng khối lượng phát hành các sản phẩm CKH. Khu vực bất động sản có một số lượng lớn các tài sản có vấn đề với các ngân hàng Nhật Bản được đưa ra phát mại trong công chúng, đồng thời cũng có một số các tổ chức muốn sử dụng các sản phẩm CKH như một giải pháp giảm nguy cơ bị phát mại tài sản đối với khu vực này. Xu hướng này được củng cố thêm nhờ việc ban hành một số chính sách do các cơ quan quản lý ban hành nhằm tạo điều kiện cho thị trường phát triển, trong đó có 12 biện pháp có hiệu quả nhất ban hành vào tháng 3 năm 1997. Các biện pháp này bao gồm: giảm yêu cầu vốn cho các SPC-special purpose company, miễn một số loại thuế doanh nghiệp, một số giấy phép mua tài sản và giấy phép đăng ký; cho phép tận dụng cơ chế tín thác, đồng thời công nhận các chứng chỉ tín thác là chứng khoán. Mặc dù khởi đầu không mấy thành công nhưng chắc chắn là thị trường CKH Nhật Bản hiện nay đang phát triển rất mạnh.
Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác, chúng ta có thể thấy được đây là một công cụ vô cùng đơn giản mà lại rất hiệu quả, vừa giảm rủi ro lại vừa tăng thu nhập.
3.Sự cần thiết phải áp dụng kỹ thuật CKH tại Việt Nam:
Với việc tham khảo kinh nghiệm từ các nước đã áp dụng kỹ thuật CKH, chúng ta thấy CKH không những là một giải pháp huy động vốn hữu hiệu trong nền kinh tế để tài trợ cho việc đô thị hoá, cải tạo hệ thống nhà ở, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng, mà còn là một biện pháp mang tính xã hội. Cụ thể là: các doanh nghiệp, ngân hàng thực hiện CKH để huy động vốn một cách hiệu quả với chi phí thấp và thực hiện quản lý khoản mục nguồn vốn và tài sản tốt hơn; các nhà đầu tư có thêm chứng khoán để lựa chon cho danh mục đầu tư, do đó sẽ dễ dàng hơn cho việc đa dạng hoá đầu tư và phân tán rủi ro; để đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu Chính phủ cũng thực hiện CKH các khoản phải thu như thu thuế, thu phí…Mặt khác CKH tạo điều kiện cho các thành phần dân cư có thu nhập trung bình và thấp sở hữu nhà từ đây góp phần thu hẹp cách biệt giầu nghèo, thúc đẩy công bằng xã hội.
Thêm vào đó, một khi những tác động tích cực của CKH phát huy tác dụng thì lại thúc đẩy kinh tế phát triển. Như vậy có thể cho rằng, những lợi ích cơ bản mà CKH mang lại cho nền kinh tế cũng chính là những mục tiêu mà các quốc gia theo đuổi để phát triển kinh tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài qui luật đó, yêu cầu phải thực hiện những mục tiêu này là vô cùng thúc bách đối với Việt Nam khi trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, cụ thể là:
Nhu cầu về nhà ở cho dân cư, nhu cầu đô thị hoá:
Sau chiến tranh, Việt Nam là một nước nước nông nghiệp lạc hậu, để xây dựng đưa đất nước đi lên trong mấy thập kỉ qua Việt Nam đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiên đại hoá (CNHHĐH) trên phạm vi cả đất nước. Song hành với quá trình CNHHĐH, quá trình đô thị hoá cũng diễn ra ngày càng mạnh. Ngày càng có nhiều người dân từ vùng nông thôn di chuyển ra thành thị làm cho dân số thành thi ngày càng tăng, xuất hiện các thành phố triệu dân với mật độ dân cư ngày càng đông; thêm vào đó nhiều khu đô thị mới được thành lập. Nhu cầu về nhà ở tăng cao cho các thành phần dân cư, đặc biệt là người dân thu nhập trung bình và thấp, đặt ra nhu cầu xây dựng các khu dân cư, khu chung cư và xây dựng nhà ở theo qui hoạch tổng thể. Đây cũng đồng thời là nhu cầu, mong muốn của chính phủ trong việc cải thiện bộ mặt các khu đô thị trong nước ngày càng hiện đại, văn minh.
Nguồn vốn ngân sách hạn chế , hoạt động của NH chưa khai thác hết được nguồn vốn trong dân cư:
Để đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong quá trình đô thị hoá đất nước, để xây dựng các khu dân cư, các khu chung cư nhiều tầng, khu nhà ở qui hoạch tổng thể hiện đại… đòi hỏi nguồn vốn rất lớn. Nhưng hiện nay do đất nước còn kém phát triển nguồn vốn ngân sách nhà nước hạn hẹp, cùng với rất nhiều công trình cần vốn rót từ nhà nước nguồn vốn cho đầu tư xây dựng, qui hoạch nhà ở chưa đáp ứng đựơc nhu cầu trong dân cư và yêu cầu mà chính phủ đặt ra. Mặt khác các ngân hàng hoạt động còn chưa hiệu quả do vậy nên chưa khai thác được hết nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cho nhu cầu về nhà ở, đặc biệt là những người thu nhập trung bình và thấp có nhu cầu về nhà ở lớn nhưng không có đủ tiền để mua nhà.
Nhu cầu chung về việc tạo công ăn việc làm, kích thích sản xuất trong nước phát triển:
Với lực lượng lao động dồi dào hàng năm có khoảng 15 triệu lao động trẻ gia nhập lực lượng lao động trên thị trường. Điều này đặt gánh nặng cho nhà nước hàng năm trong việc tạo và sắp xếp công ăn việc làm cho người lao động. Đồng thời với việc tạo công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng là một nhiệm vụ quan trọng, muốn thực hiện được mục tiêu đó ta cần kích thích sản xuất phát triển thông qua việc kích thích cầu tiêu dùng. Trong hoạt động kích thích nhu cầu tiêu dùng thì nhu cầu cho nhà ở chưa được khai thác đúng tiềm năng.
Khai thác nguồn vốn nhàn rỗi, thị trường tài chính trong nước còn non kém :
Do hoạt động chưa hiệu quả của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng quốc doanh nguồn vốn dư thừa trong dân cư chưa được huy động hữu hiệu. Một động lực khác thúc đẩy các ngân hàng áp dụng kỹ thuật chứng khoán là nhằm giảm gánh nặng về các loại thuế qui chế (yêu cầu về tỷ lệ vốn tự có, yêu cầu về tỷ lệ dự trữ tối thiểu không có lãi suất, yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bằng tài sản cơ bản.), và nhằm tăng lợi nhuận của ngân hàng sau thuế. Ngoài gánh nặng về thuế qui chế, ngân hàng còn bộc hai rủi ro đối với các khoản cho vay tín dụng. Đó là:rủi ro về lãi suất, rủi ro thanh khoản.
Việt Nam đang từng bước hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế, thì việc nghiên cứu sử dụng công nghệ chứng khoán hoá trở thành yêu cầu cấp thiết. Do CKH khắc phục được khó khăn do thiếu vốn, giúp các tổ chức tài chính quản lý nguồn vốn linh hoạt và hiệu quả; tăng tính thanh khoản cho các tài sản; giảm thời lượng của mỗi hạng mục đầu tư; tăng các khoản thu từ phí… Vì vậy, thị trường tài chính ổn định hơn nhờ đó cũng góp phần ổn định chính trị xã hội.Tuy nhiên đây là vấn đề phức tạp đòi hỏi không chỉ có sự thay đổi về nhận thức mà còn phải có sự chỉ đạo nghiên cứu và xây dựng kế hoạch triển khai cả ở tầm vĩ mô và vi mô, có như vậy mới có thể phát huy hết được hiệu quả tích cực của công cụ này.
Phần 3 :Mô hình và bước đi chứng khoán hoá ở Việt nam
I. Quy trình chứng khoán hoá cơ bản
Theo lý thuyết thì các tổ chức tham gia vào quy trình chứng khoán hoá phải gồm có:
- Bên khởi tạo (orginator): thường là các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp, chính phủ, các công ty bảo hiểm, thực hiện việc chứng khoán hoá các tài sảncủa mình vì một hoặc một số mục tiêu: huy động vốn, quản lý tính thanh khoản của các tài sản...
- Bên có nghĩa vụ thanh toán (Obligator): Là các cá nhân, tổ chức có nghiữa vụ thanh toán cho bên khởi tạo dựa theo các tài sản được chứng khoán hoá.
- Doanh nghiệp chuyên dụng (Special Purpose Vehicle - SPV): Là doanh nghiệp được thành lập để thực hiện các giao dịch chứng khoán hoá. Doanh nghiệp này thường được tạo ra dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh hay quỹ tín thác để thực hiện việc mua các tài sản của bên khởi tạo và tiến hành phát hành chứng khoán trên cơ sở các tài sản này để lấy tiền mua các tài sản này.
- Tổ chức quản lý tài sản (Servicer): Là các tổ chức thường do ban khởi tạo lập ra, thực hiện việc quản lý tài sản được chứng khoán hoá. Tổ chức này có chức năng chủ yếu là thu tiền từ bên có nghĩa vụ thanh toán, rồi chuyển cho doanh nghiệp chuyên dụng.
- Tổ chức định mức tín nhiệm (Rating Agency): Cung cấp thông tin về mức độ an toàn của các chứng khoán được phát hành trên cơ sở xếp hạng tín nhiệm cho các chứng khoán này.
- Tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán: Thường là một hoặc một số ngân hàng đầu tư cam kết mua toàn bộ chứng khoán phát hành ra theo giá xác định trước, góp phần làm cho quá trình chứng khoán hoá được diễn ra nhanh hơn.
- Các nhà đầu tư (Investor): Là các tổ chức và cá nhân mua chứng khoán được phát hành
- Công ty chứng khoán hoá: Hiện nay khái niệm công ty chứng khoán hoá ở Việt Nam còn tương đối xa lạ với mọi người, kể cả những người trong ngành. Để tạo điều kiện thực hiện chứng khoán hoá thì việc thành lập công ty chứng khoán là tất yếu (ở Việt Nam có thể là Vietnam Mortgage Company hoặc Vietnam Securitization Company...)
- Tổ chức cho vay và bán lại các khoản cho vay này cho công ty chứng khoán hóa. Hiện nay các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay mua nhà xây dựng gồm Ngân hàng á Châu, Ngân hàng Sài Gòn Thương tín, Công ty Tài chính Cổ phần Sài Gòn, Ngân hàng Phát triển nhà, Ngân hàng Tân Việt, Ngân hàng Nam á.... Đây thực sự là các hạt nhân cho việc phát triển nghiệp vụ chứng khoán hoá sau này. Ngoài ra, không loại trừ các tổ chức tài trợ mua nhà được thành lập theo chủ trương của nhà nước
- Người đầu tư vào các trái phiếu: cá nhân và tổ chức, hiện nay số lượng các nhà đầu tư nhỏ lẻ chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng số những nhà đầu tư. Cần thiết phải có những nhà đầu tư chuyên nghiệp với trình độ và kiến thức phong phú để có thể làm cho thị trường chứng khoán trở nên sôi động và hoạt động lành mạnh hơn, thực sự là những nhà đầu tư theo đúng nghĩa.
- Cơ quan nhà nước có thầm quyền phê duyệt đăng ký CKH. Khi công ty CKH được phép thành lập, nhà nước phải xác định trách nhiệm quản lý công ty thuộc cơ quan nào, có thể là Bộ Tài chính, có thể là Ngân hàng Nhà nước...
- Ngoài ra còn phải kể đến những nhân tố khác góp phần hình thành chứng khoán hoá như: những người vay tiền mua nhà, các tổ chức trung gian phát hành trái phiếu, các tổ chức đánh giá trái phiếu, các tổ chức bảo hiểm, các quỹ đầu tư chứng khoán ...
II. Loại trái phiếu đề nghị (sản phẩm CKH giai đoạn đầu)
Hiệu quả của chứng khoán hoá phụ vào nhiều yếu tố, một trong những yếu tố có tính chất quyết định đó là việc sử dụng các mô hình chứng khoán hoá khác nhau. Một số mô hình hiện nay gồm có: mô hình chứng khoán hoá thông qua trung gian (The Mortgage Backed Security - MBS), nói chung là đây là phương pháp cơ bản và phổ biến trên thế giới nhưng nó có nhược điểm là không tạo ra sự hấp dẫn cho người đầu tư do không tạo ra sự khác biệt cho họ, mức lãi suất là cố định và đều như nhau đối với các nhà đầu tư, đồng thời mức độ rủi ro cao do không có tài sản cầm cố. Do có những nhược điểm trên mà hiện nay phương thức chứng khoán hoá này đang dần được thay thế bằng các phương thức khác. Mô hình chứng khoán hoá trên cơ sở có tài sản cầm cố là các chứng khoán loại MBS Collateralised - Mortgage Obligation - CMO: đây là một công cụ mới đang được phát triển mạnh, là các chứng khoán có tài sản cầm cố là các chứng khoán tái thế chấp (CMO). Nó tạo ra một sự hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư do các chứng khoán dạng CMO được phân thành nhiều hạng khác nhau nhằm hấp dẫn và đáp ứng yêu cầu tính đa dạng của các nhà đầu tư. Đây là mô hình được các nhà đầu tư ưa chuộng nhất hiện nay. Mô hình chứng khoán hoá có tài sản thế chấp không thông qua trung gian (The Mortgage Backed Bond - MBB): phương thức này vẫn duy trì các khoản cho vay ở trong nội bảng, ngược lại đối với hai phương thức trên, điều này làm cho các ngân hàng không muốn tập trung vào MBB do không làm tăng tính thanh khoản và còn phải chịu thêm một loại thuế quy chế. Tuy nó có ưu điểm là các trái phiếu MBB do ngân hàng phát hành được bảo đảm bằng tài sản cầm cố có giá trị lớn hơn tổng mệnh giá phát hành trái phiếu và người nắm giữ trái phiếu luôn là người đầu tiên được phân chia tài sản cầm cố nếu như ngân hàng phá sản - điều này làm cho MBB có một mức an toàn rất cao, luôn được xếp hạng AAA, tuy nhiên điều này làm cho lãi suất của nó rất thấp, cũng không hấp dẫn nhà đầu tư. Chính vì tất cả các lí do trên mà MBB là phương thức ít được sử dụng nhất.
Qua việc xem xét các ưu, nhược điểm của từng loại mô hình chứng khoán hoá ta có thể thấy trên thế giới thì hình thức CMO được ưu chuộng nhất. Theo thực tiễn các nước đã phát triển CKH, các loại trái phiếu trách nhiệm cho vay mua nhà có thế chấp (CMOs) gọi tắt là các trái phiếu CKH, ngày càng được sử dụng phổ biến vì những ưu điểm của nó so với các chứng chỉ dự phần. Các loại trái phiếu CMOs được cấu trúc thành nhiều lớp (tranche), các lớp CMO này cùng có cơ sở từ một tập hợp các khoản cho vay, nhưng có thời gian đáo hạn khác nhau, có cấu trúc thanh toán vốn gốc và lãi theo những thứ tự nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người đầu tư, giúp người đầu tư có nhiều khả năng chọn lựa hơn về thời hạn, về só lượng, về lãi suất trong mối liên hệ với việc chấp nhận các rủi ro, và quan trọng nhất là các CMO giải phóng nhà đầu tư khỏi sự bất ổn trong lưu chuyển tiền tệ của tập hợp các khoản cho vay mua nhà (bất ổn từ phía người vay tiền mua nhà). Từ đó, việc phát hành trái phiếu dạng này thu hút được nhiều người đầu tư, hay nói cách khác, thu hút được nhiều vốn nhàn rỗi trong xã hội, hỗ trợ nhiều hơn cho nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của mình.
ở Việt Nam, trong giai đoạn đầu ứng dụng kỹ thuật CKH, nên chọn việc phát hành các loại trái phiếu dạng CMO đơn giản, kết hợp với các biện pháp kiểm soát chặt chẽ tài sản đảm bảo là tập hợp các khoản cho vay mua nhà. Công ty CKH phải thiết lập bộ phận kiểm soát cùng các tiêu chuẩn trong việc mua lại các khoản cho vay từ các tổ chức cho vay nhằm bảo đảm đến mức cao nhất độ ổn định của việc thanh toán vốn gốc và lãi vay hàng tháng của các khoản cho vay. Các tiêu chuẩn này ban đầu có thể do công ty CKH ban hành, về sau có thể luật hoá một cách tổng quát để áp dụng thống nhất cho hoạt động CKH.
Đó là việc phát hành các CMO với nhiều lớp, với thời hạn và cách thanh toán tiền lãi và vốn gốc theo nguyên tắc thông thường của CMO. Các loại CMO này có thể chưa quen sử dụng, nên thời gian đầu có thể phát hành các loại trái phiếu có những đặc điểm như các trái phiếu thông thường, và vì vậy, việc CKH tập hợp các khoản cho vay thu nhận được nên được thực hiện thông qua việc phát hành các laọi trái phiếu có thời hạn khác nhau, từ trung hạn đến dài hạn, để vừa hấp dẫn người đầu tư vừa cân đối được nguồn chi trả cho lần lượt các trái phiếu đến hạn.
III. Các tổ chức hỗ trợ cho chứng khoán hoá:
Chứng khoán hoá là một nghiệp vụ phức tạp, đòi hỏi sự tham gia và phối hợp chặt chẽ giữa các bên. Trước tiên chúng ta hãy tiếp cận với một tổ chức có vai trò quan trọng nhất, đó là Công ty Chứng khoán hóa.
1.Công ty chứng khoán hoá
Thuật ngữ công ty chứng khoán hoá (CtyCKH) được sử dụng để chỉ các tổ chức chuyên trách - đặc biệt (các SPV - special purpose vehiele), các CtyCKH này vừa là chủ thể thực hiện kỹ thuật chứng khoán hoá (CKH) vừa là động lực phát triển kỹ thuật này. Khi các nước tiến hành ứng dụng kỹ thuật CKH thì việc thành lập tổ chức dạng SPV là một trong những việc phải thực hiện đầu tiên xem như mục tiêu ban đầu của việc ứng dụng CKH. Đối với Việt Nam, là nước đi sau, qua kinh nghiệm từ các nước đã áp dụng kỹ thuật CKH, rõ ràng các vấn đề chính của việc thiết lập một chu trình CKH từ việc hình thành các tổ chức trung gian CKH (SPV), chuẩn hoá các loại hình cho vay của các tổ chức cho vay để có thể bán cho các SPV, đến việc phát hành trái phiếu do các khoản cho vay mua nhà có thế chấp đảm bảo (Mortgage - backed bonds) là những nội dung cần xem xét, ngoài ra các vấn đề xung quanh CKH như việc tạo lập các tổ chức cho vay theo các mục tiêu kinh tế xã hội của Chính phủ, các vấn đề liên quan đến thúc đẩy thị trường của một loại trái phiếu mới trong đời sống kinh tế cũng là những vấn đề cần quan tâm. Vì thực tế hiện nay chưa tồn tại nghiệp vụ chứng khoán hoá ở Việt Nam và những bộ phận tham gia, do vậy mà mô hình được đưa ra dưới đây là mô hình được ghi nhận và học hỏi từ những quốc gia có trình độ chứng khoán hoá cao và có nhiều năm kinh nghiệm. Đồng thời cũng đã tham khảo thực trạng của Việt Nam để đưa ra một mô hình công ty chứng khoán hoá phù hợp với giai đoạn đầu.
Mục đích thành lập
Việc thành lập một CtyCKH là một bước quan trọng của CKH, nên mục đích của việc thành lập CtyCKH cũng không nằm ngoài mục đích của việc ứng dụng CKH.
Củng cố và phát triển thì trường tài trợ nhà ở, góp phần phát triển công nghiệp xây dựng nhà.
- Tạo khả năng thanh khoản cho các khoản phải thu là các khoản cho vay mua nhà, góp phần thúc đẩy khả năng sinh lợi cho các ngân hàng, khả năng quản trị rủi ro của các tổ chức tài chính.
- Cung cấp một phương tiện đầu tư mới, góp phần tạo thêm một loại hàng hoá cho thị trường chứng khoán (TTCK), phát triển thị trường các công cụ nợ trung và dài hạn.
- Góp phần thúc đẩy thị trưòng tài chính phát triển.
- Làm tiền đề cho việc CKH các tài sản (các khoản phải thu khác).
Chức năng chính
Phát hành các loại trái phiếu có cơ sở là các khoản cho vay mua nhà, xây dựng nhà có thế chấp bằng các tài sản hình thành từ vốn vay mua lại từ các tổ chức tín dụng cho vay loại hình này. Nói cách khác là việc tái cấu trúc các khoản cho vay mua nhà của các tổ chức cho vay thành các loại trái phiếu khả mại phát hành ra công chúng đầu tư.
Lĩnh vực hoạt động
- Mua các khoản cho vay mua nhà, xây dựng nhà có thế chấp bằng các tài sản hình thành từ vốn vay từ các tổ chức cho vay.
- Huy động vốn bằng cách phát hành các loại trái phiếu trung, dài hạn có cơ sở đảm bảo bằng các tài sản mua được (Mortgage backed bonds).
- Đảm bảo việc thanh toán lãi và vốn gốc đối với các loại trái phải phát hành.
- Cung cấp các dịch vụ tư vấn liên quan CKH.
Tuy đây là mô hình có ý nghĩa đề xuất và như đã đề cập, mô hình này là tổng quát, nhưng theo chúng tôi, việc thành lập một công ty CKH Nhà nước là bước đi có nhiều thuận lợi nhất đối với một quốc gia như Việt Nam trong giai đoạn đầu áp dụng kỹ thuật CKH vì một số lí do sau đây:
- Thể hiện rõ cam kết của Nhà nước trong việc thúc đẩy kỹ thuật CKH, phát triển đô thị hoá, phát triển TTCK bằng việc tạo lập thêm hàng hoá cho thị trường, củng cố hoạt động của các ngân hàng...
- Kiểm soát được đồng bộ và thống nhất (quy về một mối) các tập hợp cho vay mua được, góp phần chuẩn hoá loại hình cho vay mua nhà có thế chấp bất động sản của ngân hàng. Từ đó góp phần kiểm soát quá trình cho vay của ngân hàng.
- Uy tín tín dụng cao nhất trong việc phát hành các loại trái phiếu, đây là cơ sở của việc huy động vốn cho quá trình CKH.
- Vì là tổ chức Nhà nước, nên việc giải quyết các quan hệ pháp lý đối với các cơ quan Nhà nước trong quá trình CKH sẽ đồng bộ và nhanh chóng hơn.
- Và một lí do khách quan không kém phần quan trọng là vì việc áp dụng kỹ thuật CKH còn mới mẻ, nên giai đoạn đầu cần thiết phải tạo lập sự ổn định cho thị trường, một tổ chức Nhà nước sẽ góp phần ổn định hơn đối với thị trường thứ cấp các khoản phải thu là các khoản cho vay mua nhà, bất động sản, hạn chế việc mua bán tuỳ tiện dẫn đến việc cho vay tràn lan, thiếu kiểm soát của ngân hàng. Sau này khi các thị trường đã ổn định, việc cổ phần hóa (CPH) CtyCKH của Nhà nước và việc hình thành các CtyCKH của các thành phần kinh tế khác là khả thi và có thể được xét đến.
Như trên chúng ta đã tìm hiểu thì vai trò của công ty chứng khoán hoá là rất quan trọng. Tuy nhiên để thực hiện thành công nghiệp vụ chứng khoán hoá thì còn cần phải có sự ra đời của các tổ chức khác. Để hỗ trợ cho việc áp dụng và thúc đẩy CKH phát triển, nhằm khai thác tối đa các lợi ích của CKH đối với nền kinh tế, việc thành lập các tổ chức xung quanh công ty CKH cũng cần được xem xét đến. Theo kinh nghiệm các nước, các tổ chức này bao gồm:
2.Các tổ chức tài trợ mua nhà
Để thực hiện các mục tiêu về xây dựng nhà ở tạo điều kiện cho các thành phần dân cư có thu nhập trung bình, thấp cũng như những cư dân phát sinh từ việc cải tạo đô thị, di dời, giải toả có thể mua được nhà, nhà nước có thể thành lập các tổ chức cho vay mua nhà dành cho các đối tượng này với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, giá trị vay trên giá nhà (LTV), giá trị thanh toán trước (down payment), thời hạn... Nhờ vào việc ứng dụng CKH, thông qua các công ty CKH, nhà nước có thể huy động được nguồn vốn nhàn rỗi từ khu vực dân cư có thu nhập cao đầu tư vào các trái phiếu gián tiếp tài trợ cho khu vực dân cư có thu nhập thấp có thể được sở hữu nhà. Có thể tham khảo các tổ chức dạng này như FHA (Federal Housing Administration) ở Mỹ hay NHF (National Housing Fund) ở Hàn Quốc. ở Việt Nam, Nhà nước đã thành lập các tổ chức tương tự như các nước trên thế giới như Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, hoặc các ngân hàng khác có cho vay xây dựng nhà như Habubank (Ngân hàng Nhà Hà Nội) hoặc Ngân hàng phát triển Nhà thành phố Hồ Chí Minh. Đây là các cơ sở nhằm tạo ra các tài sản cầm cố, là nguồn gốc tạo ra chứng khoán. Đây là các cơ sở nhằm tạo ra các tài sản cầm cố, là nguồn gốc tạo ra chứng khoán hoá.
3.Các đại lý uỷ thác phát hành trái phiếu được công ty CKH bảo đảm thanh toán
Đại lý uỷ thác phát hành các loại trái phiếu CKH là các tổ chức đứng ra nhận uỷ thác từ các công ty CKH chịu trách nhiệm phát hành các lại trái phiếu, lúc đó công ty CKH trở thành tổ chức bảo đảm thanh toán cho các trái phiếu. Việc này có tác dụng tâm lý làm tăng uy tín của trái phiếu CKH và đẩy nhanh việc phát hành nhờ vào khả năng chuyên môn cao của các đại lý uỷ thác.
4. Các tổ chức định mức tín nhiệm
Việc thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt Nam là cần thiết không chỉ cho yêu cầu của CKH mà còn để đáp ứng yêu cầu của việc phát triển thị trường chứng khoán. Đánh giá của các tổ chức có uy tín có tác dụng định hướng đầu tư cho người đầu tư, tiết kiệm được nhiều chi phí đánh giá và thăm dò trong thị trường tài chính..., ngoài ra còn có tác dụng thúc đẩy các tổ chức phát hành không ngừng nâng cao năng lực sản xuất nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của mình. Vì các loại trái phiếu hình thành do CKH là các dạng trái phiếu còn mới, chưa tạo được lòng tin tong người đầu tư, nên tuy bản thân các trái phiếu có được sự bảo đảm thanh toán từ phía nhà nước (đề nghị) và từ tài sản (các khoản cho vay) được CKH, nhưng vẫn chưa được tin cậy đúng với những ưu điểm của nó dành cho người đầu tư. Việc có mặt một tổ chức định mức với những đánh giá khách quan sẽ góp phần làm phổ biến và khẳng định ưu thế vượt trội của các loại trái phiếu CKH.
5. Một tổ chức đặc biệt bảo lãnh cho việc phát hành chứng khoán hoá:
Tổ chức này có thể do một doanh nghiệp có quy mô vốn lớn và có uy tín trong lĩnh vực ngân hàng lập ra để thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, tuy nhiên như thực trạng hiện nay ở trên thế giới thì các công ty đặc biệt này nhận được một sự cam kết đặc biệt từ Chính phủ để hỗ trợ và cam kết bảo đảm không hạn chế đối với người đầu tư vào các chứng khoán hoá tài sản ngân hàng. Mọi sự thiếu hụt hay chậm trong khâu thanh toán lãi coupon và gốc trái phiếu đối với người đầu tư đều được cơ quan đặc biệt này bảo lãnh đầy đủ và kịp thời. Phải nhấn mạnh rằng công nghệ chứng khoán hóa tài sản ngân hàng được bắt nguồn từ các chương trình tài trợ của chính phủ nhằm củng cố và tăng cường tính thanh khoản của thị trường bất động sản.
Một tổ chức khác có thể do Chính phủ trực tiếp tạo ra nhằm đảm bảo cho chứng khoán hoá được thực hiện thành công. Ví dụ như ở úc có 3 công ty tài trợ của Chính phủ trực tiếp tạo ra và phát hành các chứng khoán trên cơ sở tài sản thế chấp của các khoản vay ngân hàng: The First Australia National Mortgage Acceptance Corporation Limited (FANMAC Premier Trust); The Keystart Bond Program và The Victorian Housing Bond Program. ở Mỹ thì có Hiệp hội bất động sản Liên bang (The Federal National Mortgage association- FNMA). ở Việt Nam có thể thành lập một tổ chức tương tự như vậy.
Kết luận chung
Nói tóm lại việc áp dụng chứng khoán hoá ở Việt Nam là một đòi hỏi khách quan của Việt Nam. Sự thành công của nhiều quốc gia trên thế giới trong việc thực hiện chứng khoán hoá đã chứng minh rằng chứng khoán hoá tại các doanh nghiệp và đăc biệt là tại các ngân hàng sẽ giúp họ có thể huy động vốn một cách hiệu quả với chi phí thấp và thực hiện quản lý khoản mục nguồn vốn và tài sản tốt hơn.
Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu , đề tài đã nêu ra được một số vấn đề sau:
Lý thuyết chung về chứng khoán hoá
Điều kiện để thực hiện chứng khoán hoá thành công
ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hoá vào các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Tất nhiên vì đây là một vấn đề còn mới mẻ đối với nước ta hiện nay trên cả phương diện thực tiễn và lí thuyết vì hiện nay chưa có một văn bản pháp luật nào của Nhà nước đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên ứng dụng chứng khoán hoá ở Việt Nam là cần thiết. Do đó những công trình nghiên cứu nhằm nghiên cứu về chứng khoán hoá và các điều kiện cần thiết để chứng khoán hoá có thể đưa vào thực hiện ở Việt Nam. Những đề xuất mà nhóm nghiên cứu đưa ra dựa trên lý thuyết chung về chứng khoán hoá, những bài học kinh nghiệm của các quốc gia đi trước đã rất thành công trong nghiệp vụ này cũng như điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam. Để có thể áp dụng thành công nghiệp vụ này trong các NHTM thì ngoài vai trò trực tiếp của NHTM còn cần có sự khuyến khích từ phía Nhà nước cũng như sự hỗ trợ của các định chế tài chính khác trong nền kinh tế.
Tất nhiên là kết quả nghiên cứu của đề tài này là còn rất nhỏ bé,vì vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của mọi người để đề tài ngày càng đầy đủ và hoàn thiện.
Mục lục
Lời nói đầu
Phần 1: Lý thuyết chung về chứng khoán hoá
I.Lý thuyết chung về CKH
1. Khái niệm chứng khoán hoá:
a.Khái niệm chung về chứng khoán hoá:
b. Đặc điểm của chứng khoán hoá:
c.Những cấu trúc CKH đặc trưng:
2.Đặc điểm của CKH :
3.Chức năng của CKH:
II. Các điều kiện kinh tế xã hội cần thiết để hình thành và phát triển kỹ thuật CKH:
1. Điều kiện kinh tế cần thiết để hình thành và phát triển CKH
a. Sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán, điều kiện phát sinh và phát triển CKH :
b.Sự hình thành và phát triển của các tổ chức kinh doanh chứng khoán và dịch vụ thị trường là điều kiện quan trọng để kỹ thuật CKH được tiến hành một cách có tổ chức và có hiệu quả…………………………
2. Các điều kiện xã hội cần thiết để CKH phát sinh và phát triển:
a.Môi trường xã hội – chính trị ổn định, minh bạch và bảo hộ quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế là điều kiện thuận lợi cho CKH ra đời và phát triển:
b. Tồn tại một văn hóa chứng khoán là điều kiện cần thiết để dân cư tham gia vào việc mua bán các chứng khoán hóa:
c. Hình thành đội ngũ cán bộ kinh doanh trong thị trường CKH :
3. Vai trò của Nhà nước trong việc tạo điều kiện và hỗ trợ CKH phát sinh và phát triển:
4.Kinh nghiệm về mở cửa thị trường CKH :
Phần 2: CKH trong các NHTM
I.Lý thuyết chung về CKH ở NHTM:
1.Các nghiệp vụ của NHTM……………………………………………
a.Nghiệp vụ nợ (Nghiệp vụ nguồn vốn): :
b.Nghiệp vụ có (Nghiệp vụ sử dụng vốn)………………………………
2.Điều kiện để một NHTM tiến hành kỹ thuật CKH :
3. Các tài sản CKH trong NHTM……………………………………..
a. MBSs: CKH dựa trên tài sản thế chấp cho vay………………………
b. Mô hình chứng khoán hoá trên cơ sở có tài sản cầm cố là các chứng khoán loại MBS – Mortgage Backed Securities (Collater - Alised – Mortage Obligations – CMO………………………………………….
c. Mô hình chứng khoán hoá có tài sản thế chấp không qua trung gian (The Mortgage Backed Bond – MBB) …………………………………
4. Vai trò CKH trong hoạt động của NHTM:
5.Rủi ro của kỹ thuật CKH ( rủi ro hoàn trả trước hạn):
II. Phát triển CKH trong các NHTM ở Việt Nam-một xu hướng tất yếu
1.Thực tiễn CKH ở VN:
2.Xu thế áp dụng CKH của các nước khác trên thế giới:
3.Sự cần thiết phải áp dụng kỹ thuật CKH tại Việt Nam:
Phần 3 :Mô hình và bước đi chứng khoán hoá ở Việt nam
I. Quy trình chứng khoán hoá cơ bản
II. Loại trái phiếu đề nghị (sản phẩm CKH giai đoạn đầu)…………….
III. Các tổ chức hỗ trợ cho chứng khoán hoá:
1.Công ty chứng khoán hoá
2.Các tổ chức tài trợ mua nhà
3.Các đại lý uỷ thác phát hành trái phiếu được công ty CKH bảo đảm thanh toán
4. Các tổ chức định mức tín nhiệm
5. Một tổ chức đặc biệt bảo lãnh cho việc phát hành chứng khoán hoá:
Kết luận chung
Mục lục………………………………………………………………..
1
2
2
2
2
5
5
6
7
8
8
8
10
13
13
14
14
15
16
17
17
17
17
18
19
20
20
22
24
25
30
32
32
33
37
39
39
40
41
41
43
44
44
44
46
47
Danh mục tài liệu tham khảo
Sách “Quản trị rủi ro trong ngân hàng thương mại”- Nguyễn Văn Tiến- Học viện Ngân hàng
Sách “ Ngân hàng thương mại”- Peter . S. Rose, Người dịch:PGS. TS Vương Trọng Nghĩa, GS. TS Nguyễn Văn Nam
Sách “ Nghiệp vụ ngân hàng thương mại”- ĐHKTQD
Sách “ Thị trường chứng khoán”- PGS. TS Vương Trọng Nghĩa, GS. TS Nguyễn Văn Nam
Sách “ Điều kiện kinh tế xã hội để hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam”
Tạp chí “ Chứng khoán Việt Nam”, “ Ngân hàng”, “Thị trường tài chính”
Và một số trang web tham khảo:
www.stockmarket.com.vn
www.vinodkothari.com
www.deloitte.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28061.doc