Đối với các doanh nghiệp, thu nhập do hoạt động Marketing Internet mang lại ngày càng tăng, từ 18 tỷ đô la Mỹ năm 1997 lên 38 tỷ đô la năm 1998 và 180 tỷ năm 1999, gấp 4.64 lần so với năm 1998 và gấp 10 lần so với năm 1997. Năm 2001, thu nhập do hoạt động này mang lại đạt hơn 400 tỷ đô la Mỹ. Năm 2002, theo dự đoán của tập đoàn Jupiter là 793 tỷ đô la. Tập đoàn eMarketer của Mỹ dự đoán đến năm 2004 thương mại điện tử toàn cầu sẽ tăng lên 2700 tỷ USD. Theo nghiên cứu của tập đoàn Forester Research, tại Mỹ, nơi đã cho ra đời mạng Internet và phương thức kinh doanh mới, thu nhập do hoạt động Marketing Internet mang lại cho thương mại điện tử chiếm giá trị lớn (gần 70%) trong tổng thu nhập của thế giới, năm 1999 đạt trên 150 tỷ đô la, năm 2000 đạt 38,8 tỷ đô la, năm 2001 lên tới 65 tỷ năm 2001 và năm 2005 được dự báo sẽ là 184 tỷ đô la.
92 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1198 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Úng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền đề cần thiết nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông qua chất lượng, các chương trình đào tạo phù hợp với từng đối tượng, từng chuyên môn cụ thể sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách Marketing Internet có đủ khả năng tiếp thu, thích ứng với những thay đổi của môi trường kinh doanh, đồng thời theo kịp được tốc độ phát triển như vũ bão của công nghệ Internet hiện nay. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ Marketing Internet phải được tiến hành đồng thời với những nội dung chủ yếu sau:
2.1.Đào tạo đội ngũ chuyên môn về công nghệ Internet
Như chương I đã đề cập, Marketing Internet là sự ứng dụng Internet trong thực hiện chiến lược Marketing. Chính vì vậy, việc đào tạo kiến thức về Internet, về công nghệ thông tin là điều rất cần thiết cho mỗi doanh nghiệp. Kiến thức mạng và kiến thức về công nghệ thông tin không chỉ cần thiết cho riêng đối với cán bộ Marketing Internet mà còn cần thiết cho cả đội ngũ quản lý của doanh nghiệp. Kiến thức này giúp người làm công tác Marketing Internet có thể xây dựng, triển khai được chương trình ứng dụng chiến lược Marketing Internet, đồng thời có thể luôn đổi mới nhằm nâng cao chất lượng các hoạt động Marketing Internet và tiếp cận, xử lý mọi tình huống về công nghệ có thể xảy ra trong quá trình thực hiện kế hoạch.
2.2. Đào tạo chuyên sâu về Marketing
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp luôn thay đổi theo thời gian, theo sự phát triển của xã hội. Nhu cầu của người tiêu dùng cũng vì thế luôn thay đổi và luôn hướng về sự hoàn thiện. Nằm trong xu thế này, để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, hoạt động Marketing của doanh nghiệp cũng phải linh hoạt và thích ứng với từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển. Theo đó, cán bộ Marketing luôn phải được bồi dưỡng, bổ sung kiến thức mới về Marketing. Đặc biệt, nhân viên Marketing Internet phải không chỉ được đào tạo kiến thức về Marketing nói chung, về Internet mà còn cần phải đào tạo, nâng cao kiến thức về Marketing Internet. Đây là điều kiện tiền đề để nhân viên Marketing Internet có thể nâng cao chất lượng công việc và đem lại hiệu quả công việc cao nhờ có kiến thức chuyên môn vững vàng được qua đào tạo. Việc đào tạo kiến thức về Marketing và Marketing Internet có thể được tiến hành bằng cách doanh nghiệp tự tổ chức các lớp học về nghiệp vụ và mời các chuyên gia giảng dạy hoặc doanh nghiệp cũng có thể cử cán bộ của mình tham gia các khoá học do các trường, các trung tâm, các viện nghiên cứu tổ chức.
2.3.Kết hợp các loại hình đào tạo dài và ngắn hạn
Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh doanh và Marketing Internet, doanh nghiệp cần phải xác định được nhu cầu về cán bộ và lao động cần thiết trong từng giai đoạn để xác định kế hoạch đào tạo thích hợp thông qua các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn.
Các lớp đào tạo dài hạn giúp doanh nghiệp xây dựng đội ngũ nhân viên có chuyên môn cao về nghiệp vụ Marketing Internet, là cơ sở cho chiến lược Marketing Internet được thực hiện thành công.
Các lớp học ngắn hạn lại mang một mục đích khác. Do đặc điểm của khoa học công nghệ và của môi trường kinh doanh cũng như kiến thức về Marketing Internet luôn thay đổi, các lớp học ngắn hạn có thể bổ sung và cập nhật những thông tin về công nghệ và những hoạt động mới nhất của Marketing Internet cho cán bộ Marketing Internet. Từ đó, doanh nghiệp có thể điều chỉnh phù hợp và thích nghi với những cái mới của công nghệ và của xã hội để có thể thoả mãn tốt hơn những nhu cầu luôn thay đổi của người tiêu dùng.
3.Giải pháp kế hoạch hoá chiến lược Marketing Internet trong phân phối và yểm trợ của các doanh nghiệp Việt Nam
3.1.Nghiên cứu
Cũng như chiến lược Marketing truyền thống, trước khi đưa ra được một chiến lược phân phối và xúc tiến trong Marketing Internet cụ thể và có hiệu quả, doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu về thị trường, về môi trường, về khách hàng và bản thân doanh nghiệp.
Trong nghiên cứu thị trường và nghiên cứu nhu cầu của khách hàng doanh nghiệp phải làm rõ được các vấn đề sau:
Công ty đã có những thông tin gì về khách hàng quan tâm đến sản phẩm của công ty?
Thói quen tiêu dùng của họ là gì?
Có bao nhiêu phần trăm lượng khách hàng trên mạng Internet?
Đối với bản thân doanh nghiệp, các thông tin cần được làm rõ gồm:
Sản phẩm của doanh nghiệp được khách hàng quan tâm là gì?
Đặc điểm nào của sản phẩm cuốn hút khách hàng?
Sản phẩm đã được công chúng biết đến và bán khắp mọi nơi hay mới chỉ dừng ở từng địa phương?
Cách thức phân phối và yểm trợ cho sản phẩm của doanh nghiệp trước đây như thế nào? Có hợp lý không? Có phải điều chỉnh gì không?
Sau khi nắm bắt được các thông tin trên, doanh nghiệp cần xây dựng báo cáo nghiên cứu và từ đó xây dựng chiến lược kế hoạch hoá Marketing Internet trong phân phối và yểm trợ để có thể thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
3.2.Lập kế hoạch hoá chiến lược Marketing Internet.
Muốn thực hiện chiến lược Marketing Internet thành công, các doanh nghiệp phải lập kế hoạch chiến lược trước khi đi vào hoạt động cụ thể. Họ phải xác định đối tượng khách hàng của mình, nhu cầu của các khách hàng đó và cách thức đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp. Trong quá trình ứng dụng Marketing Internet, việc kết hợp sức mạnh chiến thuật truyền thông Internet với các chiến thuật truyền thông khác đóng một vai trò quan trọng. Do vậy doanh nghiệp không được xem nhẹ các phương tiện truyền thông khác như báo chí, đài, ti vi khi lập kế hoạch chiến lược Marketing Internet. Những phương tiện này làm cho Website của doanh nghiệp được biết đến nhiều hơn vì nếu các khách hàng tiềm năng không biết đến chúng thì chúng sẽ không có tác dụng ngoài việc là một tập hợp các mạng rắc rối.
Trong việc lập kế hoạch hoá Marketing Internet, doanh nghiệp phải xác lập một hệ thống phân phối và yểm trợ trên mạng Internet sao cho đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Mối quan tâm đầu tiên của bất cứ nhà nghiên cứu thị trường nào đang hoạt động trong cả thế giới kinh doanh truyền thống lẫn thế giới mạng là làm nổi bật các địa chỉ trong các banner quảng cáo, trong các thư điện tử... Một điều quan trọng khác là doanh nghiệp phải tăng tối đa sức mạnh của công cụ tìm kiếm, làm sao để địa chỉ Website của doanh nghiệp có thể đến được nhiều khách hàng nhất, trong thời gian nhanh nhất. Cách thức mà các doanh nghiệp trên thế giới hiện nay thường làm là đăng ký sử dụng công cụ tìm kiếm, ví dụ như trong trang web của Google, của Yahoo... Tuy nhiên cách này vẫn rất phức tạp đối với người sử dụng, vì khi khách hàng tìm kiếm một thông tin về một loại sản phẩm nào đó, trang tìm kiếm sẽ liệt kê rất nhiều các địa chỉ Web của rất nhiều doanh nghiệp và việc lựa chọn tham quan trang Web của doanh nghiệp nào chỉ là vấn đề cảm tính của khách hàng.
Chính vì vậy, doanh nghiệp phải có được một kế hoạch Marketing Internet thật cụ thể, chi tiết để có thể duy trì được các khách hàng cũ, đồng thời thu hút được các khách hàng mới và giữ và giữ họ trung thành với doanh nghiệp.
3.3.Xác định mục tiêu của Công ty
Dựa trên những phân tích và nghiên cứu trên, doanh nghiệp phải đưa ra được các mục tiêu cụ thể của mình. Đó có thể là mục tiêu về thị trường, về doanh thu, về lợi nhuận hay về uy tín của doanh nghiệp.
Đối với một doanh nghiệp mới gia nhập vào thị trường, mục tiêu ban đầu có thể là mục tiêu về thị trường, về uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp, lúc này vấn đề về doanh thu và lợi nhuận được xếp ở vị trí sau. Ngược lại, đối với các doanh nghiệp đã có một thời gian hoạt động trên thị trường, họ sẽ phải xác định lại mục tiêu lúc này là gì, nó có thể là mục tiêu thị trường, cũng có thể là mục tiêu về doanh thu, lợi nhuận hay hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp.
3.4.Phân tích và lựa chọn thị trường mục tiêu của doanh nghiệp
Dựa trên những kết quả phân tích môi trường, thị trường, chiến lược Marketing Internet của doanh nghiệp và nhiệm vụ mục tiêu mà doanh nghiệp mong muốn đạt tới, doanh nghiệp đưa ra quyết định lựa chọn thị trường mục tiêu của mình, thực chất đây chính là lựa chọn nhóm những khách hàng tiềm năng mà doanh nghiệp sẽ phục vụ với các sản phẩm của mình. Doanh nghiệp có thể lựa chọn thị trường mục tiêu theo một trong các phương án sau:
Thứ nhất là chuyên môn hoá theo thị trường. Với phương án này, doanh nghiệp tập trung vào việc thoả mãn nhu cầu đa dạng của các nhóm khách hàng riêng biệt. Phương án này có thể áp dụng cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng sơ cấp ví dụ như hàng quần áo sang trọng dành cho nữ giới.
Thứ hai là chuyên môn theo sản phẩm. Phương án này tập trung vào việc sản xuất một loại sản phẩm có đặc tính nhất định để đáp ứng cho nhiều đoạn thị trường ví dụ như các công ty sản xuất kinh doanh hàng giày dép cho mọi người ở mọi lứa tuổi.
Thứ ba là bao phủ toàn bộ thị trường. Phương án này coi toàn bộ người tiêu dùng trên thị trường đều là đối tượng để doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu, tập trung sự chú ý vào đặc điểm giống nhau và chung nhất của người tiêu dùng. Phương án này coi toàn bộ thị trường là thị trường mục tiêu và không cần chú ý tới công tác phân đoạn.
Với ba phương án trên, doanh nghiệp sẽ lựa chọn ra một phương án làm cơ sở để chọn thị trường mục tiêu của mình trên cơ sở phân tích các vấn đề sau đây:
Loại sản phẩm doanh nghiệp sẽ cung cấp ra thị trường để thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
Phương thức thoã mãn nhu cầu đó.
Quy mô và tiềm năng tăng trưởng của thị trường.
Khả năng bán và thu lợi nhuận của doanh nghiệp.
Mức độ phù hợp giữa nhu cầu của khách hàng ở thị trường được lựa chọn và khả năng đáp ứng các nhu cầu đó.
Tuỳ thuộc vào việc phân tích, đánh giá những vấn đề nói trên mà doanh nghiệp sẽ lựa chọn được thị trường tiềm năng tốt nhất, được xem như là những đối tượng của kế hoạch Marketing Internet.
3.5. Xác định khả năng của doanh nghiệp
Xác định khả năng thực hiện chiến lược Marketing Internet của doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết mỗi khi đã xây dựng được các vấn đề về thị trường, về mục tiêu, về phương pháp tiếp cận khách hàng nhằm đảm bảo cho việc thực hiện chiến lược phân phối và xúc tiến đem lại hiệu quả cao nhất.
Trong việc xác định khả năng của mình, doanh nghiệp cần phải làm rõ các vấn đề sau:
Một là vấn đề nhân sự. Để có thể ứng dụng Marketing Internet thành công trong chiến lược phân phối và yểm trợ, doanh nghiệp phải có một lực lượng nhân viên chuyên trách về Marketing Internet giỏi, đồng thời phải có đội ngũ quản lý có năng lực. Trước khi triển khai chiến lược phân phối và yểm trợ trong chiến lược Marketing Internet, doanh nghiệp phải tuyển chọn những người có năng lực chuyên môn trong số những nhân viên cũ của mình hoặc tuyển dụng nhân viên mới, những người có khả năng, năng lực và có khả năng thích ứng nhanh với công việc. Sau đó, doanh nghiệp cần xác lập một ban chuyên trách về hoạt động Marketing Internet của mình, trong đó bao gồm các nhân viên được phân chia theo nhóm phụ trách từng mảng công việc như thiết kế, trợ giúp khách hàng, nghiên cứu yêu cầu của khách hàng, tổng hợp và phân tích thông tin phản hồi từ khách hàng.... Việc chuẩn bị nhân sự cho chiến lược Marketing Internet phải đảm bảo được sự phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên với nhau.
Hai là vấn đề tài chính. Doanh nghiệp cần phải làm rõ liệu doanh nghiệp có khả năng thực hiện chiến lược Marketing Internet như trên không và hiệu quả cho của công việc được đầu tư ấy sẽ như thế nào?
Ba là vấn đề công nghệ. Doanh nghiệp phải đảm bảo một hệ thống máy tính tương đối tốt có thể đảm bảo việc kết nối mạng được diễn ra nhanh chóng, đồng thời có dung lượng tốt để có thể lưu trữ và thực hiện những công việc thiết kế và xử lý dữ liệu một cách có hiệu quả.
Trên đây là ba vấn đề cơ bản cho việc phân tích và đánh giá khả năng đáp ứng của doanh nghiệp cho hoạt động ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của Doanh nghiệp Việt Nam.
3.6. Xây dựng ngân sách Marketing Internet cho chiến lược phân phối và yểm trợ
Có hai mục tiêu chủ yếu mà các doanh nghiệp hiện nay đang quan tâm, đó là mục tiêu về thị trường và mục tiêu về lợi nhuận. Để cụ thể hoá kế hoạch chiến lược Marketing Internet và thực hiện được hai mục tiêu trên, doanh nghiệp phải xác định được các chi phí cần thiết để đạt được các mục tiêu của mình mà vẫn đảm bảo được tính hiệu quả và tiết kiệm.
Đối với mục tiêu thị trường, doanh nghiệp phải dự trữ ngân sách cho hoạt động yểm trợ ở một tỷ lệ tương đối lớn. Hoạt động yểm trợ như đã nói ở trên bao gồm nhiều hoạt động đan xen lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau, đơn cử như hoạt động quảng cáo trực tuyến, hoạt động xúc tiến trang Web và hoạt động yểm trợ thông qua e-mail trực tuyến. Trong các hoạt động này thì hoạt động quảng cáo trực tuyến và hoạt động xúc tiến hay khai thác trang Web đòi hỏi mức kinh phí tương đối lớn. Chẳng hạn như chi phí thiết kế ở Việt Nam cho một trang Web đơn giản là 7 triệu, chi phí thiết kế một trang Web lớn là 15 triệu đồng và trang Web kết nối là khoảng 30 triệu đồng. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng phải luôn đổi mới thiết kế trang Web của mình và mở rộng thị trường của mình ra thị trường nước ngoài trong khi chi phí cho các hoạt động xúc tiến trang Web trên các trang Web quốc tế ở mức rất cao.
Đối với mục tiêu về lợi nhuận, doanh nghiệp phải tập trung vào hoạt động phân phối vì thông qua Marketing Internet, doanh nghiệp có thể giảm được rất nhiều các trung gian. Đối với mục tiêu này, doanh nghiệp cần phải xác định rõ giá thành cho từng loại sản phẩm, chi phí yểm trợ, chi phí vận chuyển, giao hàng thật cụ thể để từ đó xác định ngân sách cho hoạt động phân phối, quyết định lựa chọn kênh phân phối nào, lựa chọn số lượng trung gian sao cho thật hiệu quả.
Tuy nhiên không phải cứ quan tâm đến mục tiêu lợi nhuận thì doanh nghiệp phải đầu tư nhiều vào khâu phân phối, còn đối với mục tiêu thị trường thì đầu tư vào hoạt động xúc tiến vì hoạt động phân phối và hoạt động yểm trợ là hai bộ phận cốt lõi của chiến lược Marketing Internet cũng như vấn đề về thị trường và lợi nhuận là hai vấn đề quyết định tới sự sống còn của doanh nghiệp. Việc xác định ngân sách cho Marketing Internet phải có sự hài hoà giữa phân phối với yểm trợ trên cơ sở mục tiêu của doanh nghiệp.
3.7.Xây dựng các chiến thuật Marketing Internet
Nếu được lập kế hoạch một cách đúng đắn, Marketing Internet sẽ có tác dụng hơn khi tách riêng từng phần. Kết hợp các chiến thuật khác nhau trong một chương trình tổng hợp có thể là cách thức tiến hành Marketing Internet hiệu quả. Khi bắt đầu lập kế hoạch chiến lược, điều quan trọng là cần phải liên tục đổi mới, suy tính cẩn thận những vấn đề như lòng trung thành của khách hàng, các khái niệm phân tích xác định cho từng thị trường, các biện pháp bán hàng thường xuyên và cách giải quyết các sai sót bất ngờ xảy ra trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Các chiến thuật chủ yếu được áp dụng trong Marketing Internet bao gồm: trang Web của doanh nghiệp, xúc tiến trang Web, e-mail của doanh nghiệp và quảng cáo trực tuyến. Nội dung triển khai cụ thể các chiến thuật này sẽ được đề cập ở phần sau.
3.8. Hoàn thiện các giải pháp kỹ thuật trong Marketing Internet
3.8.1.Giải pháp trong thiết kế trang Web
Website được coi là công cụ mạnh nhất của Marketing Internet, vì vậy việc thiết kế nó như thế nào là một vấn đề rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Web không chỉ là nơi lưu trữ dữ liệu như một Catalogue điện tử hay một cửa hàng ảo mà còn là nơi liên kết khách hàng với doanh nghiệp. Do vậy, việc thiết kế Web phải đảm bảo yêu cầu ba chữ C là nội dung (Content), cộng đồng (Community) và thương mại (Commerce).
3.8.1.1.Yêu cầu về nội dung
Nội dung là vấn đề chủ đạo của một Website trên mạng Internet. Khách hàng sử dụng Internet để tìm hiểu thông tin, mạng Internet sẽ dẫn dắt khách hàng tham quan Website của doanh nghiệp. Nội dung của Web phải có đầy đủ thông tin, sự tham gia của cộng đồng và phải thú vị để khiến cho khách tham quan Web của doanh nghiệp ở lại và quay lại nhiều hơn nữa.
Tuy nhiên, nội dung của trang Web không nhất thiết phải liên quan chặt chẽ tới sản phẩm của doanh nghiệp mà vấn đề cần được đặt lên hàng đầu ở đây là nội dung đó phải liên quan chặt chẽ tới nhu cầu và sở thích của khách hàng tiềm năng. Do vậy, doanh nghiệp phải thiết kế trang Web của mình sao cho trang Web đó không chỉ là nơi để mua hàng mà còn là một nguồn tìm hiểu. Nguồn tìm hiểu này phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Là người chỉ dẫn khách hàng (Referrer).
- Là người cung cấp thông tin (Informer).
- Là người tư vấn ( Advisor).
Với vai trò là người chỉ dẫn, Web phải giúp khách hàng tham quan hiểu được mọi mặt về sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp. Nói cách khác Web phải có đầy đủ thông tin về mọi khía cạnh của sản phẩm, từ hình dáng, đặc điểm, tính năng của hàng hoá đến những tiêu chuẩn kỹ thuật của hàng hoá, đồng thời các thông tin này phải được phân loại theo nhóm để người đọc có thể tìm hiểu được dễ dàng.
Với vai trò cung cấp thông tin, trang Web của doanh nghiệp phải luôn được cập nhật và bổ sung những thông tin mới nhất, những thông tin mà khách hàng tham quan có thể sử dụng trong thực tế để dẫn nhiều khách hàng truy cập site và thu hút họ ghé thăm trang Web những lần sau. Ví dụ như đối với doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng nội thất thì thông tin về cách thức trang trí, phong cách trang trí là điều cần thiết trong việc cung cấp thông tin cho khách hàng cũng như doanh nghiệp kinh doanh hàng thực phẩm cần có thông tin về hướng dẫn nấu ăn và thực đơn ăn hàng ngày.
Vai trò là người tư vấn rất quan trọng trong công tác thiết kế trang Web. Nhiều khách hàng cần lời khuyên để đi đến quyết định mua hàng. Thông tin trên trang Web phải đặc biệt luôn sẵn sàng tư vấn khi khách hàng có nhu cầu. Tuy nhiên, để tư vấn cho người tiêu dùng, các thông tin phải trung thực và đáng tin cậy, có như vậy khách hàng mới có thể tin tưởng vào lời khuyên của doanh nghiệp, thấy lời khuyên đó là đúng và trở lại với doanh nghiệp ở lần mua sau.
3.8.1.2.Yêu cầu về tính cộng đồng (Community)
Xuất phát từ động cơ của người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần phải xác định rằng khách hàng hay người tiêu dùng truy cập trực tuyến không chỉ để lấy thông tin mà còn để trao đổi với những người khác. Do vậy, trang Web của doanh nghiệp phải đảm bảo được là nơi để khách hàng có thể trao đổi, thảo luận với doanh nghiệp. Từ đó trao đổi với những người tham quan khác. Nếu đảm bảo được tính cộng đồng cao trong Website của mình, doanh nghiệp có thể khuyến khích khách hàng mới đến với mình và khách hàng cũ quay trở lại site của doanh nghiệp, làm tăng sự trung thành của khách hàng đối với doanh nghiệp.
Thiết lập một cộng đồng tìm hiểu có thể giúp người mua hàng nâng cao sự thông hiểu qua việc tương tác với những người mua hàng khác ghé thăm site của doanh nghiệp. Đồng thời cộng đồng tương tác qua Web có thể giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được những thông tin về nhu cầu và sở thích của khách hàng. Từ đó, doanh nghiệp có thể điều chỉnh chiến lược Marketing Internet của mình để có thể tiếp cận và thoả mãn những yêu cầu mới này của khách hàng.
3.8.1.3. Yêu cầu về tính thương mại
Mục đích cuối cùng của Marketing Internet là thoả mãn nhu cầu của khách hàng thông qua sản phẩm của mình. Do vậy, trang Web của doanh nghiệp cũng phải chứa các thông tin về việc bán các sản phẩm của doanh nghiệp như thông tin hướng dẫn mua hàng được sắp xếp theo thứ tự và thông tin hỗ trợ sau bán hàng. Tuy nhiên, để duy trì sự trung thành của khách hàng, doanh nghiệp phải đưa ra các hỗ trợ và ưu đãi đối với khách hàng hiện tại của mình như việc thông báo giảm giá cho khách hàng ở những lần mua sau hay khuyến mãi một sản phẩm nào đó đối với những khách hàng mua hàng. Đối với mỗi khách hàng sau khi đã kết thúc công việc mua hàng, doanh nghiệp cần theo dõi quá trình truy cập của họ vào Website của mình ở những lần sau để có biện pháp chăm sóc phù hợp và kịp thời.
3.8.2.Giải pháp trong việc xúc tiến trang Web của doanh nghiệp
Xúc tiến trang Web hay còn gọi yểm trợ trang Web là cách thức để khách hàng của doanh nghiệp biết tên, thương hiệu và địa chỉ của doanh nghiệp. Biện pháp xúc tiến có hiệu quả sẽ lôi cuốn khách hàng muốn tham quan Website của doanh nghiệp, nhờ đó, doanh nghiệp có thể có thêm các khách hàng tiềm năng và duy trì được mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng hiện hữu - những khách hàng đến với doanh nghiệp theo cách thức của Marketing Tiền Internet. Để Website của doanh nghiệp được quảng bá rộng rãi, doanh nghiệp có thể áp dụng các cách thức sau:
- Đặt tên địa chỉ Website của doanh nghiệp theo quy ước chung và thật đơn giản sao cho dễ nhớ và có quan hệ mật thiết với tên giao dịch của Công ty. Ví dụ một Công ty có tên viết tắt là ABC có thể đặt tên Website của mình là www.ABC.com.vn. ý nghĩa của các thành phần của địa chỉ trên là:
www: world wide web: Mạng diện rộng toàn cầu – Internet.
ABC: Tên Công ty.
Com: Thuộc các hình thức kinh doanh doanh nghiệp.
Vn: Thuộc quốc gia Việt Nam.
Với cách đặt tên này, khách hàng nếu biết tên Công ty có thể tự đoán ra địa chỉ Web của doanh nghiệp trên mạng Internet và tìm được tới Website của doanh nghiệp.
- Đưa địa chỉ Web của doanh nghiệp vào thông báo e- mail gửi tới những khách hàng tiềm năng.
- Đặt một quảng cáo tiêu đề lên một Website khác thông dụng mà khách hàng tiềm năng ưa thích viếng thăm. Ví dụ như các trang www.vnexpress.net hay www.vnn.vn ...là những trang Web có lượng người tham quan đông nhất vì các trang này chứa lượng thông tin phong phú, luôn cập nhật hàng giờ và thông tin được sắp xếp theo chủ đề hoặc theo mốc thời gian để người đọc có thể tra cứu dễ dàng.
- Đưa địa chỉ Website của doanh nghiệp lên bộ công cụ tìm kiếm trên Website lớn. ở Việt Nam hiện nay, các trang Web có công cụ tìm kiếm mạnh nhất là các trang Web của các nhà cung cấp dịch vụ Internet lớn như FPT, VDC, VNPT,... Còn để mở rộng ra phạm vi toàn cầu, doanh nghiệp có thể đưa địa chỉ của mình lên các trang Web nổi tiếng như Yahoo ở địa chỉ www.yahoo.com, Google ở địa chỉ www.google.com hay Altavista ở địa chỉ www.AltaVista.com...Khi khách hàng muốn tìm điạ chỉ Web của doanh nghiệp, họ sẽ vào trang chủ của các Website có bộ dò tìm trên, đánh các từ khoá về tên Công ty hay địa chỉ Công ty... từ đó bộ dò tìm của trang chủ đó sẽ tìm địa chỉ Website của doanh nghiệp dựa trên các thông số trên và đưa kết quả tìm kiếm hiện ra trên màn hình để khách hàng có thể truy cập vào.
- Đưa địa chỉ Website của doanh nghiệp lên danh thiếp thương mại của doanh nghiệp, giấy tờ văn phòng và các tài liệu khác.
- Quảng cáo địa chỉ Web trên phương tiện truyền thông đại chúng như nhà xuất bản, TV, Radio...
- Quảng cáo địa chỉ Web của doanh nghiệp trên bảng quảng cáo, xe chở hàng và các địa điểm khác cho khách hàng tiềm năng có thể nhìn thấy.
- Sử dụng các dịch vụ có trả tiền để xúc tiến Website của doanh nghiệp.
- Thuê một đại lý quảng cáo để xúc tiến Website của doanh nghiệp.
3.8.3. Giải pháp trong sử dụng e-mail
Gửi thư điện tử trong chiến lược Marketing Internet hiện nay là một vấn đề gây nhiều tranh cãi bởi nó luôn bị nhầm lẫn với các spammer (người gây rối) và những nỗ lực Marketing Internet lúc này trở nên phản tác dụng và thậm chí tồi tệ. Việc gửi đi hàng nghìn thư điện tử với tần suất lớn tới hàng nghìn địa chỉ với hy vọng sẽ có một trong số ít người trả lời có thiện ý đã gây khó chịu cho người nhận nó. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng e-mail là một kỹ thuật, một công cụ có hiệu quả để xây dựng một quá trình truyền thông đầu tiên cho sự bắt đầu của một địa chỉ web.
Chiến lược gửi thư điện tử được xác định trên nền tảng hệ thống Marketing Internet. Cách thực hiện gửi một e-mail có hiệu quả mà người làm công tác Marketing Internet cần xác định gồm:
Thứ nhất là đối tượng (khách hàng tiềm năng) nhận thư điện tử.
Thứ hai là thời điểm gửi thư điện tử. Người làm Marketing Internet cần để ý đến khách hàng mục tiêu một cách kỹ lưỡng và tôn trọng thời gian của họ, chỉ gửi đến cho họ những thông tin mà doanh nghiệp có đủ lý do để người nhận có thể chấp nhận được. Điều này có nghĩa là phải chọn thời điểm nhu cầu của khách hàng xuất hiện, khi mà khách hàng tiềm năng cần hoặc đang quan tâm đến sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Để có thể biết được thời điểm nhu cầu này xuất hiện ở các khách hàng mục tiêu, người làm Marketing Internet phải kiểm soát những người thường xuyên truy cập tới trang web của doanh nghiệp hay thông báo có nhu cầu.
Thứ ba là bố cục, nội dung của thư điện tử. Các thư điện tử này cần ngắn gọn, không mang tính gạ gẫm và mang tính cá nhân hoá.
Trước tiên cần nói cho người nhận biết tại sao họ là khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp có nghĩa là nói thẳng vào nhu cầu của họ Có những phần mềm cho phép cá nhân hoá các bức thư điện tử mỗi khi gửi đi với cùng một nội dung mà không cần phải viết lại cho từng cá nhân. Các bức thư mang tính cá nhân hoá này thường có tỷ lệ hồi âm cao hơn vì mọi người đều có thiên hướng thích đọc và trả lời các bức thư bắt đầu bằng tên của họ hoặc bằng lời hỏi thăm cá nhân. Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng nên lưu ý rằng chỉ nên cá nhân hoá các bức thư khi đã nắm rõ các thông tin về khách hàng.
Thông điệp gửi đi không được quá 65 ký tự trên một dòng vì có trường hợp bộ duyệt thư điện tử của khách hàng không có bộ cuộn dòng và trong giới hạn của màn hình khách hàng không thể đọc trọn vẹn được thông điệp.
Thông điệp phải ngắn gọn, nếu dài hơn hai trang thì phải nén lại cho gọn.
3.8.4. Giải pháp trong quảng cáo trên mạng Internet
Quảng cáo trên mạng Internet thường được thực hiện thông qua các băng hiệu quảng cáo (banner). Để có thể đảm bảo được hiệu quả của quảng cáo trên Internet hay cụ thể là trên trang Web thì trang Web đó phải có lượng người tham quan mỗi ngày cao. 10 Internet website hàng đầu trên thế giới để doanh nghiệp có thể quảng cáo trên phạm vi toàn cầu là Yahoo, Go, Excite, Lycos, AltaVista, Snap, Hotbot, Goto.com, Looksart và Webcrawler. Các website có lượng độc giả lớn ở Việt Nam có thể kể như sau: Laodong.com, vnexpress.net, vnn.vn... Phương thức hoạt động của quảng cáo trên website là mà doanh nghiệp có thể lựa chọn là:
1- Mua không gian banner từ một Portal.
2- Site này tính cước đối với doanh nghiệp dựa trên số lượng người kích chuột vào tổ chức có banner của doanh nghiệp.
3- Càng nhiều khách hàng tham quan site thì càng phải trả nhiều tiền hơn cho Banner.
4- Nhiều Portal, ví dụ như các chương trình tìm kiếm có thể chọn động hiển thị các banner dựa trên các dữ liệu nhập vào của người sử dụng.
Quảng cáo trực tuyến có thể là hiệu quả hơn các phương tiện truyền thông khác vì doanh nghiệp có thể chắc chắn rằng mọi người ở trên trang Web mà banner của doanh nghiệp được đặt. Phần lớn các site bán quảng cáo Web đều yêu cầu việc đăng ký quảng cáo trong vòng ít nhất là 3 tháng. Tuy nhiên các banner quảng cáo sẽ hiệu quả hơn nếu chúng được thay đổi theo một chu kỳ hợp lý nhất định.
3.9.Giải pháp hoàn thiện hệ thống phân phối trong Marketing Internet
Để có thể thoả mãn nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất, doanh nghiệp phải đảm bảo được việc giao hàng đến tay người tiêu dùng đúng hẹn mà không có sai sót nào xảy ra đối với sản phẩm. Đây là nguyên tắc không chỉ dùng trong Marketing Internet mà trong cả Marketing Tiền Internet. Sản phẩm phải được giao đến tay người tiêu dùng đúng thời gian đã thoả thuận để khách hàng có thể sử dụng kịp thời theo mục đích riêng của mình. Nếu có hỏng hóc nào xảy ra trong quá trình giao hàng, doanh nghiệp cũng phải đảm bảo được việc gửi hàng thay thế đến kịp thời hay trong thời gian sớm nhất có thể với một lời xin lỗi. Thực hiện tốt chiến lược phân phối, doanh nghiệp phải đảm bảo được sự hoạt động tốt của mọi khâu trong kênh phân phối của mình từ khâu lưu kho, vận chuyển đến dịch vụ sau bán hàng.
Tuy nhiên, đối với những doanh nghiệp quy mô lớn, có hệ thống các trung gian và đại lý ở nhiều nơi thì việc giao hàng trực tiếp từ doanh nghiệp tới tay người tiêu dùng ở các khu vực nơi các trung gian của mình hoạt động có thể gây ảnh hưởng không tốt tới quan hệ giữa doanh nghiệp với đại lý. Chính vì vậy, các doanh nghiệp này cần phải đảm bảo việc cho phép khách hàng được quyết định xem có mua hàng của các đại lý địa phương hay không hoặc các công đoạn đặt hàng và thanh toán sẽ được thực hiện thông qua trang Web của doanh nghiệp, còn khâu phân phối sẽ do đại lý đảm nhiệm. Ngoài ra doanh nghiệp cũng phải bảo đảm công tác chăm sóc khách hàng hoạt động tại các địa phương này diễn ra có hiệu quả.
3.10. Giải pháp kiểm tra, giám sát và điều chỉnh các hoạt động phân phối và yểm trợ trong Marketing Internet
Nhằm đảm bảo việc ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ hay xúc tiến bán hàng hay xúc tiến thương mại của doanh nghiệp đem lại hiệu quả cao và lâu dài, các doanh nghiệp cần phải thường xuyên kiểm tra, giám sát và đánh giá công tác thực hiện các chiến lược nói trên.
Trước tiên doanh nghiệp cần rà soát lại các nguồn thông tin của mình và cập nhật chúng để xem những mục tiêu trong kế hoạch về nguyên tắc còn tính khả thi hay không. Tiếp đó, doanh nghiệp sẽ phải so sánh những mục tiêu này với kết quả đạt được hoặc các công việc đã được triển khai để đánh giá mức độ sát thực của mục tiêu và tiến độ hoàn thành các công việc đã đề ra, từ đó có những điều chỉnh cho thích hợp.
Đối với chiến lược yểm trợ, doanh nghiệp cần phải theo dõi lượng người tham quan vào Website của doanh nghiệp, lượng người đã có nhận thức về địa chỉ của doanh nghiệp nhưng chưa truy cập Website dựa trên các bảng câu hỏi điều tra các khách hàng tiềm năng theo nguyên tắc xác suất thông qua các tiếp thị viên. Đồng thời doanh nghiệp cũng cần theo dõi lượng khách hàng trả lời các e-mail được gửi tới- lượng khách hàng tiềm năng trở thành khách hàng hiện tại của doanh nghiệp và lượng người đã tham gia vào quá trình mua hàng nhưng không đi đến điểm kết thúc là giai đoạn thanh toán. Các thông tin này doanh nghiệp có thể tự hệ thống được thông qua công cụ quản lý Web và hộp thư điện tử của doanh nghiệp. Xác định được các thông tin trên có thể giúp doanh nghiệp đánh giá được hiệu quả của công tác yểm trợ trong Marketing Internet của mình để có thể đưa ra các điều chỉnh cho phù hợp hơn. Ví dụ như nếu phát hiện thấy tỷ lệ khách hàng đã tham gia vào quá trình mua hàng nhưng chưa đi đến giai đoạn kết thúc cao, doanh nghiệp có thể suy luận và tìm hiểu nguyên nhân của nó. Đơn cử như do quá trình mua hàng kéo dài quá lâu hay các yêu cầu mà doanh nghiệp đặt ra buộc khách hàng phải tuân thủ quá nhiều hoặc quá phức tạp đã khiến khách hàng bỏ dở quá trình mua hàng. Trong trường hợp như vậy, doanh nghiệp có thể điều chỉnh thiết kế nội dung Website sao cho quá trình mua hàng của khách hàng ngắn hơn và đơn giản hơn.
Đối với chiến lược phân phối, doanh nghiệp cần phải thông qua các thông tin phản hồi hay các lời phàn nàn về hệ thống phân phối của doanh nghiệp. Các thông tin này có thể được gửi qua e-mail cho doanh nghiệp hay cũng có thể là trực tiếp đối với người vận chuyển và phân phối hàng. Nếu như các lời phàn nàn này chủ yếu tập trung vào thời gian giao hàng, doanh nghiệp cần xem lại hệ thống kho bãi và chất lượng khâu vận chuyển của mình để từ đó nâng cấp chúng lên. Nếu các lời phàn nàn này chủ yếu tập trung vào các sai sót hay hỏng hóc của sản phẩm, doanh nghiệp sẽ phải đồng thời xem lại chất lượng khâu vận chuyển, khâu đóng gói và cả khâu sản xuất hàng hoá. Trường hợp các doanh nghiệp có hệ thống đại lý rộng lớn, khâu phân phối cuối cùng do các trung gian đảm nhiệm, doanh nghiệp cần tổng kết, đánh giá hiệu quả của công tác này thông qua báo cáo của các đại lý trung gian. Từ đó, hệ thống lại và phân tích hiệu quả tổng thể của toàn bộ hệ thống phân phối đồng thời đánh giá hiệu quả của từng đại lý riêng theo từng khu vực, xem xét, phân tích và đưa ra quyết định cần tiếp tục duy trì quan hệ với đại lý nào, cần loại bỏ đại lý nào, cần nâng cao chất lượng dịch vụ của đại lý nào để có được hiệu quả tổng thể cao hơn.
III. Một số kiến nghị đối với Nhà nước trong việc đẩy mạnh ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của Doanh nghiệp Việt Nam
1. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin ở cấp vĩ mô
Để các doanh nghiệp Việt Nam có thể ứng dụng Marketing Internet vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, Việt Nam cần phải có được cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin đủ mạnh. Bộ bưu chính viễn thông cần cụ thể hoá kế hoạch chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin này để các doanh nghiệp có thể căn cứ vào các biện pháp và lộ trình cụ thể này xây dựng kế hoạch chiến lược riêng của mình. Phát triển cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin có thể dựa vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất là đầu tư phát triển hợp lý và sử dụng có hiệu quả mạng lưới viễn thông, trong đó phấn đấu đạt mức trung bình của khu vực về dung lượng cổng kết nối Internet quốc tế; đáp ứng đủ số lượng, chất lượng đường truyền, xây dựng kênh thuê riêng phục vụ Internet cho toàn xã hội với độ tin cậy và an toàn cao.
Thứ hai là đầu tư phát triển các dịch vụ ứng dụng truy cập Internet bao gồm: hệ thống cơ sở dữ liệu, nội dung thông tin điện tử bằng tiếng Việt và đầu tư phát triển các dịch vụ ứng dụng Internet. Trong đó ưu tiên tạo lập nguồn thông tin điện tử nội dung tiếng Việt phong phú, phục vụ nhu cầu trong nước truy cập Internet, khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp, nhà cung cấp dịch vụ Internet tổ chức nguồn cơ sở dữ liệu thông tin điện tử đa dạng, từng bước xã hội hoá việc cung cấp nội dung thông tin lên mạng,
Thứ ba là khuyến khích ứng dụng Internet trong các dịch vụ điện tử về báo chí, bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng, giáo dục và đào tạo trên mạng, từng bước phát triển Thương Mại Điện Tử, hình thành thói quen hoạt động mua bán trên Internet giữa các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân, tiến tới điện tử hoá rộng rãi mọi hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh.
2. Quy hoạch chiến lược đào tạo cán bộ Marketing và Công nghệ thông tin
Việc ứng dụng Marketing Internet trong hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam phát sinh hai đòi hỏi: thứ nhất là nhân sự, chuyên môn và thứ hai là trình độ tiếng Anh của các nhà hoạt động Marketing Internet.
Về vấn đề chuyên môn, Việt Nam cần xây dựng kế hoạch chiến lược đào tạo chuyên gia Marketing Internet cho các doanh nghiệp và kiến thức Internet cho đông đảo người dân. Với tư cách là cơ quan chủ quản nhà nước về vấn đề giáo dục và đào tạo, Bộ Giáo dục - Đào tạo cần sớm đưa ra kế hoạch này. Nội dung của kế hoạch đào tạo này có thể dựa trên những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất là xây dựng các biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, các chuyên gia về công nghệ thông tin nước ngoài tham gia đào tạo nhân lực về công nghệ thông tin.
Thứ hai là xây dựng và thực hiện dự án phát triển mạng máy tính phục vụ cho Giáo dục và đào tạo, mở rộng kết nối Internet tới các cơ sở đào tạo theo đó có thể đáp ứng được việc phổ cập kiến thức Internet tại tất cả các viện nghiên cứu, trường Đại học, Cao đẳng, Trung học dạy nghề trong năm 2002-2003.
Thứ ba là hợp tác giáo dục Công nghệ thông tin và công nghệ Internet cũng như kiến thức về Marketing Internet với các nước có chất lượng phát triển các lĩnh vực này ở mức tương đối cao. Theo đó chúng ta có thể cử các cán bộ, chuyên gia và sinh viên đi đào tạo tại các nước này. Tuy nhiên Việt Nam cũng cần có những biện pháp đảm bảo rằng những cán bộ, chuyên gia, sinh viên được cử đi này sẽ quay về phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước, tránh tình trạng chảy máu chất xám đang rất phổ biến như hiện nay.
Thứ tư là triển khai mạnh các chương trình giảng dạy và ứng dụng tin học tại các cấp trường học.
Thứ năm là thường xuyên nâng cao kiến thức về công nghệ, kỹ thuật Internet và Marketing Internet cho các cán bộ chuyên môn của các doanh nghiệp thông qua các khoá đào tạo ngắn hạn, hội thảo chuyên đề để đội ngũ nhân sự của Việt Nam luôn theo kịp được tốc độ phát triển của công nghệ Internet và Công nghệ thông tin trên thế giới.
Về vấn đề ngoại ngữ, chúng ta đều biết rằng để doanh nghiệp có khả năng tiếp cận được thị trường toàn cầu thì điều cần thiết là đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp phải có trình độ ngoại ngữ có thể đáp ứng được yêu cầu. Xuất phát từ vấn đề này bộ Giáo dục - Đào tạo cần xem xét và đề nghị các trường Đại học, Trung học...cần đưa ra biện pháp nâng cao trình độ ngoại ngữ của những kỹ sư, cử nhân tương lai của đất nước.
3. Củng cố môi trường kinh tế, pháp lý
3.1. Củng cố môi trường kinh tế cho việc phát triển Marketing Internet tại Việt Nam
Với mức sống trung bình của người dân nước ta hiện nay vào khoảng 706,9 đô la một người một năm ((): Nguồn: Tổng cục thống kê- "Số liệu thống kê dân số và kinh tế xã hội Việt Nam 1975-2001- NXB Thống kê 2002
), việc sử dụng và thuê bao Internet được coi là một cách sống xa xỉ. Do vậy muốn phát triển Internet nói chung và Marketing Internet nói riêng, Việt Nam cần phải hoàn thiện và nâng cao mức sống của người dân. Mức sống của người dân hay thu nhập bình quân đầu người (GDP/người) phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế. Để nâng cao mức thu nhập này, Việt Nam trước hết phải thúc đẩy sự phát triển của tất cả mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời cần thiết phải kích hoạt khu vực kinh tế Nhà nước năng động hơn, thoát hoàn toàn khỏi cơ chế bao cấp. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần phải có các chính sách thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu nhằm tạo nguồn thu lớn cho đất nước và nâng cao mức sống của người dân.
3.2.Củng cố môi trường pháp lý cho việc phát triển Marketing Internet ở Việt Nam
Cơ sở hạ tầng pháp lý được nhiều nền kinh tế coi là thách thức chủ yếu trong việc chấp nhận và ứng dụng mạng Internet trong các hoạt động của doanh nghiệp trong đó có hoạt động Marketing.
Như đã đề cập ở chương II, hệ thống pháp lý điều chỉnh các hoạt động Internet ở Việt Nam vẫn chưa đầy đủ và hoàn chỉnh. Chính vì vậy, củng cố môi trường pháp lý cho các hoạt động này đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế và ứng dụng công nghệ ở Việt Nam. Việc tạo và hoàn thiện môi trường này thông qua quy trình sau:
Trước hết, chúng ta có thể tham khảo mô hình luật pháp của các nước khác và của các tổ chức đa phương, ví dụ như sắc luật giao dịch điện tử của Singapore, luật Thương Mại điện tử của uỷ ban Liên Hiệp Quốc về thương mại quốc tế UNCITRAL.... Ngoài ra chúng ta cũng có thể tham khảo các mô hình khác khi soạn thảo luật pháp cho việc phân tích và ứng dụng Marketing Internet thích hợp cho Việt Nam như luật về chữ ký điện tử và hồ sơ điện tử của Singapo, ấn độ, Hồng Kông, Thái Lan.
Thứ đến, không nhất thiết phải đưa tất cả các vấn đề xuất hiện trong Thương Mại Điện Tử hay Marketing Internet vào luật mới. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, biện pháp Thương Mại Điện Tử và Marketing Internet hiện hành đã bao quát nhiều vấn đề pháp lý hoặc có thể điều chỉnh cho phù hợp với những sửa đổi tương đối đơn giản. Trong khi đó, hai luật mới cũng phải đề cập đến những vấn đề đặc biệt mà khung pháp lý hiện hành không nhắc tơí. Như vậy, khung pháp lý toàn diện cho lĩnh vực Thương Mại Điện Tử và Marketing Internet cần kết hợp biện pháp hiện hành và biện pháp được ban hành mới.
Nói chung, Việt Nam cần xây dựng khung pháp lý trên nhằm vào bốn mục tiêu chính là:
Củng cố sự tin tưởng rằng các giao dịch trên Internet sẽ được coi là có giá trị pháp lý và có khả năng thi hành.
Nâng cao sự an toàn thông tin trong các giao dịch.
Khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Bảo vệ người tiêu dùng.
4. Phổ cập Internet tới đông đảo quần chúng
Với cơ sở vật chất thiếu thốn như hiện nay, chúng ta không có tham vọng sẽ làm cho gần 80 triệu dân Việt Nam hiểu đầy đủ về Internet, về công nghệ thông tin, song ít nhất chúng ta có thể đưa chương trình tin học tới mọi nơi có thể được.
Như vậy điều cần thiết hiện nay là phải phổ cập kiến thức Internet cho học sinh ngay từ khi còn đang đi học. Đây là nền tảng cho cơ sở hạ tầng nhân lực vững mạnh của Việt Nam trong những năm sau. Theo ý kiến của đại đa số các nhà khoa học trong báo cáo giai đoạn 1 đề tài “Nâng cao hiệu quả giảng dạy tin học trong nhà trường phổ thông bằng phương pháp sử dụng hệ thống chương trình dạy tin học liên thông trong các cấp học (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông)” được tổ chức ngày 15/10/2002 [85], việc đưa Internet vào trường phổ thông ngay từ lớp 7 là một biện pháp rất tốt nhằm nâng cao kiến thức và khả năng giao tiếp cho lứa tuổi học sinh. Tuy nhiên chúng ta phải chú trọng tới “Văn hoá sử dụng Internet” vì hiện nay có nhiều phong trào sử dụng Internet không lành mạnh ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Đồng thời với việc phổ cập giáo dục kiến thức về mạng Internet như nêu trên, chúng ta cũng phải xây dựng lực lượng giáo viên tin học có kiến thức chuyên môn cao phục vụ cho chiến lược này.
Ngoài ra để thực hiện chiến lược này, chúng ta cần có các biện pháp tuyên truyền về tính năng, về đặc điểm và lợi ích của Internet cho đông đảo quần chúng và đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vốn đã có hệ thống máy tính và hoà mạng Internet. Các thông tin này có thể được truyền thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình. Ngoài ra chúng ta có thể đưa kiến thức về Internet vào nội dung giảng dạy của các cấp trường học, các trung tâm đào tạo tin học, các chương trình giáo dục từ xa... nhằm khuyến khích và mở rộng quy mô truyền bá kiến thức Internet cho mọi người.
Kết luận
Với sự ra đời và phát triển của mạng Internet, Marketing Internet đang được ứng dụng rộng rãi tại các doang nghiệp trên khắp thế giới nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Chiến lược phân phối trong Marketing Internet được triển khai hiệu quả hơn do sự giảm bớt của các khâu trung gian và sự nâng cao chất lượng phục vụ của các trung gian được lựa chọn. Chiến lược yểm trợ trong Marketing Internet góp phần thu hút thêm khách hàng tiềm năng của doang nghiệp đồng thời củng cố mối quan hệ với những khách hàng hiện tại thông qua các công cụ của chiến lược yểm trợ như website, email, quảng cáo trực tuyến. Những lợi ích này đã góp phần không nhỏ cho sự thành công của mỗi doanh nghiệp trên toàn cầu.
Tại Việt Nam, Internet xuất hiện vào năm 1997 và được ứng dụng trong đời sống kinh tế. Sự ứng dụng Marketing Internet ở Việt Nam cho tới nay mới ở giai đoạn bắt đầu. Trong sự ứng dụng Marketing Internet vào chiến lược phân phối và yểm trợ, các doanh nghiệp Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn từ môi trường vi mô và vĩ mô. Hạ tầng cơ sở CNTT chưa hoàn thiện, hạ tầng pháp lý chưa ban hành đầy đủ, nền kinh tế yếu kém, sự thiếu hụt các chuyên gia giỏi về CNTT và Marketing... là những yếu tố thuộc môi trường vĩ mô không thuận lợi cho sự ứng dụng và phát triển Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của doanh nghiệp. Hơn nữa, bản thân doanh nghiệp cũng gặp khó khăn như thiếu các chuyên gia giỏi và còn yếu kém về mạng lưới phân phối cùng sự hạn chế về khả năng tài chính. Tuy vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có nhiều cơ hội để có thể ứng dụng Marketing Internet thành công với sự phát triển và tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng CNTT cũng như môi trường vĩ mô và trên hết là tinh thần và ý chí phấn đấu của các doanh nghiệp Việt Nam.
Để có thể thành công hơn trong ứng dụng Internet các doanh nghiệp cần phải có kế hoạch cụ thể, đồng thời Đảng và Nhà nước cần tạo dựng môi trường thông thoáng và hợp lý. Đối với các doanh nghiệp trước hết cần đầu tư xây dựng cơ sử hạ tầng công nghệ và kỹ thuật phù hợp cho ứng dụng Marketing Internet , tiếp đó doanh nghiệp cần lập kế hoạch chiến lược cụ thể cho việc ứng dụng này từ việc nghiên cứu cho tới việc triển khai và đánh giá tình hình thực hiện chiến lược. Với vai trò là nhà hoạch định chiến lược vĩ mô cho các doanh nghiệp, Chính phủ cần đầu tư hoàn thiện và phát triển hơn nữa các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô như CNTT, các cơ sở pháp lý, quy hoạch và đào tạo cán bộ CNTT cho đất nước cũng như việc nâng cao trình độ và mức sống của người dân.
Tóm lại, Marketing Internet được ứng dụng tại Việt Nam nhưng mới chỉ ở giai đoạn đầu. Quá trình ứng dụng Marketing Internet trong chiến lược phân phối và yểm trợ của các doanh nghiệp gặp không ít khó khăn nhưng cũng có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, với nỗ lực phấn đấu của bản thân doanh nghiệp cùng với sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, khoa học Internet cùng với sự quan tâm khuyến khích của Đảng và Nhà nước ta, hy vọng rằng các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có những bước tiến lớn và thành công trong việc ứng dụng Marketing Internet vào chiến lược phân phối và yểm trợ của mình.
Tài liệu tham khảo
GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS Nguyễn Thế Nghĩa, PGS.TS Đặng Hữu Toàn - " Công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn" - NXB Chính trị Quốc gia 2002
GS.TSKH Trần Văn Thọ, TS Nguyễn Ngọc Đức, TS Nguyễn Văn Chỉnh, TS Nguyễn Quán - " Kinh tế Việt Nam 1955 - 2000, tính toán mới, phân tích mới" - NXB Thống kê 12/2000
PGS. TS Nguyễn Trung Vãn-" Bàn về Marketing Internet "
- Tạp chí "Kinh tế đối ngoại" số 2, ĐH Ngoại Thương
TS Ngô Xuân Bình - " Marketing - lý thuyết và vận dụng"
- NXB Khoa học xã hội 2001
TS Phạm Minh Việt, TS Trần Công Nhượng - " Cơ sở kỹ thuật mạng Internet" - NXB Giáo dục 2000
TS Trần Đình Thiên - " Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, phác thảo lộ trình" - NXB Chính trị Quốc gia 2002
TS Trần Văn Tiến - " Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam" - NXB Thế giới mới 2001
"Niên giám Website & E-mail"
- NXB Thống kê
Đặng Nguyên - Thu Hà - " Quản lý công nghệ trong nền kinh tế tri thức" - NXB Hà Nội 2002
Bộ Ngoại giao - " Việt Nam con đường cải cách" - NXB Quân đội nhân dân 2000
Bộ Thương mại - " Thương mại điện tử"
- NXB Thống kê 1999
Diễn đàn kinh tế - Tổ chức Việt Pháp - " Nền kinh tế mới"
Học viện Công nghệ bưu chính viễn thông - " Cơ sở dữ liệu web cơ bản và nâng cao" - NXB Bưu điện 2002
Học viện công nghệ bưu chính viễn thông - " Kinh tế Internet"
- NXB Bưu điện 12/2002
Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông - " Kỹ thuật mạng và thương mại điện tử" - NXB Bưu điện 2001
Học viện công nghệ bưu chính viễn thông - " Vai trò của viễn thông trong phát triển kinh tế" - NXB Bưu điện 4/2000
Hội đồng KHCN Bộ GTVT - " Thương mại điện tử"
- NXB Giao thông vận tải 2001
Hội tin học thành phố Hồ Chí Minh - " Niên giám Công nghệ thông tin"
- NXB Thành phố Hồ Chí Minh 2002
J.Beeker, Đặng Ngọc Dinh - " Internet ở Việt Nam và các nước đang phát triển" - NXB Khoa học và kỹ thuật 2000
Kỷ yếu hội thảo quốc gia - " Một số vấn đề chọn lọc của Công nghệ thông tin" - NXB Khoa học kỹ thuật 2001
Lê Hoàng Quân - " Nghiệp vụ Quảng cáo và tiếp thị"
- NXB Khoa học và kỹ thuật
Mai Thanh Hào - " Tiếp thị trong thế kỷ 21"
- NXB Trẻ 2002
Nguyễn Danh Hưng, Douglas E.Comer - " Internet"
- NXB Thống kê 1999
Nguyễn Duy Quý - " Thế giới trong 2 thập niên đầu thế kỷ XXI"
- NXB Chính trị Quốc gia 2002
Nguyễn Nam Trung - " Cấu trúc máy tính và thiết bị ngoại vi"
- NXB Khoa học kỹ thuật
Nguyễn Văn Hoàn Ph.D - " Phát triển Website thương mại điện tử"
- NXB Trẻ 2002
Nhóm tác giả ELICOM - " Phong cách trình bày trang web"
- NXB Thống kê 2000
Nhóm tác giả ELICOM - " Quảng cáo trên Internet"
- NXB Hà Nội 2000
Nhóm tác giả ELICOM - " Thành công nhờ Internet"
- NXB Hà Nội 2000
Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam - " Các dịch vụ giá trị gia tăng" - Trung tâm thông tin Bưu điện
- NXB Bưu điện
Tổng cục Bưu điện - " Internet thật là đơn giản"
- NXB Bưu điện 2000
Tổng cục Bưu điện - " Nghiên cứu tổng quan viễn thông Việt Nam"
- NXB Bưu điện 11/2001 1,2,3,4,5
Tổng cục Thống kê - " Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997 - 1998" - NXB Thống kê 2000
Tổng cục Thống kê - " Niên giám thống kê 2001"
- NXB Thống kê 2001
Tổng cục Thống kê - " Số liệu thống kê Dân số và Kinh tế - xã hội Việt Nam 1975 - 2001" - NXB Thống kê 2002
Tổng cục Thống kê - " Số liệu thống kê kinh tế - xã hội Việt Nam 1975 - 2000" - NXB Thống kê 2000
UNDP MPI/DSI - " Việt Nam hướng tới 2021"
- NXB Chính trị Quốc gia 2001
Vương Liêm - " Kinh tế học Internet" - NXB Trẻ
Vụ tổng hợp và thông tin, tổ chức thống kê - " Tư liệu kinh tế - xã hội chọn lọc từ kết qủa 10 cuộc điều tra quy mô lớn 1998 - 2000"
- NXB Thống kê 2001
Quyết định số 680/01/QĐ-TCBĐ
Quyết định số 136/TTg ngày 5/3/1997
Nghị định số 21/CP ngày 5/3/1997
Quyết định số 169/1999/QĐ-TTG ngày 18/8/1999
Quyết định số 81/2001/QĐ-TTG ngày 24/5/2001
Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001
Quyết định số 33/2002/QĐ-TTG ngày 8/2/2002
Báo Đầu tư các số tháng 10,11,12 năm 2001 và các số năm 2002
Báo Economist các số tháng 10 năm 2001
Báo Lao động các số tháng 10 năm 2001
Báo Sài Gòn giải phóng ngày 8/3/2002, 29/5/2002, 1/11/2002
Báo Tuổi trẻ ngày 21/1/2002, 1/4/2002, 16/4/2002, 1/11/2002
Tạp chí Bưu chính viễn thông chuyên đề Internet các số năm 2001 & 2002
Tạp chí PC World tháng 6/2002
Tạp chí The Econet các số tháng 10 năm 2001
Tạp chí Thông tin KHKT và kinh tế bưu điện 1999,2000,2001 & 2002
Tạp chí Thương mại các số 5,29 năm 2001
Tạp chí Tin học và đời sống tháng 4/2002
Thời báo Kinh tế Việt Nam các số 5/5/99, 14/10/2002
Thời báo Kinh tế Sài Gòn các số 37, 38, 43, 44, 45 năm 1999 và số ngày 23/7/2002, 17/1/2002
Australian Marketing Journal 9 (1), 2001 - " Perception of Internet Marketing"
Dr. Ralph F. Wilson- "Planning your Marketing stratergy"
-Web Marketing Today 10/9/2002
Dr. Ralph F. Wilson- "Survey of E-Mail Marketing Programs: Introduction" - Web Commerce today, issue 59, June 15,2002
Dr. Ralph F. Wilson - "Developing an Internet Marketing Plan"
-Web Commerce Today, issue 82, June1,2000
Dr. Thomas A.Browdy- " Internet Application Assessement Instrument"
EIU " World competitiveness Report & EIU 2000"
Ghosh Shikhar - " Making Business Sense of the Internet"
- Havard Business Review - 1998, Số 126-135
ITU-"Vietnam Internet case study"
Judy Strauss & Raymond Frost - " E-Marketing"
- NXB Prentice Hall 2001
Micheal Chesher, Rukesh Kaura-"Electronic commerce & business communications" - Springer, 1998
Nghiên cứu của tổ chức EIU/Pyramid
Toby Bloomburg - " Internet Marketing overview"
"Trends in distributed systems for electronic commerce"
UNESCO's Institute for Statistic - "2002 World Development Indicator"
World Bank -"Vietnam Data Profile"
ITU- “World Telecommunication Development 2001”
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KLTN-Quan Thu Hang.doc