Đề tài Ứng dụng mô hình MIKE - NAM diễn toán quá trình lũ đến các hồ chứa sông Ba
Tóm tắt.
Dự báo dòng chảy đến các hồ chứa có vai trò quan trọng đặc biệt trong bài toán vận hành
liên hồ chứa. Kết quả dự báo là cơ sởđể giảm mực nước trước lũ, nâng cao hiệu quảđiều tiết lũ,
giảm thiểu thiệt hại cho vúng ngập lụt hạ lưu. Mô hình mưa-dòng chảy MIKE-NAM là mô hình
thích hợp để mô phỏng dòng chảy lũđến các hồ chứa trên lưu vực sông Ba. Các thông số tìm được
có thể sử dụng trong dự báo lũkết hợp với vận hành liên hồ chứa chống lũ
Ứng dụng mô hình MIKE-NAM diễn toán quá trình lũ đến các hồ chứa sông Ba
6 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2494 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ứng dụng mô hình MIKE - NAM diễn toán quá trình lũ đến các hồ chứa sông Ba, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 384‐389
Ứng dụng mô hình MIKE-NAM diễn toán quá trình lũ
đến các hồ chứa sông Ba
Nguyễn Hữu Khải*, Bùi Văn Chiến
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN,
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 11 tháng 8 năm 2010
Tóm tắt. Dự báo dòng chảy đến các hồ chứa có vai trò quan trọng đặc biệt trong bài toán vận hành
liên hồ chứa. Kết quả dự báo là cơ sở để giảm mực nước trước lũ, nâng cao hiệu quả điều tiết lũ,
giảm thiểu thiệt hại cho vúng ngập lụt hạ lưu. Mô hình mưa-dòng chảy MIKE-NAM là mô hình
thích hợp để mô phỏng dòng chảy lũ đến các hồ chứa trên lưu vực sông Ba. Các thông số tìm được
có thể sử dụng trong dự báo lũ kết hợp với vận hành liên hồ chứa chống lũ
1. Đặt vấn đề∗
Sông Ba là một sông lớn ở miền Trung Việt
Nam [1], có tình hình mưa-lũ phức tạp.
384
Hình 1. Lưu vực và hệ thống hồ chứa sông Ba.
_______
∗ Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-38584943.
E-mail: nhkhai47@gmail.com
Để sử dụng và khai thác hiệu quả tài
nguyên nước, các hồ chứa trên lưu vực sông Ba
đã được xây dựng [2]. Hệ thống hồ chứa lưu
vực sông Ba chỉ ra trên hình 1.
Trong vận hành liên hồ chứa, dự báo lũ đến
hồ chứa có vai trò rất quan trọng, nó cho phép
hạ thấp mực nước trước lũ, nâng cao hiệu quả
cắt lũ của các hồ chứa. Mặt khác lũ do mưa sinh
ra ở khu giữa và hạ lưu cũng làm gia tăng dòng
chảy do lũ xả từ các hồ chứa chuyển về.
Phương pháp xác định lũ đến hồ chứa từ tài
liệu thực đo [3] không cho phép chủ động hạ
thấp mực nước trước lũ và nâng cao hiệu quả
điều tiết, như thực tế vận hành hồ chứa trên
sông Ba trong trận lũ cuối năm 2009 đã cho
thấy.
Chính vì vậy cần dự báo dòng chảy đến hồ
chứa do mưa. Ở đây chung tôi ứng dụng mô
hình MIKE-NAM cho mục đích này.
N.H. Khải, B.V. Chiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 384‐389 385
2. Cơ sở lý thuyết mô hình MIKE-NAM [4,5]
Mô hình NAM là một hệ thống các diễn đạt
bằng công thức toán học dưới dạng định lượng
đơn giản thể hiện trạng thái của đất trong chu
kỳ thủy văn. Mô hình NAM còn được gọi là mô
hình mang tính xác định, tính khái niệm và khái
quát với yêu cầu dữ liệu đầu vào trung bình.
Hiện nay trong mô hình thủy động lực
MIKE 11 (do Viện Thủy lực Đan Mạch - DHI
xây dựng), mô hình NAM đã được tích hợp như
là một môđun tính quá trình dòng chảy từ mưa,
coi như mô hình MIKE-NAM.
2.1. Cấu trúc của mô hình
Mô hình NAM được xây dựng trên nguyên
tắc xếp 5 bể chứa theo chiều thẳng đứng và 2 bể
chứa tuyến tính nằm ngang (hình 2):
- Bể chứa tuyết tan
Bể chứa tuyết tan được kiểm soát bằng các
điều kiện nhiệt độ. Đối với điều kiện khí hậu
nhiệt đới ở Việt Nam, không xét đến bể chứa này.
- Bể chứa mặt
Lượng ẩm trữ trên bề mặt của thực vật,
lượng nước điền trũng trên bề mặt lưu vực và
lượng nước trong tầng sát mặt được đặc trưng
bởi lượng trữ bề mặt. Giới hạn trữ nước tối đa
trong bể chứa này được ký hiệu bằng Umax.
Hình 2. Cấu trúc của mô hình NAM.
Lượng nước ở bể chứa mặt bao gồm lượng
nước mưa do lớp phủ thực vật chặn lại, lượng
nước đọng lại trong các chỗ trũng và lượng
nước trong tầng sát mặt.
- Bể sát mặt (bể tầng rễ cây)
Bốc thoát hơi nước của thực vật được ký
hiệu là Ea, tỷ lệ với lượng bốc thoát hơi nước
tiềm năng EP.
Ea = Ep L/Lmax
Bốc thoát hơi nước thực vật là để thỏa mãn
nhu cầu bốc hơi tiềm năng của bể chứa mặt.
Nếu lượng ẩm U trong bể chứa mặt nhỏ hơn
nhu cầu này thì nó sẽ lấy ẩm từ tầng rễ cây theo
tốc độ Ea.
- Bể chứa ngầm
Lượng cấp nước ngầm được chia ra thành 2
bể chứa: bể chứa nước ngầm tầng trên và bể
chứa nước ngầm tầng dưới. Hoạt động của hai
bể chứa này như các hồ chứa tuyến tính với các
hằng số thời gian khác nhau. Nước trong hai bể
chứa này sẽ tạo thành dòng chảy ngầm.
Lượng nước bổ sung cho dòng chảy ngầm
phụ thuộc vào độ ẩm của đất trong tầng rễ cây.
Hình 3. Chia lưu vực để tính trọng số tram mưa theo
phương pháp đa giác Thiessen.
Dòng chảy tràn và dòng chảy sát mặt được
diễn toán qua một hồ chứa tuyến tính thứ nhất.
Sau đó, tất cả các thành phần dòng chảy được
cộng lại và diễn toán qua một hồ chứa tuyến
tính thứ hai, cuối cùng được dòng chảy tổng
cộng tại cửa ra.
N.H. Khải, B.V. Chiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 384‐389 386
2.2. Thông số mô hình
Các thông số mô hình thể hiện khả năng
sinh dòng chảy của lưu vực. Mô hình gồm 9
thông số chính thay đổi theo đặc điểm lưu vực,
còn 5 thông số khác ít thay đổi.
Các thông số trong mô hình NAM thường
được xác định bằng phương pháp tối ưu hóa.
3. Mô phỏng quá trình dòng chảy đến hồ
chứa sông Ba bằng mô hình MIKE – NAM
3.1. Hiệu chỉnh mô hình
Dữ liệu đầu vào
Mô hình được hiệu chỉnh cho con lũ tháng
10/1992
Dữ liệu đầu vào của mô hình gồm có số liệu
mưa và bốc hơi đo được của 3 trạm An Khê,
Ayun, Sơn Hòa và số liệu lưu lượng tại trạm
Củng Sơn từ ngày 22/10/1992 đến ngày
27/10/1992. Trọng số của 3 trạm mưa trên lưu
vực tính toán được tính theo phương pháp đa
giác Thiessen (hình 3) và có các giá trị sau:
Trạm Trọng số
An Khê 0.309
Ayunpa 0.407
Sơn Hòa 0.284
Sau khi hiệu chỉnh mô hình được kết quả
như hình 3. Độ hữu hiệu Nash của mô hình với
trận lũ từ ngày 22-10-1992 đến ngày 28-10-
1992 cho lưu vực sông Ba tính đến trạm Củng
Sơn là R2 = 0,985. Kết quả này cho thấy sự phù
hợp giữa số liệu tính toán và thực đo. Các chỉ
tiêu đánh giá mức hiệu quả của mô hình đều
đạt.
Hình 3. Đường quá trình lưu lượng thực đo và tính
toán tháng 10/1992.
Đỉnh
lũ
(m3/s)
Sai
số
(%)
Chỉ số
Nash
(%)
Thực
đo 9860 Trận lũ tháng
XI/1992 Tính toán 10654
7.7 98,5
Hình 4. Đường quá trình lưu lượng thực đo và tính
toán cho trận lũ kiểm định tháng 11/1988.
3.2. Kiểm định mô hình
Mô hình được kiểm định cho con lũ tháng
XI-1988. Dữ liệu đầu vào cho kiểm định mô
hình gồm có: số liệu mưa đo được của 3 trạm
An Khê, Ayunpa, Sơn Hòa và số liệu lưu lượng
tại trạm Củng Sơn từ ngày 06/11/1988 đến ngày
12/11/1988
Kết quả kiểm định mô hình như hình 4
Độ hữu hiệu mô hình cho trận lũ kiểm định
từ ngày 06-11-1988 đến ngày 12-11-1988 trên
N.H. Khải, B.V. Chiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 384‐389 387
lưu vực sông Ba tính đến trạm Củng Sơn có R2
=0.93.
Đỉnh
lũ
(m3/s)
Sai
số
(%)
Chỉ số
Nash
(%)
Thực đo 10500 Trận lũ
Tháng
XI/1988
Tính
toán 10593
0,88 93
Kết quả hiệu chỉnh trận lũ tháng 10/1992 và
trận lũ kiểm định tháng 11/1988 cho phép sử
dụng bộ thông số thu được để tính toán cho các
trận lũ khác và có khả năng dự báo lũ cho lưu
vực sông Ba.
3.3. Diễn toán lưu lượng lũ đến hồ chứa sông
Ba hạ
Sau khi kiểm định và hiệu chỉnh mô hình,
tiến hành diễn toán lưu lượng lũ đến mặt cắt
đập hồ chứa sông Ba hạ bằng mô hình MIKE-
NAM, đồng thời so sánh với lưu lượng tính
được từ trạm Củng Sơn bằng công thức tỉ lệ
diện tích.
Các thông số mô hình vẫn như trước, chỉ
khác là diện tích lưu vực tính đến đập hồ sông
Ba hạ là F=11115 km2. Diện tích và tỷ trọng
khống chế trạm mưa theo đa giác cũng có thay
đổi. Lưu lượng tính theo tỉ lệ diện tích được suy
ra từ lưu lượng thực đo tại trạm Củng Sơn của
các con lũ theo phương pháp tỉ lệ diện tích [3].
Kết quả so sánh được chỉ ra trên hình 5, 6.
Từ biểu đồ trên ta thấy các giá trị lưu lượng
đến hồ chứa sông Ba hạ tính theo mô hình và
theo công thức chuyển đổi diện tích phù hợp
nhau.
Năm Tính theo công thức
Tính theo
mô hình Chênh lệch
1988 9731 9680 51
1992 9138 9387 249
1993 19184 19124 60
Hình 5. Đường quá trình lưu lượng tính toán bằng mô
hình và phương pháp tỉ lệ diện tích tháng 11/1988.
Hình 6. Đường quá trình lưu lượng tính toán bằng mô
hình và phương pháp tỉ lệ diện tích tháng 10/1992.
N.H. Khải, B.V. Chiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 384‐389 388
0
50
100
150
200
250
300
5-Nov 7-Nov 9-Nov 11-Nov 13-Nov 15-Nov
0
200
400
600
800
1000
1200
5-Nov 6-Nov 7-Nov 8-Nov 9-Nov 10-Nov 11-Nov 12-Nov 13-Nov 14-Nov
Hình 7. Quá trình lũ vào hồ Ayun hạ (a) và An Khê-Kanak (b) tháng 12/1988.
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
9000
10000
5-Nov 7-Nov 9-Nov 11-Nov 13-Nov 15-Nov
0
100
200
300
400
500
600
5-Nov 7-Nov 9-Nov 11-Nov 13-Nov 15-Nov
Hình 8. Quá trình lũ nhập vào hạ lưu (c) và vào hồ Sông Hinh (d) tháng 12/1988.
b) a) Q (m3/s)Q (m3/s)
d) Q (m3/s) c) Q (m3/s)
Giá trị lưu lượng lớn nhất của hô chứa sông
Ba tính theo công thức chuyển đổi và mô hình
chênh lệch rất ít
3.4. Diễn toán lưu lượng lũ đến các hồ chứa
khác trên lưu vực sông Ba
Bằng cách làm tương tự, nhận được quá
trình dòng chảy đến các hồ chứa và vùng hạ lưu
lưu vực sông Ba (hình 7, 8). Ở đây chỉ đưa ra
kết quả của trận lũ năm 1988.
3.5. Nhận xét
Các thông số của mô hình được xác định
tương ứng với lượng mưa giờ. Tuy nhiên lương
mưa thực tế quan trắc tại các trạm đo mưa hiện
nay có thời đoạn không nhỏ hơn 6h. Vì vậy sẽ
có sự sai lệch khi lựa chọn thông số cho dự báo
thực tế. Mặt khác số liệu mưa giờ cũng là nội
suy dựa trên biểu đồ phân bố mưa của các trạm
khác ngoài lưu vực (trạm Quy Nhơn), chưa
phản ánh mưa thực của khu vực Do đó cần
tằng cường đo mưa thời đoạn ngắn, nhất là
trong mùa mưa lũ
Số điểm mưa sử dụng trong diễn toán còn
quá ít nên chưa phản ảnh đầy đủ sự biến động
theo không gian của chúng. Cần bổ sung số
trạm mưa quan trắc, ít nhất trong thời kỳ lũ..
Việc xác định lượng mưa khu giữa hồ chứa
chưa đề cập đến trong bài báo này.
Lũ tháng 10 năm 1993 là con lũ đặc biệt
lớn, có tính chất khác biệt, số liệu mưa hiện có
chưa đủ để có thể mô phỏng theo mô hình đạt
kết quả tốt. Vì vậy nó cần được phân tích tính
toán theo một phương pháp khác.
N.H. Khải, B.V. Chiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 384‐389 389
4. Kết luận
Có thể lựa chọn mô hình MIKE-NAM với
bộ thông số đã được xác định để mô phỏng và
dự báo lũ đến các hồ chứa cũng như lượng nhập
khu giữa trên lưu vực sông Ba phục vụ cho bài
toán vận hành liên hồ chứa chống lũ.
Bài báo này được thực hiện với sự hỗ trợ
của đề tài KC.08.30/06-10.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Hữu Khải, Nguyễn Việt, Bài toán điều
tiết lũ liên hồ chứa sông Ba và các vấn đề liên
quan, Tuyển tập hội thảo Chương trình khoa học
và Công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước
KC.08/06-10, Hà Nội, 2009.
[2] PECC1, Quy hoạch bậc thang thuỷ điện sông
Ba, 2002.
[3] Nguyễn Hữu Khải, Doãn Kế Ruân, Xác định
dòng chảy lũ đến các hồ chứa lưu vực sông Ba,
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự
nhiên và Công nghệ 25, số 3S (2009).
[4] Nguyễn Viết Thi, Báo cáo tổng kết khoa học Đề
tài khoa học cấp Bộ Tài nguyên - Môi trường,
Dự báo 5 ngày dòng chảy đến hồ chứa thượng
nguồn sông Hồng, 2008.
[5] DHI., Mike 11-Reference Manual, 2004.
A application of MIKE-NAM model in generation flowdata
coming to reservoirs in Ba river basin
Nguyen Huu Khai, Bui Van Chien
Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, Hanoi University of Science, VNU,
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
Forecast of floods inputing to reservoirs has special important role for reservoirs system operation.
Results of forecast are used to reduce pre-depletion level, to rise effect of flood regulation and to
mitigate damage of inudation downstream areas. MIKE-NAM is suitable model to simulate floods
inputing to reservoirs. Determinated parametters of model can be uses for floods forecast in
combination with reservoirs system operation to prevent floods.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12) Khai, Chien_384-389(6tr).pdf