Đề tài Vai trò của chi ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Tóm lại, xác định đúng các ưu tiên chiến lược về chi ngân sách từ nay đến năm 2010, đảm bảo tăng cường hiệu quả chi ngân sách nhà nước ở mọi cấp, mọi ngành trên cơ sở kết cấu lại một cách tối ưu các nội dung chi, phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương về nhiệm vụ chi ngân sách là nhiệm vụ trọng tâm, mang tính nghệ thuật trong điều hành tài khoá trong những năm tới.

doc30 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của chi ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Việt nam bắt đầu công cuộc chuyển đổi nền kinh tế từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, năm 1986. Từ đó đến nay, với nhiều chủ trương và chính sách ở tầm vĩ mô cũng như vi mô, nền kinh tế thị trường có sự quản lý Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành và không ngừng phát triển. Trong mô hình kinh tế đó, chính sách tài khoá của Việt Nam cũng đã có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng thị trường hơn, thích hợp với sự biến đổi vai trò kinh tế của Nhà nước. Chi ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia. Chi ngân sách Nhà nước là công cụ quan trọng không chỉ đáp ứng các khoản chi phí của Nhà nước mà có ảnh hưởng to lớn điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay ở nước ta, nhiều vấn đề kinh tế, xã hội của đất nước đang đặt rất lớn đối với các khoản chi của ngân sách Nhà nước. Trong bố cảnh đó, nếu việc bố trí các khoản chi ngân sách một cách tuỳ tiện, ngẫu hứng, thiếu sự phân tích hoàn cảnh cụ thể sẽ có ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Là sinh viên thuộc chuyên ngành tài chính công, em rất mong muốn được tìm hiểu nhiều hơn nữa về lĩnh vực tài chính công. Vấn đề ngân sách nhà nước là một trong những nội dung của tài chính công, là một vấn đề đa dạng, phức tạp. Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài: “Vai trò của chi ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường”. Trước hết, em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới cô giáo hướng dẫn: Phạm Hồng Vân – người đã giúp đỡ và hướng dẫn tận tình để em có thể hoàn thành đề án này. Hà Nội, tháng 9/2004 CHƯƠNG I NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. I/ TỔNG QUAN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1. Khái niệm ngân sách Nhà nước Ngân sách Nhà nước là dự toán hàng năm về toàn bộ các nguồn tài chính được huy động cho Nhà nước và sử dụng các nguồn tài chính đó, nhằm bảo đảm thực hiện chức năng của Nhà nước do hiến pháp quy định. Đó là nguồn tài chính tập trung quan trọng nhất trong hệ thống tài chính quốc gia. Ngân sách Nhà nước là tiềm lực tài chính, là sức mạnh về mặt tài chính của Nhà nước. Quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước có tác động chi phối trực tiếp đến các hoạt động khác trong nền kinh tế. Theo luật ngân sách của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 30/6/1996 thì “ Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm, để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Ngân sách Nhà nước bao gồm các khoản thu: từ thuế, phí, lệ phí, các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân, các khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của pháp luật, các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi, được đưa vào cân đối ngân sách Nhà nước và bao gồm các khoản chi: chi phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, bảo đảm hoạt động bộ máy Nhà nước, chi trả của Nhà nước, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. 2. Nội dung ngân sách Nhà nước Nội dung của ngân sách Nhà nước được phản ánh qua các bộ phận sau đây: - Thu ngân sách Nhà nước - Chi ngân sách Nhà nước - Cân đối ngân sách Nhà nước 2.1 Thu ngân sách Nhà nước Xét về mặt nội dung kinh tế, thu ngân sách Nhà nước chứa đựng các quan hệ phân phối nảy sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị để tập trung một bộ phận tống sản phẩm quốc dân để hình thành quĩ tiện tệ tập trung của Nhà nước. Tuỳ theo nhu cầu của việc phân tích đánh giá, phục vụ cho công tác quản lí cũng như cho việc điều chỉnh các chính sách động viên, người ta có thể phân loại nội dung thu ngân sách Nhà nước theo nhiều tiêu thức khác nhau: Xét theo nguồn hình thành các khoản thu: + Nhóm nguồn thu từ hoạt động sản xuất- kinh doanh trong nước: là các nguồn tài chính có khả năng tạo lập nên quĩ ngân sách Nhà nước do kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước mang lại. Tuỳ theo đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, nguồn thu trong nước có thể bao gồm: Nguồn thu được hình thành và thực hiện trong khâu sản xuất bao gồm: Nguồn thu từ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản... Tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử, tỷ trọng của các khoản thu trong khâu sản xuất có sự thay đổi phụ thuộc vào định hướng phát triển các ngành kinh tế của đất nước ở mỗi thời kỳ nhất định. Nguồn thu được thực hiện trong khâu lưu thông phân phối: Chúng được tạo ra ở khâu sản xuất, song thực hiện một phần trong khâu lưư thông phân phối. Nguồn thu này được thực hiện do kết quả của hoạt động giao lưu hàng hoá trong và ngoài nước. Nguồn thu trong khâu lưu thông phân phối tăng hay giảm phản ánh thực trạng giao lưu hàng hoá trong và ngoài nước, thực trạng hoạt động của ngành sản xuất và tình hình biến động của thị trường tiền tệ. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn thu trong khâu lưu thông phân phối ngày càng trở nên quan trọng. Nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ: Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển cao thì cáchoạt động dịch vụ cũng ngày càng phong phú và đa dạng. So với các hoạt động sản xuất, hoạt động dịch vụ thường có chi phí thấp hơn, nhưng mức doanh lợi thu được lại rất cao. Nó không đơn thuần góp phần vào việc tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn góp phần quan trọng vào việc kiểm soát và hướng dẫn các hoạt động dịch vụ, đảm bảo phát triển cân đối giữa các ngành sản xuất với các hoạt động dịch vụ. Nguồn thu ngoài nước: Bao gồm các khoản thu về vay nợ và viện trợ của nước ngoài. Nguồn thu này thường không ổn định và có tính chất bù đắp một phần trong quá trình cân đối ngân sách. Nguồn thu này gắn chặt với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và ngoại giao của đất nước. Xét theo tác dụng của các khoản thu với quá trình cân đối ngân sách, thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản: Thu trong cân đối ngân sách nhà nước: Gồm các hình thức thu chủ yếu sau đây: - Thuế, phí và lệ phí. - Thu về bán và cho thuê các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước. - Thu lợi tức cổ phần của nhà nước. - Các khoản thu khác theo luật định. Thu để bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách nhà nước: Bao gồm các khoản vay trong nước và vay nước ngoài cho chi tiêu ngân sách nhà nước khi các khoản chi ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu trong cân đối của ngân sách. Vay trong nước: Gồm cả vay của các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội trong nước. Việc vay này được thực hiện đưới hình thức phát hành các công cụ nợ của chính phủ( ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) như các tín phiếu kho bạc nhà nước, trái phiếu chính phủ. Vay ngoài nước: Được thực hiện thông qua các khoản viện trợ có hoàn lại (một phần quan trọng trong nguồn vốn ODA), vay nợ của chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế và các công ty. 2.2. Chi ngân sách nhà nước: Chi của ngân sách Nhà nước là qúa trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Thực chất chi ngân sách Nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của Nhà nước. Trong các nền kinh tế thị trường và ở nước ta hiện nay, cách phân loại nội dung chi tiêu ngân sách Nhà nước theo tính chất kinh tế của các khoản chi được sử dụng phổ biến. Đây cũng là cách phân loại quan trọng nhất,nó trình bày nội dung chi tiêu của Chính phủ để qua đó người ta có thể nhận rõ và phân tích, đánh giá những chính sách, chương trình của Chính phủ thông qua các kinh phí để thực hiện các chương trình, chính sách đó. Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách Nhà nước được chia ra các nội dung sau đây: Chi thường xuyên: Là những khoản chi không có trong khu vực đầu tư và có tính chất thường xuyên để tài trợ cho các hoạt động của các cơ quan Nhà nước nhằm duy trì “ đời sống quốc gia”. Về nguyên tắc, các khoản chi này phải được tài trợ bằng các khoản thu không mang tính hoàn trả (thu trong cân đối) của ngân sách Nhà nước. Chi thường xuyên gồm có: Chi về chủ quyền quốc gia: Tức là các chi phí mà các cơ quan Nhà nước cần phải thực hiện để bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhất là trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao, thông tin đại chúng... Chi phí liên quan đến sự điều hành và duy trì hoạt động của các cơ quan Nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ được giao phó. Chi phí do sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội để cải thiện đời sống nhân dân. Những chi phí này thuộc loại chi phí chuyển nhượng, như: Trợ cấp cho các cơ quan Nhà nước để thực hiện các hoạt động sự nghiệp, trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội, hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội, trả lãi, nợ của Chính phủ. Chi đầu tư phát triển: Là tất cả các chi phí làm tăng thêm tài sản quốc gia, bao gồm: Chi mua sắm máy móc, thiết bị và dụng cụ. Chi xây dựng mới và tu bổ công sở, đường sá, kiến thiết đô thị. Chi cho việc thành lập các doanh nghiệp Nhà nước, góp vốn vào các công ty, góp vốn vào các đơn vị, tổ chức sản xuất kinh doanh. Các chi phí chuyển nhượng đầu tư. Những chi phí đầu tư liên quan đến sự tài trợ của Nhà nước dưới hình thức cho vay ưu đãi hoắc trợ cấp cho những pháp nhân kinh tế công hay tư để thực hiện các nhiệm vụ đồng loại với các nhiệm vụ nêu trên, nhằm thực hiện chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước. Ngoài ra, còn có thể phân loại chi ngân sách Nhà nước theo cãc ngành kinh tế, theo tính chất của quá trình tái sản xuất xã hội. 2.3. Cân đối ngân sách Nhà nước: Trong điều kiện đổi mới hiện nay, theo tinh thần của luật ngân sách Nhà nước (20-3-1996) và nghị định số 87-CP, việc cân đối ngân sách được thay đổi cho phù hợp. Ngân sách Nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển. Trường hợp có bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách. Ngân sách địa phương được cân đối theo nguyên tắc: Tổng số chi không vượt quá tổng số thu, trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm mà vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh, thì được phép huy động vốn đầu tư trong nước theo quyết định của thủ tướng Chính phủ và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Dự toán chi ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương được bố trí khoản dự phòng từ 3% đến 5% tổng số chi để đâp ứng các nhu cầu chi phát sinh đột xuất trong năm ngân sách. Chính phủ, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh được lập quỹ dự trữ tài chính từ các nguồn: Tăng thu, kết dư ngân sách và bố trí trong dự toán chi ngân sách hàng năm. Quỹ dự trữ tài chính được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu chi, khi nguồn thu chưa tập trung kịp và phải hoàn trả ngay trong năm ngân sách, trừ trường hợp đăc biệt do Thủ tướng Chính phủ quy định... Khi ngân sách Nhà nước, ngân sách các cấp chính quyền địa phương có biến động lớn, cần thiết phải điều chỉnh dự toán ngân sách đã được quyết định, Chính phủ trình Quốc hội điều chỉnh dự toán ngân sách Nhà nước; Uỷ ban nhân dân các cấp trình Hội đồng nhân dân cùng cấp điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương. II. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC: 1. Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước: - Chi về kinh tế: Chi đầu tư vốn cố định và vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước; chi đầu tư xây dựng các công trình kết câú hạ tầng kinh tế- xã hội; chi cho quỹ bảo trợ phát triển với các chương trình, dự án phát triển kinh tế, chi cho dự trữ Nhà nước. - Chi về văn hoá xã hội: Chi cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường, các sự nghiệp khác; chi cho các chương trình quốc gia; cho hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội, trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội; tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội- nghề nghiệp. - Chi cho bộ máy Nhà nước: Chi cho hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, các cơ quan hành chính các cấp, toà án và viện kiểm sát các cấp. - Chi cho quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. - Chi trả nợ nước ngoài. - Chi viện trợ nước ngoài. - Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính. - Chi khác. -Các khoản chi trên đây được phân loại theo: Chi thường xuyên gồm: Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế xã hội, văn hoá thông tin, thể dục thể thao, sự nghiệp khoa học công nghệ và môi trường, các sự nghiệp khác; các hoạt động sự nghiệp kinh tế, quốc phòng, an ninh và an toàn xã hội; hoạt động các cơ quan Nhà nước, Đảng cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội; trợ giá theo chính sách Nhà nước, các chương trình quốc gia; hỗ trợ bảo hiểm xã hội; trợ cấp cho đối tượng chính sách xã hội; tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội- nghề nghiệp; trả tiền lãi do nhà nước vay; chi viện trợ; các khoản chi khác. Chi đầu tư phát triển: Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội; đâu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết; chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình, dự án phát triển kinh tế; chi cho dự trữ Nhà nước. Chi trả nợ do Chính phủ vay. Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính. Các khoản chi đó được cụ thể hoá theo danh mục sau đây: + Chi thường xuyên về: ·Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục- thể thao, sự nghiệp, khoa học, công nghệ và môi trường và các sự nghiệp khác. ·. Các hoạt động sự nghiệp kinh tế. ·. Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội. ·. Hoạt động của các cơ quan Nhà nước.. ·. Hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam. ·. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam. ·. Trợ giá theo chính sách của Nhà nước. ·. Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ ·. Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội. ·. Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội- nghề nghiệp theo quy định của pháp luật. ·. Trả lãi tiền do Nhà nước vay. ·. Viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài. ·. Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. + Chi đầu tư phát triển: ·. Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội không có khả năng thu hồi vốn. ·. Đầu tư vào hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật. ·. Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các quỹ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình, dự án phát triển kinh tế. ·. Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển. + Chi trả nợ gốc tiền do Nhà nước vay. + Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính. 2. Phân loại chi ngân sách Nhà nước. Phân loại chi ngân sách Nhà nước là sự sắp xếp các khoản chi vào các nhóm theo những tiêu thức nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý và định hướng chi ngân sách Nhà nước. Thông thường phân loại chi ngân sách được dựa trên các tiêu thức chủ yếu sau: Thứ nhất, căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, chi ngân sách Nhà nước được phân thành: - Chi đầu tư phát triển kinh tế: Là những khoản chi nhằm hoàn thiện và mở rộng nền sản xuất xã hội. - Chi cho y tế: Bao gồm các khoản chi để duy trì và mở rộng hoạt động y tế. - Chi cho giáo dục: Bao gồm các khoản chi cho việc duy trì và phát triển hoạt động giáo dục đào tạo. - Chi cho phúc lợi xã hội: Đó là các khoản trợ cấp cho người già, người tàn tật, trẻ mồ côi, người lao động chưa có việc làm, cho thương binh, gia đình liệt sĩ... - Chi cho quản lý hành chính: Là những khoản chi nhằm duy trì hoạt động của các cơ quan quản lý thuộc chính quyền các cấp, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Toà án nhân dân, chi về ngoại giao... - Chi cho an ninh và quốc phòng: Là những khoản chi dành cho các lực lượng vũ trang và công tác bảo vệ trị an trong nước. Thứ hai, căn cứ vào tính chất sử dụng, chi ngân sách được chia thành: - Chi cho lĩnh vực sản xuất vật chất: Là những khoản chi dành cho các ngành sản xuất vật chất như: Công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thương nghiệp... - Chi cho lĩnh vực phi sản xuất vật chất: Là những khoản chi về dịch vụ công cộng, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật, y tế, thể dục, thể thao, nghiên cứu khoa học, quản lý Nhà nước... Thứ ba, căn cứ vào chức năng quản lý của Nhà nước, chi ngân sách Nhà nước được phân thành: - Chi nghiệp vụ: Là những khoản chi gắn với nghiệp vụ của Nhà nước, bao gồm các khoản chi về tiền lương, tiền công, trả nợ trong nước và ngoài nước, hỗ trợ và chuyển giao, hưu trí và thâm niên, cung và dịch vụ, trợ giá, trợ cấp... - Chi phát triển: Là những khoản chi không gắn với nghiệp vụ của Nhà nước, bao gồm các khoản chi về dịch vụ kinh tế ( như: phát triển nông nghiệp và nông thôn, các cơ sở công cộng, thương mại, công nghiệp, giao thông...), các dịch vụ xã hội ( như : giáo dục, y tế...), quản lý hành chính, an ninh, quốc phòng. Thứ tư, căn cứ vào mục đích kinh tế- xã hội, chi ngân sách Nhà nước được phân thành: - Chi tích luỹ: Bao gồm các khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi cấp vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước, chi dự trữ... - Chi tiêu dùng: Đa dạng và phức tạp hơn nhiều so với chi tích lũy bao gồm: Chi quản lý hành chính, chi sự nghiệp, chi bù giá và chi khác. Thứ năm, căn cứ vào yếu tố thời hạn tác động của các khoản chi, chi ngân sách Nhà nước được phân thành ba nhóm: - Chi thường xuyên: Là những khoản chi có thời hạn tác động ngắn, bao gồm: Chi lương và các khoản có tính chất tìên lương, chi bổ sung quỹ hưu trí, chi công vụ phí, chi mua sắm hàng hoá và dịch vụ cho nghiệp vụ và cho sửa chữa thường xuyên, chi trợ cấp, bù giá, chi trả lãi tiền vay trong và ngoài nước, chi cho quỹ dự trữ thường xuyên, dự bị phí, chi viện trợ thường xuyên cho nước ngoài... - Chi đầu tư phát triển: Là những khoản chi có thời hạn tác động dài, bao gồm: Chi đầu tư các dự án phát triển, chi chuyển giao vốn đầu tư cho các doanh nghiệp Nhà nước hoặc các địa phương, chi dự trữ cho mục đích đầu tư, chi viện trợ đầu tư cho nước ngoài... - Chi trả khác: Chi cho vay 3. Nội dung chủ yếu của chính sách chi ngân sách Nhà nước. Thứ nhất, xoá bỏ bao cấp vốn trong kinh tế ( loại bỏ chính sách tầm gửi), giảm chi bù lỗ, chi tập trung trong lĩnh vực cần thiết cấp bách, bảo đảm vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế. Thứ hai, giảm chi tiêu dùng, nâng cao chi cho đầu tư phát triển. Thứ ba, chú trọng đầu tư cho các mục tiêu chiến lược kinh tế- xã hội ( các ngành kinh tế mũi nhọn, hạ tầng cơ sở kinh tế- xã hội, các dự án huy động được nhiều lao động nhằm tận dụng nhân lực, đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại). Thứ tư, chi thường xuyên không vượt quá nguồn thu thuế, phí và lệ phí trong nước. Thứ năm, tăng chi hợp lý cho các mục tiêu trọng điểm: Giáo dục đào tạo, y tế, xã hội. Thực hiện triệt để để tiết kiệm và nâng cao hiệu quả mọi khoản chi. Hoàn thiện cơ chế chính sách chi tiêu của Nhà nước đúng đối tượng, mục đích, hiệu quả. Rà soát lại các định mức tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp. Hình thành các quỹ dự trữ quốc gia đủ mạnh (quỹ dự trữ tài chính, ngoại tệ, kim khí quý, vật tư chiến lược). Không phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách, kiểm soát lạm phát. CHƯƠNG II VAI TRÒ CỦA CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 1. Vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế: - Chi đầu tư phát triển: Một trong các chức năng quan trọng của Nhà nước là chức tổ chức kinh tế. Chức năng này trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta được thể hiện bằng vai trò của Nhà nước trong quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống luật kinh tế, chính sách kinh tế, kế hoạch, các công cụ kinh tế và cơ chế. Để thực hiện chức năng và vai trò nêu trên, Nhà nước sử dụng công cụ tài chính vĩ mô quan trọng là ngân sách Nhà nước để phân phối các nguồn tài chính cho sự phát triển của lĩnh vực sản xuất và các ngành kinh tế quốc dân. Chi đầu tư phát triển được cấp phát chủ yếu từ ngân sách trung ương và một bộ phân đáng kể từ ngân sách địa phương. Khoản chi này mang tính chất tích luỹ, có ảnh hưởng trực tiếp đến tăng năng suất xã hội và đối với các quan hệ cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mục tiêu của chính sách kinh tế, hệ thống quản lý và các nhân tố khác trong hệ thống quảnlý và sử dụng phương thức cấp phát cho nhu cầu đầu tư phát triển là những nhân tố quan trọng. - Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội: Đây là khoản chi tài chính Nhà nước được đầu tư cho các chương trình phát triển có tính chất hình thành thế cân đối của nền kinh tế, tạo ra tiền đề kích thích quá trình vận động vốn của các doanh nghiệp và tư nhân nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế. Chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn tài chính của Nhà nước hướng vào củng cố và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng của nền kinh tế (chi đầu tư cho cầu cống, bến cảng, sân bay, hệ thống thuỷ lợi, năng lượng, vận tải, viễn thông...), các ngành công nghiệp cơ bản, các công trình kinh tế có tính chất chiến lược, các công trình trọng điểm phục vụ phát triển văn hoá xã hội, phúc lợi công cộng. Thực chất loại chi này đảm bảo tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định cho các ngành sản xuất vật chất và không sản xuất, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của nền kinh tế và xã hội. Sự tham gia của Nhà nước vào các lĩnh vực nêu trên nhằm kích thích đầu tư, giảm chi phí sản xuất, mở rộng thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh đồng thời tạo ra các trung tâm kinh tế. Chi về mua sắm máy móc thiết bị trong điều kiện phát triển kinh tế theo chiều sâu thì đây là khoản chi có ý nghĩa quyết định đối với phát triển năng lực sản xuất và hoạt động của nền kinh tế xã hội. Phù hợp với vai trò của ngân sách Nhà nứơc trong cơ chế kinh tế thị trường, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước được chi cho những đối tượng xác định mà chủ yếu là đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế xã hội do Nhà nước đảm nhận. Việc thực hiện các dự án này sẽ khuyến khích các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước huy động vốn để phát triển các ngành sản xuất hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu, các ngành công nghiệp cơ bản phục vụ cho nền kinh tế và cho xã hội. Chi đầu tư xây dựng cơ bản có tầm quan trọng trong việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế và xã hội, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế theo định hướng của Nhà nước, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao năng suất lao động xã hội. - Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước: Đây là khoản chi gắn liền với sự can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực kinh tế. Bằng khoản chi này một mặt Nhà nước bảo đảm đầu tư vào một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh cần thiết tạo điều kiệnc cho sự phát triển kinh tế xã hội, mặt khác Nhà nước phải bảo đảm sự phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý và giữ vững các mối quan hệ cân đối nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao. Là khoản chi tích luỹ mang tính chất sản xuất, khoản chi này hình thành vốn cố định, vốn lưu động của doanh nghiệp và là bộ phận vốn kinh doanh trong doanh nghiệp, đảm bảo yêu cầu tái sản xuất của các doanh nghiệp Nhà nước. - Chi góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh vào các doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, căn cứ vào chính sách và luật pháp của Nhà nước, các công ty cổ phần được hình thành hoặc bằng thông qua quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hoặc được thành lập mới trên cơ sở luật công ty và các công ty, xí nghiệp liên doanh được thành lập trên cơ sở liên doanh liên kết giữa các tổ chức kinh tế với nhau. Các doanh nghiệp này tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế kể cả ở những lĩnh vực có vị trí trọng yếu trong việc kích thích các ngành kinh tế khác phát triển, kích thích và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế. - Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia: Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia là một tổ chức tài chính Nhà nước có tư cách pháp nhân, thực hiện chức năng huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong, ngoài nước và tiếp nhận các nguồn vốn của Nhà nước để cho vay đối với các dự án đầu tư phát triển, các ngành nghề thuộc diện ưu đãi của mọi thành phần kinh tế và các vùng có khó khăn theo quy định của Chính phủ. - Chi dự trữ Nhà nước: Chi dự trữ Nhà nước là một bộ phận của hệ thống dự trữ có mục đích. Hình thành dự trữ quốc gia và sử dụng khoản dự trữ này là một trong những cơ sở bảo đảm sự vận hành có hiêụ quả của nền kinh tế. Dự trữ quốc gia cho phép duy trì sự cân đối và ổn định trong phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động của nền kinh tế và trong những trường hợp nhất định cho phép ngăn chặn, bù đắp các tổn thất bất ngờ xảy ra đối với nền kinh tế. - Chi sự nghiệp: Đây là khoản chi quan trọng, nhu cầu chi rất lớn. Các khoản chi này cần thiết để bảo đảm quá trình tái sản xuất được kết hợp với sức laođộng có chất lượng cao. ý nghĩa kinh tế của khoản chi này thể hiện ở chỗ nó tác động tới quá trình tái sản xuất mở rộng và quá trình tạo ra thu nhập quốc dân. Thực hiện các khoản chi sự nghiệp sẽ tạo ra các điều kiện để nâng cao năng suất lao động và hiệu suất công tác. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới về cơ chế kinh tế hiện nay ở nước ta và từ sự cần thiết phải nhanh chóng tiếp cận với nền khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Chi về khoa học và công nghệ thực sự trở thành một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, Nhà nước định hướng việc hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Điều đó được thực hiện thông qua các chính sách chi tiêu của ngân sách Chính phủ để vừa kích thích và vừa gây sức ép với các doanh nghiệp, nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế. 2. Vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội Nhà nước thông qua hoạt động chi dưới hình thức trợ cấp giá để thực hiện các chính sách dân số, chính sách việc làm, chính sách thu nhập, chính sách bảo trợ xã hội. Tuy nhiên trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn eo hẹp, chi phí giải quyết các vấn đề xã hội rất lớn, việc giải quyết các vấn đề xã hội phải triệt để, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo. Những khoản chi của ngân sách Nhà nước để giải quyết các vấn đề xã hội phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm, hiệu quả, chi đúng đối tượng, đúng vụ việc cần chi. Có như vậy mới nâng cao được tác dụng các khoản chi ngân sách Nhà nước trong việc điều chỉnh các vấn đề xã hội. - Chi thường xuyên: Các khoản chi thường xuyên mang tính chất là các khoản chi cho tiêu dùng xã hội và gắn liền với chức năng quản lý xã hội của Nhà nước. Hàng năm, ngân sách Nhà nước chi một số lượng khá lớn các nguồn tài chính cho lĩnh vực không sản xuất, lượng chi này được phân thành hai bộ phận cơ bản: Một bộ phận vốn được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu của dân cư trong lĩnh vực phát triển văn hoá, xã hội, nó có mối quan hệ trực tiếp với thu nhập của dân cư và làm nâng cao mức sống của dân cư, và một bộ phận xác định các nhu cầu quản lý kinh tế xã hội chung của Nhà nước. Bằng các khoản chi thường xuyên Nhà nước thực hiện các chức năng văn hoá, giáo dục, quản lý. + Chi sự nghiệp: Các khoản chi cho hoạt động sự nghiệp tạo thành một bộ phận chi quan trọng của tài chính Nhà nước và thực chất đây là những khoản chi cho các dịch vụ và hoạt động xã hội phục vụ nhu cầu phát triển xã hội và nâng cao dân trí của dân cư. Thực hiện các khoản chi sự nghiệp sẽ tạo ra các điều kiện để nâng cao trình độ văn hoá, kỹ thuật và sức khoẻ của người lao động, phát triển sức sản xuất và đó là cơ sở nâng cao năng suất lao động và hiệu quả công tác. Như vậy mặc dù chi sự nghiệp không mang tính chất sản xuất nhưng lại liên hệ chặt chẽ với nền sản xuất xã hội và phát huy tác dụng lâu dài đối với sản xuất. Xét về ý nghĩa xã hội, khoản chi sự nghiệp từ ngân sách Nhà nước cho những mục đích nhất định góp phần nâng cao mức sống và thu nhập thực tế của các tầng lớp dân cư. Bên cạnh các khoản thu nhập từ lao động, mỗi dân cư đứng về phía là thành viên của xã hội họ còn nhận được thu nhập do các hoạt động phúc lợi và dịch vụ do dân cư mang lại. Chính các khoản thu nhập phúc lợi này đã giảm bớt sự chênh lệch về trình độ dân trí cũng như thu nhập giữa các thành viên trong xã hội. + Chi về sự nghiệp giáo dục, đào tạo: Trong cơ chế thị trường hiện nay ở Việt Nam, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đang phát triển theo hướng xã hội hoá và đa dạng hoá mục tiêu, chương trình, loại hình trường lớp và các loại hình giáo dục, đào tạo nhằm mụcđích nâng cao trình độ dân trí của toàn thể dân cư trong xã hội. + Chi sự nghiệp văn hoá, nghệ thuật, thể thao: Sự nghiệp văn hoá, nghệ thuật, thể thao là một lĩnh vực hoạt động mang tính phong phú, đa dạng và phức tạp. Mục tiêu của các hoạt động này nhằm nâng cao tri thức và thẩm mỹ cho mọi tầng lớp dân cư, nhằm xây dựng nền văn hoá có nội dung nhân đạo, dân chủ và tiến bộ, phát triển đạo đức xã hội và truyền thống dân tộc. Các mục tiêu đó cho phép mỗi công dân có thể phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng và đạo đức. + Chi sự nghiệp xã hội: Khoản chi này bảo đảm đời sống của người lao động khi gặp khó khăn, tai nạn khi già yếu, những người không có khả năng lao động đồng thời giải quyết những vấn đề xã hội nhất định. - Chi quản lý Nhà nước: Chi quản lý Nhà nước bắt nguồn từ sự tồn tại của Nhà nước và phù hợp với đặc điểm chức năng của Nhà nước. Đây là các khoản chi nhằm đảm bảo sự hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở, hoạt động của Đảng Cộng Sản Việt Nam và hoạt động của các tổ chức chính trị- xã hội. - Chi quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội: Quốc phòng và an ninh thuộc vào lĩnh vực tiêu dùng xã hội. Đây là những hoạt động bảo đảm sự tồn tại của Nhà nước và cần thiết phải cấp phát tài chính cho các nhu cầu về quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội từ ngân sách Nhà nước. Căn cứ theo mục đích sử dụng, khoản chi tài chính này được phân thành hai bộ phận cơ bản. Bộ phận thứ nhất gồm các khoản chi cho quốc phòng để phòng thủ và bảo vệ Nhà nước, chống sự xâm lược, tấn công và đe doạ từ nước ngoài. Bộ phận thứ hai gồm các khoản chi được hướng vào bảo vệ và giữ gìn chế độ xã hội, an ninh của dân cư trong nước. Kinh tế thị trường làm thay đổi cơ cấu chi ngân sách Nhà nước, trong đó một phần quan trọng của ngân sách Nhà nước được dành cho mục tiêu phúc lợi xã hội và trợ cấp xã hội. Vấn đề ở đây là các nhu cầu xã hội trong cơ chế mới luôn luôn nảy sinh và nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng lên, trong khi đó,với nền kinh tế không ổn định, lạm phát thì nhu cầu chi thường vượt quá khả năng của ngân sách Nhà nước do thu tăng chậm. Bởi lẽ, phần lớn hậu quả của lạm phát đều dồn về phía người nghèo, thu nhập ít, giá cả tăng vọt là đòn khủng khiếp đối với họ. Tất nhiên trong tình hình đó, Nhà nước phải có sự can thiệp và yêu cầu đặt ra là làm sao cho đời sống của người nghèo đỡ bị chao đảo. 3. Điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường: Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, giá cả chủ yếu phụ thuộc vào quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường. Do đó để ổn định giá cả, Chính phủ có thể tác động vào cung hoặc cầu hàng hoá trên thị trường. Sự tác động này không chỉ được thực hiện thông qua thuế mà còn được thực hiện thông qua chính sách chi tiêu của ngân sách Nhà nước. Bằng nguồn cấp phát của chi tiêu ngân sách Nhà nước hàng năm, các quỹ dự trữ Nhà nước về hàng hoá và tài chính được hình thành. Trong trường hợp thị trường có nhiều biến động, giá cả lên quá cao hoặc xuống quá thấp, nhờ lực lượng dự trữ hàng hoá và tiền, Chính phủ có thể điều hoà quan hệ cung- cầu hàng hoá, vật tư để bình ổn giá cả trên thị trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và ổn định sản xuất. Chính phủ cũng có thể sử dụng ngân sách Nhà nước nhằm khống chế và đẩy lùi nạn lạm phát một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách thắt chặt ngân sách, nghĩa là cắt giảm các khoản chi tiêu ngân sách, chống tình trạng bao cấp, lãng phí trong chi tiêu, kích thích sản xuất phát triển để tăng cung. Ngoài ra việc Chính phủ phát hành các công cụ nợ để vay nhân dân nhằm bù đắp thiếu hụt của ngân sách Nhà nước cũng góp phần to lớn vào việc làm giảm tốc độ lạm phát trong nền kinh tế quốc dân. Chi trợ giá được áp dụng đối với các mặt hàng đang khuyến khích sản xuất và ổn định tiêu dùng , chống những xáo trộn lớn do yếu tố giá của mặt hàng đó gây ra . Về thực chất, trợ giá của chính phủ là một biện pháp để bảo hộ cho người sản xuất hoặc cho người tiêu dùng .ở hầu hết các nước thi hành chính sách trợ giá cho những mặt hàng nhất định , phổ biến là trợ giá trong nông nghiệp ( phân bón , lương thực, thực phẩm0 , điện và xănh dầu. Ngoài ra, trợ giá còn áp dụng trong trường hợp trợ cấp cho lăi suất tiền gửi của nhân dân cao hơn lăi suất cho vay của Ngân hàng. Mục đích của khoản trợ cấp này là nhằm thu hút tiền trong lưu thông , ổn định giá cả , chống lạm phát. CHƯƠNG III VAI TRÒ CỦA CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 1. Đánh giá vai trò của chi ngân sách Nhà nước qua các giai đoạn: - Giai đoạn 1991-1998: Thứ nhất: Đã bước đầu cắt giảm đáng kể những khoản chi mang tính bao cấp, bao biện, không thuộc chức năng, nhiệm vụ của ngân sách nhà nước như một số nội dung chi cho các sự nghiệp y tế, giáo dục, văn hoá, thể thao... nhằm huy động nguồn lực trong dân cư đồng thời giảm bớt gánh nặng chính đáng cho ngân sách Nhà nước trong điều kiện mới. Đồng thời các khoản chi mang tính bao cấp cho doanh nghiệp Nhà nước cũng đã giảm đáng kể nhờ biện pháp cổ phần hoá và sự kiên quyết cắt giảm chi bao cấp từ ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp Nhà nước như bao cấp qua cấp vốn đầu tư xây dựng cơ bản, mua máy móc thiết bị, cấp vốn lưu động, bù lỗ, bù chênh lệch giá, bán hàng theo giá cung cấp... Trước đây, bình quân các khoản chi bao cấp cho khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm khoảng 1/2 tổng số thu ngân sách Nhà nước từ các xí nghiệp quốc doanh nộp lên. Từ năm 1995 đến 1997, chi cấp vốn lưu động cho doanh nghiệp chỉ giao động trong khoảng 0,6% đến 0,7% tổng chi ngân sách Nhà nước, bình quân năm 1991 đến 1998 đạt mức 1,5% tổng chi. Thứ hai, mặc dù ưu tiên chi ngân sách cho đầu tư phát triển nhưng mục tiêu kiềm chế lạm phát vẫn đựoc coi là chủ đạo. Trong chi đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nứơc thì tính tập trung dứt điểm và hiệu quả đầu tư vẫn đang là vấn đề nhức nhối , còn quá dàn trảI , lãng phí ngay từ khâu thiết kế và lựa chọn dự án đầu tư. Nội dung chi đâu tư phát triển ngân sách Nhà nước còn chưa chú trọng vào hàm lượng thíết bị, mới chỉ quan tâm đến quy mô số lượng về vốn xây dựng cơ bản nên hiệu quả đầu tư chậm được phát huy, chưa thực sự chú trọng đến mục tiêu phát triển công nghiệp, nâng cao năng suất lao động. Do đó, tăng trưởng kinh tế tuy đạt mức cao nhưng chất lượng tăng trưởng còn hạn chế, thiếu bền vững, nền kinh tế chưa thoát khỏi vòng luẩn quẩn: Công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, hoa phí nhiều, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao, sức cạnh tranh yếu, hàng hoá khó tiêu thụ, thiếu vốn để mở rộng đầu tư, công nghệ tiếp tục lạc hậuMặt khác, trong khi quy hoạch đầu tư tổng thể chưa rõ ràng thì vẵn còn thiếu cơ sở lý luận về việc sử dụng hiệu quả công cụ tài khoá để tác động vào tổng cầu ( kích cầu ) nhằm kích thích tăng trưởng, nuôi dưỡng nguồn thu lâu dài cho ngân sách Nhà nước. Thứ ba, những khoản chi vì lợi ích lâu dài – yếu tố cơ bản đảm bảo tăng trưởng bền vững còn chưa được quan tâm đúng mức ( các khoản chi cho khoa học, công nghệ, bảo vệ môI trường, giáo dục, đào tạo nghề). Những khoản chi này chỉ chiếm vị trí rất khiêm tốn trong tổng chi ngân sách Nhà nước hàng năm. Bình quân 1991 – 1998, chi giáo dục đào đạt 9,5% tổng chi. Chi cho cả Khoa học, Công nghệ và MôI trường chỉ đạt 1,1% tổng chi Ngân sách Nhà nước, chiếm không đầy 0,5% GDP. Trong khi cùng kỳ đó, chi cho sự nghiệp kinh tế – mà trong đó, phần lớn chi bao cấp, bao biện cho các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ kém hiệu quả - lại lớn hơn tới 6 lần, đạt mức bình quân 6,3% tổng chi ngân sách Nhà nước. Thứ tư, tuy giảm nhiều khoản chi bao biện từ ngân sách Nhà nước nhưng nhiều nội dung bao cấp vẫn còn tồn tại ngay trong quá trình lập và chấp hành ngân sách Nhà nước. Ngân sách vẫn còn chi cấp vốn lưu động hoặc gia hạn nợ đọng thuế hoặc khoanh nợ, đảo nợ, giảm nợ cho các doanh nghệp Nhà nước. Chính phủ vẫn còn đề nghị thực hiện các biện pháp bao cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước qua lãi suất, qua bảo lãnh vaynhững biện pháp này cần đến nhiều tỷ đồng và gây không ít khó khăn trong điều hành ngân sách. Trong giai đoạn 1991 – 1998, chính sách chi ngân sách đã bám sát mục tiêu kiềm chế lạm phát, thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt.Bắt đầu chuyển đổi từ một ngân sách thụ động ,chủ yếu trông chờ ngoại viện ,mang nặng tính bao biện ,bao cấp ,chi đủ,sang một ngân sách mang tính tích cực hơn. Trong cơ cấu chi ngân sách ,đă bước đầu xác lập được các quan hệ cân đối cần thiết giữa các tỷ lệ chi ngân sách cho đầu tư,phục vụ định hướng phát triển kinh tế nhanh ,bền vững với tỷ lệ chi thường xuyên, đáp ứng nhu cầu chi tiêu hợp lý của bộ máy Nhà nước và chi trả nợ , dự trữ , dự phòng. Đồng thời, đă bắt đầu chuyển những nội dung chi tiêu không thuộc những phạm vi chức năng của ngân sách Nhà nước sang khu vực doanh nghiệp và dân cư (xă hội hoá);Trên thực tế, việc cắt giảm đáng kể các nội dung chi bao cấp trong kết cấu chi ngân sách nhà nước ( như đã cắt bỏ các khoản chi cấp vốn lưu động , bỏ bù lỗ, bù chênh lệch giá, giảm trợ cấp lãi suất cho khu vực doanh nghiệp nhà nước) đã góp phần chuyển từ một ngân sách nặng về phần chi sang một ngân sách phục vụ sứ mệnh ( điều tiết nền kinh tế) một cách gián tiếp thông qua các định hướng phát triển hoặc điều tiết vĩ mô của Nhà nước. - Giai đoạn 2003: Tổng chi Ngân sách nhà nước đạt 167,7 nghìn tỉ đồng, vượt 6,1% so với dự toán năm và tăng 14,1% so với thực hiện năm 2002. Chi ngân sách Nhà nước năm 2003 đă đảm bảo được các mục tiêu đề ra từ đầu năm như cảI cách tiền lương, ,trả nợ vay trong nước và nước ngoàI, đảm bảo vốn cho các công trình đầu tư quan trọng..Tuy nhiên các khoản chi vẫn còn có tính chất bao cấp, trợ cấp trực tiết từ ngân sách đã tăng lên như chi bù lỗ, chi bù lãi suất, bù tỷ giá, trợ cấp xuất khẩu, chi cấp vốn bổ sung. Tình trạng lãng phí vẫn còn lớn, thất thoát vẫn còn lớn.. - Giai đoạn 2004: Chi ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm đạt 43,7% dự toán ,tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2003, đă đáp ứng kịp thời kinh phí thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xă hội , đảm bảo an ninh- quốc phòng và tiến độ thực hiện nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương của các nước.Chi đầu tư phát triển đạt 37,6% dự toán ,tăng 5%so với cùng kỳ năm 2003. Chi thường xuyên đạt 51,5% dự toán, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm 2003. Chi trả nợ đạt 44,4% dự toán, tăng 35,6%so với cùng kỳ năm 2003. Nhiều địa phương đă chủ động sử dụng dự phòng ngân sách để xử lý kịp thời các nhiệm vụ phát sinh đột xuất như: hạn hán, lũ lụt , dịch bệnh đối với cây trồng và vật nuôi, sử dụng nguồn trung ương hỗ trợ, bố trí ngân sách địa phương và huy động sức dân đẩy mạnh thực hiện đầu tư kiên cố hoá các công trình thuỷ lợi , kênh mương, giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản , cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn . Đảm bảo kinh phí tiến hành công tác bầu cử hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ 2004_2009 theo đúng chế dộ quy định của Nhà nước.Bên cạnh đó vẫn còn hạn chế: Chi ngân sách , cả chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên còn phân tán , dàn trải và đạt hiệu quả chưa cao. Theo một số chuyên gia kinh tế , các công trình xây dựng cơ bản có thể bị thất thoát tới 1/ 3 so với tổng số chi tiến trình xă hội hoá , cải cách thủ tục hành chính , tinh giảm biên chế tiến hành chính , hạn chế việc giảm gánh nặng chi thường xuyên. Trong khi đó , tình trạng chi tiêu lãng phí chưa được khắc phục (chi tiêu cho hội nghị, họp hành, mua sắm trang thiết bị còn tràn lan) 2. Giải pháp phát huy tốt vai trò của chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam Như chúng ta đă biết , trong điệu kiện quy mô ngân sách Nhà nước cố định , nếu phạm vi chi rộng thì mỗi khoản chi sẽ nhỏ; đồng thời , nếu thiếu sự lựa chọn ưu tiên thì chi ngân sách càng dàn trải , nhỏ giọt dẫn đến lãng phí, chi không có hiệu quả . Do đó, việc xác định mức độ cần thiết của các khoản chi ngân sách Nhà nước ; đối tượng chi ngân sách Nhà nước cho phù hợp với bối cảnh , nhiệm vụ của từng thời kỳ (ngắn hạn , trung hạn, dài hạn) là rất quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà nước. Trong việc hoàn thiện cơ cấu chi ngân sách Nhà nước cần lựa chọn ưu tiên cho những khoản chi thực hiện chức năng , nhiêm vụ của nhà nước , nhiệm vụ phát triển kinh tế xă hội đã hoạch định trong các chiến lược dài hạn( chiến lược công nghiệp hoá , hiện đại hoá, chiến lược phát triển kinh tế xã hội , chiến lược tài chính..) phù hợp với khả năng nguồn lực tài chính của Nhà nước, với bối cảnh và xu hướng phát triển ,với tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Trong điều kiện thực thi các mục tiêu , nhiệm vụ của chiến lược phát triển kinh tế xã hội , chiến lược tài chính , việc xác lập cơ cấu chi ngân sách Nhà nước cần tập trung và các ưu tiên theo một trật tự nhất định. Ngoài việc xác lập cơ cấu chi ngân sách nhà nước và các ưu tiên lớn ( chi thường xuyên, chi trả nợ , chi đầu tư phát triển , chi dự trữ tài chính) , cần xác lập các ưu tiên nhỏ hơn trong lòng các ưu tiên lớn như chi đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn , chi đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục , khoa học và công nghệ, chi lương.tuỳ theo bối cảnh , mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế , xã hội và tình hình tài chính tong giai đoạn .Để thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh , bền vững , việc xác lập cơ cấu chi ngân sách cần Nhà nước cần tập trung vào một số vấn đề sau: -Bố trí nguồn bảo đảm thực hiện chức năng quản lý Nhà nước , bảo đảm công bằng xã hội và trả đầy đủ nợ đến hạn của Nhà nước. - Ưu tiên chi đầu tư phát triển một cách hợp lý . Trong đó , chú trọng đặc biệt tới chi xây dựng , hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế _ xă hội , năng lượng, giao thông, hạ tầng công nghệ cao , hạ tầng bưu chính , viễn thông, hạ tầng thanh toán quốc gia nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế cả nước phát triển , tiết kiệm chi phí, tăng cường sức cạnh tranh quốc gia và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. - Đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách Nhà nước , phải xác định rõ các trọng điểm , áp dụng thống nhất các nguyên tắc ưu tiên khi bố trí ngân sách Nhà nước đầu tư phát triển cả thời kỳ phát triển kinh tế _ xã hội , trong đó tập trung vào việc sửa đổi , bổ sung cơ chế quản lý đầu tư theo hướng ngân sách Nhà nước chỉ tập trung ưu tiên các công trình hạ tầng cơ sở không có khả năng sinh lời trực tiếp , không có khả năng htu hồi vốn và có tầm quan trọng đối với kinh tế xã hội , ưu tiên các công trìnhtrọng điểm về giao thông , thuỷ lợi , công nghệ thông tin. - Xác lập cơ cấu chi ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp và phát triển nông thôn phù hợp với mục tiêu phát triển nền kinh tế hàng hoá đa dạng , nhiều thành phần. - Có bước chuyển biến mạnh mẽ về tốc độ tăng và mức tăng chi ngân sách Nhà nước cho Khoa học và công nghệ để đưa Khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực cho tăng trưởng cao và bền vững , đuổi kịp các nước tiên tiến. - Xác lập cơ cấu chi ngân sách Nhà nước hướng tới nâng cao chất lượng Giáo dục , Đào tạo và dạy nghề , tạo cơ sở cảI thiện chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững . - Bố trí thích đáng nguồn ngân sách Nhà nước triển khai kịp thời các chính sách can thiệp kinh tế (hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, chống phá giá, hỗ trợ xuất khẩu) Xác lập cơ cấu chi ngân sách Nhà nước hiệu quả phải tạo ra hệ thống các mục chi đúng với chức năng, nhiệm vụ và bản chất của Nhà nước, xoá bỏ các khoản thuê bao cấp không đúng chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và ngân sách nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả chi ngân sách Nhà nước, xác định rõ các nội dung chi thuộc trách nhiệm của Nhà nước để chi đúng, chi đủ, chi có chọn lọc và chi tới ngưỡng theo thứ tự ưu tiên; kiên quyết chuyển các nội dung ngoài chức năng, nhiệm vụ hoặc những nội dung mà xã hội có thể đẩm nhận sang cho các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước và dân cư đảm nhiệm; xác định đúng đắn cơ cấu chi tối ưu, có tỷ trọng hợp lý giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ, chi dự quỹ, dự phòng, đảm bảo vừa duy trì hoạt động thường xuyên của bộ máy quản lý Nhà nước, vừa có ưu tiên thích đáng cho thúc đẩy tăng trong kinh tế - xã hội. KẾT LUẬN Trong bất kỳ một cơ chế nào thì nội dung chi của ngân sách Nhà nước cũng rất phong phú và đa dạng và các khoản chi đều có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn. Trong cơ chế mới đòi hỏi phải cải cách triệt để nội dung chi tiêu của ngân sách nhà nước theo hướng vừa kiên quyết xoa’ bỏ các khoản chi bao biện, bao cấp vừa thực hiện nguyên tắc chi tập trung cho ngững lĩnh vực cần thiết và cấp bách nhất, nhằm đảm bảo vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế, xã hội của nhà nước. Vai trò chi ngân sách nhà nước trong ổn định và tăng trưởng kinh tế. Kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định tiền tệ, giá cả, thị trường, ổn định và phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân Vai trò của chi ngân sách nhà nước trong phân phối tổng sản phẩm xã hội, trong ổn định và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, tạo điều kiện cho ổn định chính trị. Thông qua chi ngân sách nhà nước bảo đảm các nhu cầu và điều kiện để không ngừng hoàn thiện bộ máy nhà nước, phát huy vai trò của bộ máy nhà nước trong việc quản lý mọi lĩnh vực của đất nước Tóm lại, xác định đúng các ưu tiên chiến lược về chi ngân sách từ nay đến năm 2010, đảm bảo tăng cường hiệu quả chi ngân sách nhà nước ở mọi cấp, mọi ngành trên cơ sở kết cấu lại một cách tối ưu các nội dung chi, phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương về nhiệm vụ chi ngân sách là nhiệm vụ trọng tâm, mang tính nghệ thuật trong điều hành tài khoá trong những năm tới. Cuối cùng, em xin được dừng bài viết tại đây. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn: Phạm Hồng Vân - người đã hết sức giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành đề án này. Nội dung: "Vai trò của chi ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường”, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ cô giáo để em có thể hoàn thiện hơn nữa. TÀI LIỆU THAM KHẢO * Giáo trình lý thuyết tài chính - tiền tệ - Chủ biên: TS Nguyễn Hữu Tài- trường Đại học KTQD – Nhà xuất bản Giáo dục. * Quản lý tài chính công - PGS .TS Trần Đình Ty – NXB Lao động. * Chính sách tài chính vĩ mô - PGS .TS Lê Văn Ái; Thạc sĩ Bùi Đường Nghiêu – Viện Khoa hoc tài chính Việt Nam. * Tài chính Việt Nam giai đoạn 1991 – 2000, thực trạng & giải pháp - NXB Thống kê. * Đổi mới chính sách tài khoá đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội - Trần Viết Hoàn – NXB Thống kê. * Tạp chí tài chính tháng 3/2004. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9734.doc
Tài liệu liên quan