Đề tài Vai trò của con người trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay nước ta đang ở thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội rất nhiều vấn đề đặt ra cho đất nước giải quyết. Con người Việt Nam với những ưu điểm và nhược điểm như vậy có thể gánh vác được trọng trách nặng nề này không? Câu hỏi đó hãy để thời gian và thực tế trả lời. Nhưng với sự đánh giá của cá nhân tôi thì một khi chúng ta nhận ra được những ưu điểm và khiếm khuyết của mình thì sẽ có phương hướng giải quyết và giải pháp khắc phục, tất nhiên phải mất một thời gian nhưng sự nghiệp đó sẽ được hoàn thành bằng sự đồng sức đồng lòng của tất cả mọi người trong đó thé hệ trẻ những người lao động xung sức giàu lòng nhiệt huyết, sục sụi ý chí sẽ đem tất cả trí và lực, sẽ hết mình vì một Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. Công cuộc xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa thành công chỉ có thể được tạo nên từ những con người mới, con người Xã Hội Chủ Nghĩa theo đúng nghĩa của nó, đó sẽ là mục tiêu phấn đấu của toàn dân ta, Đảng ta và đất nước ta.

doc30 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1907 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của con người trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay khi khoa học công nghệ đã phát triển đến một mức độ nhất định đòi hỏi con người cần có trình độ cao hơn, hiểu biết rộng rãi hơn, chuyên môn cao hơn mới có thể ứng dụng tốt những thành tựu đó để phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Đối với đất nước ta hiện nay thì sao? Câu hỏi đặt ra thật không dễ trả lời tình hình đất nước đặt ra thực sự cấp thiết. Thời kỳ quá độ lên CNXH đã đem đến cho nước ta nhiều khó khăn và thử thách, công cuộc xây dựng đó còn dài không thể hoàn thành trong ngày một ngày hai được mà đó là cả một quá trình nỗ lục phẫn đấu không ngừng của Đảng, nhà nước va nhân dân ta. Đứng trước những khó khăn đó đòi hỏi sự nỗ lực cống hiến của tất cả mọi người. Trong đó con người trở thành đối tượng có vai trò quan trọng nhất, to lớn nhất. Và sau này khi cuộc sống va nhu cau cuộc sống đã được nâng cao thì chắc chắn vai trò của con người càng được đề cao hơn nữa. Tất cả những điều kiện trên đã chứng minh rằng con nhười là trung tâm là động lực cho sự phát triển, chỉ có con người mới đem lại thành công cho công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Nhận thức rõ về tầm quan trọng của con người chúng ta hãy cùng tìm hiểu và phân tích vai trò của con người qua bài tiểu luận này với đề tài: “Vai trò của con người trong việc xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay”. Bài tiểu luận này còn nhiều thiếu sót nhưng hy vọng rằng khi đọc và tìm hiểu kĩ về bài viết mọi người sẽ hiểu hơn về vai trò của chính bản thân mình cần làm gì để cống hiến cho sự nghiệp chung của đất nước, sự nghiệp tiến lên CNXH đưa nước nhà thoát khỏi khó khăn tạo ra những thời cơ và nắm bắt những cơ hội trong kỷ nguyên mới. Rất mong được sự đóng góp ý kiến và sự đồng tình của giáo viên hướng dẫn và bạn đọc.Em xin chân thành cảm ơn. NỘI DUNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI. 1. Quan niệm về con người trong thiết học trươc Mác. 1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông. Ngay từ khi triết học còn sơ khai thì vấn đề triết học về con người đã được hình thành và là một nội dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại. Có nhiều câu hỏi đặt ra cho các nhà triết học chẳng hạn như: Con người là gì? Con người bắt đầu từ đâu? Bản chất tính chất con người? Con người đã đang và sẽ làm được những gì? Mối quan hệ giữa con người và thế giơi thực chất là mối quan hệ như thế nào? Nhiều câu hỏi như vậy đã khiến cho các nhà ngiên cứu và nhà triết học phải tìm tòi suy nghĩ đẻ trả lời cho chúng thât không hề đơn giản chút nào. Nhưng khi ngiên cứu, tìm hiểu một kết luận đã được đưa ra đó là: tuỳ theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi lên những vấn đề này hoặc vấn đề kia. Đồng thời tuỳ theo giác độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học lại có những phát hiện đóng góp khác nhau trong việc lý giải về con người. Đối với triết học phương Đông chúng ta hãy cùng tìm hiểu hai nền triết học cổ thụ là triết học Trung Hoa và triết học Ấn Độ cùng với các nhà triết học lỗi lạc bàn về con người. Trước hết là triết học Trung Hoa:các nhà tư tưởng Nho Giáo và Pháp Gia lấy đạo đức làm cơ sở để giải thích con người. Khổng Tử cho rằng bản chất con người do “thiên mệnh” quyết định “đức nhân” làm giá trị cao nhất của con người. Mạnh Tử đưa ra quan niệm “duy thiện” cho rằng tính con người vốn “thiện”. Tuân Tử đưa ra quan niệm “duy ác”cho rằng tính con người vốn ác vì con người luôn bị chi phối bởi các ham muốn vật chất. Còn Lão Tử cho rằng con người sinh ra từ “đạo” vì vậy cần phải sống “vô vi”và đi tới kết luận bản tính tự nhiên của con người. Khác với nền triết học Trung Hoa các nhà tư tương của triết học Ấn Độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận tư giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình đối với vẫn đề nhân sinh quan. 1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây. Trước hết phải nói rằng thực tế lịch sử đã cho thấy giác độ tiếp cận giải quyết các vấn đề triết hoc về con người trong triết học phương Tây có nhiều điểm khác so với triết học phương Đông. Nhìn chung ,các nhà triết học theo lập trường triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề liên quan. “Con người được xem là điểm khởi đầu của tư duy triết học” đây là quan niệm về con người trong triết học Hy Lạp cổ đại: Tiêu biểu cá các quan niệm của Prôtago, ông cho rằng con người là thang bậc cao nhất của vũ trụ nếu ta xét trong một phạm vi nhất định, đó cũng là một trong những tiền đề lý luận của quan niệm duy vật về con người trong triết học Mác. Trái với các nhà triết học duy vật, triết học Tây Âu trung cổ lại quan niệm tằng con người là sản phẩm do thượng đế, số phận con người do thượng đế sắp đặt, trí tuệ con người thấp hơn lý trí thượng đế. Triết học Tây Âu phục hưng-cận đại lại đề cao vai trò trí tuệ con người, xem con người là một thực thể có lý tính. Đặc biệt triết học cổ điển Đức, đề cao con người và vai trò hoạt động tích cực của con người trong việc nhận thức và cải ttạo nhận nhức, hiện thức. Hêghen cho rằng con người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”. Phoiơbac cho rằng con người là sản phẩm phát triển của thế giới tự nhiên, là thực thể biết tư duy. Nhìn chung, các quan niệm của triết học trước Mác xem xét con người một các trừu tượng vừa lại phiếm diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con người, các quan niệm còn phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thưc nhằm giải phóng con người. Mặc dù quan niệm về con người trong triết học trước Mác còn nhiều mặt hạn chế chưa hoàn chỉnh và mang tính khoa học nhưng cũng đã để lại mật số quan niệm làm cơ sở tiền đề cho triết học sau này giải quyết. Những hạn chế trên sẽ được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của triết học Mác-Lê Nin về con người. 2. Quan niệm của triết học Mác-Lê Nin về bản chất con người. 2.1. Con người là một thực thể thống nhất về mặt sinh học và mặt xã hội sống. Con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân sống, là tổ chức cơ thể của con người các mối quan hệ của nó đối với tự nhiên. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người nhưng nó không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật, là phương diện xã hội của nó. Tính xã hội của con người được biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của con người được biểu hiện qua quá trình hình thành và phát triển cảu con người thường bị quy định bởi ba hệ thống quy luật đó là quy luật tự nhiên, tâm lý ý thức và xã hội. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với động vật. Mặt sinh học là cơ sở để hình thành mặt xã hội còn mặt xã hội tác động lớn tới mặt sinh học, chúng kiềm chế định hướng các hành vi sinh học của con người. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên-xã hôi. 2.2. Trong hính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội. Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người, cả ba mối quan hệ đó là quan hệ xã hội giữa người với người. Để nhấn mạnh nó, C.Mác đã nêu lên một luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbách “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thưc của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.(1). Luận đề khẳng định rằng không có con người trừu tượng thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại, quan hệ chính trị, kinh tế, cá nhân...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội đã giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách biểu hiện lệch lạc về mặt tự nhiên cũng như sinh vật trong con người. 2.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Những điều đã tìm hiểu ở trên ta dễ dàng kết luận rằng con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của thế giới hữu sinh, là chủ thể của lịch sử-xã hội. C.Mác đã khẳng định “cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục... Cái học thuyết ấy quên rằng những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần được giáo dục”(1). Ph. Ăngghen cũng cho rằng: “thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”(2). Từ đây ta nói rằng, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hôi. Trong quá trình cải biến đó con người cũng làm ra lịch sử của mình. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất tinh thần thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao phù hợp với nhu cầu của mình. Bản chất con người không phải là hệ thống đóng kín mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tao. Không có hoạt động của con người thì không có quy luật xã hội, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người. Vì những lẽ đó mà để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực thì cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người hơn nữa. Đó là biện chứng mỗi quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người. 3. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội. 3.1. Khái niệm cá nhân và nhân cách. 3.1.1 Cá nhân. Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Cũng có thể hiểu cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất, vừa mang tính cá biêt vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội. Đặc trưng của cá nhân trong mỗi quan hệ với xã hội được biểu hiện qua các điểm sau: Thứ nhất: Nó là phương thức tồn tại của loài người, vừa có tính đơn nhât, vừa có tính phổ biên. Thứ hai: Là phần tử tạo thành xã hội. Thứ ba: Là chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách, được hình thành và phát triển trong môi trường xã hội. Thứ tư: Là hiện tượng lịch sử. 3.1.2. Nhân cách. Khái niệm: Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân, và nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các yếu tố sinh học, tâm lý xã hội tạo nên đặc trưng riêng của mỗi cá nhân, đóng vai trò cụ thể tự ý thưc, tự đánh giá tự khẳng định và tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình. Nhân cach phụ thuộc ba yếu tố sau đây. Thứ nhât: Tiền đề sinh học và tư chất di truyền học. Thứ hai: Môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển của nhân cách thông qua sự tác động biện chứng của gia đình, nhà trường, xã hội... Đối với cá nhân. Thứ ba: Thế giới quan cá nhân chính là hạt nhân của nhân cách. 3.2. Biên chứng giữa cá nhân và xã hội. Cá nhân-cá thể người với tính cách là sản phẩm của sự phát triển xã hội, là chủ thể của lao động của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức. Phạm trù cá nhân đặc trưng cho con người hoàn chỉnh trong sự thống nhất giữa khả năng riêng có của người đó với chức năng xã hội do con người thực hiện. Xã hội là sản phẩm của mỗi quan hệ giữa người với người. Theo nghĩa rộng đó là xã hội loài người theo nghĩa hẹp là những hệ thống xã hội như quốc gia, dân tộc, giai câp, chủng tộc.v.v. Mỗi quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mỗi quan hệ biện chứng mang tính tất yếu khách quan vừa là tiền đề vừa là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội và cá nhân. Cơ sở của mỗi quan hệ ấy là quan hệ lợi ích. Xã hội không phải chỉ là tổng số của các cá nhân độc lập tách rời nhau. Cá nhân là một loài sinh vật xã hội mà sự tồn tại và phát triển với tư cách con người nằm trong mỗi quan hệ chặt chẽ với những người khác, những mỗi quan hệ xã hội. Vì vậy cá nhân là sản phẩm của xã hội. Xã hội là mội trường, điều kiện và phương tiện để cá nhân phát triển. Hoàn cảnh xã hội, quan hệ xã hội tạo nên bản chất con người. Tuy nhiên điều đó không phải là con người thụ động trước hoàn cảnh mà luôn thụ động trước sự tác động của hoàn cảnh và tiếp nhận nó một cách có ý thức. Do đó con người làm chủ được hoàn cảnh và có khả năng tác động lại hoàn cảnh, cải biến cho nó phù hợp hơn với nhu cầu của con người. Vì vậy cá nhân có vai trò thúc đẩy xã hội phát triển. Vai trò của cá nhân ảnh hưởng tới xã hội tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nhân cách. Những cá nhân có nhân cách lớn, phẩm chất tốt, tài năng cao và có trách nhiệm cao với xã hội thì có tác dụng tích cực đến xã hội. Ngược lại những cá nhân bị suy thoái về nhân cách thì gây hậu quả xấu đến xã hội, trở thành gánh nặng cho xã hội. Như vậy cá nhân vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của xã hội. Sự phát triển của cá nhân góp phần thúc đẩy tiến độ xã hội phát triển. Xã hội càng phát triển thì mỗi cá nhân lại tiếp nhận được ngày càng nhiều những giá trị vật chất, tinh thần do xã hội ấy đáp ứng thoả mãn nhu cầu chính đáng của cá nhân, là động lực liên kêt mọi thành viên xã hội và là mục đích của sự liên kết đó. Do đó, cơ sở của mỗi quan hệ giữa cá nhân và xã hội là quan hệ lợi ích. Tuỳ theo trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội và tính chất của chế độ xã hội cùng sự nhận thức, vận dung quy luật về sự kết hợp lợi ích mà mỗi quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội được giải quyết một cách khác nhau. Bảo đảm công bằng về quyền lợi đối với mọi công dân, phát huy nhân tố con người, lấy việc phục vụ lợi ích vì con người là mục đích cuối cùng của mọi hoạt động và là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là yêu cầu bức thiết trong công cuộc xây dựng và đổi mới xã hội ta hiện nay. 4. Vai trò quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử. 4.1. Khái niệm quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử. 4.1.1. Khái niệm quần chúng nhân dân. Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội va những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời đại lại khác nhau. Quá trình vận động, phát triển của lịch sử diễn ra thông qua hoạt động của khối đông đảo con người được gọi là quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân hay một tổ chức nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình. Quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp khác nhau. Như vậy, quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân,một tổ chức hay Đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định. Nội dung của quần chúng nhân dân: Thứ nhất: Những người lao động sản xuất ra giá trị vật chất và các tinh thần, đóng vai trò la hat nhân cơ bản cuả quần chúng nhân dân. Thứ hai: Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân. Thứ ba: Những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xxã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. 4.1.2. Khái niệm cá nhân trong lịch sử. Trước hết là khái niệm về vĩ nhân và lãnh tụ. Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học,nghệ thuật...Trong mỗi quan hệ với nhân dân. Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên. Lãnh tụ phải là người có phẩm chất:có tri thức khoa học uyên bác, có năng lực tập hợp, thống nhất ý chí và hành động, gắn bó mật thiết với nhân dân, hy sinh thân mình vì lợi ích của dân tộc, quốc tế, thời đại. 4.2. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ. Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ là mỗi quan hệ biện chứng, điều đó thể hiện trên các điểm sau. Thứ nhất:Là tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân với lánh tụ Thứ hai: Quần chúng nhân dân và lánh tụ thống nhất trong mục đích va lợi ích của mình Thứ ba: Sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lánh tụbiểu hiện trong vai trò khác nhau của sự tác động của lịch sử Chủ nghĩa Mác_Lênin khảng định vai trò quyết định của quần chung nhân dân, Đồng thời đánh gia cao vai trò của lãnh tụ. 4.2.1. Vai trò của quần chúng nhân dân Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân la chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi vì,mọi lý tưởng giải phóng xã hội,giải phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng nhân dân.Hơn nữa, tư tưởng tự nó khong lam biến đổi xã hội ma phải thông qua hành động cách mạng,hoạt động thực tiến của quần chúng nhân dân, để biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xa hội. Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiên ba nội dung. Thứ nhất: Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất,là cơ sở của sự tồn tại và phat triển của xã hội. Thứ hai: Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng xa hội. Thứ ba: Quần chúng nhân dân la người sáng tạo ra những giá trị văn hoá,tinh thần đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa hoc,nghệ thuật,văn học đòng thời áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiến. Tóm lại xét từ kinh tế đến chính trị ,từ hoạt động vật chất dến hoạt động tinh thần,quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.Nguyễn Trãi đã nói: “Chở thuyền cũng là dân,lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống ,nghịch lòng dân thì chết” Đảng cộng sản việt nam khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và quan điểm “lấy dân làm gốc” Trở thành tư tưởng thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam. 4.2.2. Vai trò của lãnh tụ. Thứ nhất: Nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những quy luật khách quan của các quá trinh kinh tế, chính trị, xã hội. Thứ hai: Định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành độnh cách mạng. Thứ ba: Tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí va hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu cách mạng đề ra. 4.2.3. Ý nghĩa. Phê phán các quan điểm duy tâm siêu hình về lịch sử. Chống sùng bái cá nhân và đặc biệt là quán triệt bài học lấy dân làm gốc trên con đường xây dựng một đất nước việt nam của dân, do dân và vì dân. B. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh. 1.1. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là vấn đề con người và sự nghiệp giải phóng con người. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là con người chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, mà là con người hiện thực, cụ thể, sinh động, trước hết là nhân dân lao động và quần chúng bị áp bức ở khắp mọi nơi, không phân biệt dân tộc và màu da. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có thể tóm tắt lại trong ba nội dung cơ bản: 1.1.1. Con người là vôn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ không phải do vài ba cá nhân anh hùng nào, vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý dân, trọng dân, vì "có dân là có tất cả". Người nói: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Do đó, "trong xã hội không có gì tất đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân". Từ đó, ta thấy nổi lên ở Hồ Chí Minh một tấm lòng yêu thương vô hạn đối với con người, một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con người, một ý chí kiên quyết đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đói nghèo, lạc hậu. Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ bản của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. 1.1.2. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hoàn toàn xa lạ với các quan điểm xem con người như là công cụ, như là phương tiện. Mọi chính sách tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá của Hồ Chí Minh đều hướng tới con người. Người nói: "Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân", "dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân", "chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây đựng lấy. Qua đó, có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người - mục tiêu và con người - động lực là thống nhất, vì dân và do dân là thống nhất. Để phát huy vai trò động lực của con người, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một hệ thống nội dung và biện pháp (vật chất và tinh thần) nhằm tác động vào cái động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người đồng thời, cũng chỉ ra những nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các trở lực nhằm thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ. Trong hệ thống các động lực chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh chú trọng trước hết đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng... đồng thời không coi nhẹ vai trò tác động của các nhân tố tinh thần khác, như văn hoá, khoa học, pháp luật... đặc biệt, Người chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi "thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn". Là nhà duy vật macxít, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người luôn gắn liền với nhu cầu và lợi ích của họ, vì vậy, đi đôi với các biện pháp chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh không coi nhẹ hay bỏ qua các động lực vật chất, khéo léo kết hợp các loại động lực với nhau, tạo sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy tính năng động cách mạng của con người. Người tôn trọng và khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động, chủ trương kết hợp hài hoà ba lợi ích, sao cho "Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi". Nhưng muốn khai thông động lực thì phải khắc phục trở lực kìm hãm sự phát triển của con người, trong đó "căn bệnh mẹ" cực kỳ nguy hiểm là chủ nghĩa cá nhân phải được phê phán mạnh mẽ, kiên quyết tẩy trừ. 1.1.3. Tư tưởng về chiến lược "trăm năm trồng người". Từ quan điểm về con người đến quan điểm về chiến lược "trồng người" là một bước phát triển hợp logic của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh. Để thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội thì chiến lược con người phải đi trước một bước. Từ rất sớm, Người đã nêu ra một luận điểm nổi tiếng: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết cần có những con người XHCN". Do đó, "vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết" (Di chúc). Quan điểm "trồng người" của Hồ Chí Minh rất toàn diện và phong phú, ở mỗi thời kỳ cách mạng, Người nêu ra những yêu cầu khác nhau. Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nhấn mạnh đến các yêu cầu sau đây: Có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham ô, lãng phí, quan liêu, có ý thức làm chủ và tinh thần tập thể. Có ý chí học hỏi, không ngừng vươn lên làm chủ những thành tựu văn hoá, khoa học - kỹ thuật, những hiểu biết mới của thời đại. Có tinh thần tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo, nhạy bén với cái mới, biết vận dụng nó vào thực tế công tác để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người là một hệ thống chặt chẽ, phong phú, vừa khoa học, vừa cách mạng, là một bộ phận hợp thành của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, một đóng góp quan trọng vào việc làm phong phú triết học về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng cứu dân, cứu nước, tìm một con đường phát triển mới để canh tân đất nước, Hồ Chí Minh đã tìm đến nhiều học thuyết Đông - Tây, trên hết là chủ nghĩa Mác - Lênin, đã học hỏi, tiếp thu, dung hợp, tích hợp, hình thành cho mình một thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng macxít, tạo nền tảng triết học để xây đựng lý luận, đường lối và phương pháp cho cách mạng Việt Nam. 2. Vấn đề phát triển nguồn nhân lực. 2.1. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực. 2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là tổng hợp toàn bộ các yếu tố, quá trình (vật chất, tinh thần) đã, đang và sẽ tạo ra năng lực, sức mạnh thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đại hội Đảng IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định “nguồn nhân lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển Xã Hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Với tư cách là là nguồn lực con người- chủ thể không tồn tại một cách biệt lập mà chúng kết hợp chặt chẽ với nhau thành một chỉnh thể thống nhất về tổ chức tư tưởng và hành động. Nguồn nhân lực bao gồm nhũng con người- chủ thể đã và đang tham gia vào quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và những con người- chủ thể sẽ tham gia vào quá trình nòng cốt và trở thành nhân tố quyết định sự thắng lợi của công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. 2.1.2. Phát triển nguồn nhân lực. Phải nói rằng vấn đề phát triển nguồn nhân lực là yêu cầu cơ bản, lâu dài ở Tại kinh tế, hội nhập quốc tế và gúp phẩn ổn định xó hội. buổi tât cả các quốc gia, ở nước ta, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề hệ trọng vừa cơ bản vừa cấp bách. Làm việc với các Bộ, ngành về Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020, ngày 22-2-2008, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh, nguồn nhân lực của Việt Nam phải đảm bảo 3 yếu tố: chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu xó hội, chi phớ thấp, từ đó trở thành lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của đất nước để phát triển   Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân lưu ý, Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam từ nay đến năm 2020 phải xác định rừ mục tiờu, phải đánh giá thực trạng nguồn nhân lực hiện nay của đất nước, của các ngành đặc thù, dự báo được nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội, từ đó mới đưa ra được phương hướng, lộ trình phát triển cụ thể. Đại diện các Bộ, ngành đều thống nhất ý kiến cho rằng chiến lược phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020 phải gắn chặt với chiến lược phát triển kinh tế xó hội của đất nước. Nên lựa chọn các ưu tiên cho chiến lược như: phát triển nhân lực trình độ cao, nhân lực quản trị đất nước, đội ngũ khoa học sáng tạo công nghệ, doanh nhân, chính sách khuyến khích và sử dụng nguồn nhân lực. Nguồn lực sẽ tập trung vào xó ội húa giỏo dục đào tạo. Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đề nghị, cần phải tạo được sự chuyển biến trong nhận thức từ phía các Bộ, ngành, địa phương về chiến lược phát triển nguồn nhân lực, phải xây dựng chương trình riêng cho từng ngành; hình thành cơ quan quốc gia về dự báo nhu cầu nhân lực để làm cơ sở cho phát triển kinh tế xã hội. Trong cấu phần của chiến lược, nên chú trọng đến phát triển thể lực, giáo dục đào tạo nghề nghiệp, có chính sách sử dụng hợp lý nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực quản lý Nhà nước. Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh, phải đẩy mạnh tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tạo môi trường cạnh tranh trong giáo dục, có những giải pháp mang tính chất đột phá trong Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đến năm 2020. Trong đó, cần có bước đột phá trong chính sách sử dụng và đào tạo công chức; đồng thời nên có chương trình đào tạo nhân tài, chuyên gia giỏi cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống; có giải pháp tài chính cho chương trình phát triển nguồn nhân lực. Cụ thể một dẫn chứng về tỉnh Nghệ An: Nghệ An dân số đông, lực lượng lao động lớn, mỗi năm ước tính có khoảng 4 vạn người đến tuổi lao động. Đây là một lợi thế nhưng cũng là một áp lực gay gắt đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nghệ An chú trọng việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực và coi đó là giải pháp có tính đột phá để giải quyết việc làm cho người lao động trước yêu cầu hội nhập. Thành quả từ việc đẩy mạnh đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI xác định mục tiêu: "Đoàn kết phấn đấu đưa Nghệ An thoát khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển vào năm 2010; cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020...". Với các chỉ tiêu nâng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm từ 12% - 13%; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp lên 39%, dịch vụ 37%, giảm tỷ trọng nông nghiệp xuống còn 24%; mỗi năm tạo việc làm cho 30.000 - 35.000 lao động; GDP bình quân đầu người đạt 850 - 1000 USD... Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu đó, Ban Chấp hành Đảng bộ Nghệ An đó chọn hướng đi có tính đột phá, ra Nghị quyết chuyên đề: "Về phát triển nguồn nhân lực...", với 4 nội dung lớn, đó là: đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số; cán bộ nữ, cán bộ cơ sở; cán bộ trẻ có triển vọng; đề án đào tạo công nhân kỹ thuật; đề án bỗi dưỡng doanh nhân và kế hoạch thực hiện giai đoạn 2 (2006 - 2010); đề án nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Theo đó, hệ thống cơ sở giáo dục - đào tạo, nhất là giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề đó được chú trọng đầu tư xây dựng nâng cấp phát triển với tốc độ nhanh. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đó có 2 trường đại học đào tạo đa ngành (Đại học Vinh và Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh); có 5 trường cao đẳng, trong đó có 2 trường cao đẳng nghề; 12 trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề; 42 trung tâm dạy nghề. Cùng với sự phát triển về mạng lưới cơ sở đào tạo, tỉnh đó ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ, thu hút nhân lực có trình độ cao, hỗ trợ học nghề cho người lao động. Với hệ thống cơ sở đào tạo - dạy nghề được quy hoạch phát triển và các chính sách khuyến khích có hiệu quả, hằng năm toàn tỉnh đó đào tạo cho 4,5 - 5 vạn lao động, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo đến nay lên 35% trong tổng nguồn lao động, trong đó đào tạo nghề 21,25%. Cơ cấu ngành nghề đào tạo và chất lượng đào tạo được nâng lên từng bước đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, yêu cầu phát triển công nghệ và thị trường lao động. Kết hợp việc phát triển nguồn nhân lực với chính sách khuyến khích thu hút đầu tư và phát triển đa dạng các thành phần kinh tế đó có tác dụng tích cực thúc đẩy chương trình giải quyết việc làm cho lao động của tỉnh, bình quân mỗi năm đó tạo thêm việc làm cho 3,0 - 3,2 vạn lao động, trong đó có từ 9.000 - 10.000 chỗ làm việc tập trung; 8.000 - 9.000 người đi xuất khẩu lao động. Tỷ lệ lao động thất nghiệp khu vực thành thị giảm từ 5,64% (năm 2001) xuống còn 3,72% (năm 2006); tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn tăng lên 80%; cơ cấu lao động được chuyển dịch đúng hướng với việc giảm tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp từ 77% (năm 2001) xuống còn 66,14% (năm 2006); cùng thời gian đó, lao động công nghiệp, xây dựng tăng từ 9% lên 15,96%, thương mại, dịch vụ từ 14% lên 17,9%... Giải quyết việc làm đứng trước nhiều áp lực gay gắt Tuy nhiên, Nghệ An là tỉnh có dân số đông (với hơn 3,1 triệu người), số lượng lao động bổ sung vào nguồn hằng năm lớn (mỗi năm có từ 3,5 - 4 vạn người đến tuổi lao động); chất lượng lao động thấp, lực lượng lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng lớn, lao động có chuyên môn và tay nghề cao còn ít, năng suất thấp; thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, thợ bậc cao... Nhận thức về vai trò của dạy nghề, học nghề trong các cấp, các ngành và các tầng lớpnhân dân , nhất là thanh niên tuy đó có chuyển biến, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, phiến diện; tư tưởng "thích làm thầy hơn làm thợ" vẫn còn nặng nề, dẫn đến việc thực hiện phân luồng trong giáo dục - đào tạo chưa có hiệu quả. Từ các dẫn chứng trên ta có thể rút ra nội dung phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay gồm: Phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng, nâng cao sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực về mật chất lượng là phát triển trên cả ba phương diện thể lực, trí lực,nhân cách. Nó còn nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực cả về số lượng, chât lương và thời gian sử dụng . Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, văn hoá, con người và nguồn nhân lực là những nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII đó thông qua nghị quyết “Về phát triển và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” nói rõ, "văn hoá là nền tảng tinh thần là động lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xó hội", đồng thời đặt lên của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam nàytrong giai đoạn cách mạng mới – con người xã hội chủ nghĩa. Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khoá IX cũng hết sức chú trọng vị trí văn hoá ở nước ta, coi việc phát triển văn hoá gắn kết, đồng bộ với kinh tế và xây dựng Đảng, coi việc phát triển con người để đi đến phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm 2.1.3. Xây dựng con người trong văn kiện đại hội Đảng X. 2.1.3.1. Thực trạng văn hóa xã hội, giáo dục và đào tạo. Về thực trạng: Hiện nay lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển và được đàu tư nhiều hơn, quy mô đào tạo mở rộng trình độ dân trí được nâng cao:trong 5 năm đã tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước thu hút gần 91%lực lượng lao động xã hội, tỷ lệ lao động thất ngiệp giảm đáng kể. Thu nhập bình quân trên đầu người tăng, chỉ số phát triển con người được nâng cao, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng. Về mặt hạn chế: Chất lượng giáo dục con nhiều yếu kém, mang nặng lý thuyết chưa thưa thực sự đi sâu vào thực hành nên khi áp dụng kiến thức đã học vào làm việc gặp nhiều khó khăn mất sự cân đối. Phương pháp dạy và học còn lạc hậu chưa phù hợp với thực tiễn yêu cầu. Phát triển giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học chưa cân đối với giáo dục trung học phổ thông.Đào tạo cồn thiếu vế số lượng, yếu tố chất lượng, tình trang thiếu lao động có tay nghề và kĩ thuật đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Việc xã hội hóa giáo dục được thực hiện chậm, chưa đồng bộ. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân còn nhiều bất cập chưa dến nơi đến chốn. Cơ sơ vật chất còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho nhân dân đặc biệt là ở vùng nông thôn hiện tượng này cang nghiêm trọng hơn nữa.những khó khăn đó thực sự đặt ra cho nước ta nhiều vấn đề bức thiết cấn khắc phục và giải quyết càng sớm càng tốt. 2.1.3.2. Phương hướng đổi mới. +Về giáo dục và đào tạo. Trước những thực trạng đã nêu trên thì nhiều phương hướng đổi mới đã được xem xét. Điều đàu tiên cần làm bây giờ là đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng công tác dạy nghề và học nghề để cung cấp cho xã hội một đội ngũ lao động thực sự có tay nghề cao. Đi đôi với đổi mới công tác giáo dục là đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung phương pháp dạy và học thực hiện “chuẩn hóa hiện đại hóa, xã hội hóa”.chuyển dần sang mô hình giáo dục mở, liên thông giữa các bậc học, ngành học,đổi mới, phát triển giáo dục mầm non, phổ thông, hướng ngiệp dạy nghề, đại học và sau đai học.ngoài ra còn nên giao lưu hợp tác giáo dục với nước ngoài để nâng cao chất lượng giáo dục cho nước nhà. Phải nâng cao năng lực quản lý của nhà nước về giáo dục hơn nữa. Ưu tiên, đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa,đồng bào dân tộc thiểu số vùng nông thôn. + Về văn hóa xã hội. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong nông, lâm, nghư nghiệp. Tăng tỷ trọng lao động trong công ngiệp, xây dựng và dịch vụ.Tăng ngân sách nhà nước để nhà nước đàu tư vốn vào phát triển kinh tế, huy động vốn trong dân để giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất ngiệp. Đổi mới và nâng cao công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả. 2.1.3.3. Nhiệm vụ và mục tiêu của chính sách phát triển nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong đó phát triển mạnh giáo dục và dào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ đáp ứng yêu cầu công ngiệp hóa hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức tăng sức cạnh tranh cho đất nước. Nâng cao thể chất và sức khỏe nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động. Đưa ra chỉ tiêu cho đất nước là đến năm 2020 lao động nông ngiệp chiếm dưới 50% lao động xã hội, tạo nhiều việc làm mới, giảm tỷ lệ thất ngiệp ở thành thị xuống dưới 5% hoàn thành phổ cập giáo dục. 2.2. Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay. 2.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta: Nói một cách khái quát, nguồn nhân lực nước ta đang ở trình độ của các nước đã phát triển cao trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, cách mạng công nghiệp lần thứ hai và thời đại công nghệ thông tin, kinh tế tri thức. Chúng ta phải đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp trong ngữ cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo đường lối hội nhập, mở cửa, tức là phải chú ý tới đội ngũ lao động đại bộ phận là lao động nông nghiệp, cả đội ngũ lao động phục vụ cơ khí hoá, điện khí hoá... lẫn tin học hoá (Chỉ thị 58 của Bộ Chính trị: đào tạo 5 vạn cán bộ và công nhân kỹ thuật máy tính)7. Chúng ta phải chuẩn bị một nguồn nhân lực phục vụ cả 3 nền kinh tế: kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức. Ở nước ta, lao động nông nghiệp chiếm phần lớn lực lượng lao động. Cơ cấu lao động đang chuyển dịch theo hướng tăng lao động công nghiệp, lao động dịch vụ, lao động tri thức, nhằm đáp ứng được chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế. Hội nghị Trung ương 6 (khoá IX) vừa họp tháng 7/2002 đánh giá; bước sang thế kỷ XXI, đội ngũ lao động của nước ta đó có bước phát triển mới. “Lao động có trình độ từ cao đẳng trở lên tăng 17,2 %/năm (từ 800.000 năm 1995 lên 1.300.000 năm 2000), số TS và TSKH tăng 7 %/năm (từ 9.300 năm 1995 lên 13.500 năm 2000). Số lao động đó qua đào tạo đạt 20 %/ năm 2000 (năm 1996 là 13 %)”. Tuy vậy, chúng ta không đạt chỉ tiêu từ 22 – 25 % lao động đó qua đào tạo vào năm 2000 như Nghị quyết TW2 (khoá VIII) đề ra; tình hình nguồn nhân lực của nước ta đang ở trong tình trạng rất phức tạp. Theo kết quả điều tra lao động việc làm năm 2002 được Bộ Lao động – Thương binh và xã hội công bố từ 10/2002 đến 1/7/2002, dân số nước ta là 79,93 triệu người, trong đó thành thị chiếm 24,8%, ở nông thôn chiếm 75,13%; số người trong độ tuổi lao động là 60,66% (khoảng 48,5 triệu người), trong đó khoảng 40,7 triệu người từ đủ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên (khu vực thành thị có khoảng 9,7 triệu người, chiếm 23,87%; khu vực nông thôn khoảng 31 triệu người, chiếm 76,13%). Số lao động không biết chữ là 3,74% và 80,31% lao động có trình độ từ tiểu học trở lên; nhưng có sự cách biệt khá lớn giữa nông thôn và thành thị: tỷ lệ lao động chưa biết chữ ở nông thôn cao gấp 6 lần thành thị, trong khi đó tỷ lệ lao động ở thành thị có trình độ từ trung học phổ thông trở lên cao gấp 3 lần ở nông thôn. Trong số lao động đó qua đào tạo (chiếm 19,62% đội ngũ lao động), cũng có sự khác biệt lớn giữa nông thôn và thành thị: ở thành thị, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật là 44,60%, ở nông thôn là 11,89%.Tính đến tháng 1/2000, trong khoảng 7,5 triệu người lao động thì đa số có trình độ chuyên môn kỹ thuật rất thấp; có trình độ sơ cấp hoặc chứng chỉ nghề khoảng 4,9 triệu người; trình độ trung học chuyên nghiệp: 1,47 triệu; trình độ cao đẳng, đại học: 1,3 triệu; thạc sĩ: hơn 10 nghìn người. Riêng RS và TSKH đến tháng 5/2002 có khoảng 13.500 người, đến cuối năm 2002 chúng ta có 1032 GS và 4563 PGS8. Cơ cấu trình độ đào tạo của đội ngũ lao động tính theo tỷ lệ giữa lao động trình độ đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kĩ thuật là 1:1, 75:2,3 vẫn là một cơ cấu bất hợp lý và để kéo dài, dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, kỹ sư làm công việc của cán bộ trung cấp kỹ thuật. Trong cơ cấu đội ngũ lao động ở các cơ sở sản xuất của nước ta thì đội ngũ công nhân và lao động giản đơn chiếm 82% đội ngũ lao động, đội ngũ các công nhân đó qua đào tạo, nhà kỹ thuật, quản lý, phát minh và đổi mới công nghệ chỉ chiếm 18%; trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ đó tương ứng là 28% và 72%.Trong 50 năm qua, chúng ta đó đào tạo được hơn 1 triệu cán bộ các ngành kỹ thuật có trình độ đại học với cơ cấu ngành như sau: sư phạm: 33,3%; khoa học kỹ thuật: 25,5%; khoa học xã hội: 17%; y dược: 9,3%; nông nghiệp: 8,1%; khoa học tự nhiên: 6,8%. Rõ ràng cơ cấu ngành đào tạo như vậy là bất hợp lý; là một nước nông nghiệp mà chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học được đào tạo thuộc ngành nông nghiệp, chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nguyên nhân của tình trạng này là do thời gian qua chúng ta đó buông lỏng quản lý cơ cấu đào tạo, để phát triển tự phát theo nhu cầu của người dân, còn nặng tâm lý khoa cử, nhẹ tâm lý thực nghiệp, chưa gắn đào tạo với sử dụng và chưa chú ý đúng mức công tác đào tạo nghề. Việc đào tạo nhân lực chưa bám sát cơ cấu lao động, vẫn còn nhận thức chưa đúng trong một bộ phận xã hội coi đại học là dân trí. Chất lượng đào tạo nhân lực “nhất là ở bậc đại học, nhìn chung còn thấp so với mục tiờu giáo dục, với yêu cầu nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và với trình độ các nước trong khu vực có mặt còn kém. Nội dung, phương pháp dạy đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu chuẩn bị nhân lực cho công nghiệp hoá rút ngắn và trình độ chưa theo kịp phát triển khoa học công nghệ hiện đại”. Việc học tập ở mọi cấp học bị chi phối nặng nề bởi tâm lý bằng cấp; phương pháp giáo dục nặng về áp đặt, chưa khuyến khích sự năng động, sáng tạo của người học, chưa coi trọng năng lực tư duy và năng lực thực hành (trong xã hội, nhiều người cố gắng lo cho con em vào đại học chỉ cốt để kiếm tấm bằng, còn không xác định ra trường với tấm bằng đó để làm gì). Công tác bồi dưỡng và sử dụng nhân tài như là đầu tầu của đội ngũ nhân lực chưa được quan tâm đúng mức, “thiếu cơ chế, chính sách để trọng dụng cán bộ khoa học và nhà giáo có trình độ cao” và “nhiều chính sách đối với cán bộ khoa học và công nghệ chưa được ban hành. Cỏn bộ khoa học và cụng nghệ có trình độ cao còn ít, song chưa được sử dụng tốt, đang bị bỏ ngỏ, ít có điều kiện cập nhật kiến thức mới. Sự hẫng hụt về cán bộ là nghiêm trọng, nhất là trong lĩnh vực khoa học cơ bản”(9). Những điều nêu trên là những bất hợp lý nổi cộm, bức xúc nhiều năm nay và cần sớm giải quyết để đưa nước ta trở thành nước phát triển. Qua 15 năm đổi mới, ở nước ta đang hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng thị trường lao động chỉ mới bắt đầu hình thành; có thể đây là một trong những nguyên nhân làm cho đào tạo của nước ta chưa bám sát vào cơ cấu lao động. Chưa có một chiến lược đào tạo và quản lý nguồn nhân lực phự hợp với yờu cầu và đòi hỏi của thị trường lao động nói riêng, của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Chưa có cơ quan quản lý, chỉ đạo, điều hành quốc gia về phát triển nguồn nhân lực. Các đề tài của Chương trình CN cấp Nhà nước KX-05 có nhiệm vụ đóng góp xây dựng chiến lược này. 2.2.2. Giải pháp khắc phục những nhược điểm. + Lao động trình độ thấp, số lao động có tay nghề cao chiếm tỉ lệ ít, dân trí thấp, có 8% người chưa biết chữ. Như thế cần phải đào tạo chất lượng quản lí, lao động có tay nghề, đổi mới phương pháp giáp dục ở mọi cấp học, ngành học với mọi đối tượng cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Cần đầu tư cho giáp dục và đào tạo nhiều hơn nữa, giáo dục tinh thần yêu nước, trách nhiệm công dân, đấu tranh chống tiêu cực, vi phạm chống những luồng văn hóa độc hại, phản động. + Hiện nay mức sống con người thấp, chưa đáp ứng đủ nhu cầu nên về chất lượng lao động còn hạn chế, sức khỏe yếu thể lực yếu. Giải pháp là phải đẩy mạnh giải quyết việc làm tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Phát triển nền kinh tế đất nước, tập trung phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng các nhà máy xí nghiệp để tạo nhiều việc làm tăng thu nhập nâng cao đời sống. Nhà nước cần đầu tư vốn lớn vào các vùng kinh tế trọng điểm, có những chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội và các cá nhân bỏ vốn vào kinh doanh để thu hút lực lượng lao động. + Tình trạng quan liêu, tham nhũng còn diễn ra khỏi phổ biến. Vì vậy, cần có một bộ máy đặc biệt và lực lượng đặc biệt để chống tham nhũng. Có một cơ chế chống tham nhũng trong tất cả các cấp, các ngành các cơ quan từ trung ương đến địa phương. + Sự tham gia vào công cuộc của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị của người dân còn chưa tích cực. Do đó cần nâng cao trình độ của cán bộ, Đảng viên và nhân dân về nhận thức chính trị. Tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của quần chúng nhân dân trong mọi hoạt động của bộ máy nhà nước. Xây dựng cơ chế quản lí xã hội, quản lý nhà nước để người dân có điều kiện tham, gia công việc nhà nước, xã hội. Phân rõ trách nhiệm của từng cấp từng ngành, từng tập thể, từng cá nhân trong từng công việc. Bên cạnh đó cấn có thái độ kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực. Làm trong sạch bộ máy quản lý nhà nước. + Vẫn còn tồn tại những phong tục tập quán lạc hậu, quan hệ không bình đẳng, khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư còn lớn. Vì thế cần có giải pháp khắc phục đi tới xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu.Xây dựng quan hệ mới giữa người với người, xây dựng quan hệ bình đẳng hữu nghị giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, giữa các quốc gia. Thực hiện những biện pháp giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư, các lãnh thổ, chính sách xoá đói giảm nghèo, tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách về lao động việc làm để người lao động rèn luyện, phấn đấu, cống hiến sức mình cho đất nước, xã hội. Tóm lại, nguồn lực con người có vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển đất nước cũng như sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.Trên con đường hội nhập nhưng “hòa nhập không hòa tan” nhân tố con người trở thành động lực của sự phát triển. Tạo nền tảng vững chắc để thực hiện thành công quá trình công nghiệp ha hiện đại hóa đất nước. KẾT LUẬN Hiện nay nước ta đang ở thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội rất nhiều vấn đề đặt ra cho đất nước giải quyết. Con người Việt Nam với những ưu điểm và nhược điểm như vậy có thể gánh vác được trọng trách nặng nề này không? Câu hỏi đó hãy để thời gian và thực tế trả lời. Nhưng với sự đánh giá của cá nhân tôi thì một khi chúng ta nhận ra được những ưu điểm và khiếm khuyết của mình thì sẽ có phương hướng giải quyết và giải pháp khắc phục, tất nhiên phải mất một thời gian nhưng sự nghiệp đó sẽ được hoàn thành bằng sự đồng sức đồng lòng của tất cả mọi người trong đó thé hệ trẻ những người lao động xung sức giàu lòng nhiệt huyết, sục sụi ý chí sẽ đem tất cả trí và lực, sẽ hết mình vì một Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. Công cuộc xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa thành công chỉ có thể được tạo nên từ những con người mới, con người Xã Hội Chủ Nghĩa theo đúng nghĩa của nó, đó sẽ là mục tiêu phấn đấu của toàn dân ta, Đảng ta và đất nước ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học Mác - Lênin Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2. Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 3. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 4. Tác phẩm biện chứng của tự nhiên của Ph.Ăngghen Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 5. Tư tưởng Hồ Chí Minh Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 6. Triết học Hồ Chí Minh Báo triết học - ngày 23/8/2007

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10518.doc
Tài liệu liên quan