MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU . 1
I/ Lý do chọn đề tài: . 1
IIMục tiêu nghiên cứu: . 2
III/ Phương pháp nghiên cứu: 2
1/ Phương pháp thu thập số liệu: 2
2/ Phương pháp phân tích và xử lý số liệu . 2
IV/ Phạm vi nghiên cứu: . 2
PHẦN NỘI DUNG . 3
I/ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM (ĐMTN) . 3
1/ Một số khái niệm . 3
1.1/ Định mức tín nhiệm 3
1.2/ Tín nhiệm doanh nghiệp (DN) 3
2/ Công ty ĐMTN (CRA) 3
2.1/ Khái niệm .
2.2/ Sự khác biệt giữa một CRA và một số tổ chức khác như tư vấn tài chính, dịch vụ thông tin, các công ty kiểm toán, ISO . 4
2.3/ Các mô hình của CRA 4
● Thứ nhất: Mô hình CRA 100% vốn nước ngoài . 4
● Thứ hai: Mô hình công ty liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài 4
● Thứ ba: Mô hình công ty cổ phần có sự tham gia của các cổ đông chiến lược nước ngoài 5
3/ Các hình thức của ĐMTN 5
3.1/ Cung cấp thông tin tín nhiệm DN . 5
● Thông tin tín nhiệm DN . 5
● Cung cấp thông tin tín nhiệm DN . 5
3.2/ Đánh giá tín nhiệm và xếp hạng DN 6
4/ Tiêu chuẩn của một tổ chức ĐMTN . 7
5/ Hoạt động của ĐMTN ở Việt Nam 8
II/ TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA ĐMTN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM . 8
1/ Tổng quan về hoạt động của NHTM Việt Nam . 10
1.1/ Về khả năng huy động vốn 13
■ Tình hình vốn tự có trong các NHTM Việt Nam . 13
■ Tình hình huy động vốn 14
1.2/ Về hoạt động cho vay . 14
1.3/ Về khả năng thu hồi nợ 14
3/ Thực trạng tham gia ĐMTN của các NHTM Việt Nam 17
2/ Vai trò của ĐMTN đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt nam . 20
2.1/ Sự cần thiết: . 20
2.2/ Vai trò của ĐMTN đối với hoạt động của NHTM Việt Nam 21
►Thứ nhất, nó là cơ sở giúp các NH nâng cao hiệu quả trong hoạt động cho vay tín dụng, góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn trong các NH 21
►Thứ hai, nó sẽ là yếu tố có tác động tích cực đến khả năng huy động vốn trong các NH 22
► Thứ ba, . 22
► Thứ tư, nó thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, là động lực gián tiếp cho sự phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam . 23
► Cuối cùng, tầm quan trọng của các CRA chính là sự toàn cầu hoá . 24
III/ MỘT SỐ THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP . 25
1/ Thuận lợi 25
2/ Khó khăn 26
2.1/ Những khó khăn khách quan 26
2.1.1/ Khó khăn về mặt pháp lý . 26
2.1.2/ Khó khăn về cơ sở hạ tầng 26
2.2/ Khó khăn chủ quan . 27
2.2.1/ Khó khăn xuất phát từ thị trường . 27
2.2.2/ Khó khăn xuất phát từ phía các DN . 27
3/ Một số giải pháp 29
3.1/ Tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của công ty ĐMTN tại Việt Nam 29
3.2/ Tiến hành phổ biến kiến thức đánh giá và xếp hạng DN. Tạo điều kiện cho các DN, các nhà đầu tư thấy được sự cần thiết và vai trò của CRA 30
3.3/ Vận động các nhà đầu tư tham gia thành lập các công ty ĐMTN 30
3.4/ Xây dựng và đào tạo đội ngũ nhân lực có trình độ, nghiệp vụ chuyên môn về ĐMTN 31
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 32
I/ KẾT LUẬN . 32
II/ KIẾN NGHỊ . 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO 36
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1765 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của Định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƢƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chon đề tài:
Với nền kinh tế Việt Nam đang phát triển như hiện nay, sự tồn tại và cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp “mạnh”–“yếu” khác nhau đã buộc các doanh nghiệp
phải thực sự biết mình là ai, đứng ở vị trí nào và phải hiểu về đối thủ cạnh tranh của
mình. Vậy, ai sẽ “bắt mạch” các doanh nghiệp này để đưa ra thông tin trung thực,
khách quan, góp phần trợ giúp cho hoạt động thương mại, hợp tác và đầu tư? Lúc
này, sự ra đời của một tổ chức có thể đánh giá được khả năng hoạt động và độ tin
cậy của một doanh nghiệp là rất cần thiết. Và đó cũng chính là nhiệm vụ trọng tâm
của các tổ chức Định mức tín nhiệm (ĐMTN).
Ở Việt Nam từ trước đến nay, ngoài cơ quan Nhà nước, ít có một tổ chức nào
có khả năng đánh giá uy tín của một doanh nghiệp. Đó là một thói quen bao cấp làm
ảnh hưởng không ít đến bộ mặt của nền kinh tế đất nước, là một trong những lý do
khiến các nhà đầu tư nước ngoài chưa dám đầu tư mạnh mẽ vào thị trường Việt
Nam. Tất nhiên, khi luồng vốn chạy vào trong nước ít, với thị trường vốn nội địa
còn non yếu thì hoạt động của các NHTM ở Việt Nam cũng khó lòng mà phát huy
hết năng lực của nó để phát triển mạnh mẽ và ổn định. Như vậy, tổ chức ĐMTN ra
đời sẽ thúc đẩy cho sự lưu thông và phát triển của thị trường vốn, giúp các NHTM
hoạt động tốt hơn, huy động được vốn và cho vay một cách hiệu quả nhất. Chính vì
thế nên khi thực hiện chuyên đề em đã chọn đề tài:“Vai trò của Định mức tín
nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu của chuyên đề là tổng quan cơ sở lý luận về vai trò của định mức tín
nhiệm đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại .
1.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chuyên đề là khái quát hoá lý luận về vai trò của
định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại .
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
CHƢƠNG 2
KHÁI QUÁT VỀ ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM
2.1. Một số khái niệm:
Định mức tín nhiệm:
Định mức tín nhiệm (ĐMTN) được dùng để đo lường mức độ rủi ro gắn liền
với một khoảng đầu tư nào đó. ĐMTN là việc đánh giá về khả năng của một đơn vị
phát hành trong việc thực hiện thanh toán đúng hạn một nghĩa vụ tài chính. Nghĩa
vụ tài chính gồm trái phiếu, thương phiếu, cổ phiếu, các khoản nợ và các khoản tiền
vay ngân hàng [1].
Có nhiều loại ĐMTN khác nhau. ĐMTN đợt phát hành trái phiếu và ĐMTN
của đơn vị phát hành. Thông thường, người ta quan tâm nhiều đến đợt phát hành vì
nó không chỉ tính tới độ tín nhiệm của đơn vị phát hành mà còn tính tới độ tín nhiệm
của những tài sản thế chấp.
Ngoài ra còn có ĐMTN trong nước hay toàn cầu. Các tổ chức ĐMTN trong
nước sẽ ĐMTN các doanh nghiệp trong nước. Trong khi đó, các tổ chức ĐMTN
quốc tế sẽ định mức những đơn vị phát hành trên toàn cầu phục vụ cho các nhà đầu
tư lớn.
Hệ số tín nhiệm:
Theo Bohn John, hệ số tín nhiệm (HSTN) là sự đánh giá về khả nâng một nhà
phát hành có thể thanh toán đúng hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán nợ
trong suốt thời gian tồn tại của nó [1].
Theo công ty chứng khoán Merrill Luynch (Mỹ), HSTN là đánh giá hiện thời
của công ty xếp hạng tín nhiệm về chất lượngtín dụng của một nhà phát hành chứng
khoán nợ về một khoản nợ nhất định [1].
Theo công ty Moodys, HSTN thể hiện khả năng sẵn sàng thanh toán đúng
hạn của một nhà phát hành cho một khoản nợ nhất định trong suốt thời gian tồn tại
của khoản nợ đó [1].
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
Như vậy, ta có thể hiểu khái quát, HSTN là sự đánh giá hiện thời về mức độ
sẵn sàng và khả năng trả gốc và lãi đối với những khoản nợ của một nhà phát hành
trong suốt thời gian tồn tại của chứng khoán đó.
Cần lưu ý rằng, về mặt nào đó, HSTN có thể được xem là hình thức tư vấn đầu
tư chứng khoán. Song đây không hoàn toàn là lời khuyên mua hay bán bất kì loại
chứng khoán nào. HSTN được ấn định cho nhà phát hành, nó luôn gắn với một
khoản nợ nhất định của nhà phát hành đó. Hầu hết các loại chứng khoán đều được
xếp hạng tín nhiệm (XHTN) như trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, các loại
trái phiếu, kì phiếu ngân hàng. Hiện nay, một số nước còn XHTN cả cổ phiếu ưu
đãi, cổ phiếu thường, các đối tượng vay vốn ngân hàng.
Bảng kí hiệu hệ số tín nhiệm:
Để tạo điều kiện cho việc sử dụng hệ thống XHTN, các công ty xác định
HSTN đã đưa ra hệ thống các kí hiệu. Bảng XHTN được xắp sếp theo thứ tự giảm
dần về độ an toàn hay tăng dần về độ rủi ro. Thông thường, bảng XHTN được chia
thành hai loại: bảng XHTN biểu hiện cho các công cụ nợ ngắn hạn và bảng XHTN
các cộng cụ nợ dài hạn. Hệ thống XHTN tiêu biểu nhất hiện nay là hệ thống kí hiệu
của hai công ty XHTN hàng đầu thế giới Moodys và Standard&Poor’s (S&P), được
xây dựng trên cơ sở khung kí hiệu do John Moodys sáng tạo và trở thành tiêu chuẩn
để xây dựng hệ hống kí hiệu XHTN của hầu hết các công ty trên thế giới [1].
Bảng 1: Bảng xếp hạng tín nhiệm công cụ nợ ngắn hạn của S&P:
Nguồn: Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội.
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
Bảng 2: Bảng xếp hạng tín nhiệm công cụ nợ dài hạn của S&P:
Nguồn: Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội.
Tác dụng của xếp hạng tín nhiệm:
- Đối với nhà đầu tư:
+ XHTN là một chỉ tiêu rõ ràng, đơn giản và dễ hiểu để em xét quyết định
đầu tư.
+ Là nhân tố quan trọng trong việc đánh giá mối quan hệ rủi ro và lợi nhuận
thu được.
+ Là công cụ quản lý danh mục đầu tư…
- Đối với nhà phát hành (NPH):
+ Giúp người phát hành mở rộng thị trường tiêu thụ trên hai khía cạnh: có
thể tham gia vào nhiều thị trường vốn khác nhauvà mở rộng các nhà đầu tư tiềm
năng.
+ Duy trì sự ổn định của thị trường, nâng cao tính minh bạch hiệu quả, tăng
tính thanh khoản của thị trường, giảm chi phí vay vốn.
- Đối với các cơ quan quản lý thị trương chứng khoán:
XHTN cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định của chính phủ.
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
2.2. Công ty định mức tín nhiệm – Credit Rating Agence:
2.2.1. Khái niệm:
Công ty ĐMTN hay một tổ chức ĐMTN, còn được gọi là Credit Rating
Agence (CRA) là công ty chuyên cung cấp quan điểm của họ về độ tín thác của một
doanh nghiệp (DN) trong nghĩa vụ thanh toán tài chính [1].
CRA là một tổ chức đánh giá trung gian, độc lập nhằm xem xét, phân tích và
đưa ra mức định hạng tín nhiệm đối với các công ty đang tìm kiếm nguồn vốn đầu
tư. Nó cung cấp ý kiến về mức độ tin cậy của một thể nhân cũng như khả năng hoàn
thành những nghĩa vụ tài chính của thể nhân đó.
Sản phẩm của CRA là việc cung cấp cho thị trường một hệ thống xếp hạng
các công cụ tài chính, đặc biệt là các chứng khoán nợ,… Giúp các nhà đầu tư có cơ
sở để tham khảo và so sánh trước khi đưa ra quyết định nên đầu tư vào những công
cụ nào.
Ngoài ra còn có những dịch vụ khác của CRA như đánh giá các tổ chức tài
chính, bảo hiểm, tính toán mức rủi ro tín dụng một khoảng cho vay của NH, đánh
giá xếp hạng quản trị DN, cung cấp thông tin tài chính,...
2.2.2. Sự khác biệt giữa CRA và một số tổ chức khác nhu tƣ vấn tài chính,
công ty kiểm toán, ISO, …
Thực chất, chức năng của các loại hình dịch vụ này là như nhau vì chúng đều
nhằm hướng đến việc phân tích, đánh giá để đưa ra các thông tin tư vấn kịp thời cho
các DN.
Tuy nhiên, khi tiến hành đánh giá một DN, ngoài việc phân tích theo góc độ
tài chính như các tổ chức khác, CRA còn quan tâm đến các chỉ tiêu phi tài chính.
Các chỉ tiêu phi tài chính đó là năng lực cạnh tranh của DN, triển vọng phát triển
của sản phẩm, xu hướng thị trường, ý kiến và phản ứng của người tiêu dùng về các
sản phẩm và dịch vụ của DN,… Kết quả đánh giá sẽ là sự kết hợp giữa kết quả phân
tích các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính có tính khác biệt về nghành và qui mô [1].
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
2.2.3. Các mô hình của CRA:
Trên thế giới, hiện có ba loại mô hình CRA [1]:
● Thứ nhất: Mô hình CRA 100% vốn nước ngoài.
Đây là loại hình do các CRA nước ngoài thành lập và hoạt động dưới dạng
mở chi nhánh tại nước sở tại hoặc đăng ký thành lập công ty. Mô hình này thường
chỉ có một pháp nhân đứng ra thành lập hoặc có hai pháp nhân nước ngoài. Để mô
hình này có thể đi vào hoạt động đòi hỏi phải có một thị trường trái phiếu phát triển
nhất định và có sự đầu tư lớn từ trong nước cũng như quốc tế.
● Thứ hai: Mô hình công ty liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài.
Mô hình này do các CRA nội địa và CRA nước ngoài cùng thiết lập liên
doanh để khai thác một số dịch vụ của ĐMTN. Để xây dựng mô hình thì đối tác
trong nước phải là một tổ chức tài chính hoặc một DN đã rất am hiểu về hoạt động
của CRA mới phát huy được vai trò của nó và tránh không bị đối tác nước ngoài chi
phối.
● Thứ ba: Mô hình công ty cổ phần có sự tham gia của các cổ đông chiến
lược nước ngoài.
Với mô hình loại này thì CRA đóng vai trò là một công ty cổ phần, trong đó
ngoài các cổ đông trong nước còn có sự tham gia của các cổ đông chiến lược nước
ngoài. Họ là những nhà đầu tư lớn, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chuyển
giao công nghệ, đào tạo nhân sự và cử người điều hành DN. Trong mô hình này
không có sự phân biệt đối xử giữa cổ đông trong nước và nước ngoài về tỷ lệ sở
hữu. Nguyên tắc phân bổ tỷ lệ sở hữu là tùy thuộc vào vai trò của từng nhà đầu tư
trong việc hình thành sự ra đời và hoạt động của CRA.
2.3. Các hình thức của định mức tín nhiệm:
Kinh doanh thông tin tín nhiệm từ lâu đã không còn xa lạ trên thế giới. Hoạt
động của các tổ chức ĐMTN rất đa dạng với nhiều hình thức và dịch vụ khác nhau.
Về cơ bản, có ba loại hình dịch vụ chính [1]:
2.3.1. Cung cấp thông tin tín nhiệm:
● Thông tin tín nhiệm DN:
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
Thông tin tín nhiệm là những thông tin ngắn gọn, chính xác được kiểm chứng
bởi một tổ chức ĐMTN có uy tín. Thông tin tín nhiệm nhằm đánh giá khả năng
thanh toán, mức độ tín nhiệm của một cá nhân, một DN, một nghành hoặc một quốc
gia. Thông tin tín nhiệm DN giúp các nhà quản lý ra quyết định nhanh hơn và chính
xác hơn nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
● Cung cấp thông tin tín nhiệm DN:
Đây là một dịch vụ mà các CRA có nghĩa vụ sẽ thường xuyên ĐMTN các
công ty có yêu cầu được định mức xếp hạng nhằm phục vụ cho nhà đầu tư của công
ty. Trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng, CRA sẽ luôn cập nhật thông tin, theo
sát các công ty và nghành những sự kiện có ý nghĩa hoặc những sự phát triển có ảnh
hưởng tới kết quả định mức nhằm đảm bảo quá trình ĐMTN một cách chính xác. Ít
nhất một năm một lần, CRA sẽ đánh giá lại mỗi công ty. Bất cứ lúc nào trong suốt
quá trình giám sát, CRA cũng có thể ban hành hai loại công bố:
Cảnh bảo tín nhiệm:
Là lời cảnh báo cho công chúng rằng, đã xảy ra một sự kiện gì đó hoặc là về
điều kiện kinh doanh hoặc là một sự kiện trong công ty mà có thể ảnh hưởng đến
ĐMTN. Cảnh báo tín nhiệm có nghĩa là CRA sẽ đánh giá các sự kiện và các sự kiện
này có thể được cho rằng “tích cực”, “tiêu cực”, hoặc “đang phát triển” phụ thuộc
vào các tình huống cụ thể. ĐMTN hiện thời vẫn còn hiệu lực cho đến khi CRA hoàn
thành đánh giá đầy đủ.
Cập nhật tín nhiệm:
Là việc xem xét lại ĐMTN đã ban hành trước đó. Bản mới được công bố sau
khi CRA đánh giá được ảnh hưởng của một sự kiện có ý nghĩa và nó bao gồm
những thông tin bổ sung cho ĐMTN đã công bố trước đó. Cập nhật ĐMTN và công
bố ĐMTN sẽ “thăng hạng”, “xuống hạng” hoặc bị hủy bỏ.
2.3.2. Đánh giá tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp:
Đây là một trong những dịch vụ chính của loại hình kinh doanh tín nhiệm
DN. Đánh giá tín nhiệm là một dịch vụ rất phổ biến trên thế giới. Ở hầu hết các
nước phát triển và nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á đã có các tổ chức hoạt
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
động trong lĩnh vực này. Đây là một dịch vụ hết sức cần thiết đối với nền kinh tế thị
trường, đặc biệt là đối với các NH.
Đánh giá tín nhiệm hay xếp hạng tín nhiệm là việc đánh giá khả năng đáp
ứng các nghĩa vụ nợ của một NPH, đánh giá mức độ rủi ro các công nợ như dưới
dạng các chứng khoán như trái phiếu nhà nước, trái phiếu công ty, thương phiếu…
Xếp hạng DN là một phần của quá trình cung cấp thông tin tín nhiệm thông
qua các khâu thu thập, sàng lọc, chia nhóm, phân tích, đánh giá, so sánh và cho điểm
các thông tin tín nhiệm để xếp hạng các NPH theo các cấp độ khác nhau. Mục đích
của việc xếp hạng là đưa ra ý kiến về khả năng thực hiện một nghĩa vụ tài chính của
NPH vì các NPH thường sử dụng vốn kinh doanh từ nhiều nguồn khác nhau, từ các
nhà đầu tư, các ngân hàng hay từ nguồn vốn của các nhà cung cấp. Vì vậy mà nó rất
cần thiết cho nền kinh tế, đặc biệt là đối với hoạt động của ngân hàng.
Khi tham gia đánh giá tín nhiệm, NPH sẽ được nhận những thông tin đánh
giá độc lập, khách quan về tình hình tài chính, khả năng thanh toán nợ. Mặt khác,
các NPH còn nhận được dich vụ tư vấn tài chính, quản lý, quan hệ công chúng
(PR),…Tuy nhiên, để có thể đánh giá tín nhiệm của một DN, các CRA phải dựa trên
hai chỉ tiêu là tài chính và phi tài chính. Có hơn 100 chỉ tiêu tính điểm và các
phương pháp kiểm tra chéo phức tạp để có thể đưa tới việc xếp hạng từ AAA, AA,
BB,… cho mức độ tín nhiệm của DN.
Chỉ tiêu tài chính bao gồm các con số về vốn, vòng vay, khả năng thanh toán,
tín dụng, thua lỗ, các chỉ số tài chính,… Các chỉ tiêu phi tài chính bao gồm những
thông tin liên quan tới giám đốc, ISO, thương hiệu hoặc nhân sự, những tai tiếng, uy
tín trên thương trường,…
2.3.2.1. Xếp hạng tín nhiệm quốc gia:
Khi xem xét XHTN cho một quốc gia, thường chia rủi ro thành hai loại chính
là: rủi ro chính trị và rủi ro kinh tế
- Rủi ro chính trị: Là đánh giá các nhân tố Chính trị và xã hội có tác động
đến hoạt động ngoại thương và khả năng trả nợ của một quốc gia. Các khía cạnh
xem xét gồm: hệ thống chính trị, môi trường xã hội, chính phủ, quan hệ đối ngoại.
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
- Rủi ro kinh tế: thường xem xét trên các khía cạnh như: sự ổn định của
kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa, chính sách tỷ giá, chính sách kinh tế, cán cân
thanh toán quốc tế.
2.3.2.2. Xếp hạng tín nhiệm công ty:
XHTN cho các công ty theo quan điểm của các tổ chức XHTN là xếp hạng nợ
cho các NPH thuộc lĩnh vực công nghiệp (và tất cả các NPH khác) không thể cao
hơn mức độ tín nhiệm quốc gia, nơi NPH đặt trụ sở chính.
Việc đánh giá khả năng trả nợ của công ty dựa trên việc đánh giá các yếu tố
sau: xu hướng phát triển của ngành và quốc gia, chất lượng quản lý, hoạt động kinh
doanh và vị thế của công ty, tình trạng tài chính và nguồn thanh toán, cơ cấu công
ty, thỏa thuận trợ giúp của công ty mẹ (nếu có), rủi ro sự kiện đặc biệt.
2.3.2.3. Xếp hạng tín nhiệm ngân hàng:
XHTN của các ngân hàng thương mại thường xem xét trên các khía cạnh sau:
- Môi trường hoạt động: xu hướng cạnh tranh của ngân hàng trong nước,
môi trường pháp lý, vai trò của ngân hàng đối với hệ thống tài chính trong nước,
mối quan hệ giữa ngân hàng với cơ quan pháp luật.
- Các nhân tố kinh doanh cơ bản của tổ chức ngân hàng. Vấn đề cơ bản trong
phân tích là đánh giá bản thân ngân hàng thông qua việc sử dụng các chỉ tiêu và
nguyên tắc CAMEL trên các mặt sau: chất lưưọng tài sản, chất lượng quản lý, khả
năng lợi nhuận và vấn đề thanh toán.
2.4. Tiêu chuẩn của một tổ chức ĐMTN :
Các tiêu chí tối thiểu của một CRA cần phải đạt được gồm: Khách quan, độc
lập, minh bạch, công khai và chuyên nghiệp. Những tiêu chuẩn này do NH Thanh
toán quốc tế đề ra và đã được các nhà đầu tư trên thế giới thừa nhận [1].
Điều cần lưu ý ở đây là, tuy nhiệm vụ chính của các CRA là đánh giá mức độ
tín nhiệm của các DN, nhưng khách hàng chủ chốt của các CRA là các nhà đầu tư
chứ không phải các DN hay các nhà phát hành mặc dù họ là người trả phí dịch vụ
ĐMTN. Vì vậy mà yêu cầu đối với tổ chức này là khá khắt khe.
Đó phải là một tổ chức hoạt động với tư cách độc lập. Độc lập là mình không
chịu sức ép của bất cứ quyền lực nào, không chịu sự chi phối trong các qui định
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
được đưa ra bởi bất cứ một cơ quan nào, không xung đột hay có mối quan hệ lợi ích
với các tổ chức được ĐMTN. Có như vậy các đánh giá tín nhiệm mới mang tính
khách quan và đáng tin cậy. Đó cũng là nhu cầu tồn tại của bản thân các CRA.
Ngoài ra, các CRA phải có một đội ngũ chuyên gia thực sự giỏi cùng với việc
xây dựng một qui trình đánh giá khoa học, khách quan và chính xác, phù hợp với
từng điều kiện của mỗi nền kinh tế. Kết quả xếp hạng phải được thực hiện bởi một
đội ngũ chuyên gia về các lĩnh vực tài chính và phi tài chính. Từ việc thu thập thông
tin đến việc kiểm tra, thẩm định phải được tiến hành một cách đầy đủ, chính xác và
được đánh giá theo đúng tiêu chuẩn quốc tế.
Tóm lại, điều kiện để một tổ chức ĐMTN hoạt động thành công là được tin
cậy, độc lập, không thiên vị, có năng lực về kỹ thuật - nhân lực, đầy đủ về cả số
lượng lẫn chất lượng, tiếp cận được với những thông tin đáng tin cậy về tổ chức
được định mức và tạo dựng được hình ảnh của mình trong cộng đồng DN.
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
CHƢƠNG 3
VAI TRÒ CỦA ĐỊNH MỨC TÍN NHIỆM
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NHTM.
3.1. Sự cần thiết của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của các NHTM.
Hiểu biết và quản lý rủi ro là chìa khóa để dẫn đến thành công của NH. Đối
với một khoảng lợi tức tiềm năng đều có sự rủi ro tương ứng. Cho đến nay, rủi ro
tín dụng là rủi ro chính yếu nhất, nó chiếm đến 80% tổng rủi ro mà NH phải gánh
chịu. Lịch sử đã cho thấy nhiều NH thất bại vì không hiểu chính chắn về khách
hàng của mình. Vì vậy, việc phân tích hoạt động kinh doanh và đánh giá, xếp loại
DN được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu của các NHTM Việt Nam hiện nay [4].
Ở các nước trên thế giới, một trong những kỹ thuật quản lý rủi ro tín dụng
của NH là phương thức sử dụng kỹ thuật phân tích để xét duyệt khả năng và uy tín
về mặt tín dụng của khách hàng một cách thường xuyên. Nếu khách hàng được sự
tín nhiệm tín dụng cao thì được vay nhiều hơn. Đó là tiến trình xét duyệt tín dụng.
Các NH sẽ đưa ra các chỉ tiêu và kèm theo các thang điểm cơ bản để đánh giá, xếp
loại tín dụng theo A, B, C,… và các thông tin tín dụng của NHTW để cho các NH
tham khảo. Các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn chưa làm tốt các khâu này.
Trong xu thế cạnh tranh và hội nhập tạo nên thời cơ và thách thức mới, đối
với hệ thống NHTM Việt Nam cần phải có sự đột phá vững mạnh, đổi mới công
nghệ, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhằm ngăn ngừa và hạn chế
rủi ro, giảm bớt tỷ lệ nợ quá hạn hiện nay tại các NH còn khá cao. Các NH cần thận
trọng, am hiểu rõ khách hàng của mình là người đang kinh doanh như thế nào. Vì
vậy, việc phân tích tài chính, xếp loại DN là kỹ thuật nghiệp vụ không thể thiếu
được trong hoạt động tín dụng NH và đóng vai trò trong việc quyết định chất lượng
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
tín dụng NH, cho phép NH chủ động lựa chọn tín dụng NH và xây dựng chính sách
tín dụng hợp lý hơn.
Tuy nhiên, với trình độ chuyên môn và khả năng am hiểu khách hàng, phân
tích kinh tế cũng như thẩm định dự án của khách hàng trong các NHTM Việt nam
hiện nay còn rất yếu kém, vì vậy sự ra đời của một tổ chức ĐMTN hoạt động độc
lập và chuyên nghiệp là rất cần thiết cho hệ thống NHTM Việt Nam ta [4].
3.2. Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của các NHTM :
Trong một nền kinh tế, nếu vốn luôn được coi là điều kiện vật chất để duy trì
các hoạt động kinh tế thì sự tồn tại của các NH lại được coi là điều kiện cần thiết
cho việc lưu thông các nguồn vốn trong xã hội. Vì thế, việc tổ chức và đảm bảo sự
an toàn cho các hoạt động của NH luôn được xem là vấn đề quan trọng, có ảnh
hưởng sâu sắc đến quá trình phát triển của một đất nước. Với nhu cầu vốn ngày
càng tăng cho các hoạt động kinh tế thị trường thì khả năng huy động vốn trong các
NH lại trở thành vấn đề cần thiết và cấp bách. Do mối tương quan mật thiết đó mà
giữa thị trường vốn và hệ thống các NH luôn có những ảnh hưởng nhất định qua lại
lẫn nhau. Sự phát triển của hệ thống NH sẽ là điều kiện để thúc đẩy lưu thông của
thị trường vốn và ngược lại, một thị trường vốn phát triển sẽ là động lực giúp cho
hoạt động của NH ngày càng tốt hơn. Vì vậy, khi nói đến vai trò của ĐMTN đối với
hệ thống NH cũng chính là vai trò của nó đối với thị trường vốn Việt Nam [4].
► Thứ nhất, nó là cơ sở giúp các NH nâng cao hiệu quả trong hoạt động
cho vay tín dụng, góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn trong các NH.
Vì sự ra đời của các CRA có nhiệm vụ là đánh giá tín nhiệm của các DN. Nó
cũng giống như việc phân tích tài chính và đánh giá rủi ro tín dụng trong các NH.
Nhưng các CRA lại là các tổ chức chuyên nghiệp hơn với các nghiệp vụ chuyên
môn và bài bản hơn. Do đó, các thông tin mà CRA đưa ra sẽ cung cấp chính xác
tình hình và tài chính thực tế của các DN cũng như các thông tin phi tài chính khác.
Những thông tin đó sẽ là những cơ sở rất tốt giúp cho NH cho vay một cách hiệu
quả nhất. Bởi chỉ có những DN có mức xếp hạng cao, độ tín nhiệm tốt mới được
phép vay để đầu tư, sản xuất. Bản thân các DN này khi được đánh giá tín nhiệm cao
cũng có nghĩa là họ làm ăn rất hiệu quả. Như vậy, rủi ro từ những khoản vay của
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
các DN này là rất thấp. Và khi NH cho vay hiệu quả nghĩa là tỷ lệ của những khoản
nợ quá hạn, nợ xấu sẽ được giảm xuống. Điều đó sẽ góp phần nâng cao hoạt động
và chất lượng tín dụng trong các NH.
► Thứ hai, nó sẽ là yếu tố có tác động tích cực đến khả năng huy động vốn
trong các NH.
Từ trước đến nay, do sự nhạy cảm của hoạt động ngân hàng nên các ngân
hàng quốc doanh không báo cáo tài chính công khai, còn khách hàng không thể có
thông tin về hoạt động của ngân hàng cũng như hiệu quả kinh doanh của ngân hàng
mà họ giao dịch. Điều này nhiều khi ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng, bởi khi không có thông tin, sự tin tưởng của khách hàng vào các khoản
đầu tư của họ là không chắc chắn, họ chỉ đầu tư ngắn hạn để giảm thiểu rủi ro.
Các CRA không chỉ đánh giá tín nhiệm các DN mà còn phân tích, xếp hạng
đối với cả các tổ chức tài chính, các công ty bảo hiểm và các NH… Như vậy, muốn
được đánh giá cao thì bản thân các NH phải hoạt động thật tốt. Không chỉ tốt từ
khâu hoạt động cho đến việc quản lý hành chính, quản lý rủi ro tín dụng mà cả về
mặt nhân sự. Khi một NH được CRA đánh giá tốt, có mức độ tín nhiệm cao nghĩa
là NH đã làm tốt các khâu trên. Điều đó không chỉ giúp cho NH thấy được những
mặt mạnh, mặt yếu của mình để có những hướng điều chỉnh đúng đắn và hợp lý
hơn. Mặt khác, nó còn làm cho các nhà đầu tư cảm thấy yên tâm hơn khi gửi tiền
hay đầu tư vào các cổ phiếu hoặc dự án của NH. Lúc này, việc huy động vốn đối
với các NH sẽ không còn quá khó khăn như trước đây. Và khi vốn được huy động
càng ngày càng nhiều, nghĩa là nó đã cung cấp cho nhu cầu của thị trường vốn Việt
Nam đang ngày càng tăng, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của cả nền kinh
tế.
► Thứ ba, trong bối cảnh chung như hiện nay, khi mà các NHTM Việt Nam
đang được cổ phần hóa ngày càng nhiều và chuẩn bị được đưa lên các sàn giao dịch
chứng khoán, thì đây có thể sẽ là một kênh huy động vốn rất lớn của các NH trong
tương lai, không chỉ có các nhà đầu tư trong nước mà còn có sự tham gia của cả các
tập đoàn đầu tư tài chính nước ngoài. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam hiện nay vẫn còn
rất non trẻ. Vấn đề thông tin luôn là một nhu cầu không bao giờ đáp ứng đủ cho các
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
nhà đầu tư. Vì vậy, việc nắm giữ thông tin sẽ là một yếu tố rất quan trọng giữ vai
trò quyết định đối với các nhà đầu tư Việt Nam. Trong điều kiện mức độ hiểu biết
của công chúng đầu tư còn hạn chế, các kênh cung cấp thông tin và đánh giá đúng
rủi ro còn rất ít hoặc chưa có, sự xuất hiện của các CRA sẽ cung cấp thêm nhiều
thông tin cho cộng đồng đầu tư, và chính bảng xếp hạng của các CRA sẽ làm cho
nhà đầu tư yên tâm hơn khi tiếp cận với thị trường (nghĩa là giúp họ có cơ sở và tự
tin hơn khi thực hiện quyết định đầu tư vào một loại chứng khoán nợ nào đó). Việt
Nam đã có TTCK, song hoạt động của các tổ chức ĐMTN vẫn chưa xuất hiện.
Nhưng vì vai trò của tổ chức này là rất quan trọng, trong khi đó Việt Nam lại đang
trong quá trình hội nhập quốc tế, tự do hoá tài chính và phát triển triển TTCK, nên
việc thành lập và đưa tổ chức ĐMTN vào hoạt động tại Việt Nam là vấn đề hết sức
cấp thiết.
► Thứ tư, nó thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn, là động lực gián
tiếp cho sự phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đang nổ lực để xây dựng một nền kinh tế thị trường
trong đó sự minh bạch là điều kiện thiết yếu để chủ động hội nhập và phát triển.
TTCK là một kênh huy động vốn rất quan trọng nhưng hiện nay vẫn phát triển một
cách chậm chạp với quá nhiều biến động và rủi ro. Một trong những nguyên nhân
của sự trì trệ này là chưa có một tổ chức đánh giá tín nhiệm. Như vậy, để TTCK
phát triển, việc thành lập một tổ chức đánh giá tín nhiệm là vấn đề hết sức cần thiết.
Việc xúc tiến hình thành CRA tại Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc xây dựng và
hoàn thiện cơ sở hạ tầng của thị trường vốn ở Việt Nam mà trên thực tế đang đòi
hỏi phải có nhiều loại định chế trung gian có uy tín và hoạt động độc lập. Các nhà
phát hành cũng thường dùng “xếp hạng tín nhiệm” như là một chiến lược để huy
động vốn. Và các tổ chức ĐMTN sẽ đóng vai trò như là một cầu nối giữa nhà đầu
tư và thị trường. Khi thị trường tài chính và việc toàn cầu hóa ngày càng phát triển
thì việc xếp hạng tín nhiệm được dùng như một công cụ để giám sát thị trường tài
chính, nhằm làm giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư và cho cả hệ thống nói chung.
► Cuối cùng, tầm quan trọng của các CRA chính là sự toàn cầu hoá.
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
Các quỹ đầu tư giờ đây vươn ra khắp thế giới, các quan hệ tín dụng theo đó
cũng bị ảnh hưởng bởi các CRA. Họ không chỉ xếp hạng các tổ chức phát hành mà
còn xếp hạng cả các quốc gia. Bởi vì sản phẩm của các CRA chính là việc cung cấp
cho thị trường một hệ thống xếp hạng các công cụ tài chính, đặc biệt là các chứng
khoán nợ, từ đó giúp cho các nhà đầu tư có cơ sở để tham khảo, so sánh đối chiếu
kỹ càng trước khi đưa ra quyết định đầu tư cuối cùng của mình, đó là nên đầu tư
vào những công cụ nào? Điều này có nghĩa là chính hệ thống xếp hạng mà các
CRA đưa ra đóng vai trò làm người bảo vệ các nhà đầu tư giảm bớt rất nhiều rủi ro
khi đầu tư vào chứng khoán. Tạo điều kiện cho thị trường vốn Việt Nam có thể thu
hút được nhiều nguồn vốn khác nhau từ bên ngoài.
Hệ thống xếp hạng của các CRA không chỉ có lợi về phía các nhà đầu tư, mà
còn mang lại lợi ích to lớn cho các công ty chứng khoán. Chính hệ thống xếp hạng
đã làm nền tảng vững chắc cho việc lựa chọn một danh mục đầu tư lý tưởng đối với
các công ty quản lý, các công ty chứng khoán cho nghiệp vụ quản lý danh mục đầu
tư và nghiệp vụ tự doanh. Các CRA còn là nhân tố kích hoạt thị trường chứng
khoán (TTCK) thêm sôi động, tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao và chuẩn hoá
kiến thức về phân tích kinh tế, tài chính, kế toán... Hệ quả của những nhân tố kể
trên sẽ mang lại luồng sinh khí cho sự phát triển mạnh mẽ và hoàn thiện TTCK.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với TTCK Việt Nam vốn còn
rất non trẻ và sơ khai.
Tóm lại, hiệu quả hoạt động và chất lượng tín dụng của một NH được chứng
minh bằng khả năng huy động vốn, hoạt động cho vay và tình hình dư nợ của bản
thân NH. Vì vậy, vai trò của các CRA đối với hệ thống NHTM Việt Nam là rất lớn.
Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang sắp bước vào giai đoạn hội
nhập và phát triển. Tuy nhiên, hoạt động của các NHTM Việt Nam vẫn còn rất yếu
và có nhiều hạn chế. Sự xuất hiện của các CRA sẽ là động lực to lớn giúp cho hoạt
động của các NHTM được tốt hơn, tạo điều kiện cho các NH phát triển mạnh mẽ và
ổn định.
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
CHƢƠNG 4
MỘT SỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA HOẠT ĐỘNG ĐỊNH
MỨC TÍN NHIỆM Ở VIỆT NAM
Sự cần thiết của ĐMTN đối với nền kinh tế Việt Nam là khá rõ ràng. Trong
quá trình hoạt động, nó vẫn tồn tại những thuận lợi và khó khăn nhất định nên chưa
thực sự thu hút được đa số các ngân hàng Việt Nam tham gia. Nguyên nhân là do
đâu? Thực tế, đã có nhiều khó khăn gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động và sự
phát triển của dịch vụ này tại Việt Nam.
4.1. Thuận lợi:
- Có thể nói, việc hình thành và phát triển ĐMTN Việt Nam mới đáp ứng
được xu hướng và nhu cầu của thị trường về một nền kinh tế minh bạch và phát
triển ổn định. Vì thế mà hoạt động của ĐMTN ở Việt Nam hiện nay đang rất được
Nhà nước và các DN quan tâm đúng đắn, sự ủng hộ từ các tập đoàn đầu tư tài chính
nước ngoài, và đặc biệt là hệ thống các NH trong nước.
- Hiện nay, Nhà nước ta và các tổ chức có liên quan như Bộ Kế hoạch &
Đầu tư, Bộ Tài chính, các ngành chức năng có liên quan như NHNN, UBCKNN,…
đã và đang lên một kế hoạch cụ thể, trong đó có việc ban hành một khung pháp lý,
các qui định nhằm hỗ trợ cho việc xây dựng một CRA phù hợp với nền kinh tế Việt
Nam nhưng vẫn không quá lệch lạc so với các tiêu chuẩn quốc tế.
- Ngoài ra, còn có rất nhiều cuộc hội thảo bàn về các vấn đề liên quan đến
việc hình thành các CRA tại Việt Nam, trong đó có sự tham gia của các chuyên gia
kinh tế nước ngoài, các tập đoàn CRA quốc tế để trao đổi kinh nghiệm hoạt động và
làm việc.
- Một thuận lợi lớn nữa là Việt Nam đã nhận được sự tài trợ và giúp đỡ kỹ
thuật thông qua dự án “Hỗ trợ kỹ thuật” do Ban thư ký ASEAN và Bộ Tài chính
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
Nhật Bản tài trợ về việc xúc tiến thành lập công ty CRA tại Việt Nam. Chương
trình này do viện nghiên cứu Normura thực hiện với sự tham gia tài trợ của Tổ chức
phát triển kinh tế tư nhân (MPDF) cho các hội thảo xây dựng các giải pháp hình
thành CRA tại Việt Nam. Vì thế, kinh doanh thông tin tín nhiệm được xem là có rất
nhiều triển vọng phát triển ở Việt Nam, nhất là sau khi nước ta chính thức gia nhập
WTO.
4.2. Khó khăn:
4.2.1. Khó khăn chủ quan:
- Khó khăn về pháp lý:
Khi một DN, một tổ chức được thành lập thường nó phải chịu sự chi phối bởi
các tiêu chuẩn pháp lý cụ thể, sự quản lý bởi một cơ quan chủ quản nào đó. Ở Việt
Nam, ĐMTN là một loại hình dịch vụ còn khá mới mẻ và vẫn đang trong giai đoạn
thử nghiệm. Hơn nữa, vì đánh giá tín nhiệm là một lĩnh vực rất nhạy cảm. Khi các ý
kiến của một CRA được đưa ra có thể gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động của một
ngân hàng, kéo theo đó là cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Đồng thời, do đây
là một lĩnh vực đặc thù nên nó cần được điều chỉnh bởi một điều luật riêng. Vì vậy,
việc ban hành những điều luật, những qui định cho hoạt động kinh doanh tín nhiệm
là rất quan trọng, cần được chuẩn bị và cân nhắc kỹ sao cho phù hợp với thực tế và
đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam.
- Khó khăn về cơ sở hạ tầng:
Là một loại hình hoạt động kinh doanh chỉ mới được manh nha ở Việt Nam.
Vì vậy, chúng ta vẫn chưa có đủ điều kiện về cơ sở hạ tầng cho sự phát triển của nó.
Nhưng đây là một khó khăn không thể tránh khỏi và hầu như ở bất kỳ thị trường
nào cũng gặp phải trong giai đoạn đầu, khi ĐMTN mới bắt đầu đi vào hoạt động.
Để các CRA có thể hoạt động tốt và tạo được sự tin tưởng cho các ngân hàng, đòi
hỏi những CRA này phải có một kho dữ liệu khổng lồ, tập hợp toàn bộ lịch sử của
các DN mà nó nghiên cứu, trên cơ sở đó để đưa ra các thông tin đáng tin cậy. Từ
việc thiếu các qui định về pháp lý, về những tiêu chuẩn cụ thể, chúng ta còn thiếu
cả một đội ngũ nhân lực có đủ trình độ, có chuyên môn nghiệp vụ để có thể hoạt
động trong lĩnh vực này.
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
Với năng lực của các công ty tư vấn tài chính Việt Nam còn rất hạn hẹp, hơn
nữa chúng ta còn rất thiếu kinh nghiệm, không có đủ dữ liệu và thời gian hoạt động.
Khi đó, các CRA không thể đưa ra các “nghiên cứu về những trường hợp mất khả
năng thanh toán”. Nhưng không có các nghiên cứu này thì không thể tạo được niềm
tin ở các ngân hàng. Nhưng nếu không được sự ủng hộ ở của họ, các CRA cũng
không thể tích lũy được số liệu. Đó là một vòng lẩn quẩn đòi hỏi cần phải có sự cố
gắng rất nhiều của các CRA trong thời gian đầu.
4.2.2. Khó khăn khách quan:
- Khó khăn xuất phát từ thị trƣòng:
Công ty ĐMTN là một định chế cao cấp nhất của thị trường tài chính. Nhiệm
vụ của nó là hướng dẫn cho các nhà đầu tư có được những quyết định đúng đắn
nhất, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của các thành phần khác có liên quan
như TTCK, hệ thống NH,… và sự phát triển chung của cả nền kinh tế. Do đó, hoạt
động của CRA đòi hỏi tính độc lập, tin cậy và tính chuyên nghiệp rất cao. Chính vì
những đặc tính này mà việc thành lập các CRA ở Việt Nam là rất khó khăn trong
điều kiện của Việt Nam.
Khó khăn nhất là ở chỗ thị trường vốn và thị trường trái phiếu ở Việt Nam
còn rất nhỏ bé. Mà sự ra đời của các CRA cần phải gắn liền với một TTCK đã phát
triển ổn định. Còn TTCK Việt Nam ra đời chỉ khoảng gần 10 năm. Đó là khoảng
thời gian ngắn so với lịch sử lâu đời của TTCK các nước trong khu vực cũng như
trên thế giới. Hoạt động của nó lại khá thăng trầm. Hàng hóa quá ít, dường như
không đáp ứng đủ nhu cầu cho các nhà đầu tư và DN. Giá cả cổ phiếu luôn trong
tình trạng không ổn định. Có khi tăng quá cao, có khi lại giảm đột biến. Nhất là
trong thời gian gần đây, hoạt động của nó dường như quá nóng và quá sức chịu
đựng của thị trường. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành các tổ
chức ĐMTN ở Việt Nam.
- Khó khăn từ phía ngân hàng:
Dù biết rõ sự cần thiết của ĐMTN đối với nền kinh tế, nhưng tại sao nó lại
chưa thực sự thu hút các ngân hàng Việt Nam tham gia và ủng hộ?
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
Kinh nghiệm ở các nước cho thấy, các CRA phải là tổ chức hoạt động với tư
cách độc lập, không chịu sự chi phối trong các quy định đưa ra bởi bất cứ một cơ
quan nào, không xung đột lợi ích hay có mối quan hệ với tổ chức được ĐMTN. Có
như vậy, các đánh giá ĐMTN mới mang tính khách quan và đáng tin cậy.
Ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng các CRA, vẫn có nhiều ý kiến thắc
mắc ai sẽ đánh giá tín nhiệm chính công ty ĐMTN. Hơn nữa, muốn hoạt động được
ở Việt Nam thì cần phải có một cơ quan Nhà nước can thiệp vào hoạt động của loại
công ty này. Đó là một thói quen bao cấp đã ăn sâu vào tư duy của nhiều ngân
hàng. Theo các chuyên gia về ĐMTN thì yêu cầu trên là phi lý và thể hiện rõ nét tư
tưởng bao cấp. Thực tế các CRA trên thế giới và trong khu vực hầu hết đều là
những tổ chức độc lập, hoạt động bằng uy tín và không phụ thuộc vào Nhà nước.
Bên cạnh đó do vấn đề chi phí khá cao nên thông thường, các ngân hàng chỉ
cần đến đánh giá ĐMTN khi muốn huy động vốn trên thị trường để tài trợ cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, hiện vẫn có không ít ý kiến còn hoài nghi
về độ tin cậy của loại hình kinh doanh trên. Bởi vì khi nói đến vấn đề minh bạch
hoá thông tin tức là đã liên quan đến quyền lợi của ngân hàng mà vì lý do kinh
doanh nên nhiều ngân hàng chưa muốn tiết lộ một thông tin nào đó. Không phải họ
làm ăn không chính đáng mà họ dự định sẽ công bố vào một thời điểm nào đó thích
hợp hơn.
Không những thế, việc đánh giá tín nhiệm đòi hỏi các ngân hàng phải có
trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác những tài liệu, thông tin về tình hình tài
chính và phi tài chính cho các CRA. Ngoài ra còn phải tạo điều kiện cho cán bộ
đánh giá trong quá trình kiểm tra, thẩm định lại thông tin một cách chính xác. Song,
các ngân hàng Việt Nam phần lớn đều có xu hướng che giấu sự thật về bản thân
mình, khuếch trương những điểm tốt, mặt mạnh, che giấu thông tin tài chính thực
và những hạn chế của mình. Đây cũng là một khó khăn lớn của các công ty kinh
doanh thông tin tín nhiệm.
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
CHƢƠNG 5
KẾT LUẬN
Trong một nền kinh tế tri thức mới, với xu thế hội nhập và phát triển, Việt
Nam vẫn còn là một nước có thứ hạng quá thấp so với quốc tế. Chúng ta chỉ mới
vừa bắt kịp những tư duy mới trong vài năm gần đây. Từ đó, nền kinh tế Việt Nam
cũng đã bắt đầu có nhiều chuyển đổi. Tuy nhiên, để xóa bỏ bao cấp, để nền kinh tế
thực sự phát triển thì nhu cầu minh bạch trong nền kinh tế đang trở thành một nhu
cầu cấp thiết. Minh bạch sẽ là cách tốt nhất để không còn nạn tham nhũng, quan
liêu, để tránh lãng phí những luồng vốn trong nền kinh tế. Đó là phương thức hiệu
quả nhất để các DN thấy được những mặt “mạnh” – “yếu” của mình.
Với vai trò là một tổ chức chuyên về cung cấp thông tin, đánh giá và xếp
hạng doanh nghiệp, sự ra đời của các CRA ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với
nhu cầu và xu thế trên. Việc cung cấp những thông tin và đánh giá tín nhiệm DN có
vai trò rất quan trọng trong việc minh bạch hoá nền kinh tế. Thực tế đã cho thấy, do
không kiểm soát tốt quá trình phát triển, nhiều DN được coi là hàng đầu Việt Nam
như Dệt Long An, Epco, Minh Phụng... đã phải phá sản sau nhiều năm tồn tại. Sự
sụp đổ của các DN này đã để lại hậu quả kinh tế, xã hội rất nặng nề và phải mất
nhiều năm sau mới khắc phục hết. Đó là lý do để những công ty kinh doanh thông
tin tín nhiệm ra đời.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là vai trò của nó đối với hệ thống NHTM Việt
Nam. Chúng ta có thể nhận thấy rõ điều đó qua trường hợp của nền kinh tế Nhật
Bản. Vào những năm 90, nhiều NH lớn, công ty chứng khoán sụp đổ khiến các nhà
đầu tư hoang mang không có cơ sở đánh giá khả năng tài chính xem nên tiếp tục
duy trì tài khoản hay không. Trước bối cảnh đó, Chính phủ Nhật đã cấp phép cho
Vai trò của định mức tín nhiệm đối với hoạt động của hệ thống NHTM
các công ty ĐMTN hoạt động để đánh giá toàn bộ khả năng tài chính của các DN.
Những công ty này có kho dữ liệu khổng lồ, tập hợp toàn bộ lịch sử của các DN mà
nó nghiên cứu, trên cơ sở đó đưa ra các thông tin đáng tin cậy cho nhà đầu tư. Kết
quả là sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ của hệ thống NH và TTCK Nhật Bản.
Cho đến nay, hệ thống NH và TTCK của Nhật Bản đang được xem là một trong
những thị trường hoạt động hiệu quả vào hàng bậc nhất trên thế giới.
Sự xuất hiện của các CRA một mặt giúp cho các NH thấy rõ thực trạng hoạt
động của các DN, mặt khác vừa giúp cho các NH nhìn nhận lại bản thân mình, thấy
rõ thực lực của mình. Từ đó có thể xây dựng và điều chỉnh những kế hoạch, những
phương thức hoạt động hợp lý và an toàn. Vừa giảm được rủi ro cho hệ thống NH,
vừa giảm được gánh nặng cho cả nền kinh tế. Đó là yếu tố cần thiết giúp cho các
NH hoạt động trong một môi trường lành mạnh với mức độ an toàn cao, thúc đẩy
hoạt động của các NH ngày càng được tốt hơn.
Tuy nhiên, việc ĐMTN cũng giống như con dao hai lưỡi. Một mặt nó có thể
giúp các NH nâng cao uy tín, tạo lập thương hiệu trên thương trường. Nhưng nếu
thông tin thu thập không đầy đủ, đánh giá không khách quan thì có thể ảnh hưởng
xấu đến hình ảnh của NH. Vì vậy, trong quá trình xây dựng các CRA tại Việt Nam,
chúng ta phải bảo đảm được những yêu cầu và bản chất vốn có của một CRA. Đó là
độc lập, khách quan, tin cậy và chuyên nghiệp.
Việc hình thành và phát triển các CRA ở Việt Nam vẫn còn gặp phải rất
nhiều khó khăn. Cần phải có thời gian và kinh phí thực hiện. Những khó khăn đó
xuất phát từ chính trong nội lực của nền kinh tế Việt Nam, từ bản thân các DN và
trong chính tư tưởng của họ. Vì thế, trong giai đoạn hiện nay, việc xây dựng và phát
triển các CRA Việt Nam cần phải có sự quan tầm rất nhiều từ các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức có liên quan, sự ủng hộ từ chính các NHTM, các DN và các nhà
đầu tư Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hoàng Nga (2009). Thị trường chứng khoán, nhà xuất bản Tài Chính.
2. Lê Văn Tề, Hồ Diệu (2004). Ngân hành thương mại, nhà xuất bản Thống Kê.
3. Tạp chí kinh tế phát triển.
4. Tạp chí ngân hàng.
5. Website Ngân hàng nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn.
6. Website Bộ Tài chính: www.mof.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai tro cua Dinh muc Tin nhiem doi voi hoat dong cua he thong NHTM.pdf