Đề tài Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển CSHT nông nghiệp, nông thôn nước ta. Thực trạng và một số giải pháp huy động, sử dụng có hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển CSHT nông nghiệp nông thôn nước ta

Để đạt được mục tiêu phát triển mạnh mẽ cả về chất và lượng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO, yêu cầu bức bách đối với ngành nông nghiệp trong những năm tới phải tập trung đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống CSHT một cách đồng bộ, hiện đại phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Đầu tư CSHT dịch vụ quy mô vừa và nhỏ, hệ thống kiểm tra chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm là một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng để nông nghiệp, nông thôn nước ta tiếp tục phát triển nhanh với chất lượng và hiệu quả cao hơn, bền vững hơn, có thể ứng phó kịp thời khi có diễn biến thiên tai, dịch bệnh. Trong giai đoạn phát triển vừa qua, Nhà nước đã có nhiều cố gắng tăng mức ngân sách đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, nhưng tỷ trọng rất thấp và liên tục giảm so với các ngành kinh tế khác. Năng lực, phương thức và cơ chế quản lý vốn đầu tư nông nghiệp, cơ cấu đầu tư giữa các lĩnh vực nông lâm thuỷ lợi, cũng như sự phối hợp quản lý trung ương với địa phương trong kế hoạch dài hạn, trung hạn và kế hoạch hàng năm còn chưa phù hợp, yếu kém, chưa khắc phục được tình trạng xin, cấp. Tất cả những vấn đề trên đang là một những nhân tố làm cản trở quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn nước ta theo hướng sản xuất hàng hoá hướng ra xuất khẩu với năng suất, chất lượng, giá trị và hiệu quả cao hơn, bền vững hơn. Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng về đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước do Bộ Nông nghiệp và PTNT trực tiếp quản lý từ 1996 đến nay đã đề xuất quan điểm, phương hướng và các giải pháp để thực hiện đổi mới trong công tác quản lý nhà nước về đầu tư cơ sở hạ tầng từ ngân sách Nhà nước nhằm phát huy được hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, góp phần vào phát triển sản xuất nông nghiệp.

doc26 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1873 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển CSHT nông nghiệp, nông thôn nước ta. Thực trạng và một số giải pháp huy động, sử dụng có hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển CSHT nông nghiệp nông thôn nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I: Mở đầu Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Trong bối cảnh phát triển chung của nền kinh tế, khu vực nông nghiệp, bao gồm: nông, lâm, ngư nghiệp với gần 65% dân số, có vai trò hết sức quan trọng đối với kinh tế - xã hội của cả nước và những bước phát triển khá cao và ổn định. Từ một nền nông nghiệp tự cung tự cấp, thiếu lương thực triền miên đến nay về cơ bản đã phát triển thành một nền nông nghiệp hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, có tỷ suất hàng hoá ngày càng cao; một số mặt hàng xuất khẩu có thị phần khá lớn trong khu vực và thế giới, như: gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, thuỷ sản, đồ mộc. Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn có bước phát triển vượt bậc. Đời sống của tuyệt đại bộ phận nông dân ngày càng được cải thiện. Nông nghiệp nước ta đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, góp phần to lớn vào sự nghiệp ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm tới, ngành nông nghiệp nước ta vẫn phải tiếp tục phát triển nhanh, phải đổi mới mạnh mẽ về chất lượng; thực thi các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh và đạt hiệu quả cao của hàng hoá nông lâm sản trên thị trường trong nước và quốc tế. Để đạt được mục tiêu đó trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO, yêu cầu bức bách đối với ngành nông nghiệp trong những năm tới phải tập trung đầu tư phát triển (ĐTPT) đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng (CSHT) một cách đồng bộ, hiện đại phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Vì vậy việc nghiên cứu, phân tích thực trạng ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp tìm ra những giải pháp thích hợp trong xây dựng những chính sách cơ chế nhằm tạo ra động lực mới, huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn là nhu cầu cấp thiết nhất hiện nay. Do đó em chọn đề tài: "Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển CSHT nông nghiệp, nông thôn nước ta. Thực trạng và một số giải pháp huy động, sử dụng có hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển CSHT nông nghiệp nông thôn nước ta”, làm đề tài nghiên cứu . Phần II: Nội dung 2.1. Cơ sở lý luận của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn. 2.1.1. Khái niệm, vai trò của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn. A. Khái niệm Đầu tư phát triển CSHT (ĐTPT CSHT) được hiểu là việc thiết lập một mối quan hệ gắn kết bên trong của các nhân tố cấu trúc mà nó tạo ra được một sự hợp nhất để hỗ trợ phát triển cho toàn bộ cấu trúc đó, thì cơ sở hạ tầng là sự phân giao những dịch vụ cần thiết như là cấp nước và vệ sinh môi trường, thuỷ lợi, giao thông vận tải, năng lượng và công nghệ thông tin,.. mà những cái đó là cơ sở nền tảng cho phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ đất nước nào nói chung và riêng trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và nông thôn. Trong kinh tế vĩ mô, khái niệm đầu tư phát triển CSHT có thể được xem như kết quả của quá trình đầu tư đã làm gia tăng giá trị nguồn vốn tự nhiên của một khu vực/vùng kinh tế liên quan đến những công trình đầu tư mới như: đập nước, đường giao thông, cảng, kênh mương, cống,... Để có được đời sống kinh tế lành mạnh đảm bảo tái sản xuất mở rộng, thì toàn bộ hệ thống cơ sở hạ tầng này phải được đặt trong mối quan hệ thị trường, được vận động trong cơ chế thị trường, tự bản thân nó sẽ điều tiết và tạo ra sự dịch chuyển giá trị đồng vốn đầu tư vào quá trình vận động và sinh lợi nhuận theo thời gian. B. Vai trò - Vai trò của đầu tư phát triển nói chung: Là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng cường. Vai trò này của đầu tư phát triển được thể hiện ở hai mặt chính: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế đất nước, đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. - Vai trò của đầu tư phát triển CSHT nông nghiệp, nông thôn: + Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc tập trung đầu tư phát triển CSHT nông nghiệp, nông thôn tiếp tục trở thành bắt buộc thật sự đối với tiềm năng của sự tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề cho sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Giá trị của cơ sở hạ tầng tương xứng là một sự sống còn cho sự gia tăng nhanh phát triển kinh tế của một đất nước và sự phát triển kinh tế không còn nghi nghờ gì nữa phải phụ thuộc vào hệ thống cơ sở hạ tầng được thiết lập này. + Đầu tư phát triển CSHT nông nghiệp, nông thôn có tác dụng giúp làm thay đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi, thay đổi được tập quán canh tác lâu đời của người nông dân vùng cao, ví dụ như việc đầu tư cho thuỷ lợi sẽ giúp cho người dân có thể chủ động được nước tưới cho sản xuất lúa 2 vụ ăn chắc, giải quyết nước tưới cho cây ăn quả, cây công nghiệp đảm bảo nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, thúc đẩy việc chuyển đổi tập quán canh tác, thay đổi giống cây trồng vật nuôi. Khi đã có hệ thống cơ sở hạ tầng tốt giúp thúc đẩy việc giao lưu hàng hóa, các ngành công nghiệp chế biến bảo quản sau thu hoạch sẽ phát triển nhờ có đủ đường giao thông, điện, nước, chợ,... Ngoài ý nghĩa về mặt thúc đẩy phát triển kinh tế xoá đói giảm nghèo, mà còn ổn định đời sống dân cư, nâng cao chất lượng và đời sống văn hoá của người dân nông thôn vùng sâu vùng xa. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ sẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển nhanh hơn, tạo những đột phá mới, dựa trên những những tiến bộ kỹ thuật về giống, công nghệ canh tác, phòng trừ sâu bệnh, dịch bệnh,... 2.1.2. Căn cứ hình thành đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn. A. Đặc điểm + Đầu tư cơ sở hạ tầng đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn đủ sức tái sản xuất mở rộng, sự vận động của hệ thống cơ sở hạ tầng này sẽ đảm bảo sự gia tăng về giá trị cao hơn giá trị đồng vốn bỏ ra theo thời gian để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của toàn bộ nền sản xuất và đời sống kinh tế xã hội. + Hoạt động đầu tư CSHT cho sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực đầu tư CSHT đa ngành, đa mục đích. Ngoài việc đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển kinh tế - xã hội còn phải đảm bảo việc phát triển bền vững về môi trường và sử dụng một cách hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng trở nên cạn kiệt và bị ô nhiễm hơn như tài nguyên nước, rừng, khí hậu. + Việc đầu tư phát triển các công trình hạ tầng cần thiết tạo ra một kết cấu đồng bộ về cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy việc quản lý nguồn vốn này đòi hỏi tuân thủ các quy trình thủ tục về đầu tư xây dựng cơ bản chặt chẽ, kế hoạch phân bổ vốn phải hợp lý giữa các lĩnh vực phát triển hạ tầng với các hoạt động kinh tế - xã hội của từng chuyên ngành nhỏ trong sản xuất và dịch vụ nông nghiệp nông thôn trên từng địa bàn từng vùng. + Các công trình hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn nhưng lại rất khó thu hồi vốn. Các công trình hạ tầng đều là những công trình xây dựng quy mô lớn và trên phạm vị rộng nên thường mang tính ấn tượng cao, biểu thị sự phồn thịnh. Chính điều này việc đầu tư phát triển công trình hạ tầng sẽ dẫn tới việc “chạy dự án”, mục đích là tìm cách đầu tư công trình có quy mô lớn, nhưng không có giá trị sử dụng cho các hoạt động kinh tế và văn hoá- xã hội gây lãng nguồn lực cho sự phát triển kinh tế, dễ xảy ra nạn thất thoát tham nhũng gây hậu quả nghiêm trọng. + Trong xây dựng mỗi loại công trình hạ tầng khác nhau có những nguồn vốn đầu tư khác nhau nên việc xây dựng, quản lý, vận hành sử dụng các công trình hạ tầng bền vững cần chú ý: đảm bảo nguyên tắc là gắn quyền lợi với nghĩa vụ, thực hiện phân cấp trong xây dựng, quản lý và sử dụng, vận hành và bảo dưỡng công trình cho từng cấp chính quyền địa phương tại địa bàn để khuyến khích việc sử dụng có hiệu quả hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng. B. Nội dung Xét theo các hoạt động của đầu tư - tức là những công việc để có được các công trình cơ sở hạ tầng và khai thác ích lợi của chúng, nội dung đầu tư phát triển CSHT nông nghiệp, nông thôn bao gồm: + Quy hoạch đầu tư phát triển các cơ sở hạ tầng : Quy hoạch là sự bố trí sắp xếp một công việc một vấn đề nào đó cho một tương lai dài hạn, tuỳ theo vấn đề cần quy hoạch. Đối với quy hoạch đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, đó là sự bố trí sắp xếp về thời gian và không gian và các điều kiện vật chất để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng nào đó cho tương lai. + Huy động các nguồn lực cho ĐTPT CSHT: Đối với ĐTPT CSHT, quy hoạch là công việc có tính tiền đề. Huy động các nguồn lực cho ĐTPT CSHT là công việc tiếp theo có tầm quan trọng đặc biệt. Cùng với tổ chức triển khai các hoạt động đầu tư, huy động nguồn lực nhằm biến các ý tưởng của quy hoạch trở thành hiện thực. Nguồn lực cho ĐTPT CSHT có nhiều loại: đất đai với tư cách chỗ dựa địa điểm của các công trình; nguồn nhân lực và nguồn vốn là những yếu tố để triển khai các hoạt động xây dựng các CSHT. + Tổ chức thực hiện đầu tư các CSHT: Tổ chức thực hiện là một trong các nội dung quan trọng của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp. Vì vậy, tổ chức thực hiện ảnh hưởng rất lớn đến kết quả đầu tư các cơ sở hạ tầng của ngành. Tổ chức đầu tư phải phù hợp với các quy hoạch và kế hoạch mà trực tiếp là các dự án đầu tư, khi các vấn đề trên được xác định hợp lý và thường xuyên đánh giá để có những điều chỉnh kịp thời là nhân tố đảm bảo sự thành công của các hoạt động đầu tư và ngược lại. + Tổ chức vận hành, khai thác các công trình CSHT: Các công trình CSHT nông nghiệp sau khi xây dựng xong cần phải được tổ chức vận hành khai thác và thường xuyên duy tu, bảo dưỡng. Tất cả các nội dung từ quy hoạch đến huy động các nguồn lực, đến tổ chức xây dựng được triển khai tốt, nhưng đến khâu tổ chức khai thác thực hiện không tốt thì quá trình ĐTPT CSHT cũng không đạt được mục đích như mong muốn. Vì vậy, tổ chức khai thác các công trình của hệ thống CSHT không chí vận hành khai thác các công trình đó mà còn là mở rộng các hoạt động sản xuất và đời sống từ những hoạt động của công trình CSHT mang lại. 2.1.3. Kinh nghiệm đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở một số nước. A. ấn Độ ấn Độ đã ban hành chính sách ưu tiên, mở rộng các hình thức sở hữu tài sản có nguồn gốc sở hữu của nhà nước cho các thành phần kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư phát triển sản xuất và dịch vụ nông nghiệp, đặc biệt là đầu tư CSHT về: năng lượng, giao thông vận tải, cấp và thoát nước, thông tin liên lạc. Lĩnh vực ĐTPT CSHT thì ấn Độ là một trong những nước dẫn đầu trong khu vực Nam á. Việc đầu tư tập trung trước hết vào khâu giống lúa, rau quả và giống gia súc, phân bón và thuỷ lợi, tiếp theo là cơ giới hoá. Ví dụ như đã nâng được diện tích canh tác ổn định lâu dài từ 28,3% lên đến 42,9% (từ 1994 đến 2002), sản lượng ngũ cốc tăng khoảng 200kg/ha trong khoảng gần 10 năm từ 1994 đến 2002. Đàn trâu, bò cũng tăng nhanh bình quân khoảng 0,1%/năm giai đoạn 1986-1996. Ngành giao thông vận tải và thông tin liên lạc nhận được đầu tư lớn nhất là hình thức sở hữu có điều kiện, mà một pháp nhân hoặc một công ty liên doanh tiến hành xây dựng và điều hành một tài sản mới trong một giai đoạn lý thuyết theo hợp đồng ký. Tài sản đó có thể trở lại tài sản công sau thời gian đã thoả thuận. Loại hình sở hữu này chiếm khoảng 81% tổng số dự án và 86% tổng vốn đầu tư phát triển các dự án cơ sở hạ tầng với sự tham gia của các thành phần tư nhân trong nước. B. Trung Quốc Trung Quốc tuy là nước đi sau về công nghiệp hoá phục vụ sản xuất trong ngành nông nghiệp nhưng cũng đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc trong đầu tư phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi, cơ giới hoá nông nghiệp. Giống lúa lai của Trung Quốc đã góp phần đưa năng suất, sản lượng lúa lên cao, sản lượng lương thực tăng rất nhanh gần gấp đôi trong khu vực các nước đang phát triển 4,756 tấn/ha so với 2,595 tấn/ha (năm 2002), đảm bảo tự cung cấp đủ cho nhu cầu của hơn 1,2 tỷ người và còn thừa để xuất khẩu. Về cơ giới hoá nông nghiệp, số lượng máy kéo và máy nông nghiệp tăng nhanh và chủ yếu là sử dụng máy móc trong nước sản xuất. Mức độ cơ giới hoá làm đất của Trung Quốc năm 1995 đã đạt 55% diện tích gieo trồng. Trung Quốc đầu tư tập trung vào 4 lĩnh vực là: năng lượng, vận tải, thông tin liên lạc, cấp và thoát nước phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn. Trong đó ngành năng lượng được đầu tư nhiều nhất. C. Thái Lan ở khu vực Đông Nam á Thái Lan là nước dẫn đầu về đầu tư trang thiết bị máy móc nông nghiệp và đạt mức cơ giới hoá cao nhất so với các nước trong khu vực (thời điểm 1995). Đầu tư cho thuỷ lợi cũng được tập trung cao độ nhằm nâng cao diện tích tưới lúa nước tăng bình quân năm 2,4%. Dẫn tới năng suất ngũ cốc tính đến năm 2002 là 4,1 tấn/ha đứng đầu khu vực. Đầu tư về khoa học - công nghệ phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp trong nghiên cứu giống mới trồng trọt và chăn nuôi cũng rất được chú trọng. Những thập kỷ cuối thế kỷ 20 ĐTPT CSHT cho sản xuất nông nghiệp và nông thôn ở Thái Lan đã góp phần chuyển dịch nền sản xuất nông nghiệp truyền thống sang sản xuất nông nghiệp hàng hoá lớn hướng tới chiếm lĩnh được thị trường xuất khẩu nông sản của thế giới. Trong đó đầu tư ngành công nghệ thông tin được tài trợ nhiều nhất. 2.2. Thực trạng của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam thời gian qua. 2.2.1. Phân tích thực trạng của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam thời gian qua. - Về quy mô ĐTPT CSHT: Quy mô ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp tăng nhanh qua các năm nếu xét về trị tuyết đối, nhưng rất nhỏ bé nếu xem xét chúng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (chiếm 20%) và yêu cầu phát triển của ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. Cụ thể: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thời kỳ 1996-2005 là 397.075 tỷ đồng, trong đó thời kỳ 1996-2000 là 135.683 tỷ đồng và thời kỳ 2001-2005 là 261.392 tỷ đồng, tăng 1,92 lần. Trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, vốn đầu tư cho ngành nông lâm nghiệp và thuỷ sản thời kỳ 1996-2005 là 78.036 tỷ đồng chiếm 20% so với tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Thời kỳ 1996-2000 là 29.000 tỷ đồng và thời kỳ 2001-2005 là 49.036 tỷ đồng, tăng 1,69 lần nhưng giảm về tỷ lệ so với thời kỳ 1996-2000 khoảng 2%. Biểu đồ: Vốn đầu tư phát triển xã hội và ĐTPT cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp thời kỳ 1996-2005 - Về cơ cấu vốn ĐTPT CSHT: Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông lâm nghiệp thời kỳ 1996 - 2005 là 18.838,36 tỷ đồng. ĐTPT CSHT của 3 ngành nông lâm và thuỷ lợi là 17.868,98 tỷ đồng, chiếm 94,85%. Đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo nguồn nhân lực và trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho phát triển sản xuất nông lâm nghiệp là 969,38 tỷ đồng, chiếm 5,15%. Trong đầu tư cho nông, lâm nghiệp và thuỷ lợi, đầu tư cho thuỷ lợi là 12.957 tỷ đồng chiếm 72,51% tổng vốn đầu tư. Biểu đồ : Cơ cấu ĐTPT CSHT phục vụ nông nghiệp giai đoạn 1996-2005 Nguồn: Tổng cục Thống kê - số liệu 1996-2005& Bộ NN&PTNT. Như vậy, đầu tư từ nguồn vốn ngân sách do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý chủ yếu tập trung vào đầu tư cho thuỷ lợi. Việc tập trung đầu tư cho thuỷ lợi là phù hợp với điều kiện sản xuất lúa nước của nông nghiệp Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn vốn có hạn việc đầu tư quá tập trung vào thuỷ lợi đã dẫn đến sự phát triển không đều của hệ thống CSHT phục vụ nông nghiệp, nhất là hệ thống giao thông và các cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp khác. A. Cơ sở hạ tầng thuỷ lợi - Thực trạng ĐTPT CSHT thuỷ lợi: Trong ĐTPT CSHT, đầu tư cho thuỷ lợi được chú trọng hơn cả. Trong thời kỳ 1996-2005 tổng ĐTPT CSHT thuỷ lợi là 12.957,15 tỷ đồng chiếm 68,78% trong tổng vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng ngành nông nghiệp từ nguồn ngân sách Nhà nước do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý trong 10 năm. . Nguồn vốn đầu tư cho các công trình thuỷ nông chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số nguồn vốn đầu tư cho thuỷ lợi. Trong thời kỳ 1996-2005, Nhà nước đầu tư qua Bộ Nông nghiệp và PTNT cho công trình thuỷ nông là 10.599 tỷ đồng để đầu tư xây mới và cải tạo nâng cấp 244 công trình. Kết quả đã tăng diện tích tưới 94 nghìn ha, diện tích tiêu 146 ngàn ha, ngăn mặn 226 ngàn ha, tạo nguồn 206 ngàn ha, tăng chất lượng tưới 1.038 ngàn ha. Bảng: Tổng vốn đầu tư phát triển CSHT thuỷ lợi từ 1996-2005 Đơn vị tính: Tỷ đồng,% Nội dung đầu tư phát triển Tổng đầu tư trong 10 năm từ 1996 đến 2005 Tổng số Cơ cấu 1996 - 2000 2001 - 2005 Tổng % Tổng % ĐTPT thuỷ lợi 12.957,15 100,0 7.044,79 100.0 5.912,37 100,0 + Thuỷ nông 10.600,34 81,81 5.566,94 79,02 5.033,4 85,13 + Đê, điều 1.834,56 14,16 975,06 13,84 859,50 14,54 + Khác 522,25 4,03 502,79 7,14 19,47 0,33 Nguồn: Tổng Cục thống kê 1996-2005. Phần vốn đầu tư cho đê nhằm đảm bảo duy tu bảo dưỡng thường xuyên cho khoảng 5.700 km đê sông và hơn 3.000 km đê biển. Trong thời kỳ 1996-2000 vốn đầu tư cho đê là 975 tỷ đồng và thời kỳ 2001-2005 là 860 tỷ đồng để tu bổ cho hệ thống đê thuộc 19 tỉnh Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và hỗ trợ một phần cho các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ, với khối lượng đào đắp hàng năm trên 10 triệu m3 đất và làm kè 880 ngàn m3 đá. Vốn sự nghiệp cho duy tu và bảo dưỡng sửa chữa nhỏ là 197 tỷ đồng, đào đắp tôn tạo khoảng 1,4 triệu m3 đất và tu sửa kè 13.700 m3. Nhờ vậy, hệ thống đê của miền Bắc và Bắc Trung bộ được củng cố và nâng cấp. Tuy nhiên, hầu hết các tuyến đê biển được xây dựng đã lâu và có khả năng chống chịu các cơn bão có cường độ cấp 8-10. Trong trường hợp bão trên cấp 10, kết hợp với thời gian có bão có triều cường thì một số đoạn đê biển khó có khả năng chống chịu nổi, việc vỡ đê có thể xẩy ra. Vốn đầu tư cho thuỷ lợi cũng được cấp cho chương trình kiểm soát lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy mới triển khai trong thời gian ngắn, nhưng đã thu được kết quả khả quan, đảm bảo 2 vụ lúa ăn chắc là Đông Xuân và Hè Thu. Đồng thời đã góp phần quan trọng trong việc phát triển nông thôn mới trong vùng lũ và giảm bớt thiệt hại về người và của do lũ gây ra. B. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp - Thực trạng ĐTPT CSHT nông nghiệp + Việc ĐTPT CSHT nông nghiệp (sau đây gọi tắt là đầu tư nông nghiệp) là đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp chủ yếu trên hai mặt trồng trọt, chăn nuôi như: hệ thống giao thông nội đồng, chuồng trại, trạm trại kiểm dịch bảo vệ thực vật, thú y, hạ tầng cho nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt. Trong thời kỳ 1996-2005 tổng vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp là 3.033,94 tỷ đồng. Trước kia và trong giai đoạn 1996-2005 việc đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ cho chăn nuôi, thú y, bảo vệ thực vật chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp. Tuy nhiên, trong năm năm trở lại đây do bệnh cúm gia cầm, bệnh lở mồm long móng xuất hiện đã gây thiệt hại lớn cho sản xuất và nền kinh tế cũng như gây tác động không tốt đến đời sống xã hội và sức khoẻ cộng đồng. Chính vì vậy, Nhà nước đã bổ sung thêm nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển chăn nuôi và đề phòng dịch bệnh. Hiện tại, Ngân hàng Thế giới, FAO và Nhật Bản đã giúp Việt Nam thông qua Bộ Nông nghiệp và PTNT Dự án khắc phục khẩn cấp dịch cúm gia cầm, trị giá 8 triệu USD và DANIDA cũng nhất trí cho Bộ Nông nghiệp và PTNT sử dụng khoảng gần 1 triệu USD để mua các trang thiết bị, giống và tìm các giải pháp giúp dân khắc phục dịch nói trên và cộng đồng quốc tế đang tiếp tục cam kết tài trợ cho Việt Nam một khoản viện trợ khoảng trên 40 triệu USD cho việc khắc phục hậu quả dịch bệnh cúm gia cầm và lở mồm long móng trong những năm tiếp sau. Hiện nay do nhu cầu đòi hỏi phát triển của xã hội, ngành chế biến muối chưa được đầu tư nhiều, cơ sở hạ tầng cho sản xuất muối như đường vận chuyển, công trình, kho bãi dự trữ muối,.. cần phải có đầu tư lớn mới đáp ứng được mục tiêu là đảm bảo sản xuất và chế biến muối với chất lượng cao đáp ứng nhu cầu cho tiêu dùng, sản xuất công nghiệp, thay thế muối nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu với số lượng lớn. Chính vì vậy, ĐTPT CSHT ngành muối cũng được Nhà nước quan tâm trong thời kỳ từ 1998 đến 2005, đặc biệt là việc đầu tư đường giao thông đường vận chuyển muối, kho dự trữ muối ở Quán Thẻ (Ninh Thuận), Quỳnh Lưu (Nghệ An) và một số khu sản xuất muối miền Trung. Bảng : Tổng vốn ĐTPT CSHT nông nghiệp từ 1996 - 2005 Đơn vị tính: Tỷ đồng,% Nội dung đầu tư phát triển Tổng đầu tư trong 10 năm từ 1996 đến 2005 Tổng số Cơ cấu (%) 1996-2000 2001-2005 Tổng % Tổng % ĐTPT Nông nghiệp 3.033,95 100.0 809,86 100 2.224,08 100 - Trong nước 840,53 27,7 308,95 38,1 531,58 23,9 - Nước ngoài 1.520,38 50,1 491,27 60,6 1.029,10 46,3 - Chương trình giống 613,00 20,2 613,00 27,6 - Chương trình NS&VSMT NT 60,037 0,2 9,64 1,3 50,40 2,2 Nguồn: Tổng Cục thống kê 1996-2005 Về đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ lai tạo, nhân giống tốt cho ngành sản xuất nông lâm nghiệp: Ngày 10/12/1999 Thủ Tướng Chính phủ đã có Quyết định số 225/1999/QĐ-TTg, về việc phê duyệt chương trình giống cây trồng, vật nuôi và giống cây lâm nghiệp thời kỳ 2000-2005. Đây là một chương trình nghiên cứu khoa học và phát triển giống được sự đầu tư hoàn thiện từ nghiên cứu đến ứng dụng sản xuất bằng ngân sách Nhà nước đầu tiên của ngành nông nghiệp. Đầu tư cơ sở hạ tầng Chương trình Mục tiêu Quốc gia về NS & VSMTNT: Bộ Nông nghiệp và PTNT trực tiếp quản lý hai chương trình là trồng rừng 5 triệu ha và Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn. Trong đó chương trình trồng 5 triệu ha sẽ được trình bày ở phần cơ sở hạ tầng lâm nghiệp. Chương trình NS và VSMTNT chủ yếu đầu tư xây dựng công trình cấp nước phục vụ sinh hoạt, các công trình vệ sinh môi trường được đầu tư chiếm tỷ lệ rất thấp. C. Cơ sở hạ tầng lâm nghiệp Vốn đầu tư phát triển Lâm nghiệp theo dự án: Tổng đầu tư lâm nghiệp trong thời kỳ 1996-2005 là 1.877,89 tỷ đồng. Thời kỳ 1996-2000 vốn đầu tư là 778,28 tỷ đồng và tăng lên 1.100 tỷ đồng vào thời kỳ 2001-2005, tăng 1,4 lần so với thời kỳ 1996-2000. Tổng vốn đầu tư cho lâm nghiệp từ nguồn vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ cao. Điều này cho thấy, phần vốn đầu tư nước ngoài góp phần rất quan trọng và hiệu quả trong việc nâng cao độ che phủ rừng đảm bảo mục tiêu an toàn xã hội và môi trường. Phần đầu tư tập trung từ nguồn vốn do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý, tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng cho hệ thống chín (9) Vườn quốc gia (hiện nay còn 7 Vườn), Viện Khoa học Lâm nghiệp với 11 trung tâm trực thuộc, Viện Điều tra Quy hoạch rừng và 3 Trung tâm quản lý bảo vệ rừng. Hệ thống cơ sở hạ tầng này chủ yếu phục vụ cho nhu cầu bảo vệ môi trường rừng, duy trì và bảo tồn nguồn gen thực vật và động vật phục vụ nghiên cứu khoa học và du lịch sinh thái, công trình công ích, không thu lợi nhuận. Bảng: Tổng vốn đầu tư phát triển Lâm nghiệp thời kỳ 1996-2005 Đơn vị tính: tỷ đồng Nội dung đầu tư Đầu tư trong 10 năm (1996 – 2005) Tổng số Cơ cấu 1996 - 2000 2001 - 2005 Tổng % Tổng % ĐTPT Lâm nghiệp 1.877,89 100,0 778,28 100,0 1.099,61 100,0 - Trong nước 204,44 10,9 95,19 12,2 109,25 9,94 - Nước ngoài 1.468,81 78,2 607,02 78,0 861,80 78,37 - Chương trình 661 186,22 9,9 67,31 8,7 118.91 10,8 - Hạ tầng phục vụ SX 18,42 1,0 8,77 1,1 9,65 0,79 Nguồn: Tổng Cục thống kê 1996-2005. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ trực tiếp sản xuất lâm nghiệp như  đường vận chuyển khai thác, kho bãi gỗ, vườn ươm, các công trình phòng chống và bảo vệ rừng, trang thiết bị chống cháy rừng chiếm tỷ trọng thấp (khoảng dưới 5%), nên năng suất cho trồng rừng, khai thác vận xuất rất thấp và ở trình độ rất lạc hậu. Phần rừng phòng hộ giao cho địa phương quản lý bảo vệ từ nguồn ngân sách của địa phương, song ngân sách của địa phương rất hạn chế nên việc bảo vệ và chăm sóc rừng cũng như không đủ kinh phí cho việc duy tu bảo dưỡng cơ sở hạ tầng lâm sinh ở các vùng do địa phương quản lý. Đầu tư phát triển theo Chương trình: Vốn đầu tư cho Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, được Quốc Hội thông qua tại kỳ họp thứ hai, khoá X và được Chính phủ phê duyệt cho thực hiện tai Quyết định 661 QĐ/TTg, ngày 29/7/1998. Đến thời điểm năm 2005 Chương trình mới thực hiện được 63% về diện tích trồng rừng, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng nguyên nhân chính là vốn đầu tư theo kế hoạch so với tổng mức đầu tư ban đầu mới chỉ đạt 39%. Tỷ lệ đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất lâm nghiệp thì rất ít, chỉ một số dự án mang tính chất đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội tổng hợp cho vùng sâu, vùng miền núi và chỉ dự án vốn vay mới đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn, ví dụ như dự án Bảo vệ rừng và phát triển nông thôn vay WB thực hiện tại 6 tỉnh miền đông nam bộ đã đầu tư làm 339 km đường, 22 cái cầu, 27 công trình thuỷ lợi nhỏ, tưới tiêu cho 4.043 ha; 17,51km đường điện và 8 trạm điện; 552 giếng nước sạch, 7,3 km kênh mương và 10.170 m2 trường học, trạm xá. D. Đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật Tổng đầu tư cho cơ sở hạ tầng các Viện nghiên cứu khoa học nông lâm nghiệp và thuỷ lợi từ 1996 đến nay là 344,85 tỷ đồng, chiếm 0,82%/ năm trong tổng nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý, bình quân khoảng 35 tỷ đồng/năm. Nguồn vốn đầu tư quá thấp so với nhu cầu phát triển mặt hàng nông lâm sản có giá trị, chất lượng cao, nhất là trong giai đoạn phát triển khoa học kỹ thuật cao. Với nguồn vốn này phải đầu tư cơ sở hạ tầng cho 22 Viện và 20 trung tâm nghiên cứu khoa học và thực nghiệm nằm rải rác trên khắp 64 tỉnh thành của cả nước. Các dự án này chủ yếu ĐTPT CSHT nhà điều hành và trang thiết bị cho các phòng thí nghiệm của các Viện và các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp, phục vụ cho việc nhân giống cây trồng, cây lương thực như: lúa lai, lạc, đậu tương, khoai tây, ngô. E. Đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật khác Cùng với đầu tư về thuỷ lợi, nông lâm nghiệp, nghiên cứu khoa học, Bộ nông nghiệp còn quản nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp và mục đích khác như hạ tầng phục vụ giáo dục và đào tạo, hạ tầng về triển lãm và xúc tiến thương mại, hạ tầng về văn hoá thông tin. Trong thời kỳ 1996 - 2005, tổng nguồn vốn đầu tư cho các hạ tầng khác là 380,8 tỷ đồng, trong đó thời kỳ 1996-2000 là 156,7 tỷ đồng và thời kỳ 2001-2005 là 244 tỷ đồng tăng 1,6 lần so với thời kỳ trước. Các loại cơ sở hạ tầng này chủ yếu phục vụ cho dịch vụ sản xuất nông nghiệp hơn là trực tiếp tham gia vào phục vụ quá trình sản xuất nông lâm nghiệp. . 2.2.2. Kết quả đạt được của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam thời gian qua. Trong thời gian qua, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp từ nguồn vốn ngân sách do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý đã có những chuyển biến theo hướng tích cực. Trong đầu tư chung, nhất là đầu tư CSHT phục vụ cho trồng trọt Bộ đã chú ý đầu tư cho các hạng mục hạ tầng thiết yếu, với sự tập trung cao trong đầu tư cho thuỷ lợi và trong thuỷ lợi đã tập trung phục vụ cho sản xuất lúa - một hoạt động chủ yếu của sản xuất nông nghiệp. Do tập trung đầu tư CSHT thuỷ lợi giai đoạn vừa qua nên đã chủ động được nước tưới, tiêu hai ba vụ cho lúa và cây lương thực góp phần nâng cao được năng suất lúa, năng suất cây lượng thực làm gia tăng giá trị sản xuất nông nghiệp năm sau cao hơn năm trước và tỷ lệ tăng tương đối ổn định (tốc độ tăng khoảng 5,4%/năm). Mặc dù, trong thực tế là diện tích trồng lúa giảm khoảng gần 400 nghìn ha (từ năm 2000 đến 2005), nhưng sản lượng lúa vẫn tăng. Vấn đề an ninh lương thực được đảm bảo và kết quả, hiệu quả xuất khẩu lúa, gạo ngày càng tăng. Trong chăn nuôi, đầu tư CSHT cho chăn nuôi qua Bộ NN & PTNT quản lý chủ yếu tập trung vào khâu nghiên cứu lưu giữ giống gốc, chọn tạo giống mới, giống thương phẩm chất lượng tốt phục vụ nhu cầu của thị trường. Số lượng đàn gia súc, gia cầm tăng nhanh khoảng trên 1% trong giai đoạn 5 năm (2000-2005) Đầu tư cho lâm nghiệp cũng có những chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư của giai đoạn 2001-2005 so với giai đoạn 1996-2000, mặc dù tổng vốn đầu tư của giai đoạn 2001-2005 giảm. Việc tập trung nguồn vốn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho các Chương trình hạ tầng của các vườn quốc gia, cho duy trì bảo tồn các nguồn gen thực vật và động vật rừng, cho diện tích rừng phòng hộ xung yếu và rừng đặc dụng là những hướng đầu tư đúng. Có thể nói, sự chuyển biến của nông lâm nghiệp nước ta trong những năm 1996-2005 là rất đáng khích lệ. Đóng góp vào sự chuyển biến đó của nông, lâm nghiệp có sự tác động của kết quả của ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp nói chung, ĐTPT CSHT từ nguồn vốn ngân sách do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý nói riêng. 2.2.3. Hạn chế còn tồn tại của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam thời gian qua. Tuy ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp đạt được những kết quả trên, nhưng thực tế vẫn còn những tồn tại và đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Cụ thể: Một là, nhu cầu đầu tư cho nông lâm nghiệp về CSHT là rất lớn, nguồn vốn huy động từ nội lực nông lâm nghiệp có những hạn chế. Nguồn vốn từ ngân sách cho ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp có vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đầu tư từ nguồn ngân sách còn hạn chế. Tổng nguồn vốn ĐTPT CSHT cho sản xuất nông lâm nghiệp mới chỉ đáp ứng khoảng trên 65% nhu cầu kế hoạch đặt ra. Hai là, vẫn còn những thiên lệch trong đầu tư các công trình CSHT trong các ngành nông lâm nghiệp và trong các vùng sinh thái. Việc quá tập trung cho thuỷ lợi và trong thuỷ lợi lại tập trung vào cây lúa dẫn đến các cây trồng khác chưa được chú trọng đúng mức, nhất là các cây công nghiệp và cây ăn quả. Tình trạng trên đã dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất như cà phê, cây ăn quả bị khô hạn, năng suất thấp… Trong đầu tư cho lâm nghiệp, đầu tư CSHT lâm nghiệp (lâm sinh) chưa được chú ý đầu tư xứng đáng chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng nguồn đầu tư trồng rừng (khoảng 3 đến 5%), trong giai đoạn từ 2006 – 2010 cần nâng tỷ lệ vốn đầu tư CSHT lâm sinh lên trên 15% tổng đầu tư trồng rừng thì mới có thể tạm thời đáp ứng được nhu cầu tối thiểu về CSHT cho trồng rừng, chưa nói đến các CSHT này còn phải làm nhiệm vụ đa mục tiêu phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế , xã hội cho địa bàn đầu tư của vùng. Đầu tư CSHT cho Nông nghiệp cũng trong tình trạng tuơng tự, vẫn chưa thực sự tập trung đầu tư CSHT cho nghiên cứu chiều sâu chuyển giao công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học phát triển nhân tạo giống cây, giống con có năng suất chất lượng cao, ổn định và an toàn vệ sinh dịch bệnh đáp ứng được nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu. Ba là, phân bổ vốn đầu tư luôn phải dàn trải, tiến độ dự án kéo dài,..đi kèm theo đó là việc đồng vốn đầu tư sẽ không phát huy được hiệu quả theo như dự kiến gây lãng phí cho ngân sách nhà nước. Đặc biệt trong những năm từ 2003 đến 2006 các công trình đầu tư CSHT thuỷ lợi từ nguồn trái phiếu chính phủ lại thừa vốn, “ vốn đầu tư chờ công trình” tỷ lệ giải ngân đạt rất thấp khoảng 20%. Bốn là, các công trình đầu tư từ ngân sách nhà nước luôn được đánh giá là nơi đầu tư kém hiệu quả nhất, lãng phí đầu tư nhất. Đầu tư CSHT cho phát triển sản xuất và dịch vụ nông nghiệp chưa thật sự bền vững, cân bằng môi trường bị phá huỷ thiên tai dịch bệnh luôn xảy ra, luôn bị động trong việc đối phó phòng chống mà vẫn chưa có giải pháp thích hợp nào để hạn chế, khắc phục. Năm là, công tác quản lý nhà nước trong đầu tư nói chung và trong ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp nói riêng còn rất nhiều sở hở, chưa thống nhất từ trung ương đến địa phương về phương thức quản lý kém hiệu lực, thủ tục đầu tư phức tạp,...Việc phân cấp quản lý, giao quyền và chịu trách nhiệm của từng cấp làm chưa triệt để, chủ đầu tư chủ yếu chỉ tập trung vào chạy vốn, chạy công trình/dự án còn đầu tư có đúng mục tiêu, định hướng phát triển không thì hầu như không được quan tâm. 2.3. Giải pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn. 2.3.1. Quan điểm đối với hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam. - Đổi mới ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp phải đặt trong quá trình đổi mới đầu tư chung của ngành nông nghiệp và của nền kinh tế. CSHT nói chung, CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp nói riêng là một hệ thống thống nhất bao gồm nhiều hạng mục công trình (thuỷ lợi, giao thông, điện, nước…) giữa chúng có mối quan hệ với nhau, đòi hỏi có sự kết hợp với nhau. Trong mỗi công trình, bao gồm các công trình từ hệ thống quốc gia đến hệ thống của các địa phương và hệ thống công trình phục vụ nội bộ trong từng cơ sở kinh doanh nông nghiệp. Tất cả những công trình này phải có sự gắn kết với nhau, với mục đích cuối cùng là phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và những nhu cầu khác. - Đổi mới ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp phải đáp ứng tốt yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp. Hiệu quả cuối cùng của ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp là sự phát triển của nông nghiệp. Cần phải thấy rằng, nông nghiệp, nông thôn đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp là một trong các nội dung quan trọng của quá trình đó. ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp chịu sự tác động của nhiều nhân tố trong đó có sự tác động, chi phối của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đối với nông nghiệp, nông thôn. Đó vừa là mục tiêu, vừa là đối tượng phục vụ của xây dựng các CSHT trong nông nghiệp, nông thôn. - Đổi mới ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp phải gắn chặt giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội và môi trường. Sản xuất nông nghiệp trải trên không gian rộng lớn, với các điều kiện về nguồn lực khác nhau. Vì vậy, trong những điều kiện nhất định, nhất là khi nguồn lực đầu tư có hạn cần phải có sự cân nhắc giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả về xã hội trong đầu tư. Đặc biệt là những cơ sở hạ tầng vừa phục vụ cho sản xuất kinh doanh, vừa phục vụ cho đời sống (giao thông, điện, thuỷ lợi, cấp nước sạch,…). Trên thực tế, nếu chỉ chú ý đến hiệu quả kinh tế trong đầu tư nói chung, ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp nói riêng sẽ không đạt mục tiêu hiệu quả về xã hội và ngược lại. - Đổi mới ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp phải dựa trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nói chung, ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp nói riêng đòi hỏi nguồn vốn rất lớn. Trong khi đó CSHT phục vụ sản xuất lại bao gồm hệ thống từ các công trình quốc gia đến các công trình trong từng cơ sở kinh doanh nông nghiệp. Hoạt động sản xuất nông nghiệp diễn ra trực tiếp trong các cơ sở kinh doanh nông nghiệp đòi hỏi hệ thống hạ tầng trong từng cơ sở kinh doanh nông nghiệp phải đáp ứng tốt yêu cầu của sản xuất. Yêu cầu trên đòi hỏi tính hệ thống của các công trình và yêu cầu nguồn vốn lớn cho ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp trở thành cấp thiết. - Đổi mới ĐTPT CSHT ngoài phục vụ sản xuất nông nghiệp các công trình CSHT phải đáp ứng phục vụ đa mục tiêu. Vì đặc điểm của các công trình CSHT được đầu tư trên một vùng lãnh thổ rộng lớn mà ở đó không chỉ có các hoạt động sản xuất nông nghiệp đang diễn ra mà còn rất nhiều các hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành nghề khác nhau, cuộc sống sinh hoạt văn hoá - xã hội của các cơ quan tổ chức xã hội của cộng đồng dân cư nên nó không chỉ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp mà còn phải đáp ứng phục vụ đa mục tiêu về bảo vệ môi trường sống, giảm nhẹ thiên tai, có ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển bền vững của nền kinh tế - văn hoá - xã hội trên địa bàn. 2.3.2. Giải pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam. - Đổi mới phương thức phân bổ vốn đầu tư: Qua nghiên cứu ta thấy nhu cầu đầu tư cho nông lâm nghiệp về CSHT là rất lớn, nguồn vốn huy động từ nội lực nông lâm nghiệp có những hạn chế. Nguồn vốn từ ngân sách cho ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp có vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, đầu tư từ nguồn ngân sách còn hạn chế. Tổng nguồn vốn ĐTPT CSHT cho sản xuất nông lâm nghiệp mới chỉ đáp ứng khoảng trên 65% nhu cầu kế hoạch đặt ra, những tác động tiêu cực do điều kiện thời tiết, khí hậu gây ra vì thế không được ngăn chặn kịp thời, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất. Vì vậy, đổi mới phân bổ vốn đầu tư theo hướng tăng cho những vùng trọng yếu về đảm bảo an toàn môi trường cho các ngành phát triển sản xuất và cho xã hội là một trong các giải pháp hết sức quan trọng nhằm tạo thêm nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp nói chung, ĐTPT CSHT nông nghiệp nói riêng. - Đổi mới phương thức huy động vốn đối ứng cho ĐTPT CSHT: ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp từ nguồn vốn ngân sách có vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, do nguồn vốn có hạn nên việc lập các nguồn vốn bổ sung từ nguồn vốn nước ngoài, vốn đối ứng từ các nguồn trong đó chủ yếu là vốn trong dân có vai trò hết sức quan trọng. Theo kinh nghiệm của các nước trong khu vực thì việc mở rộng và đa dạng hoá các loại hình thức sở hữu các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn, thị trường hoá thị trường vốn đầu tư cơ sở hạ tầng sẽ tạo ra được môi trường thu hút đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là trong giai đoạn phát triển tới thì việc mở cửa thị trường hội nhập với nền kinh tế thế giới là xu thế bắt buộc, không thể cưỡng lại được. Từ những vấn đề trên, cần tập trung vào các vấn đề sau để thu hút nguồn vốn, trong đó có nguồn vốn nước ngoài. Hiện nay, vốn huy động từ ngân sách Nhà nước là nguồn đầu tư phát triển chủ yếu ở Việt Nam, mang tính định hướng, quy mô lớn và tập trung nhất. Nguồn huy động của người dân vào đầu tư phát triển đã có quy định cụ thể về cơ chế đóng góp vốn đối ứng từ nhân dân là những người trực tiếp hưởng lợi từ kết quả của các Chương trình, dự án. Nguồn vốn huy động từ tư nhân gồm: doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình, kinh doanh cá thể tự đầu tư,...Trong khoảng hơn chục năm nay, nguồn vốn này ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Do đặc điểm sản xuất nông nghiệp và nông thôn chủ yếu là quy mô nhỏ, phân tán và rủi ro cao nên việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân và phục vụ tại chỗ. Các ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân làm vai trò trung gian tài chính huy, động và cung cấp vốn cho các cá nhân, hộ gia đình này hình thành nên kênh lưu chuyển tiền từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn. - Đổi mới quản lý nhà nước các dự án ĐTPT CSHT: Đổi mới hệ thống văn bản pháp luật quản lý nhà nước về đầu tư. Công cụ để nâng cao công tác quản lý nhà nước, giám sát kết quả đầu tư là hệ thống văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn dưới luật. Phân định rõ vai trò các cơ quan, các ngành trong quản lý đầu tư. Nhà nước cần có cơ chế chính sách nhằm thị trường hoá về đầu tư, đa dạng hoá hình thức sở hữu tài sản của Nhà nước với các thành phần kinh tế khác, cũng như việc khuyến khích kêu gọi đầu tư phát triển từ mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Cần thực hiện một cách tổng hợp các quản lý nhà nước về ĐTPT CSHT. Các hoạt động đó không chỉ là những hoạt động xây dựng mà bao gồm từ quy hoạch hệ thống CSHT đến huy động và sử dụng các nguồn lực cho xây dựng các CSHT. Từ tổ chức xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng đến vận hành, sử dụng và bảo dưỡng các CSHT đó. - Đổi mới tổ chức thực hiện ĐTPT CSHT: Để xây dựng hệ thống CSHT cần phải tiến hành những công việc sau: Quy hoạch xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Lựa chọn ưu tiên xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng. Lập và thẩm định các dự án đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Tạo nguồn vốn thực hiện các dự án đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Tổ chức thực hiện và quản lý các dự án đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Như vậy, tổ chức thực hiện ĐTPT CSHT là một trong các nội dung của xây dựng hệ thống CSHT cho nông nghiệp, nông thôn. Đó là quá trình biến các ý tưởng đầu tư, các dự án đầu tư thành hiện thực. Vì vậy, quá trình thực hiện đầu tư có quan hệ chặt chẽ với những công việc chuẩn bị đầu tư và khai thác các CSHT sau khi đã thực hiện đầu tư xong. - Đổi mới, hoàn thiện hoạt động quản lý, sử dụng vốn vay: Về quản lý vĩ mô nguồn vốn vay ưu đãi cần thống nhất tập trung vào một ngân hàng là Ngân hàng Chính sách xã hội để giám sát chặt chẽ nguồn vốn vay ưu đãi thông qua các tổ chức trung gian tài chính đảm bảo đồng vốn cho vay đến trực tiếp với từng hộ gia đình và người nghèo được đầu tư đúng với đề xuất hỗ trợ của mình đồng thời giám sát quá trình thu hồi nợ. Về sử dụng nguồn vốn ODA cho ĐTPT CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp và nông thôn mang tính dài hạn cần làm rõ cơ chế đóng góp của phía nhà đầu tư nước ngoài và phần vốn đối ứng của địa phương để các nhà đầu tư có thể yên tâm đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn là lĩnh vực đầu tư rủi ro cao. - Đổi mới khai thác và tạo nguồn duy tu, bảo dưỡng, vận hành các công trình hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp: Các CSHT cho nông nghiệp, nông thôn trải trên không gian rộng lớn, nhiều nơi thuộc vùng núi, vùng sâu vùng xa. Vì vậy, chúng chịu sự tác động rất lớn của các điều kiện thời tiết khí hậu, nó rất nhanh bị xuống cấp, hư hỏng cần có sự tu bổ kịp thời. Với những đặc điểm trên, cần tổ chức tốt các hoạt động khai thác các công trình CSHT đã được xây dựng phục vụ cho sản xuất và đời sống dân cư trong vùng. Xây dựng quy chế quản lý vận hành, cơ chế tài chính cho công tác duy tu bảo dưỡng thường xuyên cho từng công trình CSHT hoạt động bền vững. Có biện pháp bảo vệ các công trình CSHT trước sự xâm hại của tự nhiên (mưa, gió, lũ, lụt...), của con người và gia súc. ứng khoa học công nghệ mới, vật liệu mới trong quá trình thiết kế, xây lắp, vận hành đảm bảo độ bền vững của công trình, tiết kiệm nguyên nhiên liệu trong quá trình khai thác sử dụng. Đào tạo nâng cao năng lực thường xuyên cho lực lượng cán bộ vận hành sử dụng. Bổ sung nâng cấp trang thiết bị phục vụ công tác quản lý vận hành cũng như công tác sửa chữa bảo dưỡng duy tu. Xây dựng cơ chế chính sách, cơ chế tài chính thưởng phạt minh bạch đối với quá trình khai thác sử dụng các công trình CSHT. Phần III: Kết Luận Để đạt được mục tiêu phát triển mạnh mẽ cả về chất và lượng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO, yêu cầu bức bách đối với ngành nông nghiệp trong những năm tới phải tập trung đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống CSHT một cách đồng bộ, hiện đại phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Đầu tư CSHT dịch vụ quy mô vừa và nhỏ, hệ thống kiểm tra chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm là một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng để nông nghiệp, nông thôn nước ta tiếp tục phát triển nhanh với chất lượng và hiệu quả cao hơn, bền vững hơn, có thể ứng phó kịp thời khi có diễn biến thiên tai, dịch bệnh. Trong giai đoạn phát triển vừa qua, Nhà nước đã có nhiều cố gắng tăng mức ngân sách đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, nhưng tỷ trọng rất thấp và liên tục giảm so với các ngành kinh tế khác. Năng lực, phương thức và cơ chế quản lý vốn đầu tư nông nghiệp, cơ cấu đầu tư giữa các lĩnh vực nông lâm thuỷ lợi, cũng như sự phối hợp quản lý trung ương với địa phương trong kế hoạch dài hạn, trung hạn và kế hoạch hàng năm còn chưa phù hợp, yếu kém, chưa khắc phục được tình trạng xin, cấp. Tất cả những vấn đề trên đang là một những nhân tố làm cản trở quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn nước ta theo hướng sản xuất hàng hoá hướng ra xuất khẩu với năng suất, chất lượng, giá trị và hiệu quả cao hơn, bền vững hơn. Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng về đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước do Bộ Nông nghiệp và PTNT trực tiếp quản lý từ 1996 đến nay đã đề xuất quan điểm, phương hướng và các giải pháp để thực hiện đổi mới trong công tác quản lý nhà nước về đầu tư cơ sở hạ tầng từ ngân sách Nhà nước nhằm phát huy được hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, góp phần vào phát triển sản xuất nông nghiệp. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Ninh Tuấn (2002), "Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta trong thời gian qua và những giải pháp thúc đẩy nó phát triển hơn nữa", (2), Tạp chí Nông nghiệp & PTNT, trang 105 - 107. Bộ Kế hoạch & Đầu tư (2005), Kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn 5 năm 1996 - 2000 và 5 năm 2006 - 2010. 3. Bộ Nông nghiệp & PTNT (1999 và 12/2000), Báo cáo kế hoạch phát triển Nông nghiệp, nông thôn 5 năm 1996-2000 và 2001 - 2005 và giai đoạn phát triển 2006 - 2010. Trần Ngọc Bút (2002), Chính sách nông nghiệp nông thôn Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX và một số định hướng đến năm 2010, NXB chính trị quốc gia, 2002. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Đặng Thị Loan, Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986-2006) Thành tựu và những vấn đề đặt ra, NXB Đại học KTQD, 2006. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (1998), Bộ môn kinh tế đầu tư, Nguyễn Ngọc Mai, Giáo trình kinh tế đầu tư, NXB giáo dục, 1998. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (1999), Bộ môn Kinh tế phát triển, Giáo trình Chương trình và dự án phát triển kinh tế-xã hội, NXB thống kê, 1999. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2002), Khoa Kinh tế Nông nghiệp & PTNT, Nguyễn Thế Nhã - Vũ Đình Thắng, Giáo trình Kinh tế nông nghiệp, NXB thống kê, 2002. Khoa Kinh tế Nông nghiệp & PTNT, Nguyễn Thế Nhã - Vũ Đình Thắng, Giáo trình Kinh tế nông nghiệp, NXB thống kê, 2002. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2002), Khoa Kinh tế nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Vũ Đình Thắng - Hoàng Văn Định, Giáo trình kinh tế phát triển nông thôn, NXB thống kê, 2002. mục lục Trang Phần I: Mở đầu 1 Phần II: Nội dung 2 2.1. Cơ sở lý luận của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn..........................................................................2 2.1.1. Khái niệm, vai trò của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn.............................................................................2 2.1.2. Căn cứ hình thành đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn..............................................................................................3 2.1.3. Kinh nghiệm về đầu tư cơ sở hạ tầng cho phát triển sản xuất nông nghiệp ở các nước trong khu vực châu á 6 2.2. Thực trạng của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam thời gian qua.......................................7 2.2.1. Phân tích thực trạng của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam thời gian qua....................................7 2.2.2. Kết quả đạt được của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam thời gian qua..................................15 2.2.3. Hạn chế còn tồn tại của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam thời gian qua..................................16 2.3. Giải pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn.....................18 2.3.1. Quan điểm đối với hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam...............................................................18 2.3.2. Giải pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại của hoạt động đầu tư phát triển CSHT phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam.........20 Phần III: Kết luận 24 Danh mục Tài liệu tham khảo 25

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25053.doc
Tài liệu liên quan