Đối với nước đang phát triển thường có số dân đông, tốc độ tăng dân số nhanh. Cung lao động dồi dào, giá lao động rẻ.Tuy nhiên ở hầu hết các nước này, lao động lại chưa phải là động lực mạnh cho tâưng trưởng và phát triển kinh tế, nhất là các nước mà lao động nông nghiệp – nông thôn còn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lực lượng lao động.
Lao động nhiều nhưng có biểu hiện của sự “dư thừa” hay tình trạng thiếu việc làm. Lao động với năng suất thấp, phần đóng góp của góp của lao động trong tổng thi nhập còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế chậm phát triển, các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng việc làm chậm được cải thịên, bổ sung thạm chí còn suy giảm (như quỹ đất đai trong nông nghiệp). Mặt khác, quan hệ lao động và thị trường lao động, nhất là ở nông thôn chậm phát triển cũng là nhân tố làm hạn chế vai trò của lao động.
Chất lượng lao động gắn liền với giáo dục trong khi đó chỉ số dục của Việt Nam bị giảm từ 0,825 xuống 0,815. Cho đến nay chưa có những số liệu đánh giá cụ thể, nhưng theo Báo cáo tại Hội thảo về Chất Lượng giáo dục (Bộ Kế hoạch và Đầu tư 11/2003), cho thấy chỉ số tổng hợp về chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực của Việt Nam không cao, chỉ đạt 3,79 ( tính theo thang điểm 10); sự thành thạo về tiếng Anh đạt 2,62; sự thành thạo công nghệ cao đạt 2,50. Trong số 12 nước châu á đưa vào bảng thống kê, Việt Nam đứng thứ 11. Hàn Quốc đứng đầu với chỉ số tổng hợp chất lượng giáo dục là 6,91 điểm, Singapo thứ 2 (6,81), song lại dẫn đầu về thành thạo tiếng Anh (8,33) và thành thạo công nghệ cao (7,83).
37 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1121 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của lao động với phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển và trong điều kiện Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rất thấp: 300người/ doanh nghiệp, trong khi đó ở Mỹ là 10/1, Hồng Kông là 5/1, trung bình các nước là 80/1.
Số người tự làm việc còn chiếm đa số
Nói đến thị trường lao động thương nói đến “việc làm được trả công” và “tự làm”. Nhưng người “tự làm” đa số hoạt động trong khu vực nông nghiệp, và có nhiều lao động nữ tham gia.
Bảng 1 : Cơ cấu việc làm của Việt Nam chia theo vị thế công việc giai đoạn 2000-2005
Năm
Số lượng
Cơ cấu(%)
Cơ cấu chia ra (%)
Làm công khu vực nhà Nước
Làm công khu vực ngoài Nhà nước
Chủ sử dụng lao động
Tự làm việc cho bản thân
Làm việc gia đình không lương
Việc khác không phân loại
2000
38.367
100
9,33
9,10
0,21
43,02
37,04
1,30
2001
39.001
100
9,46
11,25
0,30
40,34
37,20
1,45
2002
40.162
100
10,08
10,33
0,39
40,45
37,90
0,85
2003
41.175
100
10,06
11.81
0,35
41,12
35,87
0,79
2004
42.315
100
10,26
15,31
0,51
41,21
32,71
0,00
2005
43.452
100
10,17
15,48
0,40
40,96
32,99
0,00
Nguồn: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Trong bảng phân loại của OLS vị thế công việc phân biệt ba loại việc làm quan trọng và hữu ích, đó là: Làm công (hay còn gọi là làm thuê); Tự tạo việc làm, và làm việc gia đình không hưởng công. Tự tạo việc làm lại được chia thành 3 nhóm nhỏ: (i) chủ sử dụng lao đông,(ii) lao động làm việc cho bản thân, và (iii) thành viên các hợp tác xã sản xuất.Việc làm được hưởng lương, tăng lên đáng kể. Số người làm công trong khu vực Nhà nước tăng dần lên theo các năm, năm 2000 là 8,45% và năm 2005 là 10,17%. Lao động làm công trong khu vực ngoài Nhà nước cũng tăng từ 8,33% năm 2000 đến 15,48% năm 2005. Tuy nhiên lực lượng tự làm việc cho bản thân và cho gia đình không hưởng lương (tức là việc làm không chuyên nghiệp) vẫn chiếm tỷ trọng cao, khoảng 75%, chứng tỏ khu vực kinh tế tự do không được tổ chức ởnước ta chiếm đa số. Đây cũng là điểm khác biệt rất cơ bản so với thế giới.
2.4.Thị trường lao động phức tạp
Thị trường lao động ở các nước đang phát triển cơ bản được chia thành ba khu vực như sau:
-Thị trường lao động khu vực thành thị chính thức bao gồm các tổ chức, đơn vị kinh tế có qui mô tương đối lớn và hoạt động ở nhiều lĩnh vực sản xuất: công nghiệp, xây dựng ,dịch vụ (ngân hàng, bảo hiểm, giáo dục, y tế, du lịch,..) và lĩnh vực quản lí.
-Thị trường lao động khu vực thành thị không chính thức bao gồm các tổ chức (đơn vị) có qui mô nhỏ hoặc rất nhỏ, hoạt động rất đa dạng.
Khu vực này có thể tạo được việc lamf cho những người di cư từ nông thôn ra. Tuy nhiên đa số những người làm việc trong khu vực thành thị không chính thức là người dân ở thành thị không có vốn để sản xuất kinh doanh và trình độ chuyên môn của họ thấp hoặc không có. Thâm nhập vào khu vực thành thi không chính thức là điều dễ dàng, chỉ với một số vốn nhỏ người ta có thể bán hàng rong ngoài phố, đạp xích lô hoặc làm một loạt các công việc khác. Đối với những người khôg có vốn cần thiết để tự tạo việc làm, thì vẫn có cơ hội làm việc cho những người khác. Do đó khu vực thành thị không chính thức có khả năng cung cấp một khối lượng lớn việc làm nhưng với mức tiền công thấp. Thị trường khu vực không chính thức đã phát triển góp phần tạo việc làm và thu nhập. Ví dụ, ở vùng Sahara Châu Phi, khu vực không chính thức chiếm khoảng 60% lực lượng lao động thành thị, tại Mỹ Latinh khoảng 30%, khu vực Nam á và Đông Nam á việc làm khu vực không chính thức chiếm khoảng 50%-70% tổng số việc làm.
Sự phát triển thị trường lao động khu vực phi chính thức ở khu vực thành thị ở các nước đang phát triển xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Một là, do sự dư thừa lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn và đại đa số là không có trình độ chuyên môn, tay nghề.
Hai là, do chính sách lao động- việc làm, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội trong khu vực thành thị chính thức kém linh hoạt và do trình độ của người lao động thấp nên phần lớn lao động nông thôn di cư ra đã không thể tìm được việc làm ở khu vự thành thị chính thức.
- Thị trường lao động khu vực nông thôn
Khu vực nông thôn là khu vực mà việc làm chủ yếu trong nông nghiệp, việc làm phi nông nghiệp (công nghiệp chế biến, dịch vụ... ) chiếm tỉ lệ nhỏ. Xu hướng chung là, khi kinh tế phát triển, khu vực nông thôn phát triển,việc làm phi nông nghiệp tăng ở khu vực nông thôn, thị trường lao động nông thôn sẽ phát triển sôi động hơn. Hiện nay, tỷ lệ lao đông nông thôn của Việt Nam tương đối cao nhưng có xu hướng giảm, dự báo đến năm 2010 tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm xuống còn 50%. Giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ lao động nông nghiệp có thể còn 45% vào năm 2015 còn 30-40% đến năm 2020.
3.Kinh nghiêm về sử dụng lao động ở một số nước đang phát triển
Singapore
Singapore là nước có diện tích nhỏ, dân số ít, tài nguyên thiên nhiên không có. Nhưng quốc đảo này cũng là một con mãnh sư không chỉ của Đông Nam Á. Vì sao đất nước nhỏ bé này lại phát triển mạnh mẽ đếnnhưvậy?
Chính sách rõ ràng và bài bản
Sự thần kì trong quản lý và phát triển kinh tế của nước này phải chăng xuất phát từ chính sách thu hút nhân tài rõ ràng và đúng đắn?
Singapore được đánh giá là quốc gia có chính sách thu hút nhân tài nước ngoài bài bản nhất thế giới. Điều này cũng dễ hiểu bởi ngay từ khi mới lên cầm quyền, cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu đã xác định rõ nhân tài là yếu tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh và phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế, trong suốt những năm qua, thu hút nhân tài, đặc biệt là nhân tài nước ngoài đã trở thành chiến lược ưu tiên hàng đầu của Singapore.
Là quốc gia được tạo dựng nên từ những người nhập cư, Singapore chào đón tất cả những ai có thể đóng góp phần mình vào công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, với dân số quá ít (4,5 triệu dân), tỷ lệ sinh liên tục sụt giảm, Singapore rơi vào cuộc khủng hoảng dân số. Rõ ràng, tình trạng dân số cũng như nguồn lực lao động bị "co lại" sẽ là một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra nguy cơ khủng hoảng thiếu nhân tài.
Năm 1998, sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, Singapore thành lập hẳn Ủy ban Tuyển dụng Tài năng Singapore. Tháng 10/2001, tại một diễn đàn đại học, ông Lý Quang Diệu nói với các sinh viên rằng: "Muốn thành công trong lĩnh vực nghệ thuật, y học, giáo dục..., cách duy nhất Singapore phải thực hiện là mở rộng nhân tài trên khắp thế giới. Chúng ta sẽ thất bại nếu không phát triển được đội ngũ này".Trong 5 năm qua, Singapore đã thu hút được một bản danh sách ấn tượng những nhà khoa học lỗi lạc của thế giới. Nói đến nhân tài nước ngoài ở Singapore, có lẽ không thể không kể đến những nhà giải phẫu thần kinh học, các lập trình viên phần mềm, các giám đốc ngân hàng, các các siêu chuyên gia tầm cỡ thế giới và các giáo sư trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển.
Có một điểm cần nói khi bàn về Singapore là chính sách nhân tài nước ngoài của nước này có nhiều điểm khá giống Mỹ. Cả hai nước đều đặt ra mục tiêu thu hút nhân tài trước, sau đó mới tiến hành phân công công việc cụ thể. Chính sách và đường lối táo bạo như vậy đã dẫn đến sự thay đổi mang tính đột phá trong con số thống kê nhân khẩu học.
Đột phá: Chào đón nhân tài ngoại vào bộ máy nhà nước
Trong số 4,5 triệu lao động Singapore có tới 25% là người nước ngoài. Singapore có quy định rõ ràng, lương của lao động bình thường ở Singapore chỉ khoảng 2.000 USD/tháng hoặc cao hơn chút ít. Còn với lao động nước ngoài có kĩ năng, tay nghề, ngoài việc được hưởng lương theo mức của các nhân tài, họ còn được phép đưa người thân sang sống cùng. Họ được cấp giấy phép định cư và nhập tịch lâu dài tại Singpapre chỉ trong... vài ngày. Đây là tốc độ nhập tịch nhanh chóng mặt mà bất cứ người nhập cư nào cũng thèm muốn.
Mức lương tương xứng với giá trị của chất xám
Thực chất, trả lương cao là biện pháp không chỉ có một mình Singapore áp dụng. Tuy nhiên, điểm khác biệt ở chỗ, Singapore có hẳn một chính sách rõ ràng để thực hiện điều này. Ở Mỹ, lương của Tổng thống là 400.000 USD. Ở Anh, lương của Thủ tướng là 368.655 USD, lương của các Bộ trưởng trong khoảng 196.000-268.000 USD. Trong khi đó, lương của Thủ tướng Lý Hiển Long là 2,05 triệu USD/năm. Hiện tại, mức lương của Thủ tướng và các Bộ trưởng vẫn có khả năng tăng cao hơn con số 1,26 triệu USD.
Đầu tư, trợ cấp giáo dục - hoạt động không thể thiếu
Singapore có đội ngũ lao động cấp cao hàng đầu thế giới. Sở dĩ nói như vậy vì những người này tạo ra năng suất vô cùng lớn, thành thạo về chuyên môn, kĩ thuật và có thái độ làm việc tích cực. Nhưng để có được điều này, Singapore đã phải liên tục đầu tư vào việc đào tạo cả một thế hệ thông qua con đường giáo dục. Có thể kể đến các trường đại học danh tiếng như Công nghệ Nanyang (NTU), Học viện phát triển quản lý Singapore (MDIS), Đại học Quốc gia Singapore (NUS)...
Tạo niềm tin người tài luôn đứng ở vị trí cao
Biệt đãi người tài không chưa đủ, mà cần tạo niềm tin ở nơi họ. Những người tài ngoài thu nhập, nhu cầu được cống hiến, được tôn trọng và được vinh danh là rất lớn. Ở Singapore, những người tài thực sự được coi là thịt, là da đắp vào bộ khung lãnh đạo quốc gia.
ở Singapore việc chất lượng nguồn lao động rất được chú trọng vì họ không có một nguồn lao động dồi dào như Việt Nam,Singapore là nước nhỏ, dân số ít. Nhưng việc đào tạo và thu hút nhân lực chất lượng cao của họ lại được thực hiện rất tốt với những chính sách cực kì hiệu quả.
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA LAO ĐỘNG VỚI TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM.
I.Đặc điểm lao động ở Việt Nam
1. Số lượng lao động tăng nhanh
Việt Nam là một nước có tổng dân số thuộc loại cao nhất thế giới. Năm 2007, cả nước có trên 44 triệu lao động trên tổng số 85 triệu dân đứng thứ 2 trong khu vực và đứng thứ 13 trên thế giới về qui mô dân số. Trong những năm qua chúng ta đã cố gắng giảm tốc độ tăng dân số và đã đạt những thành tựu đáng kể. Năm 2004, dân số khoảng 82 triệu dân tăng 1,44% so với năm 2003 tức tăng khoảng 1,25 triệu dân. Năm 2005 tăng 1,35% so với dân số năm 2004, và năm 2007 đã tăng 1,29% so với dân số năm 2006. Mục tiêu đề ra đến năm 2010 giảm tỉ lệ tăng dân số xuông 1,14%. Tình hình dân số đông như vậy là một áp lực lớn cho toàn xã hội. Tuy nhiên đặc điểm nổi trội và tiềm năng nguồn nhân lực nước ta chính là sức trẻ và tỉ lệ cơ cấu độ tuổi của dân số và lao động là khá lí tưởng , trên 50% số dân trong độ tuổi 15-60 tuổi(độ tuổi lao động) và 45% trong tổng số lao động có độ tuổi dưới 34 tuổi.
Bảng 2: Cấu trúc nguồn lao động ở Việt Nam giai đoạn 1993-2006
Năm
1993
1998
2002
2004
2006
nguồn lao động (nghìn người)
47.358
51.306
56.623
60.557
64.378
cơ cấu chia ra(%)
1. Dân số không hoạt động kinh tế
19,4
15,3
16,7
17,2
19,5
2. Dân số đang hoạt động kinh tế
80,6
84,7
83,3
82,8
81,5
2.1.Tỷ lệ có việc làm chia ra theo khu vực
Hành chính sự nghiệp
3,1
3,6
4,4
5,3
5,5
Doanh nghiệp nhà nước
2,5
2,6
3,3
3,1
3,3
Doanh nghiệp tư nhân
10,8
10,1
15,7
17
17,3
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
0,1
1,1
0,8
1,3
1,6
Việc làm tự túc phi nông nghiệp
14,7
16,5
19,1
16,5
19,5
Việc làm trong nông nghiệp
49,5
50,2
38,2
38,8
32,6
2.2. Tỷ lệ thất nghiệp
0,63
1,8
0,8
0,8
3. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị
6,9
6,0
5,6
4,8
Nguồn: tạp chí nghiên cứu kinh tế
Nguồn lao động cũng là một bộ phận của dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc ( lao động) và bộ phận dân số ngoài tuổi lao động nhưng trên thực tế đang làm việc trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế. Nguồn lao động của Việt Nam ngà y cang tăng cao, từ năm 1993 đến năm 2006 nguồn lao động đã tăng 17.02 nghìn người, riêng năm 2006 đã tăng so với năm 2004 là 4.121 nghìn người. Dân số hoạt động kinh tế ở Việt Nam là tất cả những người trong độ tuổi từ 15, có việc làm, có thu nhập hoặc không có việc làm, không có thu nhập nhưng đang tìm kiếm việc làm. Dân số hoạt động kinh tế của Việt Nam được thể hiện ở bảng 1, luôn chiếm tỉ lệ vượt quá 80% trong tổng số nguồn lao động, một tỉ lệ rất cao, tỷ lệ này của các nước phát triển trung bình vào khoảng 70-75%. Dân số không hoạt động kinh tế là hiệu số giữa nguồn lao động và dân số hoạt động kinh tế, thành phần dân số không hoạt động kinh tế bao gồm những người từ 15 tuổi trở lên, nhưng cũng không phụ thuộc vào số những ngươiì lao động và thất nghiệp,đó là: sinh viên, người đang đi học (những người đi học nhưng tách rời hoạt động lao động) nội trợ,người đang làm việc trong lực lượng vũ trang, người chán nản tìm việc làm, cán bộ hưu trí....
Năm 2006 lực lượng lao động cả nước là 45,5 triệu người, tăng 2,6% so với năm 2005. Lao động nam chiếm 51,4% lực lượng lao động và có xu thế tăng hơn so với lao đông nữ (2,6% so với 1,6%). Lực lượng lao động khu vực thành thị là 12 triệu người, tăng 9,1% và chiếm 26,4% lực lượng lao động cả nước. Lực lượng lao động khu vực nông thôn tăng chậm hơn khu vực thành thị (1,8%); năm 2006 có 33,5 triệu người.
Tỷ lệ tham gia lực lưọng lao động của cả nam và nữ tăng từ nhóm tuổi 15-19 đến nhóm tuổi 35-39, và sau đó có xu hướng giảm dần ở các nhóm tuổi tiếp theo. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam đạt mức độ cao nhất là 98,8% ở nhóm tuổi 30-34, và của nữ là 92,6% ở nhóm tuổi 25-29. Có sự gia tăng đáng kể về sự tham gia lực lượng lao động của cả nam và nữ ở nhóm tuổi 15-19 đến nhóm tuổi 20-24. Tỷ lệ của nam tăng từ 36,8% lên 80,0% và của nữ từ 35,6% lên 78,8% trong năm 2006. Trong nhóm tuổi lao động chính là 25-49, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam vẫn duy trì ở mức cao từ 89,9% đến 92,6% trong khi đó nữ chỉ vào khoảng 87,6 đến 92,6%. Trong khi đó , tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nhóm tuổi trên 60 giảm xuống đáng kể, từ 73,3% trong nhóm tuổi 55-59 xuống còn 16,7% trong nhóm tuổi trên 65 đối với nam, và 58,4% xuống 10,0% đối với nữ.
2.Chuyển dịch cơ cấu lao động.
Cùng với việc chuyển dịch số lượng là việc chuyển dich cơ cấu theo ngành kinh tế – một xu hướng, vừa là kết quả vừa là điều kiện của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Bảng 2: Cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Cơ cấu(%)
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Nông, lâm nghiệp-thuỷ sản
65,1
63,5
61,9
60,2
58,7
57,2
55,7
Công nghiệp-xây dựng
13,1
14,4
15,4
16,4
17,4
18,3
19,1
Dịch vụ
21,8
22,2
23,3
23,3
23,9
24,5
25,3
Nguån : Thêi b¸o kinh tÕ ViÖt Nam
Hiện nay, cơ cấu lao động giữa các ngành đã được chuyển dịch nhưng quá trình này vẫn diễn ra chậm.Lao động trong nhóm ngành nông,lâm nghiệp- thuỷ sản đã giảm dần qua các năm,năm 2000 số lao động ngành nông ,lâmnghiệp- thuỷ sản chiếm 65,1%,năm 2004 còn chiếm 58,5%, năm 2005, chiếm 57,2%, năm 2006 chiếm 55,7%. lao đông trong nhóm ngành công nghiệp- xây dựng và dịch vụ đã tăng dần. Nhưng tăng rất chậm. Tuy nhiªn lao động trong nhóm ngành nông,lâm nghiệp- thuỷ sản vẫn rất lớn, trong khi ở nông thôn dân số tăng nhanh, số người trong độ tuổi lao động ngay càng nhiều, diện tích bình quân đầu người thấp,lại đang có xu hướng giảm nhanh. Lao động trong công nghiệp- xây dưng đang tăng nhưng vẫn thấp mà phần lớn lại làm việc trong ngành gia công, tính chuyên nghiệp thấp,vốn chủ sở hữu ít. phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp.Mục tiêu đề ra trong giai đoạn 2006-2010 là giảm lao động nông, lâm nghiệp và thuỷ sản xuống còn 50% vào năm 2010, Tăng lao động công nghiệp và xây dựng lên ít nhất 23-24% và tăng lao động dịch vụ thương mại lên 26-27%.
3.Tỉ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm
(Năm)
(%)
Biểu đồ: Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị
Nhìn trên biểu đồ ta thấy tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị tuy có giảm liên tục,giảm đều các năm từ năm 1998 là 6,9% đến năm 2007 chỉ còn 4,64%, bình quân mỗi năm tỉ lệ thất nghiệp giảm 0,25%.
Năm 2006, ở khu vực thành thị, tỉ lệ thất nghiệp của nhóm lao động trong độ tuổi 15-24 còn cao (14,6%) và cao hơn rất nhiều tỷ lệ thất nghiệp của nhóm lao động trên 24tuổi ( chỉ có 3,8%).Tỉ lệ thất nghiệp trên so với thế giới là không cao, vẫn ở mức chấp nhận được. Tỷ lệ thất nghiệp không cao nhưng tỉ lệ thiếu việc làm lại rất lớn, ngay ở khu vực nông thôn, tỉ lệ sử dụng thời gianlao động mới đạt 80%, nếu qui từ số thiếu việc làm ra thì tỉ lệ thất nghiệp nước ta sẽ lên tới số có hai chữ số và đó là tỉ lệ cao. Hơn nữa một trong những nguyên nhân quan trọng của các tệ nạn xã hội xuất phát từ thất nghiệp và thiếu việc làm.Nhà nước,cộng đồng, gia đình phải tốn nhiều tiền của, công sức để ngăn chặn tệ nạn này. Trong số những người thất nghiệp không ít những người có tay nghề, có trình độ, đã qua đào tạo ở trường lớp, những người trẻ khoẻ...
Bảng 4 : Tỉ lệ thiếu việc làm theo trình độ tay nghề và theo vùng năm 2004
%
Lao động
Không có tay nghề
Tay nghề bậc trung
Tay nghề bậc cao
Tổng
Đông Bắc
22,2
20,2
12,8
21,5
Tây Bắc
26,3
18,7
17,5
25,3
Đồng bằng sông Hồng
20,7
19,8
14,6
20,1
Bắc Trung Bộ
21,3
20,9
17,6
21,1
Nam Trung Bộ
24,6
21,4
17,9
23,8
Tây Nguyên
22,0
20,4
18,9
21,8
Đông Nam Bộ
24,5
20,7
16,7
23,2
Đồng Bằng sông Cửu Long
32,6
27,1
16,2
31,8
Toàn quốc
25,0
21,1
15,8
24,0
Sử dụng bảng 4 để chứng tỏ dù tỉ lệ thất nghiệp nước ta thấp song thị trường lao động Việt Nam còn lâu mới “đầy đủ công ăn việc làm”. Qua bảng trên ta thấy, năm 2004 khoảng một phần tư thời gian lao động tiềm năng không được huy động.Tay nghề càng thấp thì tỉ lệ thiếu việc làm càng cao, lao động không có tay nghề ở Đồng băng sông Cửu Long có tỉ lệ thiếu việc tương đối cao 32,6%. Tỉ lệ thiếu việc làm dường như ở các vùng khá giống nhau, trừ Đồng băng sông Cửu Long cao hơn so với các vùng khác. Thất nghiệp trong số những người chưa được đào tạo nghề là rất cao so với thất nghiệp trong số những người được tiếp caanj tới giáo dục và đào tạo nghề. Vì vạy, nâng cao giáo dục và đào tạo cho những người mới bước vào thị trường lao động và những ngưòi thát nghiệp sẽ giảm thất nghiệp và giúp họ tự thích nghi với nền kinh tế thị trường.
4.Năng suất lao động thấp.
Năng suất lao động được tính bằng GDP theo giá thực tế chia cho số lao động bình quân năm. Đối với Việt Nam, Việc tính số lao động bình quân năm gặp nhiều khó khăn, nhất là khu vực cá thể, vì vậy tạm thời sử dụng số lao động có tới 1/7 hàng năm.
Theo tổng cục thống kê, năng suất lao động xã hội ( tính băng GDP theo giá thực tế chia cho một lao động làm việc) năm 2006 của Việt Nam là 22,46 triệu đồng /người (trong đó nông lâm nghiệp là 7,09 triệu, thuỷ sản 24,59triệu, công nghiệp 58,25triệu, xây dựng 26,45 triệu, thương nghiệp 25,29triệu, khách sạn nhà hàng 45,78triệu ,vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc 36,15triệu, văn hoá,y tế, giáo dục 27,37triệu, các ngành dịch vụ khác 57,55 triệu)
Trước hết năng suất lao động Việt Nam nếu tính bằng USD theo tỷ già hối đoái năm 2006 (bình quân khoảng 15.958 VND/USD) đạt 1.407USD/ người, còn thấp xa so với Philippines 2.689 USA, Thái Lan 2.721 USA, CHND Trung Hoa 2.869 USA, Malaysia 12,571 USA, Hàn Quốc 33.237 USA, Singapore 48.162 USA, Brunei 51.500 USA, Nhật Bản 70.237 USA...)
Nếu chia theo nhóm ngành thì năng suất lao động thuộc nhóm ngành nông, lâm, nghiệp thấp nhất, chỉ bằng một phần ba mức năng suất lao động chung của cả nước, chỉ bằng một phần tám mức năng suất lao động của nhóm ngành cao nhất là ngành công nghiệp, chưa bằng một phần ba mức năng suất lao động của ngành thuỷ sản.
II. Tác động của lao động với tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam
1.Tác động của lao động tới tăng trưởng GDP
Lao động có tác động trực tiếp đến tăng trưởng, là yếu tố được đáng giá lag năng động nhất với tăng trưởng, động lực cho tăng trưởng. Ngày nay do trinh độ của lao động ngay càng được nâng cao, số người co tay nghề, cũng như số lao đông chất lượng cao đang ngày càng tăng, có thêm nhiều trường đào tạo, trình độ các nhà khoa học cao,... đã đem lại hiệu quả cao cho tăng trưởng kinh tế.
Sau 20 năm thực hiện đổi mới , tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã tăng liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990, GDP chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 4,4% năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1990-1995,tăng trưởng GDP bình quân là 8,2%, cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5,5%-6,5%, và thuộc vào loại cao trong số các nước đang phát triển. Trong giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng GDP bình quân của Việt Nam là 6,9%, tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên 90 thế kỉ XX do cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ châu á, nhưng vẫn vào loại cao của khu vực. Năm 2001, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,9%năm, năm 2002 là 7%, năm2003:7,3%, năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006: 8,2%, năm 2007: 8,5%. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng truởng cao. Cùng với tăng truởng kinh tế cao, chất lượng tăng trưởng cũng đang được cải thiện.
Nghiên cứu về sự đóng góp của các yếu tố đối với tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa về nhiều mặt, không những xác định vị trí của từng yếu tố để có kế hoạch khai thác, mà còn có ý nghĩa xác định được yếu tố tiềm ẩn gia tăng lạm phát. Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư, sự đóng góp của số lượng lao động và sự đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP).
Theo tính toán ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 57%, yếu tố số lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng góp 23%. Từ sự đóng góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý.
Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư.
Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%. Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới, đã nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng trưởng liên tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ nóng của tăng trưởng và đẩy mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo năm của tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%, cao nhất trong 12 năm qua.
Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt.Một mặt, do nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao.
Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay.nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng trưởng về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu.
2.Lao động với xoá đói giảm nghèo
Xoá đói giảm nghèo luôn đi đôi với lao động, tạo việc làm cho người lao đông, cụ thể là tạo công ăn việc làm cho người nghèo. Trên cơ sở của kinh tế tăng trưởng nhanh, mức độ nghèo đói của dân cư giảm mạnh. Tỉ lệ hộ nghèo đang có xu hướng giảm dần, năm 2006 tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta là 18,1%, năm 2007 là 14,75% ( tính theo chuẩn quốc tế) và được thế giới đánh giá là thành công trong việc chống đói nghèo. Tuy nhiên ở các khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu xa có nguy cơ tái nghèo rất cao. Vì vậy, Nhà nước, các tổ chức cần tạo cho ngưòi nghèo “cần câu cơm”, cho họ “cần” và phải dạy họ cách “câu”.Một chính sách được đánh giá khá cao trong công tác xoá đói giảm nghèo là xuất khẩu lao động, xuất khảu lao động được coi là “phép màu” xoá đói giảm nghèo bền vững. Như hiện nay, các chính sách hỗ trợ người nghèo chưa thực sự phát huy hết tác dụng, việc tiếp cận tín dụng của hộ nghèo còn hạn chế, khoảng1/4 hộ nghèo chưa tiếp cận nguồn vốn dành cho hộ nghèo.
II. Những vấn đề bất cập về lao động ở Việt Nam
1.Thiếu thợ, năng suất thấp.
So với năm 1990, tổng số lao động đang làm việc trong cả nước năm 2007 dã tăng 14.760.000 người, trong đó khu vực nhà nước thu hút thêm 559.000 người và số làm việc trong khu vực này hiện chỉ chiếm 9% tổng số ngưòi đang làm việc. Khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước đã thu hút`96,2% tổng số người tăng thêm và 91% tổng số người đang làm việc. Tuy số việc làm tăng thêm, tỷ lệ thất nghiệp có chiều hướng giảm, nhưng nguồn nhân lực có chất lượng và tăng năng suất là 2 vấn đề chính yếu cần được khắc phục.
Hạn chế về chất lượng lao động hiện là hạn chế lớn nhất, là “nút cổ chai” lớn nhất hiện nay. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo tuy đã tăng lên qua các năm và hiện đạt khoảng trên 30%, nhưng còn thấp so với mục tiêu 40% đề ra cho năm 2010. Cơ cấu đào tạo vẫn “ thiếu thợ hơn thiếu thầy”. Cơ cấu lao động qua đào tạo ở Việt Nam đi ngược với hướng của thế giới. Trong khi các nước theo tỉ lệ 1 cao đẳng, đại học/ 4 trung cấp chuyên nghiệp/10 đào tạo nghề, thì tỉ lệ tương ứng của Việt Nam là 1; 0,98 và 3,02. Về trinh độ đào tạo cũng có những khiếm khuyết. Đào tạo thợ thì lý thuyết nhiều hơn tay nghề, các doanh nghiệp khi sử dụng thường phải đào tạo lại, trung cấp chuyên nghiệp thì nửa thầy , nửa thợ, cao đẳng, đại học thì khoa học cơ bản chưa đủ, khoa học ứng dụng cũng yếu. Việc sử dụng cấn bộ khoa học, kĩ thuật hoặc là chéo ngành, chéo nghề, hoặc là ở cơ quan quản lý thì nhiều, còn ở cơ sở thực hành thì ít.
Kết quả tổng hợp là năng suất lao động xã hộ, tính băng GDP chia cho số lượng lao động, còn thấp. Tính bằng USD theo tỉ giá hối đoái, năng suất lao động năm 2007 của toàn nền kinh tế đạt khoảng 1.618 USD/ người. Đây là con số thấp xa so với mức binh quân chung của thế giớ là trên 14,6 nơafn USD/ người
Bước sang năm 2008 do chi phí đầu vào tăng cao, tăng trưởng kinh tế thấp xuống, nên chẳng những làm cho năng suất lao động thấp xuống mà còn làm cho nhiều doanh n ghiệp gặp khó khăn phải thu hẹp sản xuất, dãn nợ, càng làm cho số lao động bị thất nghiệp và thiếu việc làm tăng lên. Khả năng từ nay đến cuối năm và năm 2009 có thể còn khó khăn hơn. Đây là hiệu ứng phụ của việc kiềm chế lạm phát, thắt chặt tiền tệ. Nguy cơ thiểu phát cũng có một phần từ yếu tố này cả.
2.Thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ
Hiện tượng nông dân mất đất nông nghiệp ồ ạt kéo nhau ra thành thị kiếm sống. Những người nông dân bị thu hồi đất, họ được đền bù 1 khoản tiền, đối với họ là tương đối lớn, nhưng họ không biết sử dụng hiệu qủa đồng tiền đó. Với Số tiền đó, trước hết họ sẽ mang đi xây nhà, mua các đồ sinh hoạt, số tiền còn lại cũng không còn đáng bao. Khi số tiền đó hết, họ không có cách nào khác là di cư ra thành thị tìm việc làm. Đây cung là vấn đề nan giải của xã hội. Ta nhận thấy :Việc làm và thu nhập của các hộ bị thu hồi đất dựa vào sản xuất nông nghiệp chiếm tới 60% và chính họ là đối tượng bị tác động lớn nhất sau khi bị thu hồi đất.
Hầu hết khi các doanh nghiệp vào lấy đất đều đưa ra cam kết ngon ngọt là sẽ tạo công ăn việc làm cho người mất đất nhưng khi xong rồi thì “sống chết mặc bay” với hàng tá lý do. Cục HTX – PTNT đưa ra con số đáng lo ngại là có tới 67% số lao động mất đất vẫn phải “bám” nghề nông để sống và thêm 20% nữa thì chịu cảnh nghề ngỗng lông bông hoặc không ổn định. Có nghĩa là, chỉ có 13% là tìm được công việc mới.
Đó cũng là nguyên nhân sinh ra các tệ nạn: cờ bạc, lô đề, nghiện hút, trộm cắpở những vùng nông thôn vốn bình yênHà Tây là địa phương số lao động mất việc làm lớn nhất do thu hồi đất, lên tới 35.700 người, kế đến là Vĩnh Phúc (22.800 người), Đồng Nai (12.300 người)Một điều đáng lo ngại hơn, tới 53% số hộ có thu nhập giảm so với trước khi bị thu hồi đất và số hộ khá khẩm hơn lên chỉ là 13%.
3.Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế diễn ra chậm
Chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng mạnh công nghiệp, dịch vụ nhưng cơ cấu lao động chuyển dịch chậm. Tỷ trọng lao động làm việc trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp thuỷ hải sản còn cao. Với tiến độ giảm như những năm qua thì khả năng đến năm 2010, lao động trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp vẫn ở mức trên 50%, không đạt được mục tiêu đề ra. Trong khi đó mức diện tích đất nông nghiệp bình quân một lao động, một nhân khẩu hiện còn rất thấp, lại có xu hướng giảm nhanh do sức ép tăng dân số, tăng diện tích xây nhà ở, khu công nghiệp, khu đô thị mới, xây dựng giao thông. Tỷ trọng lao động trong nhóm ngành công nghiệp-xây dựng tăng chậm và còn thấp. Tuy tỷ trọng lao động làm việc trong nhóm ngành dịch vụ tăng nhanh, nhưng còn mang tính kiêm nhiệm , tính chuyên nghiệp còn thấp, nên năng suất lao động chưa tương xứng.
4.Tiền lương
Tiền lương ở nước ta còn rất thấp và nhiều bất hợp lí. Mức lương tối thiểu của công chức, nhân vieen hiện nay là 540.000đồng/tháng. Hệ thống lương được chia thành nhiều ngạch, bậc tuỳ theo đặc trưng nghề nghiệp và chuyên môn kĩ thuật. Nếu là ngạch lương của nhân viên thì tối đa chỉ có hệ số 3,63 thì tiền lương sau khi trừ BHXH, BHYT chỉ còn 1.842.588đ/tháng. Các kĩ sư, cử nhânmới ra trường được xếp ở ngạch chuyên viên hoặc nghiên cứu viên với bậc lương có hệ số 2,34 thì tiền lương sau khi trừ BHXH, BHYT còn 1.187.784đ/tháng. Với mức lương quá thấp như trên đã khiến nhiều công chức làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp của Nhà Nước phải xin thôi việc. Theo báo cáo của bộ nội vụ, từ năm 2003 đến năm 2007, ở 23 cơ quan và 47 địa phương đã có khoảng 16.000 công chức, viên chức xin thôi việc, chiếm 0,8% tổng số công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước. Riêng bộ tài chính có 1012 công chức, viên chức xin thôi việc và con số này ở thành phố Hồ Chí MInh là 6500người. Những người xin thôi việc thường là lao động có trình độ cao, đó là các nhà khoa học, các chuyên gia cao cấp, các nhà quản lí tài năng. Họ đang là nhưng nhà thiêt kế, tổ chức và trực tiếp khai thác, sử dụng các yếu tố nguồn lực khác, đóng vai trò lớn trong tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
Thu nhập thấp, thời gian lao động nhiều, cường độ lao động cao, điều kiện lao động không đảm bảo, bữa cơm công nghiệp quá đam bạc, vệ sinh an toàn thực phẩm kém, BHYT, BHXH, tiền làm thêm giờ không minh bạch, rõ ràng, thái độ của chủ doanh nghiệp đối với người lao động thiếu tôn trọng, đôi khi xúc phạm đến danh dự , nhân phẩm của người lao động...đó chính là nguyên nhân dẫn đến các cuộc đình công kéo dài gây ảnh hưởng đén sản xuất, hạn chế tăng trưởng.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, người lao động không còn được bao cấp bất cứ thứ gì và sức lao động được thừa nhận là hàng hoá. Nhưng tiền lương đã không phản ánh đúng giá trị hàng hoá sức lao động mà họ bỏ ra. Trong khi đó, giá cả hàng hoá và dịch vụ khác phản ánh khá đầy đủ giá trị của chúng và luôn được xem xét cả trong nước và quốc tế. Do đó, giá cả hàng hoá và dịch vụ đêu tăng cao, thể hiện ở chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 7/2008 so với tháng 12/2007 thì tăng tới 27,04%. Với mức tiền lương và giá cả hàng hoá, dịch vụ như hiện nay thì những người lao đông có mức thu nhập trung bình từ 1,8 triệu đồng ở Hà Nội và 2,2triệu đồng ở thành phố Hồ Chí Minh cũng không đủ chi trả tiền thuê nhà, tiền điện, nước sinh hoạt, tiền ăn uống, đi lại... của bản thân chứ không nói đến việc nuôi sống gia đinh họ. Trong khi đó số người đang tham gia lao động trong nền kinh tế nước ta năm 2007 là 44,127 triệu người và dân số nước ta cùng thời kì lên tới gần 86 triệu người. Như vậy, cứ 1 lao động phải nuôi thêm một người, nên đời sống càng khó khăn hơn.
Tiền lương và thu nhập thấp sẽ ảnh hưởng đến năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế, cụ thể như sau :
- Do tiền lương không đủ đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động và gia đình họ, buộc họ phải kiếm việc khác làm thêm sau khi hết giờ làm việc ở cơ quan, doanh nghiệp để tăng thu nhập đảm bảo đời sống của họ và gia đình. Nên họ không thể hoàn toàn dồn hết tăm trí sáng tạo trong 8 giờ làm việc. chắc chắn năng suất lao động của họ sẽ thấp, lãnh phí tư liệu sản xuất dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh kém.
- Người lao động họ pphải tìm cách mưu sinh nên không có thời gian để hoc tập, năng cao kiến thức.
- Cơ chế xét duyệt, nâng bậc lương còn mang nặng tính hình thức, coi trọng yếu tố niên hạn, nên người lao động có thái độ ỷ lại, trông chờ, thụ động trong công việc, không vươn lên trong lao động và học tập.
- Có sự chênh lệch rất lớn về mức lương tối thiểu giữa khối hành chính sự nghiệp với khối kinh doanh, giữa khu vực kinh tế Nhà nước, ngoài nhà nước với doanh nghiệpcó vốn đầu tư nước ngoài.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ LAO ĐỘNG
VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
VÀ VIỆT NAM
I.Mục tiêu nâng cao vai trò lao động với phát triển kinh tế ở Việt Nam
1.Về phía cầu lao động.
Tăng cầu lao động.Trong 5 năm 2006-2010, phấn đấu tạo việc làm cho 8 triệu người lao động, trong đó có khoảng 6 triệu chỗ làm mới, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho 1,6 triệu người (trong đó việc làm mới khoảng 1,2 triệu người), ít nhất 50% là nữ. Chú trọng đào tạo nghề , tạo việc làm cho nông dân, cho thanh niên, ưu tiên cho nữ thanh niên. Thực hiện hiệu quả chương trình xuất khẩu lao động. Phấn đấu 5năm tới mỗi năm đưa 100 ngàn người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài.
2. Về phía cung lao động
Giảm cung lao động về số lượng ,tăng cung lao động về chất lượng
Kiềm chế tốc độ tăng dân số. Qui mô dân số vào năm 2010 dưới 89 triệu người, tốc độ phát triển dân số khoảng 1,14%. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo năm 2010 đạt 40% tổng lao động xã hội. Trong 5 năm dạy nghề cho 7,5 triệu lao động, trong đó 25-30% là dài hạn. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm lao động trong ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản xuống còn 50% vào năm 2010, tăng lao động công nghiệp và xây dựng lên 23-24% và tăng lao động thương mại- dịch vụ lên 26-27%.
3.Tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Lao động là vấn đề chủ đạo trong tăng trưởng và phát triển kinh tế
Vai trò của lao động gắn chặt với tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu giai đoạn 2006-2010 của nước ta là, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gap 2,1 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng GDP bình quân trong 5 năm 2006-2010 đạt 7,5-8%, phấn đấu đạt trên 8%. Qui mô GDP năm 2010 đạt khoảng 1.690-1.760 tỷ đồng (theo giá hiện hành), tương đương 94-98 tỷ USD và GDP binh quân đầu người khoảng 1.050-1.100 USD. Giảm tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) xuống còn 10-11% vào năm 2010. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm xuống dưới 5% .
II.Giải pháp nâng cao vai trò lao động với phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển và Việt Nam
1.Giải pháp về phía cung
1.1.Nâng cao trình độ văn hoá nguồn nhân lực, đào tạo chuyên môn cho người lao động
Những giải pháp chủ yếu:
Trước hết, cần có nhận thức đúng về vị trí, tầm quan trọng của đào tạo nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế và lập thân, lập nghiệp đối với người lao động, nhất là thanh niên. Cần đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động, nhất là công nhân trẻ, công nhân từ nông dân, công nhân nữ; phát nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quyết định đối với sự triển nhanh về quy mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế động lực và cho xuất khẩu lao động để giải quyết cho được vấn đề hằng năm ở nước ta thiếu hằng trăm ngàn công nhân kỹ thuật, công nhân lành nghề ở các khu vực này; tạo chuyển biến căn bản về chất lượng dạy nghề, tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới để nước ta có đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao, có khả năng tiếp thu nhanh và làm chủ công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, hoàn thiện chiến lược, quy hoạch phát triển dạy nghề một cách đồng bộ, nhanh chóng chuyển đổi hệ thống dạy nghề từ hướng cung sang hướng cầu theo 3 cấp độ: dạy nghề đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong nước và quốc tế, bảo đảm sự cân đối giữa đào tạo và sử dụng, đáp ứng có hiệu quả nguồn nhân lực có chất lượng cao cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về dạy nghề, thực hiện tốt cơ chế kiểm định đánh giá chất lượng dạy nghề. Làm tốt công tác dự báo nhu cầu lao động theo ngành nghề, cấp trình độ ở từng vùng, khu vực cũng như trên phạm vi cả nước.
Thứ ba, tiếp tục phát triển hệ thống trường dạy nghề, cơ sở dạy nghề đáp ứng nhu cầu phổ cập nghề, học nghề của người lao động, nhất là thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn thiện nội dung, chương trình đào tạo nghề, gắn chặt đào tạo lý thuyết với rèn luyện kỹ năng thực hành, gắn đào tạo nghề với rèn luyện phẩm chất đạo đức nghề, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động; tăng cường cơ sở vật chất, trang bị máy móc, thiết bị, phương tiện phục vụ cho giảng dạy, học tập, từng bước tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, sát hợp với yêu cầu thực tế sản xuất của thị trường lao động. Đổi mới căn bản phương pháp giảng dạy, thực hành theo phương pháp tiên tiến của các nước trong khu vực. Tăng thời gian thực hành, thực tập, giảm thời gian học lý thuyết để không ngừng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho người học.
Thứ tư, hoàn thiện nội dung, chương trình dạy nghề hệ trung cấp nghề, cao đẳng nghề trên cơ sở chương trình khung quốc gia, đồng thời xây dựng nội dung chương trình dạy nghề ngắn hạn, chương trình nâng cao cho từng bậc, từng nghề để đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội; chuẩn hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề, sát hợp với thực tế sản xuất của doanh nghiệp, của xã hội, có chương trình, kế hoạch đổi mới trang thiết bị, khắc phục tình trạng máy móc, phương tiện thanh lý, thiết bị cũ kỹ lạc hậu chuyển cho cơ sở dạy nghề, tiến tới các trường dạy nghề, cơ sở dạy nghề ở nước ta cũng được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, máy móc, phương tiện tiên tiến như các nước trong khu vực và trên thế giới; xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề tương xứng với vị trí của trường trung cấp, cao đẳng nghề.
Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển sự nghiệp đào tạo nghề ở nước ta như: Chính sách hướng nghiệp ngay từ cấp học phổ thông giúp cho học sinh, thanh niên định hướng đúng đắn trong việc lựa chọn nghề, học nghề; có chương trình phổ cập nghề cho thanh niên, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động; chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí cho dạy nghề; không ngừng cập nhật nâng cao tay nghề cho người lao động trong doanh nghiệp; có chính sách ưu đãi đối với các cơ sở dạy nghề thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm đổi mới trang thiết bị, máy móc, phương tiện, vật tư phục vụ cho dạy và học nghề; nhà nước đáp ứng nhu cầu vay vốn để học nghề cho học sinh, sinh viên, khuyến khích, tạo điều kiện cho công nhân tự học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ để ổn định việc làm và hướng tới thu nhập cao hơn; ưu đãi cho doanh nghiệp trong hoạt động liên kết đào tạo nghề, giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp trong hoạt động dạy nghề, thực hành, thực tập sản xuất; tôn vinh kịp thời những giáo viên, cán bộ quản lý, các nghệ nhân có thành tích xuất sắc trong đào tạo, truyền nghề; thu hút các chuyên gia, nhà khoa học, các nghệ nhân giỏi tham gia dạy nghề.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo nghề, nhất là dạy nghề trình độ cao, đẩy nhanh quá trình hội nhập khu vực và thế giới, xúc tiến việc công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo nghề, chứng chỉ kỹ năng nghề với các nước trong khu vực và thế giới. Có cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các trường dạy nghề của nước ta đẩy mạnh liên doanh, liên kết đào tạo nghề với các trường nghề tiên tiến trong khu vực và một số nước trên thế giới nhằm tăng cường trao đổi, học tập kinh nghiệm cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề nước ta. Những trường nằm trong chương trình mục tiêu, chương trình trọng điểm lựa chọn một số nghề đào tạo theo chương trình dạy nghề tiên tiến của các nước phát triển, tổ chức dạy bằng tiếng Anh cho những nghề mà thị trường lao động quốc tế đang có nhu cầu. Xúc tiến nghiên cứu khoa học về dạy nghề và ứng dụng các công nghệ dạy nghề tiên tiến của các nước trong khu vực và thế giới vào nước ta.
1.2.Hạn chế dòng chuyển dịch lao động nông thôn- thành thị.
Trong kinh tế thị trường lao động được tự do lựa chọn việc làm, tự do dịch chuyển và hành nghề. Tuy nhiên, nếu tăng trưởng quá nóng , lại tập trung vào các khu đô thị, các thành phố lớn, sẽ tạo ra dòng di cư và dịch chuyển lao động với quy mô lớn và ngày càng tăng từ nông thôn ra thành thị tìn việc làm sẽ gây nhiều khó khăn cho khu vực đô thị. Để hạn chế dòng dịch chuyển này, cần phải thực hiện chiến lược tăng trưởng trên diện rộng, phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn, phát triển các khu công nghiệp nhỏ và vừa, khu đô thị ở nông thôn để lao động nông thôn dịch chuyển tại chỗ là chủ yếu, đặc biệt chuyển một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động về nông thôn (dệt may, giầy da, điện tử, công nghiệp thực phẩm....).
2.Giải pháp về phía cầu
2.1. Phát triển các ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động
Khuyến khích thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Ở Mỹ trong 10 năm của thập kỷ 90 thế kỷ XX, trong ngàng công nghiệp, các doang nghiệp vừa và nhỏ đã tạo ra được gần 29 triệu chỗ làm việc mới, trong khi đó ở các công ty lớn thì số lượng chỗ làm việc lại giảm đi 3,7 triệu.
Năm 1992, Việt Nam có 3.985 doang nghiệp vừa và nhỏ cùng với hơn 1 triệu hộ kinh doanh cá thể, đến năm 2004 con số tương ứng là hơn 91.775 và 2,1 triệu. Đóng góp của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam vào việc tăng số lượng chỗ làm việc thấp hơn nếu đem so sánh với các nước trong khu vực, nhưng thành tựu của khu vực này có ý nghĩa rất quan trọng, vì năm 1998 khoảng 64,8% tổng số chỗ làm việc mới đã được tạo ra (không kể chỗ làm việc trong các tổ chức hành chính. xã hội), năm 2001 –72,75% tức là 27,409 triệu chỗ làm việc mới. Con số này thật đáng kể nếu so với 22,5 nghìn chỗ làm việc được tạo ra bởi khu vực nhà nước.
Ý nghĩa của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các vấn đề tạo việc làm còn thể hiện ở chi phí tạo ra một chỗ làm việc. Như đã đề cập ở phần trên về hiệu quả vốn đầu tư, bình quân chi phí vốn để tạo ra một chỗ làm việc mới ở khu vực kinh tế tư nhân chỉ cần khoảng 26 triệu đồng, trong khi đó ở khu vực nhà nước lên tới 40 triệu đồng. Như vậy, chi phí vốn thật sự để tạo ra một chỗ làm việc mới ở khu vực nhà nước cao hơn nhiều so với khu vực tư nhân. Giải thích về vấn đề này có mấy nguyên nhân sau đây.Thứ nhất, giá trị tài sản cố định trong các doanh nghiệp nhà nước được xá định theo giá trị khấu hao chứ không phải theo chí phí cơ hội( chi phí thay thế). Thứ hai, tổng giá trị đất đai của các doanh nghiệp nhà nước không xác định được vì đất đai thường được ghi nhận như chi phí lưu động (tiền thuế) và không phải là chi phí vốn. Cuối cùng, khu vực kinh tế nhà nước đang có một số lượng lớn lao động dư thừa. Vì vậy, từ năm 2001 Chính phủ Việt Nam đã tạm dừng việc thành lập doanh nghiệp nhà nước. Trong số các doanh nghiệp nhà nước hiện hành có tới 40% hoạt động không có hiệu quả. Tổng số nợ của doanh nghiệp nhà nước lên toéi 190.000 tỷ đồng (tương đương 13,1 tỷ USA) bằng 33% GDP, trong đó có tới 60% là nợ khó hoàn lại. Như vậy, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là nguồn dự trữ quan trọng nhất tăng cầu sức lao động ở Việt Nam.
2.2. Đa dang hoá các kênh giao dịch trên thị trường lao động
Thông qua các phiên chợ việc làm, các web thị trường lao động.. Thành lập các trung tâm giới thiệu việc làm.
Để thực hiện mục tiêu giả quyết việc làm cần phải có những giải pháp, trong đó phát triển các trung tâm giới thiệu việc làm theo một quy hoạch thống nhất là rất cần thiết.
Theo Nghị định 72/CP ngày 31-10-1995 của Chính phủ về việc thành lập các trung tâm giới thiệu việc làm, đến năm 2006 cả nước có 175 cơ soẻ được thành lập và hoạt động, trong đó có 64 trung tâm trực thuộc Sở Lao Động- Thương Binh va Xã Hội, 111 trung tâm trực thuộc bộ, ngành, tổ chức chính trị- xã hội và ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất.
Trung bình hàng năm trong suốt giai đoạn 1998-2006, các trung tâm giới thiệu việc làm đã tư vấn cho 575 nghìn lượt người, giới thiệu việc làm và cuung ứng lao động 214 nghìn người, số lần cung cấp thông tin thị trường lao động cho người lao động là 94 nghìn lần, dạy nghề 172 nghìn người và số người có việc làm sau đào tạo nghề là 70 nghìn người.Đối với các trung tâm giới thiệu việc làm, thu nhập và cung ứng thong tin thị trường lao động là một nhiệm vụ của trung tâm, các trung tâm đều đã được trang bị máy tính, có một số trung tâm được nối mạng cục bộ, sử dụng phần mềm kết nối dịch vụ việc làm, nối mạng internet.
2.3. Mở rộng thị trường ra nước ngoài, tăng số và chất lượng xuất khẩu lao động.
Đưa xuất khẩu lao động thành một chương trình lớn, đồng bộ theo hướng mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế, đặc biệt chú ý cho vùng dân tộc thiểu số, nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu để tham gia vào thị trường có giá trị cao, tạo nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế, xã hội trong nước và nâng cao mức sống người dân. Có giả pháp mạnh và chính sách cụ thể để mở rộng thị trường lao động xuất khẩu và tạo cơ hội cho người lao động tham gia vào thị trường xuất khẩu lao động.
2.4.Phân bố cầu lao động hợp lí giữa khu vực nông thôn và thành thị
Coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, phát triển nông thôn. Nâng cao trình độ và chất lượng phát triển nông nghiệp; phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; hỗ trợ xây dựng các điểm đô thị, công nghiệp, dịch vụ, văn hoá và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao đời sống vật chất văn hoá và tinh thần của dân cư ngay trên địa bàn nông thôn.
3.Các giải pháp về chính sách Nhà nước
3.1.Tăng chi tiêu ngân sách cho giáo dục
Chính Phủ Việt Nam rât ưu tiên đến chi tiêu cho giáo dục và đào tạo, năm 1994 chi từ ngân sách nhà nước cho giáo dục trong GDP chiếm 3,2%, và tăng dần đến năm 2005 là 5%. So với các ngành khác, chi tiêu công cho giáo dục chiếm một tỷ trọng khá cao. Tỷ lệ chi tiêu so với tổng chi tiêu công tăng dần từ 14% vào năm 1994 đến 18,6% vào năm 2004 và 18% vào năm 2005 và sẽ tăng lên 20% vào năm 2008. So với các nước trong khu vực về tỷ trọng chi tiêu giáo dục trong chi tiêu công Việt Nam đã vượt qua những nước như Inđônêxia, Ân Độ. Chính nhờ tăng đầu tư cho giáo dục, thực trang giáo dục Việt Nam cả về số lượng và chất lượng đã được cải thiện đáng kể.Chi tiêu công cho giáo dục và đào tạo không phải là chương trình trực tiếp tạo ra những chỗ làm việc mới, nhưng lại đóng góp rất tích cực trong chính sách giải quyết việc làm cho nền kinh tế. Bởi vì, thứ nhất, sẽ làm tăng tính ổn định của công việc và việc làm có năng suất cao hơn đối với những lao động chuyên nghiệp. Thứ hai, sẽ cung cấp những kiến thức văn hoá, hiểu biết chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho những người có khả năng tự tạo việc làm cho chính mình và cho những người lao động khác nà họ có nhu cầu thuê, mướn.
3.2.Hoàn thiện chế độ tiền lương
Tiền lương liên quan rất nhiều đến việc khai thác và sử dụng nguồn nhân lực của đất nước nên để có chế độ tiền lương hợp lý, phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của nền kinh tế trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực quốc gia cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề chủ yếu sau:
Một là, cần xác định mức lương cơ bản tối thiểu chung cho lao động thuộc tất cả các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế.
Hai là, từ mức lương cơ bản tối thiểu chung cho tất cả các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, mỗi ngành nghề, lĩnh vực lao động đặc thù nên có hệ số lương thích hợp. Đối với những ngành, nghề có tính chất lao động nặng nhọc, độc hại và đối với những lao động tại các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nên có phụ cấp thống nhất cho tất cả các bậc lương trong từng ngạch, cùng công tác trong vùng, không nên tính theo phần trăm lương để đảm bảo tính bình đẳng đối với tất cả mọi người
Ba là, giảm bớt các bậc lương trong một ngạch lương và mỗi bậc lương phải phản ánh sự thay đổi về chất lượng lao động ở mỗi mức độ nhất định.
Bốn là, trong nền kinh tế thị trường, sức lao động cũng được thừa nhận và coi là hàng hoá và đó là loại hàng hoá đặc biệt.
3.3.Điều chỉnh thời gian làm việc.
3.4.Đổi mới, bổ sung cơ chế, chính sách về đầu tư để khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển thu hút nhiều lao động
3.5.Hoàn thiện thể ché thị trường lao động, tạo hành lang pháp lý phù hợp,dảm bảo đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, người sử dụng lao động và người lao động.
KẾT LUẬN
Vai trò lao động là cực kì quan trọng trong phát triển kinh tế. Vấn đề đề tài đưa ra là muốn phát huy vai trò của lao động cần phải giải quyết những khuyết tật của thị trường lao động, nâng cao chất lượng thị trường lao động. Điều này có ý nghĩa lớn đối với nước đang phát triển, đặc biệt Việt Nam trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chính sách về lao động- việc làm , đó không phải là của riêng một bộ, một ngành, nó chỉ đem lại hiệu quả khi những chính sách như: phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, mở rộng ngoại thương, các chương trình chi tiêu ngân sách, chống lạm phát, và hệ thống giáo dục đào tạo đồng bộ hoạt động có hiệu quả. Quá trình cải tiến xã hội sẽ không thể thực hiện có hiệu quả nếu thiếu việc soạn thảo những chính sách đồng bộ về lao động và thực hiện nó.
Qua đề tài cho chúng ta thấy được vai trò của lao động, đặc điểm lao động thực trạng lao động và vấn đề cần giải quyết của lao động ở Việt Nam. Nhưng vấn đề này cần được xem xét và thực hiện ngay để đẩy mạnh sự phát triển của đất nước./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kinh tế phát triển, khoa kế hoạch và phát triển - Đại học kinh tế quốc dân. Nhà xuất bản lao động- xã hội năm 2005.
Giáo trinh kinh tế lao động, khoa kinh tế lao đông-Đại học kinh tế quốc dân.
Thời báo kinh tế Việt Nam
Báo cáo kinh tế Việt Nam năm 2006 của Viện nghiên cứu kinh tế trung ương.
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010.
Tạp trí nghiên cứu kinh tế.
Tạp trí lao động- xã hội.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5999.doc