Lưu trú là một trong những nhu cầu chính của du khách trong chuyến đi du lịch. Dưới góc độ kinh doanh du lịch, trong giai đoạn hiện nay, lưu trú, vận chuyển và ăn uống vẫn còn chiếm tỉ trọng khá lớn trong giá thành của các sản phẩm du lịch Việt Nam. Mặt khác tuỳ theo khả năng chi trả, sở thích của du khách, hiện trạng và khả năng cung ứng của đối tác mà trong từng chuyến đi du lịch cụ thể với họ, du khách có thể được bố trí nghỉ lại cơ sở lưu trú phù hợp. Có thể là ở khách sạn, motel, nhà trọ thanh niên, camping, bungalow, làng du lịch.
70 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1120 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của Nhà nước đối với hoạt động Du lịch nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khách quốc tế so với 5 nước Đông nam á. Số khách du lịch quốc tế đến Việt nam năm 1994đã bằng 2/3 số khách du lịch quốc tế đến Philipin, bằng 1/4 Indonesia và xấp xỷ bằng 1/6 số khách du lịch quốc tế đến Thái lan, Singapore hoặc Malaysia.
Lực lượng lao động trực tiếp trong ngành dulịch tăng nhanh (1992 có 21.510 người lao động trong khu vực nhà nước, đến năm 1993 đã có 36 851 lao động, tăng 72% so với 1992). Nhìn chung lao động trong ngành du lịch chưa được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ một cách hẹ thống. Một số liên doanh đã tự đào tạo dươcí hình thức tại chỗ hoặc ở nước ngoài. Hiện nay đã có những mạng lưới đào tạo du lịch từ công nhân kỹ thuật đến đại học, tuy nhiên còn thiếu những có sở đào tạo có quy mô hiện đại để đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành.
Kết cấu hạ tầng tuy đã có những bước phát triển nhất định, song nhìn chung còn ở tình trạng thấp kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch. Hiện nay việc phát triển du lịch nước ta còn phân tán và đơn điệu, mới chỉ tập trung vào việc xây dựng khách sạn. Việc xây dựng các khu du lịch, các khách sạn chưa được tính toán kỹ lưỡng cả về qui hoach và thiết kế nên dẫn đến tình trạng xây dựng tràn lan, nhiều nơi, đặc biệt là ở các vùng ven biển, vùng có khả năng xây dựng phát triển các loại hình du lịch, đã gây lên nhứng tác động tiêu cực đối với cảnh quan, môi trường. Mặt khác, sự chuẩn bị để hoà nhập với du lịch thế giới về nhận thức, tổ chức bộ máy, con người, có sở vật chất kỹ thuật, kinh nghiệm và hiểu biết về qủan lý điều hành du lịch chưa đáp ứng yêu cầu, có mặt chưa tốt; sự phối, kết hợp giữa các cấp, các ngành trong quản lý, thúc đẩy phát triển du lịch chưa chặt chẽ, trong khi sự cạnh tranh du lịch trong vùng lại ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn giữa sự tăng trưởng khách du lịch với năng lực phục vụ như: khách sạn, cơ sở lưu trú, dịch vụ kỹ thuật, giữa phát triển du lịch với phát triển kết cấu hạ tầng, giữa mở cửa thu hút khách với việc đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội đang là những trở ngại và thách thức đối với ngành du lịch.
c)Vị trí, vai trò của du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, du lịch được xác định là “ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước” (nghị quyết số 45-CP ngày 22 tháng 6 năm 1993 của chính phủ) và “là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước” (chỉ thị số 46-CP/TW ngày 14/10/94). Vì vậy đòi hỏi mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi địa phương và tổ chức xã hội, với trách nhiệm của mình, trong đó ngành du lịch là nòng cốt, phải có nhận thức và tư duy mới nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực của đất nước để “phát triển mạnh du lịch, hình thành ngành công nghiệp du lịch có quy mô ngày càng tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của nước ta” mà nghị quyết lần thứ VII của BCHTW Đảng khoá VII đề ra.
Trước tình hình đó, việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch đã trở nên cấp thiết để đề xuất một sự tiếp cận quốc gia đối với tương lai của ngành du lịch Việt nam.
Những mục tiêu và chiến lược phát triển du lịch Việt nam thời kỳ 1995 – 2010.
a)Những mục tiêu.
+ Mục tiêu về kinh tế:
Tối ưu hoá sự đóng góp của ngành du lịch vào thu nhập quốc dân, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm để bước vào thập kỷ đầu của thế kỷ 21 du lịch trở thành một ngành công nghiệp tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước.
+ Mục tiêu an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Quy hoạch phát triển du lịch nhằm thu hút ngày càng nhiều khách du lịch quốc tế đến Việt nam, nhưng không làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
+ Mục tiêu về môi trường.
Quy hoạch du lịch gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái bền vững, với chế quản lý phù hợp vừa tôn tạo, vừa bảo vệ được các di sản thiên nhiên, cảnh quan, môi trường.
+ Mục tiêu văn hoá - xã hội
Quy hoạch du lịch phải gắn liền với việc giữ gìn phát huy truyền thống văn hoá, nhân phẩm của con người Việt Nam, đồng thời khai thác các di sản văn hoá nghệ thuật có giá trị, giàu bản sắc dân tộc, các di tích lịch sử, các công trình văn hoá nổi tiếng , tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát triển du lịch và văn hoá có chất lượng cao của các nước, naang cao các tiêu chuẩn của ngành để đa dạnh hoá các sản phẩm du lịch Việt Nam. Song song với phát triển du lịch quốc tế, đẩy mạnh phát triển du lịch trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại, tham quan du lịch của nhân dân, góp phần từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đặc biệt ở các vùng xa xôi hẻo lánh, vùng đồng bào các dân tộc ít người.
+ Mục tiêu hỗ trợ phát triển
Cung cấp thông tin tư liệu, những định hướng chiến lược cơ bản để hỗ trợ cho việc lập kế hoạch, xúc tiến, phát triển, sự phối kết hợp, nghiên cứu, thống kê... giúp cho sự phát triển của ngành ở trung ương cũng như địa phương.
Những mục tiêu cụ thể: Quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam xác định các mục tiêu cho các kế hoạch chỉ đạo phát riển ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đến năm 2010 khoảng 9 triệu khách quốc tế và 25 triệu khách trong nước, doanh thu đạt khoảng 11,80 tỉ USD. Năm 1994 tỷ lệ GDP du lịch mới chiếm 3,5% GDP của cả nước. Dự kiến đến năm 2010 là 12%. Nếu tính cả tỷ lệ GDP của ngành du lịch và các ngành dịch vụ liên quan đến hoạt động du lịch thì năm 1994 đạt 10,02%. Dự kiến đến năm 2010 đạt đến 27,0% GDP của cả nước.
b) Các chiến lược phát triển du lịch:
+ Chiến lược phát triển nguồn nhân lực du lịch
Tổ chức đào tạo lại và đào tạo mới ngày càng tốt hơn cán bộ công nhân viên của ngành du lịch dưới hình thức tại chỗ, chính quy ở trong nước và nước ngoài, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài của ngành du lịch. Chú trọng giáo dục du lịch toàn dân.
+ Chiến lược sản phẩm
Đa dạng hoá và nâng cao chất sản phẩm du lịch phù hợp với thị trường du lịch. Đối với từng vùng du lịch phải tạo ra được sản phẩm du lịch đặc thù và phải kết hợp với nước ngoài, nhất là các nước trong khu vực và các nước có chung biên giới để nối tour du lịch tạo thêm khả năng tiêu thụ các sản phẩm du lịch Việt Nam. Tạo sản phẩm du lịch độc đáo, dặc trưng giàu bản sắc dân tộc, đặc biệt là các sản phẩm du lịch mang truyền thống văn hoá, lịch sử, nghệ thuật, phong tục, tập quán của Việt Nam... để tạo ưu thế cạnh tranh, thu hút khách, chiếm lĩnh, mở rộng thị trường.
Tạo sản phẩm du lịch chuyên đề như: du lịch bồi dưỡng sức khoẻ, nghỉ biển, du lịch hang động, du lịch chơi golf, thể thao, câu cá, sông nước, du lịch cho người ham thích thủ công mỹ nghệ, làng nghề truyền thống, sinh vật cảnh, lễ hội, sinh hoạt văn hoá truyền thống dân tộc, du lịch hội nghị, festival...
+ Chiến lược nâng cao chất lượng các dịch vụ du lịch
Tăng cường chất lượng dịch vụ trên cả 3 góc độ: thái độ phục vụ, tính đa dạng, tiện nghi hàng hoá, dịch vụ và khả năng sẵn sàng phục vụ tiếp đón khách.
+ Chiến lược về giữ gìn, tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch, môi trường (cả tải nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn).
Tiến hành phân vùng chức năng trên địa bàn du lịch lớn, xác định các khu vực cần bảo vệ nguyên vẹn, khu vực quy hoạch dự trữ đất đai, các khu cần phục hồi. Xây dựng quy chế xếp hạng và khai thác bảo vệ thắng cảnh, tài nguyên du lịch.
+ Chiến lược về đầu tư du lịch
Khuyến khích cả đầu tư nước ngoài, đầu tư trong nước ( cả khu vực nhà nước lẫn tư nhân) tham gia đầu tư xây dựng phát triển du lịch theo quy hoạch và có dự án đầu tư cụ thể. Nước ngoài liên doanh đầu tư các khách sạn lớn, cao cấp, các khu du lịch. Bằng nhiều hình thức huy động vốn để góp vào các liên doanh nâng tỷ lệ góp vốn phía Việt Nam trong các liên doanh.
+ Chiến lược về thị trường
Nghiên cứu, phân tích, đánh giá các thị trường hiện tại và thị trường tiềm năng. Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển, mở rộng thị trường du lịch của Việt Nam để sớm hoà nhập vào thị trường du lịch của khu vực và thế giới. Trong giai đoạn đầu nên tập trung vào các nước Đông Nam á, châu á- Thái Bình Dương, tiếp đó là các thị trường Tây Âu và Bắc Mỹ.
2.3)Các định hướng phát triển chủ yếu
a)Định hướng về tổ chức không gian lãnh thổ du lịch.
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch nước ta được chia thành 3 vùng du lịch với những chỉ tiêu và sản phẩm du lịch đặc trưng.
*Vùng du lịch Bắc Bộ.
Bao gồm 23 vùng từ Hà Giang đến Hà Tĩnh với thủ đô Hà Nội là trung tâm của vùng và tam giác động lực tăng trưởng du lịch Hà Nội- Hải Phòng- Hạ Long.
Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng là du lịch văn hoá kết hợp với du lịch tham quan, nghiên cứu.
Các địa bàn hoạt động du lịch chủ yếu:
Địa bàn các di tích lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, lễ hội truyền thống, làng nghề, chủ yếu ở Hà Nội, Hà Tây, Ninh Bình, Hà Bắc, Vĩnh Phú, Nam Hà, Hải Hưng...
Địa bàn của nền văn hoá các dân tộc Tày- Nùng (Cao Bằng- Lạng Sơn), H’Mông ( Hà Giang- Lào Cai), Thái ( Lai Châu- Sơn La), Mường( hoà Bình).
Địa bàn cảnh quan, nghỉ dưỡng: vùng biển và ven biển Hạ Long, Bái Tử Long, Cát Bà, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò...Các cảnh quan vùng hồ Hoà Bình, hồ Tây, hồ Ba Bể, Yên Lập... các cảnh quan vùng núi: Tam Đảo, Ba Vì, Sa Pa, Yên Tử, Mẫu Sơn, Phansipan.
Vùng du lịch Bắc Trung Bộ.
Bao gồm 5 tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi với Huế và Đà Nẵng là trung tâm đồng vị của vùng và trục phát triển du lịch Huế- Đà Nẵng- Lao Bảo.
Sản phẩm du lịch đặc trưng là du lịch tham quan cãa di tích lịch sử cách mạng, kết hợp với du lịch biển, hang động và du lịch quá cảnh.
Các địa bàn hoạt động du lịch chủ yếu:
Địa bàn có các di sản văn hoá thời Nguyễn (Huế), văn hoá Chàm( Quảng Nam- Đà Nẵng).
Địa bàn các di tích chống Mỹ, cứu nước chủ yếu ở Quảng Trị ( địa đạo Vĩnh Mốc, giải đường 9 đến Nam Lào, thành cổ Quảng Trị...)
Địa bàn các cảnh quan nghỉ dưỡng, giải trí, dải ven bờ Thuận An, Cảnh Dương, Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), vịnh Nam Ô, non nước Hội An (Quảng Nam - Đà Nẵng), Mỹ Khê( Quảng Ngãi). Các cảnh quan nghỉ dưỡng vùng núi Bạch Mã, Bà Ná, cảnh quan hang động ở Phong Nha ( Quảng Bình).
Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Bao gồm 25 tỉnh từ Kon Tum đến Minh Hải với hai á vùng du lịch: Nam Trung Bộ ( 9 tỉnh) và Nam Bộ ( 16 tỉnh), trung tâm của vùng là Tp HCM.
ở vùng này có các tam giác tăng trưởng du lịch: Tp HCM- Nha Trang, Tp HCM- Cần Thơ- Kiên Giang ( Phú Quốc) và tam giác tăng trưởng kinh tế và du lịch: Tp HCM- Biên Hoà- Vũng Tàu.
Các sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng này là du lịch tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi,du lịch sông nước, du lịch sinh thái đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.
Các địa bàn hoạt động du lịch chủ yếu:
Địa bàn đô thị:
Tp HCM: với các khu vực Thanh Đa- Bình Quới, Lái Thiêu, hồ Kỳ Hoà, Lâm Viên, Văn Thánh, Đầm Sen... sẽ phát triển mở rộng dọc sông Sài Gòn, dọc sông Đồng Nai, khu Thủ Thiêm, rừng Sác, Cần Giờ.
Vũng Tàu: phát triển khu vực du lịch biển để phục vụ cho dân cư tại chỗ, nghỉ cuối tuần của khách du lịch quốc tế cũng như khách du lịch tham quan trong nước, ở khu vực Tp HCM và phụ cận.
Thành phố Cần Thơ sẽ trở thành trung tâm giao tiếp và du lịch của đồng bằng sông Cửu Long khi xây dựng cảng nước sâu cho táu trọng tải trên 1 vạn tấn và nâng cấp sân bay.
Địa bàn nghỉ dưỡng giải trí:
Cảnh quan nghỉ dưỡng ven biển thuộc Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà như: Vũng Rô, Đại Lãnh, Văn Phong, Dốc Lết, Bãi Tiêu, Đồng Đế, Nha Trang, Hòn Trũ. Ngoài ra các bãi biển như: Ninh Chữ, Cà Ná(Ninh Thuận), Bình Châu- Long Hải- Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu), Hòn Chông (Hà Tiên) sẽ bổ sung cho sự hoàn chỉnh của dải du lịch ven biển của vùng này.
Cảnh quan nghỉ dưỡng núi ở Lâm Đồng- Đà Lạt và một số tỉnh Tây Nguyên đặc biẹt thành phố Đà Lạt với nhiều cảnh quan, núi, hồ, thác và một hệ thống biệt thự có kiến trúc đa dạng, độc đáo.
Các hồ: hồ Yali (Kon Tum), biển Hồ (Pleiku), hồ Lắc (Đắc Lắc), Dàu Tiếng (Tây Ninh), thác Mơ (sông Bé), Trị An ( Đồng Nai), Thị Nại (Quy Nhơn), hệ thống hồ của Đà Lạt như hồ Đan Kia, Suối Vàng...
Các công viên quốc gia: Nam Các Tiên, Bù Đăng (Sông Bé), Côn Đảo, các sân chim cần bảo vệ (Minh Hải), rừng thông (Lâm Đồng).
Địa bàn các di tích kháng chiến chống Mỹ:
Bán đảo Phượng Hoàng (Quy Nhơn), Cam Ranh ( Khánh Hoà), sân bay Thành Sơbn (Ninh Thuận), Xuân Lộc(Đồng Nai), chiến khu Đ (Lâm Đồng- Tây Ninh- Sông Bé), núi Bà (Tây Ninh), dinh Độc Lập, địa đạo Củ Chi, ....
-Địa bàn các di tích khác:
Các tháp Chàm (Ninh Thuận, Bình Thuận), Tây Sơn (Bình Định), toà thánh Cao Đài, đền Bà (Tây Ninh), các Chùa Bà núi Sam, núi Sập, khu di tích ốc Eo Tri Tôn, Thoại Sơn (An Giang), quê Bác Tôn (Long Xuyên), kênh Xà No (Tiền Giang).
Các trung tâm lưu trú: trung tâm chính: Tp HCM- Nha Trang- Đà Lạt- Vũng Tàu; trung tâm phụ: Quy Nhơn- Cần Thơ.
b)Định hướng đầu tư xây dựng khách sạn.
Trước mắt tập trung đầu tư hai loại nhóm khách sạn là: khách sạn chuyển tiếp (1* đến 3*) và khách sạn cao cấp (4* đến 5*)
Tập trung xây dựng ở các trung tâm du lịch Hà Nội và Tp HCM khách sạn cao cấp ( loại 4* đến 5*) qui mô lớn từ 200 buồng trở lên. Ngoài ra có thể xem xét để xây dựng thêm một số khách sạn loại này ở các địa bàn ven biển như Hạ Long, Huế, Đà Nẵng, Văn Phong và Bà Rịa- Vũng Tàu.Đến năm 2010 cần có thêm 28240 buồng (vùng I: 1430, vùng II: 350, vùng III: 10740 buồng), cần khoảng 3163 triệu USD.
Các khách sạn thương gia và khách sạn nghỉ dưỡng cao cấp 4* đến5* ở các đô thị và khu du lịch quan trọng khuyến khích liên doanh với nước ngoài để xây dựng. Các khách sạn nhỏ, cấp thấp huy động vốn trong nước (trong dân, vay vốn...) để phát triển.
c)Định hướng đầu tư khu du lịch và cơ sở vui chơi giải trí.
Đồng thời với việc xây dựng các khách sạn, đầu tư nâng các cơ sở vui chơi giải trí hiện có, cần nghiên cứu để hình thành các khu du lịch, các cơ sở vui chơi giải trí mới, thích hợp với điều kiện khả năng của mỗi vùng, góp phần vào việc đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch Việt Nam, tăng khả năng thu hút và lưu giữ khách.
Phải chú ý đầu tư, tôn tạo danh lam thắng cảnh và di tích để giữ gìn bảo vệ môi trường, cảnh quan du lịch.
Ưu tiên những dự án đầu tư lớn cho các khu du lịch tổng hợp như dự án ở khu non nước (Đà Nẵng), Thuận An (Huế), Hạ Long (Quảng Ninh), vịnh Văn Phong (Khánh Hoà), Đan Kia, hồ Suối Vàng (Lâm Đồng- Đà Lạt...
d) Các khu vực ưu tiên đầu tư phát triển du lịch
Thủ đô Hà Nội và phụ cận gồm Bắc Ninh( Hà Bắc), Hà Tây, Ninh Bình, Vĩnh Phú... tạo ra các khu nghỉ dưỡng và du lịch cuối tuần của thủ đô Hà Nội. Các dự án bao gồm: các khu phố cổ, khu vực Hồ Tây, Cổ Loa- Sóc Sơn, Tam Cốc- Bích Động, Hoa Lư, Chùa Hương, Ba vì- Đồng Mô, Suối Hai, Tiên Sơn, Tam Đảo, nền văn hoá các dân tộc thuộc tỉnh Hoà Bình, Điện Biên Phủ, hồ Ba Bể, khu hang động Nhất Nhị Tam Thanh- Mẫu Sơn, xây dựng các làng văn hoá các dân tộc Việt Nam ở Hà Tây.
Hạ Long- Bái Tử Long, Cát bà, Đồ Sơn. Các dự án du lịch cần tậpp trung vào hải đảo Cát Bà và không gian trên biển của vịnh Hạ Long và Bái Tử Long...tạo nên quần thể có những sản phẩm du lịch có sức cạnh tranh trong vùng
Huế- Đà Nẵng- Lao Bảo: các dự án du lịch cần tập trung bảo tồn và khai thác các di sản văn hoá kiến trúc, cách mạng cùng các di sản thiên nhiên ở trục đường Huế- Lăng Cô- Hải Vân- Sơn Trà- Đà Nẵng, dải ven biển từ vịnh Nam Ô đến đô thị cổ Hội An, động Phong Nha. Các dự án về kết cấu hạ tầng trong việc phát triển du lịch đồng bộ với Lào- Thái Lan qua đường xuyên á đến Myanma, Malaysia và Singapore trong tương lai
Nha Trang- Ninh Chữ- Đà Lạt: các dự án kết hợp giữa khu nghỉ biển và núi. Đầu tư vào việc xây dựng một khu du lịch biển lớn ở Việt Nam cho những năm sau năm 2000 ở vùng biển Đại Lãnh, vịnh Văn Phong, Nha Trang. Xây dựng tuyến du lịch Tp HCM - Đà Lạt – Nha Trang. Xây dựng sân bay Đông Tác (Tuy Hoà) đáp ứng nhu cầu vận chuyển khách du lịch đến á vùng Nam Trung Bộ
Vũng Tàu-Long Hải- Côn Đảo: đầu tư phảt triển du lịch nghỉ cuối tuần cho dân cư của Tp HCM và phụ cận trên khu vực bãi biển Long Hải- Phước Hải. Có dự án riêng cho Côn Đảo, Quy hoạch lại các khu du lịch ở bãi trước và bãi sau và thành phố Vũng Tàu.
Thành phố HCM và phụ cận: tận dụng được thế mạnh của Tp HCM để khai thác tuyến du lịch trên sông Sài Gòn đến các vùng sông nước của đồng bắng châu thổ sông Cửu Long cùng các dự án phát triển du lịch trên sông Mê Kông đến Pnômpênh với Lào và Thái Lan. Dự án các làng văn hoá các dân tộc ở tp HCM. Một khu vực vui chơi giải trí ở tp HCM và phụ cận (Thủ Đức, Biên Hoà...)
Hà Tiên- Phú Quốc( Kiên Giang): Cần có một định chế riêng cho việc đầu tư đảo Phú Quốc. Dự án đầu tư Phú Quốc phải là một dự án đầu tư toàn diên và đồng bộ trong một chiến lược phát triển lâu dài cho cả vùng, trong đó phát triển du lịch sinh thái là một hướng ưu tiên.
2.4) Tổ Chức và Thực hiện
Quy hoạch xây dựng các cơ sở du lịch, khu du lịch phải xuất phát từ định hướng phát triển kinh tế – xã hội của mỗi vùng, mỗi địa phương, tiềm năng, tài nguyên du lịch tại chỗ và định hướng phát triển du lịch nhằm khai thác một cách có hiệu quả tài nguyên du lịch thúc đẩy phát truển và mở rộng khả năng du lịch của mỗi vùng, đồng thời duy tu tôn tạo nâng cấp di sản văn hoá, lịch sử, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, môi trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách du lịch. Phát triển các hình thức du lịch phù hợp, gắn địa bàn du lịch trọng điểm với du lịch vùng và du lịch cả nước. Khuyến khích và có những chính sách phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể để huy động mọi nguồn lực nhằm đầu tư phát triển du lịch một cách có hiệu quả, thiết thực. Từng bước tạo việc làm tăng nguồn thu, mở rộng giao lưu , góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.
Trong giai đoạn đầu, một mặt cải tạo, nâng cấp các cơ sở du lịch hiện có để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về chất lượng dịch vụ và sanr phẩm du lịch. Mặt khác phải có kế hoạch cụ thể và phương án xây dựng, phát triển du lịch với hình thức và qui mô thích hợp cho từng giai đoạn, đón trước thời cơ chủ động trong phát triển. Trên cơ sở đó tập trung đầu tư xây dựng và mở rông các tuyến điểm khu du lịch, làng văn hoá du lịch, kết hợp được nhiều loại hình du lịch khác nhau. Huy động nhiều nguồn vốn để đầu tư: liên doanh liên kết trong nước, các thành phần kinh tế; đầu tư nước ngoài để tranh nguồn vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm tổ chức quản lý hiện đại nhằm xây dựng các cơ sở du lịch, khu du lịch có chất lượng cao. Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng phát triển du lịch với xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế xã hội tai chỗ.
Chú trọng công tác nghiên cứu khoa học và phát triển nguồn nhân lực du lịch. Củng cố hệ thống các cơ sở đào tạo du lịch ở tất cả các cấp; tiêu chuẩn hoá công tác đào tạo để đáp ứng đòi hỏi của quá trình phát triển du lịch nước ta. Kết hợp giữa đào tao lại và đào tạo mới với bồi dưỡng dưới các hình thức thích hợp ở trong và ngoài nước để nhanh chóng có đội ngũ cán bộ đủ năng lực có phẩm chất phục vụ cho ngành du lịch.
Kiện toàn tổ chức hệ thống quản lý du lịch từ trung ương đến địa phương, cả hệ thống quản lý nhà nước và các hoạt động kinh doanh du lich, dịch vụ; xây dựng các cơ sở chính trị, các đoàn thể quần chúng vững mạnh, trong sạch; đồng thời nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện dần hệ thống cơ chế chính sách và quy định về du lịch phù hợp với yêu cầu phát triển để đảm bảo hiệu lực quản lý về du lịch, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho kinh doanh phát triển.
Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các ngành và các địa phương chỉ đạo quản lý và phát triển du lịch phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triẻn du lịch cả nước và chiến lược phát triển kinh tế- xã hội mỗi vùng, mỗi địa phương, sớm đưa du lịch nước ta trở thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp xứng đáng vào công cuộc đổi mới đất nước và theo kịp du lịch các nước phát triển trong vùng và thế giới.
3)Quyết Định Của Thủ Tướng Chính Phủ (số 307-TTg)
Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ
1995-2000.
Điều 1: Phêduyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịchViệt Nam thưòi kỳ 1995-2000” số 377-TCDL ngày 24 tháng 4 năm 1995 của Tổng cục Du lịch.
Điều 2: Căn cứ mục tiêu chién lược phát triển kinh tế – xã hội, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, điều kiện, đặc điểm và tiềm năng du lịch của mỗi vùng, mỗi địa phương, Bộ trưởng, Thủ tướng, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, với phạm vi, trách nhiệm được giao, tổ chức và chỉ đạo việc triển khai “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995-2010” trong cácn kế hoạch dài hạn, 5 năm và hàng năm, cũng như các đề án quy hoạch phát triển du lịch cụ thể.
Điều 3: Giao Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch chủ trì, phối hợp với Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà Nước và Bộ trưởng các Bộ: Xây dựng, Giao thông vận tải, Văn hoá- thông tin và các ngành, cơ quan chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quy hoạch và phát triển du lịch phù hợp với chiến lược phát triền kinh tế – xã hội của mỗi tỉnh, mỗi vùng trong một thể thống nhất của cả nước, nhất là ở những địa phương có trung tâm có khu du lịch lớn như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hải Phòng, Quảng Ninh.
Điều 4: Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
Ngoài ra chính phủ còn đưa ra một số Nghị định về việc thực hiện đổi mới và quản lý phát triển ngành du lịch như: Nghị định số 09/CP của chính phủ về tổ chức và quản lý các doanh nghiệp du lịch; Nghị định số 24/CP của Chính phủ về thủ tục xuất cảnh nhập cảnh; Nghị định 87/CP của Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng, Nghị định 39/2000 NĐCP của Chính phủ về cơ sở lưu trú Du lịch....
Đồng thời với việc ra các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ các Bộ, liên Bộ cũng kịp thời đưa ra các thông tư hướng dẫn thi hành các Nghị định của Chính phủ về các lĩnh vực thuộc bộ mình quản lý.
II) Những kết quả đạt được từ ngành du lịch và những hạn chế
Những kết quả đạt được
Tiềm năng du lịch nước ta là to lớn, phong phú và đa dạng, có sức thu hút khách. Điều này được nghiên cứu và khẳng định trong Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam 1995-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duỵêt theo quyết định 307/TTg ngày 24-5-1995. Và bản Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch 1995-2010 đã đạt nền móng cho sự phát triển du lịch không chỉ hiên nay mà còn cả cho mai sau.
Kết quả đạt được cụ thể là
Thời kỳ trước năm 1988, mỗi năm ngành du lịch chỉ đón được mấy chục ngàn lượt khách quốc tế. Từ năm 1990 đến 1995 đã có những đột biến lớn về số lượng cũng như cơ cấu khách.
Năm 1990 du lịch Việt Nam mới đón được 250 ngàn lượt khách quốc tế
Năm 1993 lượt khách quốc tế đến Việt Nam đã xấp xỉ đạt 670 ngàn người, tăng gấp 2,7 lần so với năm 1990 (mỗi năm tăng 39%).
Năm 1994 cả nước đón được trên 1 triệu lượt khách quốc tế, tăng 52% so với năm1993, khách nội địa cũng tăng từ 1 triệu năm1990 lên 3,5 triệu năm 1994.
Năm 1995 lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 1,358 triệu lượt người tăng 33,4% so với năm 1994, số lượng khách nội địa đạt 5,5 triệu lượt người so với năm 1994 tăng 57,1%.
Nguồn thu nhập xã hội từ du lịch của năm 1994 đã đạt trên 5200 tỉ đồng và năm 1995 con số này đã tăng lên tới 8000 tỉ đồng.
Thời kì 1995-1997 khách quốc tế và khách nội địa đạt tốc độ tăng trưởng bìmh quân 30%/năm.
Năm 1997 đã đón được 1,7 triệu lượt khách quốc tế và khoảng 8,5 triệu lượt khách trong nước.
Tỉ trọng GDP từ ngành du lịch thời kỳ1994-1997 bình quân khoang12% mức đóng góp của ngành du lịch vào ngân sách nhà nước, bình quân gần 800 tỉ đồng/năm.
Ngành du lịch đã thu hút lực lượng lao động trưc tiếp trên 150 ngàn người.
Một điều quan trọng hơn nữa là các hoạt động hợp tác quốc tế về du lịch được tăng cường và mở rộng. Đến nay, du lịch Việt Nam đã kí kết 13 hiệp định hợp tác du lịch với các nước. Các doanh nghiệp du lịch Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ bạn hàng với 800 hãng du lịch của 50 nước trên thế giới. Việt Nam đã tham gia tổ chức du lịch thế giới (WTO), hiệp hội du lịch châu á Thái Bình Dương (PATA), hiệp hội du lịch các nước Đông NAm á (ASEANTA), hợp tác phát triển du lịch 6 nước tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng... Việc mở rộng hợp tác quốc tế về du lịch đã góp phần tích cực trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, hình thành và củng cố môi trường cho nền kinh tế mở của đất nước. Đồng thời, vai trò và vị trí của du lịch trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước đã dần được khẳng định. Vị thế của du lịch Việt Nam trên thị trường du lịch của khu vực và thế giới ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, giai đoạn sau (1996-1997), do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch coa phần chậm đi so với những năm trước. Lượng khách quốc tế vào Việt Nam vẫn tăng nhưng không cao, năm 1996 chỉ tăng 18,9% so với năm1995 và năm1997, du lịch Việt Nam đón trên 1,7 triệu lượt khách tăng 6,7% so với năm1996. Năm 1997 khách du lịch trong nước tiếp tục tăng mạnh, đạt 8,5 triệu lượt người, tăng 30,8%; tổng thu xã hội từ du lịch ước đạt gần 9000 tỉ đồng, tăng 10,6% và nộp ngân sách đạt 840 tỉ đồng, tăng 13,5% so với năm 1996. Đến năm 1999 thu nhập xã hội từ du lịch đạt 18 nghìn tỉ đồng.
Cùng với sự gia tăng về số lượng khách du lịch, cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch cũng không ngừng phát triển với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 14,8%. Năm 1997 đã có 3050 khách sạn với trên 55600 phòng, trong đó có 28000 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Đánh giá về tình hình hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực khách sạn- du lịch có thể khẳng định là đã thu được một số kết quả bước đầu.Tính đến nay Bộ kế hoạch và đầu tư đã cấp 181 giấy phép đầu tư trong lĩnh vực khách sạn- du lịch, chiếm tỉ trọng đáng kể trong hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài thời gian qua, cả về số dự án (chiếm 7%) và vốn đầu tư (chiếm 11%). Các dự án đầu tư chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn theo hình thức liên doanh và càng về sau càng có qui mô lớn như dự án khu du lịch Đà Lạt- Đankia với tổng vốn đầu tư 706 triệu USD; dự án công viên 23-9 vớin tổng vốn đầu tư 524 triệu USD.
Về các hoạt động khác của ngành du lịch vẫn đang được chú trọng và triển khai tích cực ở nhiều nơi trên diện rộng, đi vào chiều sâu như công tác quản lý nhà nước về du lịch. Xây dựng pháp lệnh du lịch; triển khai xây dựng quy hoạch du lịch theo các vùng và các địa bàn trọng điểm, quản lí nghiệp vụ và đào tạo bồi dưỡng cán bộ; đẩy mạnh quảng bá, xúc tiến du lịch; tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế, triển khai các hiệp định đã kí và chuẩn bị kí tiếp hiệp định với các nước khác; tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài cho các dự án phát triển du lịch...
Ngày 8 tháng 12 năm 2000 du lịch Việt Nam đã đón vị khách du lịch quốc tế thứ 2 triệu đánh dấu một mốc mới trong quá trình phát triển của ngành. Du lịch Việt Nam đã vươn lên ngành trung bình giữa các nước ASEAN.Với nhịp độ tăng trưởng khách quốc tế như hiện nay thì hy vọng đến năm 2010, du lịch Việt Nam sẽ đón vị khách quốc tế thứ 7 triệu.
Nói tóm lại trong những năm gần đây, ngành du lịch nước ta đã có nhiều tiến bộ vượt bậc trong việc tổ chức đón ngày càng nhiều khách nước ngoài đến Việt Nam, Việt kiều về thăm Tổ Quốc và nhân dân đi du lịch trong và ngoài nước; góp phần phát triển kinh tế – xã hội, thúc đẩy giao lưu văn hoá, làm cho nhân dân thế giới hiểu biết thêm về con người, đất nước Việt Nam, tranh thủ được thiện cảm và sự đồng tình, ủng hộ quốc tế đối với nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, đóng góp một phần khá lớn cho thu nhập trong nước.
2) Hạn chế
Cùng với những thành tựuto lớn mà ngành du lịch đã góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội như trên. Vị trí và vai trò của ngành du lịch còn chưa được nhận thức đầy đủ ở nhiều ngành, nhiều cấp, địa phương, và không ít trong dư luận xã hội coi du lịch chỉ là ngành phục vụ, phi sản xuất vật chất, chưa thấy được du lịch là một ngành kinh tế đặc thù có yêu cầu phát triển bền vững mang tính tổng hợp liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao dẫn đến trong chỉ đạo cụ thể, biện pháp thi hành ở nhiều ngành, nhiều cấp làm sai lệch hay hạn chế đến sự phát triển du lịch.
Biểu hiện cụ thể
*)Đầu tư vào du lịch trong những năm qua còn một số tồn tại và mâu thuẫn
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý.
Trong thời gian qua, theo ước tính của một số chuyên gia đầu tư du lịch thì có tới 90% lượng vốn đầu tư du lịch là để xây dựng các khachs sạn, nhà hàng (cơ sở lưu trú), khaỏng gần 10% đầu tư vào vận tải du lịch. Các lĩnh vực lữ hành, vui chơi giả trí ... rất ít hoặc gần như chưa được đầu tư. Tình hình trên, xét về mặt khách quan thì thấy rằng đầu tư vằo kinh doanh khách sạn, nhà hàng ít rỉu ro hơn và dễ quản lý hơn. Song xét về mặt chủ trương chính sách lại cho thấy:
+ Tình trạng đầu tư trong lĩnh vực lữ hành còn bị hạn chế. Các doanh nghiệp tư nhân và nước ngoài chưa được làm lữ hành quốc tế. Các doanh nghiệp lữ hành của các ngành, các tổ chức xã hội được cấp giấy phép hành nghề còn rất ít ỏi.
+ Nhà nước lại chưa có chính sách cụ thể để khuyến khích đầu tư vào các khu vui chơi giải trí. ở khâu này kinh doanh có lãi ít hơn, thu hồi vốn chậm hơn nhưng lại không được ưu tiên nên không thu hút được vốn đầu tư.
Với cơ cấu đầu tư như trên đã hạn chế rất nhiều đến hiệu quả đầu tư vào du lịch.
- Đầu tư đang còn bị động, phân tán và manh mún.
Do chậm chạp trong công việc quy hoạch (tổng thể và cụ thể ở từng vùng, từng địa phương), do chưa dự báo hết xu thế phát triển du lịch của thế giới và của Việt Nam sau cấm vận... nên việc cấp giấy phép đầu tư đang còn bị chậm vàbị động.
Trong những năm vừa qua nhiều ngành không chuyên doanh du lịch lại đầu tư vào du lịch tương đối lớn. Song ở các thành phố lớn lại có quá nhiều các khách sạn mini không đủ điều kiện để xếp hạng và đón khách quốc tế. Để tồn tại các khách sạn này phải hạ giá và chính họ là một lực lượng không nhỏ để phá giá thị trường ở Việt nam. Tuy đầu tư nhiều nhưng chưa hình thành được những khu du lịch lớn, tập trung với trình độ ngang các nước trong khu vực. Các khách sạn có qui mô hàng chục phòng ở các tỉnh có ít khách đang bị bỏ trống hoặc công suất sử dụng thấp. Tình hình trên cho thấy rằng, vốn đầu tư vào du lịch đang bị lãng phí
Quản lý đầu tư chưa chặt chẽ, chưa khoa học.
Do thiếu hướng dẫn cụ thể nên nhiều khách sạn, nhà hàng mới xây dựng đã phải thay đổi và nâng cấp trang trí nội thất, nhiều khách sạn xây dựng không phù hợp với kinh doanh du lịch. Một số thành phố lớn, nhiều khách sạn mini, nhiều nhà hàng mọc lên bất chấp quy hoạch, cảnh quan thành phố và môi trường... Do vậy, đầu tư kinh doanh trong du lịch đã góp phần tạo ra sự lộn xộn trong kinh tế.
Trong chính sách thuế, du lịch cũng chỉ coi là một ngành dịch vụ cần thiết điều tiết mạnh với thuế suất cao nhất làm hạn chế đến hoạt động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành.
Mối quan hệ phát triển liên ngành chưa được sự phối hợp tích cực và giải quyết hợp lý , đồng bộ những vấn đề vướng mắc. Chưa có sự phối hợp quản lý theo ngành và theo địa phương. Công tác quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế xã hội còn hạn chế dẫn đến nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch phát triển tự phát, không có quy hoạch, khai thác bừa bãi tài nguyên du lịch, thiên về lợi ích cục bộ trước mắt mà quên đi lợi ích tổng thể lâu dài đã ảnh hưởng xấu đến việc bảo vệ, tôn tạo , giữ gìn tài nguyên môi trường.
Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ chuyên ngành du lịch thiếu thốn, lạc hậu, phân tán.
Đội ngũ cán bộ, nhân viên chưa được đào tạo tốt , kinh nghiệm ít, số lượng thiếu, trình độ nghiệp vụ và kiến thức chưa cao, hình thức dịch vụ phục vụ còn nghèo, chất lượng kém.
Tài nguyên và môi trường du lịch chưa được tu bổ, tôn tạo giữ gìn và khai thác hợp lí. việc bảo vệ, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong hoạt động du lịch chưa được quan tâm thường xuyên. Những hiện tương tiêu cực trong du lịch còn xảy ra...
Trong thời gian tới, ngành du lịch nước ta còn gặp nhiều khó khăn, thách thức cũng như trên trường quốc tế.
Để phát triển nhanh du lịch nhằm từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ trong khu vực cần quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng trên cơ sở đó nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương về vai trò, vị trí và hiệu quả kinh tế- xã hội của ngành du lịch trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chương III: Hoàn thiện một số giải pháp của nhà nước đối với hoạt động du lịch.
I) Những quan điểm cơ bản trong sự nghiệp phát triển du lịch
Trích văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
“... Phát triển ngành du lịch, cac dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính- viễn thông, thương mại, vận tải, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, công nghệ, pháp lý, thông tin... và các dịch vụ phục vụ cuộc sống nhân dân.
Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại-du lịch có tầm cỡ trong khu vực...”
“...Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng du lịch to lơns của đất nước theo hướng du lịch phát triển văn hoá, sinh thái môi trường. Xây dựng các chương trình và các điểm du lịch hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và khu danh lam thắng cảnh. Huy động các nguồn lực tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng ở những khu vực du lịch tập trung, ở các trung tâm lớn. Nâng cao trình độ văn hoá và chất lượng dịch vụ phù hợp với các loại khách du lịch khác nhau.
Đẩy mạnh việc huy động vốn trong nước đầu tư vào khách sạn. Cổ phần hoá một số khách sạn hiện có để huy động các nguồn vốn vào việc đầu tư cải tạo, nâng cấp.
Liên doanh với nước ngoài xây dựng các khu du lịch và các khách sạn lớn, chất lượng cao, đòi hỏi nhiều vốn. Chuyển các nhà nghỉ, nhà khách sang kinh doanh khách sạn và du lịch...”
“... Bảo tồn và khai thác vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên và các di tích lịch sử để phát triển du lịch...”
1).Trong tình hình mới, sự nghiệp du lịch cần phát triển theo những quan điểm sau đây:
Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Hoạt động du lịchphải đồng thời đạt hiệu quả trên nhiều mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc và nhân phẩm con người Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá thế giới, góp phần thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, vì vậy phát triển du lịch là nhiệm vụ và trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội. Khuyến khích các thành phần kinh tế tổ chức kinh doanh du lịch dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước, trong đó doanh nghiệp nhà nước phát huy vai trò chủ đạo.
Mở rộng giao lưu và hợp tác để phát triển du lịch quốc tế, đồng thời chú trọng phát triển du lịch nội địa, đáp ứng nhu cầu về du lịch ngày càng tăng của nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, lòng yêu đất nước, quê hương, tăng cường sức khoẻ, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Mục tiêu của ngành du lịch là đổi mới phát triển các cơ sở và phương thức kinh doanh, phục vụ, tạo được sản phẩm du lịch mang tính dân tộc, kết hợp với tính hiện đại, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đón khách du lịch và những chỉ tiêu kinh tế, xã hội Nhà nước giao, tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ và lành mạnh du lịch Việt Nam vào đầu thế kỷ 21.
Để lãnh đạo phương hướng và mục tiêu trên, các cấp uỷ, các tổ chức Đảng thực hiện tốt những việc dưới đây:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác du lịch, đẩy mạnh công tác xây dựng, phát triển Đảng và các đoàn thể nhân dân trong ngành du lịch.
Chỉ đạo các cơ quan Nhà nước tăng cường quản lý; ban hành, sửa đổi, bổ sung các chính sách, luật pháp về công tác du lịch phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, đảm bảo có hiệu quả kinh tế cao, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ vững an ninh chính trị, an toàn xã hội, tăng cường giao lưu quốc tế. Nhanh chóng kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về du lịch từ trung ương đến địa phương, từ doanh nghiệp du lịch của Nhà nước đến các doanh nghiệp du lịch thuộc các thành phần kinh tế khác, và sắp xếp hệ thống doanh nghiệp theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá.
Chỉ đạo ngành du lịch đỏi mới quản lý, phối hợp với các ban, ngành, địa phương, đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội, để:
Hướng dẫn, tổ chức phát triển du lịch theo đúng pháp luật, chấn chỉnh hoạt động của các cơ sở du lịch theo hướng lành mạnh, văn minh hiện đại, tạo ra những sản phẩm du lịch phong phú, đa dạng, chất lượng cao và đặc sắc của từng địa phương, từng vùng và cả nước để thu hút nhiều khách du lịch quốc tế.
Quản lý và phục vụ tốt khách du lịch nước ngoài từ khi vào đến khi ra khỏi nước ta, vừa giảm thủ tục phiền hà để khách yên tâm, thoải mái, vừa bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Có kế hoạch huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật cho ngành du lịch.
Đổi mới công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ du lịch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên du lịch về trình độ chính trị, nghiệp vụ du lịch và an ninh. Chú trọng giáo dục toàn dân về công tác du lịch để phát huy lòng hiếu khách của dân tộc, nâng cao dân trí, tạo môi trường cho du lịch phát triển, làm cho khách du lịch hiểu thêm về đất nước,con người Việt Nam, tăng thêm thiện cảm và sự ủng hộ của họ đối với đất nước ta.
Chỉ đạo việc phối hợp chặt chẽ liên ngành để đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực du lịch nhằm đẩy mạnh tuyên truyền quảng caó du lịch ra nước ngoài, thông tin đối ngoại, mở rộng thị trường, thu hút khách và vốn đầu tư nước ngoài, tranh thủ công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý phát triển du lịch.
Chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng và Tổng cục Du lịch tiến hành thônh tin, tuyên truyền quảng cáo, phổ biến quan điểm, chủ trương của Đảng, các chính sách của Nhà nước về công tác du lịch, vai trò, vị trí và hiệu quả nhiều mặt của ngành du lịch, nêu gương người tốt, việc tốt, chống biểu hiện tiêu cực trong hoạt động du lịch.
Các Tỉnh uỷ, Thành uỷ, Đảng uỷ trực thuộc Trung ương, ban cán sự đảng, đảng đoàn tổ chức quán triệt và thực hiện phương hướng và mục tiêu này.
Các chủ đề ngày du lịch trên thế giới trong 20 năm qua
Du lịch đóng góp vào việc bảo tồn các di sản văn hoá , hoà bình và hiểu biết lẫn nhau
Du lịch và chất lượng cuộc sống
Niềm tự hào trong du lịch: người khách tốt và người chủ tốt
Đi du lịch và ngày nghỉ là quyền lợi nhưng cũng là trách nhiệm của mọi người
Du lịch vì hiểu biết, hoà bình và hợp tác quốc tế
Du lịch thanh niên: di sản văn hoá và lịch sử vì hoà bình và hữu nghị
Du lịch: sức mạnh sống còn của hoà bình thế giới
Du lịch vì sự phát triển
Du lịch: giáo dục cho mọi người
Chuyển động tự do của khách du lịch tạo ra một thế giới
Du lịch: một ngành chưa được thưa nhận, một dịch vụ cần được phổ biến
Giao tiếp, thông tin và giáo dục: sức mạnh cho du lịch phát triển
Du lịch: yếu tố thúc đẩy sự bền vững kinh tế và xã hội và gắn kết con người
Phát triển du lịch và bảo vệ môi trường: hướng tới sự hài hoà lâu bền
Chất lượng nhân viên cao, chất lượng du lịch cao
WTO: 20 năm phục vụ du lịch thế giới
Du lịch: yếu tố cho sự khoan dung và hoà bình
Du lịch: hoạt động tiên phong trong thế kỷ 21 để tạo việc làm và bảo vệ môi trường
Quan hệ nhà nước- tư nhân: chìa khoá để du lịch phát triển
Du lịch: bảo tồn di sản thế giới cho thiên niên kỉ mới
Công nghệ và tự nhiên: hai thách thức đối với du lịch trong buổi bình minh của thế kỷ 21
Ii Một số giải pháp của Nhà nước nhằm phát triển du lịch nước ta trong những năm tới
Giải pháp cho đầu tư vào kinh doanh du lịch phù hợp - Cần sớm hoàn thành quy hoạch tổng thể về du lịch và công bố quy hoạch đó công khai, rộng rãi trong cả nước. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể , các tỉnh, thành phố cần tiến hành quy hoạch cụ thể cho địa phương mình. Một trong những vấn đề quan trọng là phải có sự chỉ đạo tập trung thống nhất trong việc thực hiện quy hoạch của tất cả các ngành các cấp trên từng vùng lãnh thổ. Kiên quyết ngăn chặn và xử lý kịp thời hiện tượng quy hoạch trong đầu tư xây dựng.
Đổi mới nhận thức và quan điểm đầu tư mới tạo ra được cơ cấu đầu tư hợp lý và hiệu quả cao
+ ở những trung tâm du lịch của cả nước như Hà Nội, Tp HCM, Hải Phòng , Quảng Ninh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt...phải lấy trình độ vùng làm căn cứ để đầu tư. Qua đầu tư để chúng ta có được cơ sở du lich có trình độ hiện đại ngang với các nước trong vùng nhằm tăng khả năng cạnh tranh.
+ Mở cửa cho đầu tư vào lữ hành nhiều hơn. Trong những năm tới, nên cho một số hãng lữ hành lớn của các nước Mỹ, Pháp, Nhật, Đức, Trung Quốc... đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam hoặc liên doanh với các háng lữ hành tại Việt Nam. Phát triển mạnh hơn lữ hành quốc tế ở các ngành, các tổ chức xã hội.
+ Có chính sách ưu đãi về chính sách vay vốn, miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp đầu tư vào vui chơi giải trí hoặc tạo ra các tuyến du lịch mới. Trong một số trường hợp có thể độc quyền khai thác đối với các doanh nghiệp này trong khoảng thơì gian nhất định.
+ Đầu tư tập trung để hình thành các trung tâm du lịch lớn ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, tp HCM, Đà Năng...
Có biện pháp thu hút vốn phong phú và mềm dẻo hơn
Để du lịch Việt Nam giữ tốc độ tăng trưởng như những năm qua cần phải có tốc độ tăng trưởng vốn lớn hơn với những năm trước đây:
+ Giải quyết nhanh gọn, tập trung các thủ tục hành chính đối với các chủ đầu tư nước ngoài để tạo sự thuận lợi, thoải mái cho họ trong đầu tư.
+ Tiến hành cổ phần hoá và có thể tư nhân hoá một số khách sạn, nhà hàng để tập trung nguồn vốn. ở những nơi cần hình thành các khu du lịch lớn có thể làm việc này mạnh hơn để có vốn đầu tư mở rộng vùng theo yêu cầu quy hoạch nếu như thấy việc cổ phần hoá và tư nhân hoá là cần thiết.
+ Hạn chế tối đa đầu tư của tư nhân vào việc xây dựng cácn khách sạn mini, nhà hàng mini...
Không có đầu tư vào du lịch sẽ không có sự tăng trưởng và phát triển. Để phát triển mạnh vào đầu tư phải xử lý đồng bộ nhiều vấn đề và phải tạo sự hấp dẫn về lợi ích kinh tế cho đầu tư.
Giải pháp về phát triển cơ sở hạ tầng:
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất- kĩ thuật của đất nước để phát triển du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật là “đòn xeo” thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế xã hội của đất nước. Đối với ngành du lịch, cơ sở hạ tầng là yếu tố cơ bản nhằm khai thác tiềm năng du lịch và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch.
Trong cơ sở hạ tầng du lịch, quan trọng nhất là hệ thống giao thông vận tải, thông tin viễn thông, cấp thoát nước, cung cấp điện. Cần có kế hoạch khắc phục sự xuống cấp, từng bước cải tạo, nâng cấp các công trình, các tuyến giao thông trọng điểm. Đầu tư, xây dựng theo hướng đồng bộ, hiện đại hoá công trình giao thông quốc gia, vùng kinh tế trọng điểm, tuyến bắc- nam. Nhanh chóng hiện đại hoá hệ thống thông tin liên lạc các vùng, cac miền. Điện lực phải đi trước một bước. Giải quyết tích cựcviệc cấp nước ở thành phố, đi đôi với việc đẩy mạnh chương trình nước sạch nông thôn, đặc biệt là đối với các trung tâm, các điểm du lịch, các khu vui chơi, giải trí, cần quan tâm xây dựng các giải pháp cấp thoát nước một cách đồng bộ
Xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại của ngành du lịch trên các mặt chủ yếu.
Cải tạo và xây dựng các khách sạn đạt trình độ quốc tế. Hiện nay, ở nước ta có 3000 cơ sở lưu trú cho khách du lịch, trong đó có hơn 400 khách sạn được xếp hạn từ 1* đến 5*. Mặc dù, trong 5 nưm trở lại đây,số phong khách sạn tăng bình quân từ 5000 đến 6000 phòng, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu của khách. Vì thế cần đẩy nhanh tiến độ và cải tạo và xây dựng mới các khách sạn đạt trình độ quốc tế, được trang bị hiện đại và dịch vụ hoàn chỉnh, đưa công nghệ thông tin tiên tiến vào quản lý và phục vụ khách sạn.
Xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật ở các khu du lịch và tuyến điểm du lịch. Ba vùng du lịch trọng điểm của nước ta có nhiều khu du lịch, tuyến và điểm du lịch khác nhau, do đó cần được xây dựng và trang bị coe sở vật chất phù hợp các hình thái du lịch như: khu du lịch văn hoá, lịch sử phải có nhà bảo tàng và các hiện vật văn hoá- lịch sử. Khu du lịch biển cần có thuyền, phao, bãi biển được cải tạo đẹp, xử lý môi trường biển không bị ô nhiễm và các phương tiện bẩo vệ an toàn cho khách. Khu du lịch nghỉ dưỡng phải có nơi điều trị bệnh, nơi nghỉ ngơi và đầy đủ thuốc men. Trong các khu du lịch, tập trung đầu tư các tuyến, điểm du lịch nổi trội và hấp dẫn để thu hút khách.
Xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật tại nơi vui chơi giải trí. Vui chơi giải trí là nhu cầu không thể thiếu của khách du lịch. Trước mắt, đầu tư, cải tạo các công viên, vườn hoa hiện có với cơ chế quản lý thích hợp nhằm phát huy hiệu quả thiết thực. Đồng thời, quy hoạch, xây dựng các khu vui chơi giải trí mới và hiện đại ở các đô thị, nhất là các thành phố lớn và các khu du lịch trọng điểm.
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trang thiết bị của các công ty du lịch lữ hành. Hoạt đông lữ hành là hoạt động đặc thù của ngành công nghiệp du lịch, do đó xây dựng một hệ thống lữ hành hùng mạnh là một tất yếu khách quan và là một yêu cầu bức xúc đối với hơn 100 công ty lữ hành quốc tế và hàng trăm công ty lữ hành nội địa hiện có. Tiếp thu và áp dụng những thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới để hiện đại hoá các trang thiết bị của các công ty lữ hành trong việc quản lý điều hành, quản lý hồ sơ, sổ sách, báo cáo, thống kê... Thực hiện việc kết nối những dịch vụ du lịch riêng lẻ thành sản phẩm du lịch tổng hợp, hấp dẫn để chào bán trên thị trường du lịch trong nước và ngoài nước. Hiện đại hoá các du lịch lữ hành nhằm thực hiện việc kết hợp nối tour các miền, vùng trong nước và phải vươn mạnh ra thị trường ngoài nước theo xu thế nối Việt Nam với các trung tâm du lịch lớn trên thế giới.
Thực hiên công nghiệp hoá, hiện đại hóa phương tiện vận chuyển khách du lịch. Phương tiện vận chuyển khách du lịch chuyên ngành nhìn chung đều cũ và trang bị kém. Phải sắp xếp lại hệ thống chuyên ngành vận chuyển du lịch trên cơ sở trang bị lại và đổi mới các phương tiện vận chuyển, cải tiến quản lý khâu vận chuyển khách và hàng hoá du lịch đến các tuyến điểm du lịch ở các vùng miền đạt mục đích trong cùng một thời gian, khách có thể đi được nhiều tuyến, điểm du lịch khác nhau, tăng giờ nghỉ cho khách, hàng hoá được vận chuyển kịp thời, thu hút đong đảo cán bộ, công nhân, học sing trong nước và khách nước ngoài có những chuyến đi du lịch nhanh chóng và thoải mái.
Một số giải pháp khác
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, tuyên truyền quảng bá về du lịch. Để có thị trường du lịch rộng lớn, từ lâu công tác nghiên cứu thị trường, tuyên truyền quảng bá đóng vai trò là công cụ khai thác thị trường trong kinh doanh. Nước ta có nhiều điểm du lịch đẹp và hấp dẫn, một số danh thắng và công trình kiến trức cổ trở thành di sản thiên nhiên và văn hoá thế giới. Tuy nhiên nhiều người nước ngoài chưa biết đến. Cần nghiên cứu, điều tra nhu cầu của khách để có chiến lược tuyên truyền quảng cáo thích hợp. Các hình thức có thể sử dụng thông qua phương tiện thông tin đại chúng ( báo chí, phát thanh, truyền hình, mạng internet...) và các ấn phẩm tuyên tuyền như sách, tờ gấp hay các băng, đĩa giới thiệu đất nước, con người, các điểm du lịch Việt Nam, đặt các văn phòng đại diên, tăng cường phối hợp các sứ quán và các tổ chức quốc tế ở trong và ngoài nước.
Tiếp tục phối hợp chặt chẽ hoạt động của ngành kinh tế du lịch với các ngành khác ở trung ương và địa phương, trong đó có các ngành: bưu chính viễn thông, công an, văn hoá, hải quan, giao thông vận tải, ngoại giao.
Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trong hoạt động du lịch. Cụ thể là: kiện toàn hệ thống đào tạo trong cả nước (bao gồm hệ thống các trường trung học, du lịch hiện có), biên soạn giáo trình du lịch thống nhất ở bậc đại học trung học và dạy nghề, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên; điều tra, quy hoạch, có kế hoạch đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công nhân viên ngành du lịch; xây dựng phương hướng chiến lược đào tạo nhân lực cho ngành du lịch.
Du lịch Việt Nam trên con đương phát triển đã có định hướng và mục tiêu rõ ràng. Các giải pháp phát triển du lịch vưa nêu là xuất pháp từ thực tế du lịch Việt Nam và xu thế phát triển du lịch thế giới, có thể đóng góp vào qua trình đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
Kết Luận
Nói tóm lại, trong những năm qua, ngành Du lịch Việt Nam đã thu được những thành tựu quan trọng. Số lượng khách du lịch quốc tế và trong nước ngày một tăng, doanh thu về du lịch, thu nhập xã hội từ du lịch và nộp ngân sách nhà nước có mức tăng trưởng cao. Cơ sở vật chất của ngành được tăng lên cả về mặt số lượng và chất lượng. Quy hoạch phát triển du lịch có bước tiến rõ rệt, chú trọng đầu tư có trọng điểm. Hệ thống được kiện toàn một bước, đội ngũ cán bộ được đào tạo và bồi dưỡng ngày càng chu đáo. Nhờ vậy thu hút nhiều lao động xã hội và góp phần thúc đẩy các nganh kinh tế–xã hội phát triển.
Kết quả đó có được là nhờ sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên trong thời gian tới, ngành du lịch nước ta còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Để phát triển du lịch, ngoài sự vươn lên của bản thân ngành Du lịch, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các địa phương để cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước giải quyết có hiệu quả những tồn tại, vướng mắc nhằm tiếp tục đưa ngành kinh tế du lịch nước ta đứng ngang hàng với ngành Du lịch của các nước trên thế giới.
Tài liệu tham khảo
Tên Sách
1, Địa lý Du lịch
Tác giả: PTS Nguyễn Minh Tuệ.
PGS.PTS: Vũ Xuân Cảnh-Lê Thông
PTS: Phạm Xuân- Nguyễn Kim Hồng
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh
2, Nhập môn khoa học du lịch
Tác giả: Trần Đức Thanh
Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia
3, Hệ thống các văn bản hiện hành về quản lý Du lịch
Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia
II Tên Báo
Báo Du lịch Việt Nam
( Do cơ quan của Tổng cục Du lịch Việt Nam phát hành)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2987.doc