Đề tài Vai trò của quy hoạch xây dựng đô thị trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa bàn thủ đô trong thời kỳ đổi mới

Như chúng ta đã trình bày ở trên , cơ cấu kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất. Hơn thế nữa, sự phát triển các ngành kinh tế đó đạt được hiệu quả là một phần dựa trên cơ sở những điều kiện tiền đề thuận lợi của từng vùng nhất định. Điều kiện đó tạo nên một cơ cấu các ngành theo cùng lãnh thổ. Như vậy, cơ cấu kinh tế lãnh thổ được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Chúng ta nhận thấy rằng, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu ngành kinh tế là hai mặt của một thể thống nhất và là đều là biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành. Chúng ta nghiên cứu cơ cấu lãnh thổ trong nền kinh tế là cần thiết để hiểu rõ hơn về các vùng kinh tế. Thật vậy, trước hết các ngành kinh tế gắn liền với không gian nhất định tạo ra sự chuyên môn hoá vùng. Mặt khác, điều đó cũng làm cho các vùng lãnh thổ có sự phụ thuộc lẫn nhau, sự liên kết hợp tác giữa các vùng kinh tế .

doc27 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của quy hoạch xây dựng đô thị trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa bàn thủ đô trong thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g, mối thành phần đều có vị trí riêng và cùng hợp thành một thể thống nhất có quan hệ thống nhất, tương hỗ với các thành phần kinh tế khác. Như vậy, chúng ta có thể hiểu cơ cấu thành phần kinh tế như thế nào ? Các thành phần kinh tế phản ánh trình độ phát triển của quan hệ sản xuất mà trước hết là quan hệ sở hữu trong nền kinh tế. Việc nghiên cứu cơ cấu kinh tế đô thị được thực hiện trên cơ sở những thành phần kinh tế thực tế đang tồn tại. Cơ cấu kinh tế thể hiện số lượng và vai trò của từng thành phần qua đó thấy được mức độ thống trị của quan hệ sản xuất chủ đạo trong kinh tế đô thị. Một trong những đặc trưng cơ bản của cơ cấu này là xu hướng đơn giản hoá của nó. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta có chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần để thấy rõ được cơ cấu này. Trong thực tế đó là 3 thành phần kinh tế: thành phần kinh tế Nhà nước( Quốc doanh ), không phải nước ngoài ( ngoài quốc doanh) và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong mỗi thành phần này người ta có thể tiếp tục nghiên cứu cơ cấu bên trong của nó. Thành phần kinh tế quốc doanh bao gồm các tổ chức, doanh nghiệp có chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất, các tổ chức còn lại phụ thuộc vào hình thức ngoài quốc doanh. Như vậy về mặt lý thuyết nên chỉ chia ra làm 2 thành phần. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng đảm bảo sự phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự phân công lao động xã hội. Theo nghĩa đó, cơ cấu kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế. 1.2.2 Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ Như chúng ta đã trình bày ở trên , cơ cấu kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động và chuyên môn hoá sản xuất. Hơn thế nữa, sự phát triển các ngành kinh tế đó đạt được hiệu quả là một phần dựa trên cơ sở những điều kiện tiền đề thuận lợi của từng vùng nhất định. Điều kiện đó tạo nên một cơ cấu các ngành theo cùng lãnh thổ. Như vậy, cơ cấu kinh tế lãnh thổ được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Chúng ta nhận thấy rằng, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu ngành kinh tế là hai mặt của một thể thống nhất và là đều là biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành. Chúng ta nghiên cứu cơ cấu lãnh thổ trong nền kinh tế là cần thiết để hiểu rõ hơn về các vùng kinh tế. Thật vậy, trước hết các ngành kinh tế gắn liền với không gian nhất định tạo ra sự chuyên môn hoá vùng. Mặt khác, điều đó cũng làm cho các vùng lãnh thổ có sự phụ thuộc lẫn nhau, sự liên kết hợp tác giữa các vùng kinh tế . Đối với mỗi nền kinh tế để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội cần có một cơ cấu lãnh thổ hợp lý. Trong đó, mỗi vùng lãnh thổ giải quyết những nhiệm vụ phù hợp với điều kiện của mình và cùng trợ giúp các vùng khác tạo sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế. Có thể nói rằng, một cơ cấu lãnh thổ hợp lý , có thể khai thác tốt tiềm năng kinh tế cùng góp phần nâng cao năng suất lao động, từ đó thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế. Theo quan điểm của chúng tôi, một cơ cấu lãnh thổ hợp lý cần đảm bảo các yêu cầu: Đó là cơ cấu lãnh thổ cần có “tính phù hợp” tức là cơ cấu đó phải phù hợp với những điều kiện và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Nó cần đảm bảo “tính đồng bộ” trong cơ cấu có nghĩa là cần có “sự ăn khớp” giữa các bộ phận cấu thành và giữa các bộ phận của vùng lãnh thổ này với vùng lãnh thổ khác. Sau nữa, nó phải đảm bảo “tính tối ưu” mà theo đó có được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Mặt khác, đối với mỗi vùng kinh tế có một cơ cấu trong đó các ngành kinh tế đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao và đáp ứng mục tiêu của nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là cơ cấu lãnh thổ đó cần đảm bảo cho lãnh thổ hoàn thành được những nhiệm vụ mà nền kinh tế đặt ra đối với vùng. Sau đó, cần phải tăng cường nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên và các nguồn lực sản xuất có trong lãnh thổ đó. Từ đó tạo ra tiền đề, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như kinh tế xã hội để phất triển kinh tế vùng và nâng cao đời sống nhân dân và bảo vệ môi trường thiên nhiên. Nhưng một trong những mục tiêu của nền kinh tế ta không thể bỏ qua đó là cơ cấu lãnh thổ phải thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các vùng lãnh thổ của đất nước hay xoá bỏ chênh lệch về trình độ phát triển. Điều đó là cần thiết bởi vì một nền kinh tế có được sự phát triển đồng đều mới tạo được sự đồng bộ. Mối quan hệ qua lại chặt chẽ từ đó lên sức mạnh tổng hợp để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nguyên nhân của sự phát triển không đồng đều giữa các vùng lãnh thổ có nhiều bao gồm: do điều kiện lịch sử để lại; do sự phân bố dân cư; lực lượng sản xuất không tương xứng với tiềm năng với yêu cầu thoả mãn nhu cầu của dân cư trong vùng và sự tham gia vào mối liên hệ với vùng khác. Để đạt được các mục tiêu đó , cơ cấu lãnh thổ phải theo hướng chuyên môn hoá vùng theo chiều sâu và quan hệ hợp tác ngày càng toàn diện. Kinh tế lãnh thổ phát triển nhiều mặt, tổng hợp dựa trên một vài ngành và gắn liền với sự hình thành sự phân bố dân cư phù hợp với điều kiện tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành, các thành phần kinh tế theo lãnh thổ và trên phạm vi cả nước, phải phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội, phong tục tập quán, truyền thống của mỗi vùng, nhằm khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đô thị 2.1 Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế Như phần trên đã trình bày chúng ta đã hiểu được một cách khá rõ ràng về cơ cấu kinh tế . Thế còn “chuyển dịch cơ cấu kinh tế” có ý nghĩa là gì?. Chính sự “chuyển dịch” có vai trò và ý nghĩa như thế nào đối với quá trình phát triển kinh tế đô thị. Để làm rõ được điều đó chúng ta phải hiểu thế nào là “chuyển dịch”. “Chuyển dịch” đó là sự thay đổi từ vị trí này sang vị trí khác trong một tổng thể xác định. Nhìn chung, cơ cấu kinh tế luôn thay đổi trong từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu kinh tế không cố định. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỉ lệ giữa các ngành trong các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế không đồng đều. Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển được gọi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi vị trí mà là sự biến đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở của một cơ cấu hiện có do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hay chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới, tiên tiến hay hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến đổi cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế về thực chất là sự điều chỉnh ba mặt biểu hiện của cơ cấu kinh tế nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế xã hội cho từng thời kỳ phát triển. Như vậy, có thể nói rằng chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một bước nhảy vọt cho sự phát triển kinh tế. Chính nhờ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo chiều sâu. Do đó, không chỉ là sự thay đổi về số lượng mà còn bao hàm cả sự biến đổi về chất lượng trong tất cả các ngành và các thành phần kinh tế. Do đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữ một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển đất nước cũng như tạo điều kiện phát triển kinh tế ở đô thị. 2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tất yếu khách quan trong quá trình đô thị hoá Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình làm thay đổi cả về số lượng, chất lượng, tỉ trọng của các ngành các vùng trong cả nước. Đặc biệt, trong quá trình tốc độ đô thị hoá đang diễn ra nhanh chóng như hiện nay , vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữ một vai trò quan trọng. Thay đổi cơ cấu là một điều kiện cơ bản để xoá bỏ những mất cân đối đang tồn tại tạo ra một trình độ cân đối nhất định trong nền kinh tế làm tiền đề cho sản xuất phát triển mạnh mẽ và ổn định. Trước khi có chuyển dịch cơ cấu kinh tế , nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu tỉ lệ lao động trong công nghiệp thấp, lao động trong nông nghiệp là chủ yếu còn dịch vụ ở trong các khu đô thị là kém phát triển. Chính vì lẽ đó, chuyển dịch cơ cấu đã xoá bỏ được những mất cân đối đang tồn tại, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp đã giảm hơn so với trước và ngành dịch vụ đang phát triển với tốc độ cao phù hợp và thúc đẩy nhanh đến quá trình đô thị hoá. Nhờ có chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn thủ đô, ngành công nghiệp tăng 29,2% (năm 1990) lên 33,01% (năm 1995) và 38,5% (năm 2000) với tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm tỉ trọng GDP của Hà nội chiếm trong tổng số cả nước đã tăng từ 5,5% (năm 1990) lên 6,1% (năm 1995) và 7,3% (năm 2000). Như vậy, chuyển dịch cơ cấu đã tạo tiền đề cho sản xuất phát triển mạnh mẽ và ổn định. Sự thay đổi cơ cấu tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp để thực hiện những phương hướng quyết định của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nhờ đó có quá trình chuyển dịch cơ cấu, chúng ta đã tích cực tiến hành chuyển giao công nghệ KHKT. Chính nhờ quá trình chuyển giao công nghệ, năng suất lao động trong đô thị cũng như trong toàn bộ nền KTQD được nâng cao rõ rệt. Sự thay đổi cơ cấu và ứng dụng KHKT trong nền kinh tế có mối quan hệ qua lại với nhau một cách chặt chẽ . Tiến bộ KHKT buộc cơ cấu kinh tế phải có sự thay đổi phù hợp nhưng thay đổi CCKT lại có tác dụng mở đường cho việc thực hiện tiến bộ KHKT. trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chúng ta đã ưu tiên phát triển một số ngành trọng điểm trên địa bàn thủ đô như điện năng, cơ khí, hoá chất, điện nguyên tử, và tự động hoá đã tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển vượt bậc. Thay đổi cơ cấu kinh tế là sự phân công mới lao động xã hội không chỉ ở giác độ ngành kinh tế mà cả ở giác độ lãnh thổ. Chính nhờ sự thay đổi cơ cấu kinh tế này đã làm cho dân cư đô thị ngày càng tăng , diện tích đô thị ngày càng được mở rộng. Hiện nay, dân cư Hà Nội chiếm 1,3 triệu người bằng 8,1% dân số đô thị toàn quốc. Chính quá trình đô thị hoá đã xoá bỏ sự khác biệt rất lớn trong thành phần kinh tế đô thị về trình độ văn hoá đời sống nhân dân đảm bảo quốc phòng an ninh được vững chắc. Thay đổi cơ cấu kinh tế đã tạo tiền đề và nền tảng ban đầu cho quá trình đầu tư nước ngoài vào các khu đô thị. Nhờ có chuyển dịch cơ cấu mà tốc độ thu hút vốn đầu tư của chúng ta đã tăng lên rõ rệt do đó tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tất yếu, ngẫu nhiên. Trong quá trình đô thị hoá, nhờ có chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đô thị Việt nam ngày càng được phát triển hơn đặc biệt là ở Hà nội. Nguồn vốn được đầu tư có hiệu quả và sự chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành và các thành phần kinh tế là hợp lý và đồng bộ. 2.3 Các đặc trưng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt nam hiện tại đang là một trong những nước nghèo trên thế giới. Mặc dù trong những năm gần đây, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Song, so với thế giới và khu vực , chúng ta còn phải tiếp tục phấn đấu nhiều hơn nữa. Một trong những giải pháp quan trọng là phải điều chỉnh cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng cho phù hợp, đặc biệt là điều chỉnh cơ cấu kinh tế đô thị ở thủ đô. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình có tính quy luật phổ biến. Trong mỗi giai đoạn khác nhau của sự phát triển, quá trình này cũng có những đặc điểm riêng đòi hỏi phải được các chủ thể nhận thức đúng đắn và phù hợp. ở nước ta hiện nay, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đô thị mang đầy đủ những đặc điểm của chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, tuy rằng trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. mặc dù có nhiều cố gắng như tỉ trọng công nghiệp có tăng song chưa đạt mức mong muốn. Hiện nay, các trang thiết bị kỹ thuật còn thấp, cơ sở vật chất của các doanh nghiệp còn thiếu và phần lớn phụ thuộc vào thế hệ cũ, trang bị chắp vá, lao động thủ công và bán cơ giới còn khá phổ biến nên năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hiện nay, nền kinh tế Việt nam nói chung và nền kinh tế đô thị nói riêng đang bước sang một giai đoạn mới về chất, giai đoạn mà sự phát triển theo chiều rộng, đòi hởi nền kinh tế và từng nhóm ngành phải chuyển hướng sang tìm kiếm và khai thác các yếu tố phát triển theo chiều sâu. Đặc biệt phát triển ngành : điện, xi măng, dịch vụ, công nghệ thông tin, tạo ra sự tăng tốc của công nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó cần phải có yếu tố mới trong quá trình CDKT (thị trường tài chính, luật thu hút đầu tư, tiếp thị công nghệ mới ). Vì vậy, khi tham gia hội nhập chúng ta vấp phải một số khó khăn: thiếu vốn, trình độ công nghiệp thấp kém, lao động có trình độ thấpDo đó cần phải có giải pháp đồng bộ. Việt nam đi vào thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong thời điểm thế giới đang diễn ra những thay đổi lớn về kinh tế và chính trị. Lực lượng lao động ngày càng có tính quốc tế hoá cao và sự tác động của khoa học công nghệ mới đã tạo ra công cụ thật sự hữu hiệu, internet, thương mại điện tử đặc điểm này đời hỏi kinh tế phát triển theo hướng mở. Quán triệt đặc điểm này là yếu tố quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng và có hiệu quả . 2.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Xác định và thực hiện các phương hướng và biện pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế đô thị trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý Nhà nước về kinh tế về kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ này cần phải nghiên cứu và phân tích kỹ các nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự phát triển của thị trường trong nước và quốc tế khẳng định ngay rằng phát triển ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành. Bởi lẽ, phát triển là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải hướng ra thị trường xuất phát từ quan hệ cung cầu, hàng hoá trên thị trường để định hướng chiến lược và chính sách kinh doanh của mình. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường KHCN đều tác dộng mạnh mẽ đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự điều tiết của nhà nước: Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, Nhà nước tạo điều kiện phát triển đồng bộ, điều tiết các loại thị trường và tạo môi trườngcho các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhà nước nắm bắt tình hình của từng thời kỳ, đề ra cơ sở kinh tế tác động một cách đồng bộ đến thị trường. Các nguồn lực và lợi thế so sánh tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền vững và hiệu quả. Trước hết, việc xác định các ngành mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển phải dựa trên cơ sở xác định lợi thế so sánh và các nguồn lực trên địa bàn thủ đô và trên cả nước. Tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, ngành nước, lâm sản ) và các điều kiện tự nhiên (khí hậu, thời tiết) phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp, du lịch Tuy vậy, việc khai thác các điều kiện đó để phục vụ cho quản lý và chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Do đó, sự đa dạng và phong phú của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên không chỉ có ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà còn là nhân tố phải tính đến trong quá trình hoạch định chiến lược cơ cấu. Dân số, lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế, sự tác động của các nhân tố này nên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế được xem xét trên các mặt chủ yếu sau: Thứ nhất, kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới là cơ sở quan trọng để phát triển các nhành công nghệ kỹ thuật cao và nâng cao hiệu quả sản xuất lao động trong các ngành đang hoạt động, là nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Đây là một thuận lợi rất lớn đối với thủ đô. Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước nên kết cấu dân cư hợp lý, trình độ dân trí cao có điều kiện để tiếp thu nhiều cái mới. Thứ hai, quy mô dân số và kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng lớn đến quy mô và cơ cấu của nhu cầu thị trường. Hà Nội có quy mô dân số lớn, mật độ cao và thu nhập ổn định, đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng. Thứ ba, sự phát triển các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp cũng như các ngành kinh tế khác thường gắn liền với tập quán, truyền thống, phong tục của địa phương. Vị trí địa lý kinh tế của thủ đô rất thuận lợi khi định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, đó là một yếu tố quan trọng để xây dựng một nền kinh tế mới, tăng cường mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Tiến bộ khoa học công nghệ không những tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh trình độ phát triển của một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng (làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế) mà còn tạo ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự chuyển hoá một số ngành công nghiệp non trẻ, công nghiệp tiên tiến, có triển vọng phát triển mạnh trong tương lai. Tiến bộ khoa học công nghệ cho phép tạo ra các sản phẩm mới chất lượng cao chi phí sản xuất hạ , có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường trong nước và quốc tế. Kết quả đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu thay thế nhập khẩu và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Như vậy, trong nền kinh tế đô thị có rất nhiều yếu tố tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chúng có phát huy được hêt những lợi thế hay không còn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt là quy hoạch xây dựng đô thị. II. Hệ thống những khái niệm về quy hoạch xây dựng đô thị 1. Khái niệm quy hoạch xây dựng đô thị Chúng ta đã biết rằng, trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam, các đô thị đã hình thành và phát triển. Cùng với những hình thái xã hội phát triển từ thấp đến cao, các đô thị cũng phát triển tương xứng với nó. Đô thị có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, nó là động lực phát triển của vùng cũng như của cả nước. Từ khi đô thị mới phát triển, con người dù không chủ định nhưng đều chọn một không gian cư chú thích hợp tạo ra một sự cân đối hài hoà để phục vụ cho sản xuất và đời sống của mìnhĐô thị là một thực thể sống động và luôn phát triển, điều khiển sự phát triển đó không đơn giản. Làm sao để cho đô thị phát triển hợp lý, tạo ra hiệu quả kinh tế đô thị cao? Để điều khiển được sự phát triển đô thị, ta cần có quy hoạch để chỉ đạo. Có rất nhiều cách tiếp cận về QHXD đô thị khác nhau, nhưng chúng ta có thể hiểu rằng: QHXD đô thị là sự sắp xếp, tổ chức, bố trí không gian lãnh thổ dưạ trên những tiền đề sẵn có theo thứ tự ưu tiên, hợp lý. QHXD do nhà nước tổ chức nhằm phát triển kinh tế xã hội của đô thị và bảo vệ môi trường trong đó đảm bảo sự cân bằng nhu cầu sử dụng trong tương lại, giải quyết mối quan hệ giữa nhu cầu con người, tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, QHXD đô thị thường mang màu sắc chính trị. Đối với mỗi giai đoạn, mỗi thể chế chính trị khác nhau , các đô thị được quy hoạch theo ý đồ của các nhà làm quy hoạch là khác nhau. Từ đó tạo ra một không gian khác nhau để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đô thị. Nhưng cùng với thời gian và sự phát triển kinh tế và cũng là xuất phát tù nhu cầu phát triển kinh tế xã hội mà QHXD đô thị phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện. Hiện nay, phát triển đô thị là vấn đề trọng tâm, nó quyết định sự đi lên của đất nước và càng khẳng định cần phải có quy hoạch. QHXD đô thị căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế xã hội của đô thi. Và để đạt được hiệu quả mà quy hoạch mong muốn , vấn đề đặt ra là quy hoạch phải luôn có sự điều chỉnh cập nhập cho phù hợp với tình hình và điều kiện thực tiễn. 2. Thực tiễn của quy hoạch xây dựng đô thị: Như định nghĩa về QHXD đô thị , mục tiêu của QHXD đô thị nói chung là nhằm phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường đồng thời cân bằng nhu cầu sử dụng giữa hiện tại và tương lai. Như vậy, QHXD đô thị nhằm định hướng chiến lược phát triển những vấn đề chung nhất của đô thị như phát triển dân số, nguồn nhân lực, khu ở, khu nghỉ ngơi, khu công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ thương mại, cơ sở hạ tầng sao cho chúng phát triển ổ định, cân đối giữa các ngành, các thành phần kinh tế tạo điều kiện phát triển toàn điện đô thị. Trước tiên, QHXD phục vụ đời sống của con người. QHXD đô thị nhằm phát triển đô thị, nó quyết định sự đi lên của đô thị. QHXD dựa trên những những tiền đề của đô thị, đó là vai trò của đô thị trong hệ thống đô thị, nhu cầu của con người, dân số đô thị, các nguồn lực tự nhiên xã hội, cơ sở hạ tầng của đô thị. Từ đó, bố trí không gian một các hợp lý nhằm phục vụ nhu cầu của con người, làm cho con người có nơi làm việc, nơi nghỉ ngơi, giải trí tốt nhất, đi lại thuận tiện nhất. Bằng cách bố trí các công trình nhà, công trình công cộng hợp lý thoả mãn mọi nhu cầu hoạt động của con người. Ngoài ra, nó còn tạo môi trường sống trong sạch, an toàn, tạo điều kiện hiện đại hoá cuộc sống của người dân đô thị, phục vụ cho con người phát triển toàn diện. Sau nữa, QHXD nhằm phát triển kinh tế đô thị. QHXD định hướng tổ chức sản xuất trong đô thị. Trong đô thị có nhiều khu chức năng khác nhau: khu nghỉ ngơi, khu sản xuất. Trong đó, việc bố trí khu sản xuất là đặc biệt quan trọng. Khu sản xuất phải đảm bảo kết cấu hợp lý. Nhu cầu giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thương mại phải được giải quyết một cách tối ưu để có được hiệu quả tốt nhất. Tính hiệu quả đó dựa trên cơ sở những nguồn lực, những điều kiện sẵn có về kinh tế xã hội của đô thị, quy hoạch phát huy được tiềm năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực đó. Như vậy, quy hoạch đô thị từ việc nhằm tổ chức khu sản xuất đã góp phần tạo ra một cơ cấu ngành, cơ cấu kinh tế lãnh thổ hợp lý. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện nay. 3. Các bước của quá trình quy hoạch xây dựng đô thị. Chúng ta đă biết các mục tiêu của QHXD đô thị, mục tiêu đó là khoa học và đúng đắn. Song, để đạt được mục tiêu đó phải là gì? QHXD đô thị được xây dựng là một quá trình bao gồm các công việc cần thiết hay nói cách khác, nó phải thực hiện theo các bước nhất định. Vậy để QHXD đô thị thực sự đạt được hiệu quả, khi tiếp hành lập QHXĐ đô thị phải trải qua các bước: Bước đầu tiên và quan trọng trong quá trình QHXD đô thị là bước thu thập thông tin. Nó quan trọng bởi khi cần giải quyết một vấn đề gì, trong bất cứ một lĩnh vực nào đều cần phải xuất phát từ thông tin. Đặc biệt, trong QHXD lại càng trở lên quan trọng. Vấn đề trong QHXD cần giải quyết có thể là vấn đề đang bất cập cần phải giải quyết hoặc là giải quyết một vấn đề nảy sinh. Để giải quyết vấn đề đó cần phải thu thập thông tin trên mọi khía cạnh. Đó là thực trạng của vấn đề, sự cần thiết phải giải quyết cũng là yêu cầu cụ thể đạt ra để giải quyết nó. Việc tổng hợp, thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Nhưng nói chung những thông tin đó đều xuất phát từ yêu cầu của con người đối với cuộc sống và phát triển kinh tế, xã hội. Việc đưa ra thông tin chính xác là quan trọng, đó là điều kiện tiên quyết quyết định tới sự thành công của quy hoạch. Sau khi các nhà quy hoạch thu thập thông tin và tổng hợp những thông tin đó, bước tiếp theo là tìm ra mục tiêu. Mục tiêu đưa ra để giải quyết vấn đề, nhưng những mục tiêu đó cũng có sự ưu tiên, lựa chọn dựa trên tính bức thiết của vấn đề. Việc đưa ra mục tiêu cũng cần có sự lựa chọn căn cứ vào điều kiện thực tế của kinh tế, xã hội. Mục tiêu trong quy hoạch không những giải quyết vấn đề trước mắt đưa ra mà cần phải tính toán đến tính lâu dài trong tương lai. Việc xác định mục tiêu phù hợp là là có ý nghĩa quan trọng, mục tiêu không vụn vặt cũng không quá xa dời thực tế Quy hoạch có hoạch định chiến lược không gian kinh tế được hay không là do mục tiêu đặt ra như thế nào. Mục tiêu trong giải quyết vấn đề đưa ra phải được đặt trong mục tiêu chung của quy hoạch là tạo ra sự cân đối hài hoà trong kết cấu tổ chức không gian đô thị. Nếu thực hiện được mục tiêu này, đó sẽ là cơ sở để định hướng đầu tư đối với các ngành, các lĩnh vực kinh tế trong đô thị. Đồng thời mục tiêu nàycũng là cơ sở để lựa chọn các phương án đưa ra sau này. Nhưng mục tiêu đưa ra này cần phải được thông qua các cấp có thẩm quyền, các nhà chuyên môn. Sau khi các mục tiêu đã được thông qua, nhà quy hoạch phải đưa ra các phương án nhằm giải quyết các vấn đề hướng tới mục tiêu đó. Nhưng ta cần lựa chọn một phương án tối ưu trong số các phương án được lập. Một phương án được đánh giá là tối ưu dựa vào rất nhiều chỉ tiêu khác nhau. Các chỉ tiêu này lại phụ thuộc vào các phương án quy hoạch. Tuỳ theo từng phương án quy hoạch đã lựa chọn thích hợp trước đó sẽ tương ứng với nó là một hệ quy chiếu mà ta làm cơ sở để lựa chọn phương án đưa ra Từ trước đến nay chúng ta phải sử dụng phương án quy hoạch kết cấu mà hệ quy chiếu của nó là kết cấu phải phù hợp. Phướng pháp này coi trọng sự cân bằng trong kết cấu khu ở, nghỉ ngơi, sản xuất Nếu phương án đưa ra có kết cấu phù hợp, quy hoạch được xem là thành côngTrong thời kỳ công nghiệp hoá, để hướng tới phát triển kinh tế, chúng ta nên tính đến tính hiệu quả năng suất của phương án quy hoạch tức là quan tâm đến tính hiệu quả kinh tế và tính khả thi của phương án. Khi dùng tiêu chí này, ta sẽ đạt được mục tiêu về kinh tế của quy hoạch nói chung. Vấn đề ở chỗ là lựa chọn được phương án có hiệu quả nhất. Nhưng người lựa chọn phương án dù không mong muốn cũng có tính chủ quan. Vì vậy, để phương án đưa ra giải quyết vấn đề được triệt để, người lựa chọn phương án cần có một kiến thức sâu và toàn diện. Nhưng để xem xét rằng phương án đưa ra là tối ưu và hợp lý, cần phải lấy ý kiến. Điều này đảm bảo tính khách quan cũng như dân chủ trong giải quyết vấn đề. Thực hiện lấy kiến là cần thiết để vấn đề giải quyết theo hướng gần với cuộc sống và sản xuất, phục vụ được nhu cầu của con người. Nếu vấn đề trong đó cần phải xử lý ý kiến để có một phương án hoàn chỉnh. Bước cuối cùng và cũng là bước quan trọng để giải quyết phương án đã lựa chọn có được thực hiện hay không, đó là bước thẩm định để đưa ra quyết định. Bởi vì góc độ nhìn nhận của người xây dựng phương án và người quản lý là khác nhau. Bước thẩm định đảm bảo tính khách quan và hợp lý và đối chiếu với mục tiêu chung phù hợp. Việc thẩm định và đưa ra quy định phê duyệt mang tính chất pháp lý đối với việc thực hiện phương án đã lựa chọn. Các bước của quá trình QHXD đô thị được xây dựng ở trên là để đảm bảo tính hiệu quả và thành công của quy hoạch. Vì vậy, nó cần phải được tuân thủ trong quá trình quy hoạch. 4. Quản lý quy hoạch xây dựng đô thị: 4.1. Khái niệm quản lý quy hoạch đô thị Chúng ta đã biết rằng mục tiêu của QHXD đô thị là đúng đắn đó là nhằm tạo tiền đề ban đầu cho sự phát triển kinh tế đô thị. Song giữa mong muốn đưa ra và thực tế bao giờ cũng có khoảng cách. Do đó vấn đề là cần phải giải quyết khoảng cách đó. Vậy để thực hiện mục tiêu đã đật ra thì công tác QHXD đô thị cần có sự quản lý. Công tác quản lý QHXD đô thị là một tất yếu để quy hoạch phục vụ cuộc sống. Ta có thành công trong quản lý QHXD, mới có thể coi QHXD thành công. Quản lý QHXD là tổng thể các biện pháp, cách thức là chính quyền đô thị vận dụng các công cụ quản lý để tác động vào các hoạt động xây dựng và phát triển đô thị (chủ yếu là phát triển không gian vật thể ) nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Nội dung của công tác quản lý QHXD đô thị bao gồm quản lý công tác lập và xét duyệt QHXD đô thị và quản lý thực thi xây dựng theo quy hoạch. Quản lý QHXD đô thị là công việc của cơ quan nhà nước thuộc các đô thị. Trong xây dựng, các cơ quan nhà nước cần có kế hoạch cụ thể hoá các bước thực hiện cho cấp dưới đảm bảo xây dựng theo quy hoạch và có kế hoạch, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, sức người là của cải xã hội. Nội dung đầu tiên của quản lý QHXD đô thị là quản lý công tác lập và xét duyệt QHXD đô thị. Mục đích của công tác này là nhằm xác lập cơ sở pháp lý và kế hoạch cho việc quản lý phát triển đô thị, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sản phẩm của quy hoạch là các đồ án quy hoạch: như vậy ta phải quản lý để đảm bảo cho các đồ án QHXD đô thị có chất lượng tốt. Muốn vậy, đồ án QHXD đô thị phải do các tổ chức chuyên môn được nhà nước công nhận, phải tuân thủ các tiêu chuẩn quy phạm, quy trình kỹ thuật của nhà nước và các đồ án quy hoạch này. Sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt mới được sử dụng. Đồ án QHXD đô thị là cơ sở pháp lý để quản lý đô thị, tiến hành công tác đầu tư xây dựng, lập kế hoạch cải tạo, xây dựng hàng năm, ngắn hạn và dài hạn thuộc các ngành và địa phương. Các đồ án QHXD đô thị khi đã được phê duyệt cần phải được công khai cho dân cư đô thị biết và thực hiện. Trong quá trình thực hiện các đồ án quy hoạch cần bổ sung, xem xét và điều chỉnh cho phù hợp với thực tế phát sinh và phát triển đô thị mà trong quy hoạch chưa lường hết được. Công tác này phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Một vấn đề cần quản lý là quản lý quá trình thực thi quy hoạch. Một đồ án quy hoạch có chất lượng tốt nhưng nếu nó không được quản lý trong thực thi, không đem lại kết quả như mong muốn. Vấn đề quản lý là sao cho việc xây dựng phải tuân theo quy hoạch. Để tránh tình trạng xây dựng tự phát lấn chiếm đất xây dựng không theo quy hoạch cần có sự quản lý của cơ quan quản lý đô thị. Trước hết, để đảm bảo quản lý tốt , các đồ án QHXD đô thị đã được phê duyệt , phải phổ biến cho dân chúng biết và thực hiện. Đồng thời, phải ban hành luật xây dựng làm cơ sở pháp lý để quản lý quy hoạch. Để quản lý QHXD đô thị có hiệu quả thì chính quyền đô thị sử dụng các công cụ quản lý của mình bao gồm các công cụ hành chính, công cụ kinh tế và các văn bản pháp luật, các quy định. Thông qua các công cụ này thì nhà quản lý buộc các chủ thể xây dựng phải chấp hành. 4.2. Mục tiêu và các yêu cầu của công tác quan lý QHXD đô thị. Quản lý QHXD đô thị có nhiều mục tiêu, nhưng nếu xét trên nội dung quản lý QHXD đô thị thì có thể nói rằng quản lý QHXD đô thị có hai mục tiêu chung: Quản lý trước hết trong QHXD đô thị là quản lý quá trình lập và xét duyệt đồ án QHXD đô thị, chúng ta phải quản lý đảm bảo sao cho các đồ án quy hoạch được lập phải dựa theo một quy trình khoa học, quy trình trong công tác quy hoạch. Quy trình này phải tuân theo các bước, các công đoạn trong lập đồ án. Từ bước nghiên cứu đến lập phương án quy hoạch điều đó đảm bảo đồ án quy hoạch gần với thực tiễn là quan trọng, nó phải có chất lượng và tính khả thi dựa trên cơ sở khoa học. Đây là bước quan trọng trong QHXD đô thị. Nếu đạt được mục tiêu này, đây sẽ là cơ sở, là điều kiện đầu tiên để từ đó để QHXD ở giai đoạn sau. Nếu quản lý tốt, sẽ là nền tảng để thực thi mục tiêu của QHXD đô thị. Nhưng nếu chỉ đạt được một đồ án QHXD có chất lượng, quy hoạch chưa thể là thành công. Như vậy mới chỉ là thành công trên phương diện lý thuyết. Vì vậy, chúng ta cần phải quản lý quá trình thực thi QHXD đô thị, để đảm bảo sao cho ý đồ định hướng thể hiện trong đồ án được thực hiện. Có đạt được mục tiêu này, quy hoạch mới thực sự phát huy tác dụng của mình trong việc tạo nền tảng phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng tốt, bố trí không gian phát triển các ngành hợp lý theo định hướng chung mà đồ án đã cụ thể hoá. Muốn đạt được mục tiêu QXHD trên, chúng ta cần có một thể chế pháp luật, quy chuẩn quy định và một bộ máy quản lý hợp lý có hiệu quả. Đó là cơ sở pháp lý và điều kiện để thực hiện việc quản lý QHXD đô thị. Đồng thời, công tác quản lý QHXD cũng được đặt ra theo yêu cầu trong quá trình quản lý QHXD đô thị là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất trong công tác quản lý đô thị nhằm hình thành và phát triển đô thị cũng như phát triển kinh tế đô thị. Quản lý đô thị là một tổ chức từ trên xuống, được phối hợp giữa các cơ quan chức năng và cơ quan chuyên ngành. Việc phối hợp gắn kết giữa các cơ quan khác nhau, sẽ đảm bảo trách nhiệm được phân công, phân cấp rõ ràng chồng chéo. Mặt khác, để quản lý QHXD đô thị cần có một hệ thống văn bản pháp luật, quy định hướng dẫn việc quản lý theo pháp luật và theo quy hoạch. Hơn nữa, trong quy trình quy hoạch, việc sử dụng các công cụ quản lý hành chính, kinh tế cũng như các văn bản pháp luật của cơ quan quản lý phải có sự đồng bộ thống nhất trong cả nước và trong các đô thị để nâng cao tính hiệu lực. Nhưng trong việc thực thi các công cụ đó chúng ta cần có sự linh hoạt. các quy định cần phải thay đổi điều chỉnh phù hợp với các yêu cầu cần quản lý và thực tế xây dựng trong đô thị. Một yêu cầu rất quan trọng là công tác tổ chức trong bộ máy quản lý công tác này là tạo ra một cơ chế có tính pháp lý cao phối hợp được các bộ phận tham gia quản lý. Vì vậy, ta cần có hình thức tổ chức hợp lý đủ mạnh và có điều kiện vật chất, thích hợp với nhu cầu trong việc quản lý của mình. III. Vai trò của QHXD đô thị tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế : 1. QHXD là nền tảng của phát triển kinh tế đô thị. Để có được một nền kinh tế phát triển, đóng góp một tỉ trọng lớn trong GDP của cả nước , trước hết chúng ta phải có những chính sách đầu tư cho vấn đề xây dụng và phát triển đô thị. Bởi lẽ đô thị là nơi được đầu và phát triển nhất, tập trung nguồn nhân lực có kĩ thuật cao và đặc biệt là có cơ sở hạ tầng hoàn thiện hoặc tương đối hoàn thiện. Trong một quốc gia, vai trò của thủ đô là trung tâm kinh tế văn hoá của cả nước là nơi thu hút nhiều vốn đầu tư , và đóng góp giá trị cao trong GDP, của cả nước. Muốn có một đô thị phát triển mạnh, có khả năng thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, đô thị đó phải được quy hoạch một cách đồng bộ và hợp lí. ở đây chúng tôi nói tới QHXD đô thị. QHXD đô thị là bao gồm toàn bộ các vấn đề quy hoạch cơ sở hạ tầng kĩ thuật của đô thị như việc xây dựng hệ thống giao thông, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống nhà ở phục vụ dân cư, hệ thống các cơ quan trường học, bệnh viện v. .v tất cả những vấn đề đó đóng vai trò là nền tảng, cơ sở và bước đi ban đầu trong quá trình phát triển đô thị. Nếu như chúng ta có một cơ chế , chính sách và biện pháp dành cho QHXD đô thị một cách đồng bộ và hợp lí, không nhưng thu hút được nhiều vốn đầu tư đồng thời phát huy hiệu quả nguồn lao động trong nước, tạo công ăn việc làm cho người dân .Bàn về thị , có thể được xem như là những chính sách về đất đai. Bởi tất cả công trình quy hoạch xây dựng của nhà nước đều dựa trên nền tảng cơ bản là đất đai của đô thị . Đất đai luôn là mối quan tâm hàng đầu cuả Đảng và Nhà nước ta đặc biệt là trong giai đoạn chuyển dời cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, quý hiếm, hữu hạn, và gắn chặt với sự phát triển kinh tế xã hội của đô thị. Việc tổ chức sắp xếp và phân bố lại tạo ra những điều kiện để khai thác, sử dụng hợp lí sẽ tạo ra một giả pháp kinh tế xã hội thể hiện đồng thời 3 tính chất kĩ thuật, kinh tế và pháp chế. Hiên nay, tổng diện tích đất đô thị trong khu vực nội thành là 8437,8ha (kể cả Sông Hồng và Hố tây ). Diện tích đất xây dựng đô thị là 5676ha. (chiếm 70% diện tích đất nội thị) trong đó đất ở 2970ha, đất công trình công cộng là 3562ha, đất cây xanh 163ha, và đất giao thông 613ha, đất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và kho tàng 423ha, đất dành cho các công trình đầu mối 170ha, đất an ninh quốc phòng 373ha. Do đó, vấn đề quan trọng là Đảng và Nhà nước ta phải có những chính sách và biện pháp như thế nào để phát triển đô thị một cách đồng bộ hợp lí bởi lẽ vấn đề QHXD đô thị là nền tảng cho sự phát triển đô thị và tác động mạnh mẽ đến sự chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế quốc dân. 2. QHXD đô thị giải quyết mối quan hệ giữa các ngành, các lĩnh vực Như phần trên đã trình bày, QHXD đô thị là nền tảng của phát triển kinh tế đô thị. Do đó, chúng ta phải có các chính sách quy hoạch và phát triển đô thị như thế nào để từ đó thúc đẩy được sự phát triển kinh tế giữa các ngành, các vùng trên tất cả các lĩnh vực đô thị. Trước hết, chúng ta có thể nhận thấy rằng bất kỳ một cơ cấu kinh tế đô thị nào cũng đều quan tâm và chú trọng đế phát triển công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Xét trên khía cạnh QHXD đô thị, các khu công nghiệp là giữ vai trò quan trọng. Có thể nói rằng, hiện nay trên địa bàn Hà Nội có 280 cơ sở công nghiệp do nhà nước, Trung ương, địa phương quản lý. Trong đó, có 174 xí nghiệp Trung ương và 106 xí nghiệp địa phương. Ngoài ra có 17484 cơ sơ công nghiệp ngoài nhà nước. Hà nội có 9 khu công nghiệp tập trung là: Khu công nghiệp Thượng Đình: 29 xí nhiệp với 18000 lao động. Khu công nghiệp Minh Khai – Vĩnh Tuy – Mai Động: 17 xí nghiệp với 17000 lao động . Khu công nghiệp Cầu Diễn- Mai Dịch: 8 xí nghiệp với 1950 lao động. Khu công nghiệp Chèm: 5 xí nghiệp với 2310 lao động. Khu công nghiệp Cầu Bưởi: 5 xí nghiệp với 1390 lao động. Khu công nghiệp Đức Giang+ Gia Lâm – Cầu Đuống – Yên Viên: 21 xí nghiệp với 5000 lao động. Khu công nghiệp Đông Anh: 22 xí nghiệp với 8300 lao động. Khu công nghiệp Trương Định – Tương Mai: 13 xí nghiệp với 5000 lao động . Mặc dù vậy, số lượng các cơ sở công nghiệp còn ít, bố trí phân tán, không thành khu công nghiệp tập trung. Đa số xí nghiệp là vừa và nhỏ, cơ sở hạ tầng kỹ thuật xuống cấp không đồng bộ, những xí nghiệp có chất thải độc hại gây nhiều ô nhiễm môi trường, thiếu đất dự trữ phát triển. Tuy nhiên, việc hình thành các khu công nghiệp trong thủ đô đã giải quyết việc làm cho công nhân lao động góp phần cải thiện đời sống cho nhân dân và tăng tổng giá trị sản phẩm trong khu vực Không chỉ có vấn đề phát triển công nghiệp, mặt khác QHXD đô thị góp phần phát triển trong các lĩnh vực xây dựng các công trình phục vụ công cộng: - Khu vui chơi, giải trí, công viên, vườn hoa: thành phố hiện nay có 160 vườn ươm với tổng diện tích 138,3 ha. Trong đó, phân bố chủ không đồng đều. Quận Hoàn Kiếm (12 ha), quận Ba Đình (48 ha) quận Hai Bà Trưng (78 ha), quận Đống Đa (2,3 ha). - Các chương trình thương mại, dịch vụ: nội thành có 32 chợ có mái che,308 cơ sở kinh doanh thương mại dịch vụ. Hệ thống khách sạn phát triển nhanh bao gồm 60 khách sạn quốc doanh với 1760 phòng do thành phố quản lý và 34 khách sạn với 1220 phòng do TW và ngoại tỉnh quản lý. Hiện nay, có 11 khách sạn liên doan với nước ngoài với 988 phòng, 2 khách sạn liên doanh trong nước với 92 phòng và 132 khách sạn thuộc các công ty trách nhiệm hữu hạn với 1570 phòng và 71 khách sạn tư nhân với 490 phòng. Những khách sạn đạt tiêu chuẩn 3, 4 sao. Như vậy, có thể nói ngành dịch vụ trong khu vực đô thị đã và đang có xã hội hoá cao. Đây sẽ là lĩnh vực quan trọng đóng góp một tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế của thủ đô cũng như của cảc nước. 3. QHXD đô thị tập hợp được các nguồn lực xác định thứ tự ưu tiên phát triển hợp lý các ngành trọng điểm. Nguồn nhân lực là một bộ phận giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Trong bất cứ một quá trình phát triển nào, việc ưu tiên và phát triển hợp lý các nguồn lực giữ một vai trò tất yếu khách quan trong phát triển. QHXD đô thị là một trong rất nhiều các nhân tố để thu hút, tập hợp các nguồn lực để phát triển các vùng. Trong quá trình phân ngành kinh tế ra làm ba ngành chính đó là nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, công nghiệp và dịch vụ , có những số liệu sau: Ngành (tỷ đồng) 1995 1996 1997 Nông lâm thuỷ sản 643,1 696 723,6 Công nghiệp 3704,1 4362,4 5200,7 Dịch vụ 5960,9 6632,4 7355,3 Nhìn vào số liệu trên ta thấy trong các năm 1995, 1996, 1997 , tỷ trọng của ngành dịch vụ trên điạ bàn thủ đô tăng nhanh và chiếm tỉ trọng lớn. Như vậy, trong quá trình QHXD đô thị, chúng ta đã tập hợp được rất nhiều nguồn lực để phát triển ngành dịch vụ. Trong đó, ưu tiên phát triển giao thông vận tải, thông tin liên lạc, giáo dục đào tạo, thương nghiệp. Cơ cấu ngành kinh tế hiện nay trên địa bàn thủ đô tiếp tục chuyển biến theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Trong những năm qua Ngành(%) 1990 1995 2000 Nông nghiệp 7,34 ,39 3,5 Công nghiệp 29,2 33,1 38,5 Dịch vụ 63,46 61,6 58 Trong những năm qua, với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trên địa bàn thủ đô có 900 doanh nghiệp Nhà nước, 300 doanh nghiệp có vốn nước ngoài, 400 doanh nghiệp được thành lập theo luật doanh nghiệp. Nhìn chung, nhờ có QHXD đô thị hợp lý nên chúng ta đã xác định đúng đắn các nguồn lực, đảm bảo ưu tiên phát triển hợp lý các nghành công nghiệp và dịch vụ. Để đạt được kết quả đó, trong những năm qua, chúng ta đã đào tạo được đội ngũ cán bộ kiến trúc sư quy hoạch, kỹ sư kinh tế đô thị và chuẩn bị kỹ thuật thoá nước– cấp điện, san nền, vệ sinh môi trường. Tất cả các nhà quy hoạch đều có kiến thức về luật học, kinh tế học, tin học ứng dựng. Công tác đào tạo cán bộ quy hoạch trên địa bàn thủ đô phải lấy mục đích hiệu quả của công việc là chính, tránh hình thức phiến diện, ngành nghề không thực tế, xa rời nhu cầu cấp bách của xã hội. Việc đào tạo các cán bộ này phải được xuất phát từ các trường đại học kết hợp với các viện nghiên cứu và giáo trình phải được biên soạn hợp lý phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thực tế. 4. Quy hoạch xây dựng đô thị tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều sâu. Để làm tốt công tác QHXD đô thị chúng ta phải xác định rõ phạm vi nghiên cứu quy hoạch vị trí tác động lực phát triển, quy mô dân số, đất đai, các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, phân bố dân cư chọn đất phát triển, tổ chức cơ cấu quy hoạch không gian, kiến trúc đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng các chương trình đầu tư phát triển được ưu tiên, các cơ chế chính sách và biện pháp thực hiện. Tất cả các hoạt động đó nếu như thực hiện tốt chắc chắn sẽ có tác động và ảnh hưởng lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều sâu. Đối với thủ đô Hà nội với mục tiêu trở thành thành phố hiện đại, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật là trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước. Phù hợp với giao dịch quốc tế của cả nước. Phù hợp với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Trong quá trình quy hoạch xây dựng đô thị chúng ta phải kết hợp thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ vừa cải tạo vừa xây dựng mới. Đối với các khu phố hiện có, cần chú trọng giữ gìn tôn tạo các di sản văn hoá, di tích lịch sử như Văn Miếu- Quốc Tử Giám, khu phố cổ Hà Nội giữ gìn cảnh quan thiên nhiên và các công trình kiến trúc có giá trị. Nâng cấp cơ sở hạ tầng như xây dựng thêm nhiều khu đô thị mới, các khu trung cư nâng cao xây dựng thêm các tuyến đường mới tạo thêm các khu vui chơi giải trí cho nhân dân như xây dựng các công viên mới: công viên nước Hồ Tây, Thanh Niên chuyển các công trình không thích hợp gây ô nhiễm cho thành phố ra khỏi trung tâm tất cả các hoạt động đó làm cho thành phố Hà Nội trở thành một thành phố vừa dân tộc vừa hiện đại, vừa đậm đà bản sắc và truyền thống ngàn năm văn hiến, là một trung tâm đầu não về chính trị đồng thời là một trung tâm lớn về văn hoá, khoa học kỹ thuật, kinh tế của cả nước. Các hoạt động trên chính là một trong những nhân tố nhằm chuyển dịch kinh tế theo chiều sâu. Không những thế, công tác QHXD đô thị ở thủ đô Hà Nội trong những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng kể. Công tác QHXD đô thị thúc đẩy và làm cho quá trình CDCC theo chiều sâu với những hướng tích cực đặc biệt trong công nghiệp, dịch vụ và khả năng thu hút vốn đầu tư. Giá trị sản xuất công nghiệp nếu như một số năm của thập kỷ 80 gặp khó khăn trong việc cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm, giá trị sản xuất công nghiệp chỉ tăng bình quân 2,4%/năm , 10 năm qua với sự phát triển của kinh tế thị trường đã tăng liên tục, tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1991-1995 là 19,1%. Thời kỳ 1996-2000 là 15,2%/năm. Do tốc độ tăng cao, nên tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của Hà Nội chiếm 6,47%( 1990) và 8,95%(2000)của cả nước. Trong thời gian 1990-2000 , tốc độ tăng đạt 11,55/năm và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả địa bàn. Sản xuất công nghiệp khu vực ngoài nhà nước trong giai đoạn 1990-2000đạt tốc độ tăng khá cao 18,7%/năm. Bên cạnh những thành tựu đạt được về công nghiệp , lĩnh vực dịch vụ cũng đạt dược những thành tựu đáng kể. So với năm 1990, năm 2000 tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ gấp 7,7 lần kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn giai đoạn 1996-2000 tăng bình quân 14,7%/năm trong đó riêng xuất khẩu ở Hà Nội tăng 19,9%. Mặt khác số lượng khách sạn trên địa bàn của Hà Nội cũng tăng đáng kể. Nếu như năm 1990 Hà Nội chỉ có 71 khách sạn, biệt thự và nhà khách với gần 1000 buồng trang thiết bị cũ kĩ lạc hậu, mỗi năm chỉ thu hút 47000 khách nước ngoài , năm 2000 đã có 300 khách sạn, biệt thự và nhà khách của mọi thành phần kinh tế tăng gấp 6,8 lần so với năm 1990. Không những chỉ có trong khu vực công nghiệp, dịch vụ mà đầu tư có trong xây dựng đô thị có tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều sâu. trước mắt tập trung đầu tư doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, đang sản xuất những sản phẩm có triển vọng thu hút nhiều lao động. Có kế hoạch đầu tư dài hạn cho các doanh nghiệp kinh doanh công nghệ cao, phát triển các khu công nghiệp công nghệ cao. Đầu tư mạnh vào giáo dục đào tạo và nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, nghiên cứu hoạch định chính sách( nâng tỷ lệ chi ngân sách nhà nước của thành phố tron mục tiêu này lên 1,5-2lần). Ưu tiên phát triển đồng bộ và hiện đại hoá cơ sở hại tầng văn hoá xã hội của thủ đô, hỗ trợ hình thành các dịch vụ có tỉ trọng cao, giảm dẩn tỉ trọng đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, tăng tỉ trọng vốn đầu tư ngoài ngân sách hạn chế vốn đầu cơ và tỉ trọng vốn đầu tư an toàn hiệu quả, đầu tư trực tiếp tư nhân và vốn vay ngắn hạn, vốn trong nước, vốn tự tích luỹ. Với những hoạt động thu hút vốn đầu tư , nhiều các công trình công nghiệp, khu đô thị mới được xây dựng làm cho bộ mặt của thủ đô được khởi sắc hơn, do đó càng khẳng địnhvai trò của Hà Nội là trung tâm văn hoá-kinh tế –chính trị của cả nước. 5. QHXD đô thị thúc đẩy quá trình đô thị hoá. Như phần trên, ta đã hiểu được vai trò của QHXD đô thị với CDCC kinh tế. QHXD đô thị là nền tảng của phát triển kinh tế đô thị, nó giải quyết mối quan hệ giữa các ngành, lĩnh vực tập hợp được các nguồn lực, xác định thứ tự ưu tiên phát triển hợp lý các ngành trọng điểm tác động đến CDCC kinh tế theo chiều sâu, giải quyết các vấn đề giữa hiện tại và tương lai mà QHXD đô thị còn có tác dụng thúc đẩy quá trình đô thị hoá. Trên quan điểm của một vùng: đô thị hoá là một quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị. Trên quan điểm kinh tế quốc dân: đô thị hoá là một quá trình biến đổi về sự phân bố các yếu tố lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị. Tóm lại, có thể hiểu đô thị hoá là sự quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô thị. Vận dụng vào quá trình QHXD đô thị chúng ta nhận thấy rằng quy hoạch đó là sự phân bố và sắp xếp lại cấu trúc không gian đô thị một cách hợp lý. Nếu như QHXD đô thị được thực hiện một cách đồng bộ giữa các ngành, khu vực, lĩnh vực , sẽ có tác dụng tạo điều kiện cho số lượng dân cư đô thị tăng nhanh, mặt khác còn có tác dụng phân phối lại lực lượng sản xuất. Cùng với việc mở rộng diện tích đô thị, vấn đề QHXD đô thị còn có tác dụng biến đổi những vùng dân cư không phải đô thị thành đô thị. Như vậy có thể nói rằng QHXD đô thị thúc đẩy quá trình đô thị hoá. Nếu như xét trên phạm vi cả nước, hiện nay nước ta có 646 đô thị trong đó có 4 thành phố trực thuộc trung ương, 82 thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh và 560 thị trấn trong đó có 02 đô thị loại 1, 11 đô thị loại 2, 13 đô thị loại 3, 60 đô thị loại 4. Dân số Việt Nam khoảng 80 triệu người trong đó dân số đô thị chiếm 23%(đây là tỉ lệ đô thị hoá thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới) dự kiến đến năm 2020 chiếm 45% dân số cả nước khoảng 103 triệu người. Có được một tốc độ đô thị hóa cao như vậy , một trong những chính sách của nhà nước là chính sách mở cửa chính sách mới về nhà, đất, sự quan tâm của nhà nước đối với công tác quy hoạch đầu tư cải tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng các đô thị ở nước ta đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng tạo nên một khối lượng xây dựng bằng mấy chục năm trước là do tính tích cực trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước mà trong đó công tác đầu tiên phải kể đến đó là quá trình QHXD và cải tạo đô thị. Lời nói đầu 1 Nội Dung 2 I. Khái niệm về cơ cấu kinh tế- cơ cấu kinh tế đô thị: 2 1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế: 2 1.1 Khái niệm nền kinh tế đô thị – cơ cấu kinh tế đô thị 3 1.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành: 4 1.2.1 Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế 4 1.2.2 Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ 6 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đô thị 7 2.1 Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế 7 2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tất yếu khách quan trong quá trình đô thị hoá 8 2.3 Các đặc trưng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 9 2.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 11 II. Hệ thống những khái niệm về quy hoạch xây dựng đô thị 13 1. Khái niệm quy hoạch xây dựng đô thị 13 2. Thực tiễn của quy hoạch xây dựng đô thị: 14 3. Các bước của quá trình quy hoạch xây dựng đô thị. 15 4. Quản lý quy hoạch xây dựng đô thị: 17 4.1. Khái niệm quản lý quy hoạch đô thị 17 4.2. Mục tiêu và các yêu cầu của công tác quan lý QHXD đô thị. 18 III. Vai trò của QHXD đô thị tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế : 19 1. QHXD là nền tảng của phát triển kinh tế đô thị. 20 2. QHXD đô thị giải quyết mối quan hệ giữa các ngành, các lĩnh vực 21 3. QHXD đô thị tập hợp được các nguồn lực xác định thứ tự ưu tiên phát triển hợp lý các ngành trọng điểm. 22 4. Quy hoạch xây dựng đô thị tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều sâu. 24 5. QHXD đô thị thúc đẩy quá trình đô thị hoá. 26

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3662.doc
Tài liệu liên quan