Đề tài Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại huyện Quế Phong, Nghệ An

Phần 1: Phần mở đầu Khi xây dựng một lý luận, một tiêu chuẩn trong lĩnh vực tư tưởng hay đạo đức xã hội, một khuynh hướng thường thấy là người ta không hoặc cố tình không nhìn nhận những gì đang tồn tại trong thực tế với đầy đủ các khuyết tật tự nhiên của nó. Nếu nhìn nhận một cách tỉnh táo, chúng ta không thể không thừa nhận sự tồn tại của những mặt khuyết tật, cái mà chúng ta thường gọi là các căn bệnh xã hội. Trong vấn đề đang nghiên cứu, chúng ta buộc phải thừa nhận rằng tham nhũng tồn tại trong mọi xã hội. Mọi thời đại, mọi hệ thống chính trị và mọi dân tộc ở mọi nơi trên thế giới đều phải đối mặt với tham nhũng với nhiều biến thái tinh vi. Trong công cuộc xây dựng đất nước phát triển và giàu mạnh, Đảng và nhà nước ta tích cực thực hiện các biện pháp nhằm minh bạch hóa nguồn tài sản nhà nước cũng như cơ chế chống thất thoát lãng phí nguồn tài sản quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như xây dựng một Việt Nam giàu mạnh văn minh. Là một nước đang phát triển nên Việt Nam có tệ nạn tham nhũng khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới, thực tế đó buộc chúng ta phải có cơ chế nhất định để đảm bảo tính minh bạch trong quản lý nhà nước cũng như xây dựng đất nước ta. Tham nhũng là một hiện tượng mà bất kỳ một xã hội thể chế nào cũng có là một trong những tệ nạn phổ biến và gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến nền văn hóa xã hội và thể chế chính trị quốc gia. Đã hằng bao năm mọi chính phủ mọi nhà cầm quyền đều cố gắng ngăn chặn tham nhũng, nhưng bên cạnh những thành tựu đạt được thì những hạn chế và những thuộc tính vốn có của tham nhũng mang tính cố hữu đã gây ra những khó khăn nhất định cho công cuộc phòng chống tham nhũng. Một trong những kết cấu mang tính nội tại bền vững mà tham nhũng luôn có là yếu tố xã hội, để làm trong sạch nó thì xã hội cần phải có những hành động thiết thực cùng với nhà nước thể hiện sự phản đối của mình đối với tham nhũng. Trong thời kỳ hiện nay cùng với việc phát triển kinh tế xã hội tệ nạn tham nhũng xuất hiện và ngày càng có chiều hướng phát triển tăng cao cả về số lượng và tính chất nghiêm trọng. Việt Nam là nước đang phát triển một xu hướng chung của toàn thế giời là tham nhũng ở trong nhóm nước này thường rất cao do nhiều nguyên nhân. Một ngyên nhân chính đó là cơ chế pháp lý về tham nhũng chưa hoàn hảo và nền kinh tế chưa phát triển mặt lợi ích của cán bộ công chức chưa được nâng lên để đảm bảo cuộc sống hàng ngày, vai trò của các cấp quản lý nhà nước chưa thật chú trọng đúng mức đến ảnh hưởng của tham nhũng đến xã hội nói chung là nhà nước và xã hội chưa thật sự vào cuộc để chống tham nhũng, tham nhũng gây ra thiệt hại cho nhà nước và đó cũng chính là gián tiếp gây thiệt hại cho nhân dân vì tài sản của nhà nước cũng chính là tài sản của nhân dân mà có, làm giảm lòng tin của nhân dân vào chế độ. Đề tài có kết cấu ba phần gồm: Phần một là phần mở đầu; Phần hai là phần nội dung; Phần ba là phần kết luận. Trong đó phần nội dung gồm 3 chương. Chương 1: Lý luận và thực trạng trong phòng chống tham nhũng ở nước ta gồm 4 nội dung lớn: Khái niện về tham nhũng; Thực trạng về phòng chống tham nhũng ở nước ta; Lý luận về phòng chống tham nhũng; Các kiến nghị, giải pháp nâng cao phòng chống tham nhũng. Chương 2: Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng gồm 3 nội dung lớn: Khái niệm về thanh tra nhà nước; Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng; Các kiến nghị, giải pháp nâng cao vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng. Chương 3: Thực trạng phòng chống tham nhũng của thanh tra nhà nước tại địa bàn kiến tập gồm 3 nội dung lớn: Khái quát chung về địa bàn kiến tập; Những cơ sở thực tiễn tại địa bàn kiến tập; Bài học kinh nghiệm thực tiễn.

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1777 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại huyện Quế Phong, Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật qui định. Nạn quà cáp biếu xén khi đến cửa quan đã trở thành “tập quán”, phong tục trong xã hội ta. Chúng ta có thể gặp hiện tượng này ở bất kỳ đâu nơi có hoạt động công quyền, chẳng hạn như đến UBND xã, phường làm giấy khai sinh cho con, chứng nhận giấy tờ... cũng phải có quà cho cán bộ, vào cơ quan cũng phải xu nịnh bảo vệ... Đặc điểm này đã gây nhức nhối, làm băng hoại đạo đức của cán bộ công quyền, đe doạ sự tồn tại của nhà nước, sự bền vững của chế độ và sự lãnh đạo của Đảng. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cơ quan hành pháp mà còn xảy ra nhiều ở cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án, thi hành án). Sự tham nhũng ở các cơ quan này đã làm cho vi phạm và tội phạm không bị phát hiện hoặc không được xử lý, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội với những hậu quả vô cùng nặng nề. Tham nhũng xảy ra trong một bộ phận cán bộ quân đội, nhất là số làm kinh tế, phụ trách tài chính - hậu cần có trách nhiệm cấp phát trang, thiết bị cho Quân đội. Đây là lĩnh vực tương đối khép kín, các cơ quan chuyên trách kiểm tra, thanh tra của nhà nước không vào được do đặc điểm bí mật quân sự. Ở nước ta khi chuyển sang cơ chế thị trường có một dạng tham nhũng đặc thù là một số kẻ lợi dụng các quan hệ với các quan chức để mưu lợi riêng, như chạy thầu, chạy vốn, chạy dự án cho nhà đầu tư, cho doanh nghiệp, chạy chức quyền cho người cơ hội, dùng tiền để phân hoá, gây mất đoàn kết nội bộ cơ quan. Tham nhũng trong một bộ phận làm báo chí (phóng viên, biên tập viên, người có trách nhiệm của các báo và quản lý hoạt động báo chí). Do tư lợi mà những người này dùng báo chí để doạ dẫm, vòi vĩnh doanh nghiệp và quan chức, dùng báo chí để phục vụ mưu đồ của người này, người kia, muốn hại ai thì dùng tiền để đưa lên báo chí gây rối xã hội. Tham nhũng đã xuất hiện trong đông đảo cán bộ cấp cơ sở, những “quan lại” mới ở nông thôn bớt xén tiền do dân đóng góp, tiền từ đầu tư của nhà nước, tiền thuế, tiền viện trợ nhân đạo của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Ví dụ về một số vụ tham nhũng điển hình: Thứ nhất là vụ án “con bạc triệu đô”năm 2006 : Bùi Tiến Dũng và tiêu cực lớn ở Ban Quản lý dự án (BQLDA) PMU18 - Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) bị phanh phui khiến Bộ trưởng GTVT Đào Đình Bình bị cảnh cáo và phải từ chức. Tiếp đó, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Giao thông Vận tải, người được coi là “có triển vọng”, bị bắt; 17 tổ chức và  40 cá nhân ở Bộ GTVT liên quan đã bị xử lý; một số cán bộ của ngành Công an liên quan đến việc “chạy án” bị đình chỉ công tác. Chính phủ đã phải xem xét và  điều chỉnh cơ chế quản lý vốn ODA. Thứ hai là vụ tham nhũng, tiêu cực tại Ban điều hành Đề án 112 của Chính phủ năm 2007: Với tổng kinh phí sử dụng cho Đề án 112 là 1.159,636 tỷ đồng trên tổng số kinh phí được cấp phát là 1.534,325 tỷ đồng, các đối tượng đã chi sai mục đích, gây thất thoát 247,19 tỷ đồng (kết luận của Kiểm toán Nhà nước). Tính chất đặc biệt nghiêm trọng còn thể hiện ở chỗ, sai phạm xảy ra ở dự án có quy mô lớn, phạm vi ảnh hưởng và địa bàn rộng khiến nhiều mục tiêu, yêu cầu của chương trình tin học hoá hành chính Nhà nước không thực hiện được;16 đối tượng bị khởi tố, trong đó có nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, nguyên Trưởng Ban điều hành Đề án 112 Vũ Đình Thuần. Như vậy, tham nhũng mang tính phổ biến, nhỏ nhặt là đặc điểm quan trọng nhất của nạn tham nhũng ở nước ta và cũng chính nó làm cho tham nhũng trở nên trầm trọng. Thực trạng này rất nguy hiểm không những nó làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào chế độ ta, phá hoại sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước mà còn làm băng hoại đạo đức xã hội, phá hoại các giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc - vốn là nguồn sức mạnh của dân tộc ta từ trước đến nay. 1.2.2- Nguyên nhân tham nhũng. Là nước ta đang nghèo cơ chế để đảm bảo ổn định đời sống của cán bộ công chức là rất thấp, nhiều cán bộ công chức đồng lương không thể đảm bảo sinh hoạt gia đình, dẫn đến sự nhiệt tình trong công việc không cao, nhận thức của một số cán bộ còn non kém về hậu quả của tham nhũng đối với đất nước. Cơ chế pháp lý để xử lý các đối tượng tham nhũng là không cao và chưa đủ tính răn đe, cơ chế pháp lý vừa thiếu lại vừa yếu nên nhiều vụ không biết xử lý như thế nào hoặc xử lý qua cho xong, tâm lý nể nang trong quá trình xử lý các đối tượng vi phạm trong cán bộ công chức là nguyên nhân tái phạm lại tham nhũng. Xã hội chưa thật sự nhìn nhận đúng hậu quả nếu không nói là thờ ơ với thực trạng tham nhũng hiện nay. Nhà nước không thật sự chú trọng đẩy mạnh trong công tác phòng chống tham nhũng. Đó là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay là rất đáng báo động. Phần lớn các biện pháp can thiệp vào thị trường của chính phủ đều mang tính chất cấm đoán, tức là các chủ thể kinh tế không được phép làm điều gì đó trừ phi chính phủ công khai cho phép một số được làm như vậy. Điển hình là việc cấp phép nhập khẩu. Chỉ những công ty được cấp phép nhập khẩu mới được nhập một số loại hàng hóa nào đó và chỉ với số lượng cụ thể đã nêu trong giấy phép. Điều đó chắc chắn sẽ gây ra sự khan hiếm trên thị trường, cung không được tính toán theo chi phí cận biên của các nhà sản xuất, nhập khẩu mà thông qua số lượng được áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính. Với số lượng bị khống chế như vậy, giá cả do cầu quyết định (tức là số tiền người tiêu dùng sẵn sàng trả để mua thêm một đơn vị hàng hóa) sẽ cao hơn chi phí sản xuất, nhập khẩu của nó. Sự chênh lệch đó chính là lợi ích kinh tế và sẽ được chia nhau sau khi mọi giao dịch đã được tiến hành. Bằng cách đút lót để được cấp phép nhập khẩu, một phần của số bổng lộc sẽ rơi vào túi kẻ đi hối lộ, và phần còn lại (dưới hình thức đút lót) sẽ rơi vào túi kẻ nhận hối lộ. Rõ ràng, nếu không đưa ra quy định cấp phép nhập khẩu thì sẽ không có bổng lộc, và do vậy sẽ không có tham nhũng. Có một số trường hợp tham nhũng không liên quan tới bổng lộc, nhưng loại tham nhũng phổ biến nhất và có hậu quả nghiêm trọng lại gắn liền với thái độ vòi vĩnh bổng lộc. Càng có nhiều quy định bất di bất dịch của chính phủ thì càng hạn chế hoạt động của thị trường tự do và do vậy càng gây ra nhiều tham nhũng. Tuy vậy, ngoài nội dung các đạo luật cho phép chính phủ ban hành các quy định thì điều quan trọng là phải xem xét những quy định này và quá trình thực hiện nó được cụ thể hóa như thế nào. Đối với việc cụ thể hóa các quy định, để có thể thực thi một cách hiệu quả, những quy định này phải đơn giản, rõ ràng và ai cũng có thể dễ dàng hiểu được. Các quy định càng phức tạp, mập mờ và khó hiểu bao nhiêu, càng có nhiều cơ hội cho tham nhũng bấy nhiêu. Có thể thấy một ví dụ tiêu biểu trong hàng loạt các mức thuế nói chung và áp dụng mức thuế cho các sản phẩm cụ thể tương tự nhau. Nếu mức thuế với một mặt hàng nào đó là 3% và đối với mặt hàng tương tự khác là 30% thì sẽ có động lực rất mạnh cho tham nhũng nhằm phân loại sai hàng hóa và giảm thuế bất hợp pháp bằng cách áp dụng mức thuế thấp hơn. Hơn nữa, luật tố tụng – các quy định liên quan tới việc thực hiện các quy định pháp luật khác – cũng có vai trò quan trọng đối với tham nhũng. Đạo luật phức tạp và không minh bạch quy định cụ thể trình tự tố tụng chậm chạp (những trình tự tố tụng mà không có thời hạn quy định cụ thể hoặc không có thời hạn chót), với sự tùy tiện của các cán bộ trong quá trình thực hiện, sẽ tạo ra một cơ hội lớn cho tham nhũng. Không chỉ đạo luật đó tạo ra động cơ cho tham nhũng mà nó còn giảm thiểu khả năng bị phát hiện, do đó làm cho những kẻ hối lộ và nhận hối lộ không còn tin nhiều vào những mối đe dọa với chúng. Như vậy, từ những nguyên nhân trên đòi hỏi Đảng và nhà nước ta phải quan tâm hơn đến vấn đề tham nhũng, đòi hỏi phải chữa tận gốc tệ nạn này, góp phần tạo lòng tin của nhân dân vào chế độ và ngày càng đưa đất nước phát triển giàu mạnh. Lý luận về phòng chống tham nhũng 1.2.1- Trên thế giới. Trong những năm gần đây, cùng với xu thế toàn cầu hoá, tham nhũng ngày càng lan rộng và trở thành vấn đề nhức nhối, đe doạ nghiêm trọng đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Quan chức tham nhũng ở quốc gia này thường chọn quốc gia khác để che dấu tài sản hoặc lẩn tránh sự trừng phạt của pháp luật khi bị phát hiện. Vì vậy, việc hình thành một khuôn khổ pháp lý quốc tế cho sự hợp tác giữa các quốc gia trên phạm vi quốc tế để ngăn chặn các hành vi tham nhũng và những tác hại của các hành vi này là một yêu cầu bức thiết của cả cộng đồng quốc tế. Trước bối cảnh đó, ngày 4/12/2001, Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết số 55/61 thành lập Uỷ ban lâm thời về đàm phán soạn thảo Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Công ước là một văn bản pháp lý quốc tế quan trọng được nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế quan tâm, tạo cơ sở cho việc hợp tác có hiệu quả trong phòng ngừa và chống tham nhũng. Các quy định của Công ước về cơ bản có nội dung phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, trong đó có nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Công ước được thông qua ngày 31 tháng 10 năm 2003, với 30 nước phê chuẩn. Đến nay đã có 136 nước tham gia công ước này, Việt Nam ra nhập công ước ngày 3 tháng 7 năm 2009. Đây chính là cơ sở pháp lý thể hiện sự quan tâm chung của các nước đối với vấn nạn chung. Qua Hiệp Ước cho thấy những quy định chung có ý nghĩa đối với việc hoàn thành pháp luật tham nhũng trong nước. Hiệp Ước có cơ cấu 8 chương và 71 điều, cụ thể: chương 1: Những quy định chung; chương 2: Các biện pháp phòng ngừa; chương 3: Hình sự hoá và thực thi pháp luật; chương 4: Hợp tác quốc tế; chương 5: Thu hồi tài sản; chương 6: Hỗ trợ kỹ thuật và trao đổi thông tin; chương 7: Các cơ chế thi hành công ước; chương 8: Các điều khoản cuối cùng. Thúc đẩy và tăng cường các biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu lực, hiệu quả hơn. Bên cạnh các biện pháp tổng thể, Công ước chú trọng đặc biệt đến các biện pháp nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Điều này thể hiện ở việc Công ước đã dành 3 chương quan trọng gồm Chương 3: Hình sự hoá và thực thi pháp luật; Chương 4: Hợp tác quốc tế, Chương 5: Thu hồi tài sản để quy định vấn đề này. Điểm b Điều 1 Công ước nêu rõ mục đích của Công ước là: “Thúc đẩy, tạo điều kiện và hỗ trợ hợp tác quốc tế và trợ giúp kỹ thuật trong phòng, chống tham nhũng, bao gồm cả thu hồi tài sản” Trong đó quy định khá chi tiết về các chế tài đối với các hành vi tham nhũng trong đó có cả chế tài hình sự đặt ra đối với các tội phạm tham nhũng. Điều 3 Công ước sẽ áp dụng cho tất cả các giai đoạn của công tác chống tham nhũng gồm: phòng ngừa, điều tra, truy tố tham nhũng và việc phong toả, tạm giữ, tịch thu và hoàn trả tài sản có được do tham nhũng. Điều này phản ánh mong muốn của cộng đồng quốc tế trong việc xây dựng, thực thi Công ước như một công cụ phòng, chống tham nhũng toàn diện, hệ thống, đáp ứng được các yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng của mỗi quốc gia cũng như từng khu vực và trên toàn thế giới. Quá trình đấu tranh phòng chống tham nhũng mặc dù mới được LHQ xây dựng công ước trong những năm gần đây. Nhưng lịch sử chống tham nhũng của một số nước đã có từ lâu đời, nhưng dựa trên những quy định về tội phạm tham nhũng trong Bộ luật hình sự của các nước như Bộ luật Hình sự đầu tiên có quy định về tội tham nhũng là của Italia năm 1853 và năm 1859, sau đó là Pakistan năm 1861, Nhật Bản năm 1907, Hàn Quốc năm 1953...Nhiều nước bên cạnh Bộ luật Hình sự, còn ban hành Luật Phòng chống tham nhũng quy định rõ hơn, cụ thể hơn về các tội phạm tham nhũng; xác định rõ về vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan có chức năng chống tham nhũng, như Luật về tăng cường đấu tranh chống tham nhũng của Malaysia năm 1961 và năm 1971, Luật Chống hối lộ năm 1947 của Pakistan... Trong một số ngành, lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng các nước còn có những đạo luật riêng như: Luật Chống hối lộ trong các cơ quan Nhà nước của Ai Cập, Pháp lệnh Phòng ngừa tham nhũng trong bộ máy chính quyền của Srilanca, Luật về công chức, Luật về đạo đức công chức của Mỹ,... Theo đó các nước nêu ra những hành vi tham nhũng và quy định về tội phạm trong lĩnh vực và từng chế tài cụ thể. Dựa trên bảng chỉ số tham nhũng có một số nhóm nước nhờ xây dựng cơ chế phá lý hoàn chỉnh nên đã có được những thành tựu to lớn trong phòng chống tham nhũng như Đan Mạch, Thụy Điển, New Zealand và Singapore. Như vậy từ cơ sở lý luận trên cho thấy các nước trên thế giới đều khá quan tâm đến vấn đề tham nhũng và ngày càng hoàn thiện hơn cơ sở pháp lý về xử lý và chống tham nhũng ở các nước. 1.2.2- Ở Việt Nam Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công giành được độc lập Đảng, nhà nước ta đã rất chú ý đến vấn đề tham nhũng, các quy định về chống tham nhũng lãng phí thực hiện tiết kiệm và ngăn cấm chiếm hữu tài sản công được đặt ra. Tiếp đó là các quy định về cơ sở pháp lý nhằm ngăn chặn tệ nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí trong cán bộ công chức nhà nước. Là cơ sở lý luận quan trọng thể hiện sự nghiên khắc của nhà nước ta đối với tiêu cực tham nhũng, lãng phí. Văn bản thứ nhất đó là: Nghị quyết số 163 CP của Hội Đồng Chính Phủ thông qua ngày 25 tháng 10 năm 1963 về cuộc vận động nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiễn kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Đây là quy định có tính chất pháp lý đầu tiên thể hiện sự quan trọng của tham nhũng đối với kinh tế đất nước, trong Nghị quyết này đã nêu ra các quy định về hành vi tham nhung và những chế tài đối với những ai có hành vi tham nhũng. Văn bản thứ hai là: Nghị quyết số 240/HĐBT của Hội Động Bộ Trưởng thông qua ngày 26 tháng 6 năm 1990 về đấu tranh chống tham nhũng. Là văn bản ra đời trong thời kinh tế Việt Nam có bước phát triển và hội nhập, trong đó có nêu lên những vấn đề như ngyên nhân tham nhũng, mục tiêu và các biện pháp đấu tranh chông tham nhũng. Nhì chung những văn bản không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn chưa thực sự nêu lên được cơ sở pháp lý thực sự chưa có chế tài và xử lý hành vi tham nhũng. Một thực tế là trong thời kỳ này tham nhũng bắt đầu nổi len trở thành một quốc nạn. Văn bản thứ ba là Pháp lệnh phòng chống tham nhũng lãng phí số 03/1998 thông qua ngày 26 tháng 2 năm 1998. Đây là cơ sở phá lý đầu tiên và tiến bộ nhất về pháp luật tham nhũng từ trước, trong đó quy định chi tiết về khái niệm tham nhũng ở điều 1 “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”. Đối tượng điều chỉnh điều 2 là “người có chức vụ, quyền hạn: Cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức; Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước; Cán bộ xã, phường, thị trấn; Những người khác được giao nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó”. Các hành vi tham nhũng ở điều 3 là 11 hành vi cụ thể: “Tham ô tài; sản xã hội chủ nghĩa;Nhận hối lộ; Dùng tài sản xã hội chủ nghĩa làm của hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đưa hối lộ, môi giới hối lộ; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của cá nhân; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để vụ lợi; Lập quỹ trái phép để vụ lợi; Giả mạo trong công tác để vụ lợi. Với 5 chương đây là văn bản có tính quan trọng đặt cơ sở pháp lý cho phòng và chống tham nhũng ở nước ta, chương 1 là những quy định chung về tham nhũng, chương 2 quy định về các biện phòng ngừa phát hiện tham nhũng, chương 3 quy định về xử lý hành vi tham nhũng, chươ 4 quy định về trách nhiệm của các cơ quan tổ chức trong phòng chống tham nhũng, chương 5 quy định về điều khoản thi hành. Đã góp phần vào đẩy lùi tệ nạn tham nhũng ở nước ta trong giai doạn này. Văn bản thứ tư là luật phòng chống tham nhũng 2005/ QH thông qua ngày 19 tháng 11 năm 2005. Là văn bản có ý quan trọng trong thời kỳ hội nhập kinh tế sâu rộng hiên này của nước ta. Với cơ cấu 8 chương 92 điều được chia làm 3 phần lớn quy định khá chi tiết và đầy đủ những vấn đề chung, công khai minh bạch, phát hiện và xử lý tham nhũng. Chương I gồm 10 điều (từ Điều 1 đến Điều 10) quy định về phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; các hành vi tham nhũng, nguyên tắc xử lý tham nhũng: quy định chung về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có chức vụ, quyền hạn cũng như trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, trách nhiệm của cơ quan báo chí trong phòng, chống tham nhũng; trách nhiệm phối hợp của cơ quan Thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án và của cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan; quyền và nghĩa vụ của công dân trong phòng, chống tham nhũng; và các hành vi bị nghiêm cấm. Chương II quy định về phòng ngừa tham nhũng gồm 6 mục 48 điều (từ Điều 11 đến Điều 58). Số lượng các điều chiếm hơn một nửa tổng số điều của đạo luật (48/92 điều). Điều đó phản ánh mức độ quan trọng của chế định phòng ngừa tham nhũng. Có thể nói, phòng ngừa tham nhũng là tinh thần chủ đạo của Luật Phòng, chống tham nhũng. Có thể nói luật phòng chống tham nhũng ra đời đã khắc phục được nhũng hạn chế trước kia đáp ứng nhu cầu trong công tác phòng chống tham nhũng, tạo điều kiện lớn cho lòng tin của nhân dân vào Đảng và nhà nước đưa nước ta phát triển không ngừng. Các kiến nghị, giải pháp nâng cao phòng chống tham nhũng 1.4.1- Về mặt lý luận Để đạt được mục tiêu, yêu cầu đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Đảng chỉ rõ sự cần thiết phải xây dựng và thực hiện đồng bộ các giải pháp lý luận sau đây: “Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật nói chung và pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí nói riêng, các quy định về quản lý kinh tế-tài chính, về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, sắp xếp bộ máy gọn nhẹ, bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế, tài chính trong các cơ quan, đơn vị. Xác định rõ chế độ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Khẩn trương và nghiêm chỉnh thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo; Tăng cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng; củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu lực của hệ thống thanh tra các cấp, các cơ quan bảo vệ pháp luật và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan; Xử lý nghiêm, kịp thời, công khai những vụ việc đã được phát hiện. Có biện pháp xử lý kiên quyết, nghiêm minh những người tham nhũng, lãng phí bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu. Ban hành và thực hiện quy định để xử lý thích đáng, đúng pháp luật người đứng đầu cơ quan, đơn vị, nơi xảy ra tham nhũng, lãng phí, gây hậu quả nghiêm trọng. Tịch thu sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; xử lý nghiêm minh những người bao che tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác, đồng thời có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; biểu dương và nhân rộng những gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; Triển khai thực hiện tốt Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyền. Hoàn thiện "cơ chế giám sát, phản biện của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; Tiếp tục đổi mới chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức; có quy định về kiểm soát, giám sát thu nhập của cán bộ, công chức. "Xây dựng hệ thống chính sách phân phối thu nhập xã hội và chế độ đãi ngộ công bằng, hợp lý, bảo đảm đời sống của cán bộ, công chức. Công khai hóa các chế độ, chính sách để cán bộ, đảng viên và nhân dân giám sát, kiểm tra; Thành lập các Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng trung ương và địa phương đủ mạnh, có thực quyền, hoạt động có hiệu quả"11. Các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, các ngành phải lãnh đạo chặt chẽ cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, không để những phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng cuộc đấu tranh này kích động, gây rối; Tập trung chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong một số lĩnh vực trọng điểm như quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý tài chính trong doanh nghiệp Nhà nước; thu, chi ngân sách Nhà nước; quản lý tài sản công; công tác quy hoạch, tuyển dụng, đề bạt, bố trí cán bộ; Gắn đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí với công tác chỉnh đốn, xây dựng đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; với Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng". 1.4.2- Về mặt thực tiễn Phát động xây dựng một nếp sông đạo đức xã hội "đói cho sạch, rách cho thơm”, tẩy chay tham nhũng, coi tham nhũng là trộm cắp là nhục nhã và hèn hạ. Trên cơ sở những thành tựu thu được của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng trong xã hội một nếp sông dân chủ, khuyến khích mọi người nói lên sự thật, có cơ chế bảo vệ những người dũng cảm tố cáo, phát hiện bọn tham nhũng. Khi đã phát hiện được tham nhũng, cần phải trừng phạt nghiêm, đặc biệt với những kẻ tham nhũng là cán bộ, đảng viên. Cần xác định đây là khâu đột phá để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả. Tham nhũng, lãng phí là những căn bệnh rất nguy hiểm, ngày càng phổ biến, có lúc, có nơi nghiêm trọng nhưng cần nói rõ sự thật, không bao che, không sợ mất uy tín vì phanh phui những sự thật này. Không hoang mang, dao động trước những diễn biến phức tạp của tình hình tham nhũng, lãng phí nhưng phải chủ động xây dựng chiến lược, kế hoạch và có biện pháp tích cực, chủ động phòng, chống. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, cần có những biện pháp giải quyết tình thế, tạo bước chuyển biến rõ rệt, đồng thời có chủ trương, giải pháp có tính chiến lược, phòng, chống tận gốc. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải được tiến hành với tinh thần kiên quyết, kiên trì, thường xuyên, liên tục, có bước đi vững chắc, tích cực, lựa chọn đúng trọng tâm, trọng điểm, tạo bước đột phá, gây dựng lòng tin cho toàn xã hội. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí với tinh thần tích cực chủ động, phòng ngừa là chính, đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm minh những vụ việc đã được phát hiện. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải nhằm phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố hệ thống chính trị và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Gắn phòng, chống tham nhũng, lãng phí với công tác xây dựng đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, phát huy dân chủ, chống chủ nghĩa cá nhân. Các cấp ủy đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, tài chính và pháp luật, về thanh tra, kiểm tra và giám sát, về chế độ chính sách đãi ngộ và kỷ luật Đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ cấp cao phải trực tiếp tham gia và đi đầu trong việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Kế thừa có chọn lọc kinh nghiệm trong lịch sử, dân tộc, chú trọng tổng kết thực tiễn; học tập có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong khu vực và quốc tế. Như vậy, trên cơ sở kết hợp các giải pháp về mặt thực tiễn và lý luận chắc chẵn sẽ cho thấy hiệu quả của phòng chống tham nhũng ở nước ta trong hiên tại cũng như trong tương lai. Chương 2: Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng 2.1- Khái niệm về thanh tra nhà nước 2.1.1-Khái niệm: Xét theo khía cạnh lịch sử hình thành nhà nước Việt Nam, thanh tra là cơ nhà nước đặt ra có chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Và đã được nhà nước ta quy định tại các văn bản pháp luật chuyên nghành, theo đó các định nghĩa về thanh tra nhà nước. Theo Pháp Lệnh thanh tra 1990 thì: Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước; là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý Nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy không nêu lên định nghĩa của thanh tra nhà nước nhưng đó cũng là văn bản có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định trách nhiệm của thanh tra. Đến Luật thanh tra 2004 được Quốc Hội thông qua ngày 25 tháng 12 năm 2001 đã nêu lên định nghĩa của thanh tra nhà nước cũng như nghiệm vụ chức năng của thanh tra nhà nước. Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này và các quy định khác của pháp luật. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Như vậy, với việc quy định nhiệm vụ quyền hạn của thanh tra nhà nước đã tạo điều kiện cho thanh tra nhà nước có điệu kiện hơn trong việc hoạt động của mình, cũng như thực hiện tốt vai trò chống tham nhũng. 2.2- Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng 2.2.1- Về mặt lý luận Nhận thức được tình hình, hậu quả của tham nhũng trên các phương diện chính trị, kinh tế và xã hội. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng để phòng ngừa, đấu tranh chống lại tệ nạn này. Từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII cho đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đều khẳng định quan điểm nhất quán “phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta”.         Hiện nay, công tác phòng, chống tham nhũng thuộc trách nhiệm của nhiều cơ quan khác nhau bao gồm: Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc hoạt động phòng, chống tham nhũng; Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp giám sát công tác phòng, chống tham nhũng; Các cơ quan Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chức năng phòng, chống tham nhũng trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao. Mỗi cơ quan có vai trò, chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Phạm vi bài viết chỉ đề cập đến vai trò của các cơ quan thanh tra thành lập theo cấp hành chính (Thanh tra Chính phủ, Thanh tra cấp tỉnh và Thanh tra cấp tỉnh) trong phòng, chống tham nhũng.    Cơ quan thanh tra hành chính các cấp đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng, thể hiện qua các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được quy định Luật Thanh tra, Luật Phòng chống tham nhũng và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành, cũng như những kết quả, đóng góp từ thực tiễn hoạt động thanh tra kinh tế - xã hội, thanh tra việc tuân thủ pháp luật về phòng chống tham nhũng và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Các vai trò về mặt lý luận là: Thứ nhất: Hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đóng vai trò then chốt trong phát hiện và xử kịp thời các hành vi tham nhũng. Thanh tra, giải quyết khiếu nại và tố cáo phải gắn liền, kết hợp với nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, chúng có mối quan hệ tương hỗ, bổ sung nhau. Hoạt động thanh tra  “phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.” (Điều 3 Luật Thanh tra 2004). Xây dựng bộ máy quản lý nhà nước trong sạch vững mạnh. Cơ quan thanh tra nhà nước các cấp thông qua hoạt động thanh tra chủ động phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị việc xử lý theo quy định của pháp luật; giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và kiến nghị biện pháp xử lý; trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì chuyển cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.         Thứ hai: Xây dựng, kiện toàn bộ máy phòng, chống tham nhũng thuộc hệ thống thanh tra các cấp; từng bước hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống tham nhũng. Căn cứ khoản 1 Điều 75 Luật Phòng, chống tham nhũng quy định “trong Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng.” Ngày 31/10/2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1424/QĐ-TTg thành lập Cục Chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ. Đồng thời, Thanh tra Chính phủ đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 65/2008/NĐ-CP ngày 20/5/2008 thay thế Nghị định số 55/2005/NĐ-CP ngày 25/4 /2005 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ.         Ở địa phương, ngày 13/3/2009 Thanh tra Chính phủ và Bộ Nội vụ đã ban hành thông tư liên tịch số 475/2009/TTLT-TTCP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Theo quy định cơ quan Thanh tra cấp tỉnh được thành lập phòng chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện các nhiệm vụ về phòng, chống tham nhũng tại địa phương.  Thứ ba:  Để từng bước nâng cao chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức ngành thanh tra, Chính phủ, Thanh tra Chính phủ, Bộ Nội vụ đã ban hành các quy định về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra (Nghị định 100/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Chính phủ), quy định tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức ngành thanh tra (Quyết định 04/2008/QĐ-BNV ngày 17/11/2008 của Bộ Nội vụ), xây dựng đề án thành lập Học viện Thanh tra nhằm đào tạo đội ngũ thanh tra viên chuyên nghiệp.         Ngoài ra, Chính phủ ban hành chế độ phụ cấp trách nhiệm trong hoạt động phòng, chống tham nhũng đối với thành viên Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, cán bộ, công chức thuộc biên chế hoạt động chuyên trách Văn phòng Ban Chỉ đạo ở Trung ương và bộ phận giúp việc Ban Chỉ đạo ở cấp tỉnh. 2.2.2- Về mặt thực tiễn Vai trò của thanh tra càng được khẳng định về mặt thực tiễn trong phòng chống tham nhũng, là cơ quan chuyên trách có trách nhiệm phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng thanh tra đã đóng một vai trò quan trọng, trong những năm qua thông qua các đơn thư khiếu nại, tố cáo và các đợt kiểm tra, thanh tra tại các cơ quan hành chính sự nghiệp thì việc phát hiện các hành vi tham nhũng từ các hoạt động này là rất lớn. Từ việc ngày càng nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ thanh tra thì trên thực tế đã tạo nên nhũng thành quả rất lớn góp phần phát hiện kịp thời những hành vi tham nhũng gây thất thất thoát tài sản nhà nước. Một trong những vai trò quan trọng nữa của thanh tra trong phòng chống tham nhũng đó là tham mưu cho các cấp, các cơ quan xử lý các hành vi tham nhũng như cơ quan điều tra, tòa án, viện kiểm sát...Trong việc đề ra phương hướng giải quyết vì phần lớn các hành vi tham nhũng đều do cơ quan thanh tra phát hiện và chuyển hồ sơ sang các cơ quan này, đóng vai trò là người tham mưu chính cơ quan thanh tra cũng góp phần vào việc quyết định xử lý các hành vi tham nhũng. Trong thực tiễn xã hội thì thanh tra cũng hoạt động tương đối độc lập chính nhờ vậy mà trong kế hoạch hàng năm thì việc tuyên truyền pháp luật nói chung và pháp luật tham nhũng nói riêng là một hoạt động rất có ý nghĩa thực tế, nâng cao ý thức pháp luật về phòng chống tham nhũng nhờ vậy mà trong những năm qua tham nhũng ngày càng giảm. Sự nâng lên về chất lượng của cán bộ thanh tra đã góp phần phát hiện các hành vi tham nhũng nguy hiểm, tinh vi. Vậy, thanh tra là cơ quan đóng vai trò quan trọng nhất trong phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, góp phần to lớn trong việc đẩy lùi tệ nạn tham nhũng trong những năm qua. 2.3- Các kiến nghị, giải pháp nâng cao vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng Thứ nhất: Hoàn thiện hệ thống pháp luật thanh tra, và pháp luật phòng chống tham nhũng, trong đó quy định rã về quyền hạn của thanh tra nhà nước đối với phòng chống tham nhũng. Tăng quyền hạn của thanh tra trong việc xử lý các hành vi tham nhũng, mạng tính độc lập cao hơn so với hiện nay. Luật cần hoàn thiện hơn nữa về quy định phạm vi tham tra của thanh tra nhà nước. Thứ hai: Hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đóng vai trò then chốt trong phát hiện và xử kịp thời các hành vi tham nhũng, cần được nâng cao hơn nữa và xây dựng quy chế làm việc ổn định và khoa học hơn. Thanh tra nhà nước cần chủ động hơn trong việc giải quyêt khiếu nại tố cáo và xử lý các hành vi tham nhũng.  Thứ hai: Xây dựng, kiện toàn bộ máy phòng, chống tham nhũng thuộc hệ thống thanh tra các cấp; từng bước hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống tham nhũng. Thứ ba: Thanh tra thực hiện các quy định về phòng, chống tham nhũng, đưa các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng vào cuộc sống, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của người đứng đầu trong hoạt động quản lý nhà nước. Thứ tư: Thanh tra chủ động phối hợp với kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phòng, chống tham nhũng.         Thứ năm: Thanh tra thực hiện chính sách bám sát dân, hiểu rõ được ý nguyện của người dân trong đấu tranh phòng chống tham nhũng. Thứ sáu:  Đầu mối thực hiện hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham nhũng, góp phần nâng cao năng lực, vị thế của ngành thanh tra. Như vậy, khi thực hiện tốt các kiến nghị giải pháp trên sẽ nâng cao được vai trò của thanh tra nhà nước trong đấu tranh phòng chống tham nhũng hiện nay và trong tương lai. Chương 3: Thực trạng phòng chống tham nhũng của thanh tra nhà nước tại địa bàn kiến tập 3.1- Khái quát chung về địa bàn kiến tập Quế phong là một huyện miền núi phía tây bắc tỉnh Nghệ An, đất rừng chiếm một diện tích khá lớn có đường biên giới chung với nước bạn Lào. Địa bàn có vị trí chiến lược rất quan trọng. Đồng bào các dân tộc huyện có truyện thống văn hóa, truyền thống đoàn kết, truyền thống yêu nước và cách mạng rất đáng tự hào. Trong những năm qua cùng với sự phát triển của đất nước, kinh tế huyện cũng có những bước phát triển vượt bậc. Theo đó tình hình tham nhũng trên địa bàn cũng ngày một càng gia tăng cả về số lượng cũng như mức độ nghiêm trọng. Trước tình hình đó các cấp chính quyền của địa phương cũng có những giải pháp nhất định để ngăn chặn, phát hiện và xử lý các vụ tham nhũng. Trong đó đã khẳng định được vai trò của thanh tra nhà nước cơ sở đối với công tác phòng và chống tham nhũng. Góp phần giảm tệ nạn tham nhũng của địa phương cũng như của cả nước. Khi tiếp cận thực tế tại địa bàn kiến tập, tôi đã thu nhận được những kiến thức nhất định trong thực tiễn tham nhũng ở địa phương cũng như pháp luật phòng chống tham nhũng, trong đó qua đi thực tế cũng đã phát hiện ra nhũng vướng mắc về lý luận cũng như thực tiễn khi áp dụng cũng như chính sách thực thi pháp luật tham nhũng tại địa bàn. 3.2- Những cơ sở thực tiễn tại địa bàn kiến tập 3.2.1- Thực trạng tham nhũng tại địa bàn kiến tập Trong những năm gần đây nền kinh tế huyện nhà có những bước phát triển rõ nét có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá toàn diện, keo theo đó tệ nạn tham nhũng cũng ngày càng gia tăng, theo thống kê chỉ số tham nhũng của những năm gần đây năm sau luôn cao hơn năm trước, cả về số vụ cũng như mức thiệt hại của tham nhũng. Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Cuộc thanh tra 24 18 26 27 32 30 Vụ tham nhũng 3 5 5 7 4 5 Số tiền (triệu) 532,7 401,2 604,4 1.204,7 900,5 840,7 Bảng số liệu về tham nhũng của huyên Quế Phong từ 2004-2009 Hiện trạng tham nhũng trong một số lĩnh vực gia tăng và có chiều hướng phức tạp, chiều hướng mở rộng các lĩnh vực tham nhũng trong đó nổi bật lên là các vụ tham nhũng trong nghành giáo dục và ngành xây dựng cơ bản và một số số trong lĩnh vục tư pháp. Đặc biệt hiện nay tham nhũng trong giáo dục như là một tình trạng cho của cả nước thì tại đây nó càng xảy ra nhiều hơn và tinh vi hơn. Nằm dưới nhiều hình thức ngụy trang khi phát hiện hậu quả rât lớn, trong những năm gần đây thì thiệt hại do tham nhũng ngày càng tăng, chỉ riêng giá trị thiệt hại do tham nhũng từ 2004 đến 2009 đã tăng đến hơn hơn 200% và ngày một càng tăng thêm, chủ yêu là các nghành giáo dục, xây dựng cơ bản, và thất thoát do chi tiêu không hợp lý của các nghành chính quyền địa phương. Một thực tế hiện nay là trong hậu hết các vụ tham nhũng đều có sự góp mặt của một số cán bộ lãnh đạo của các phòng ban, chuyên nghành trên địa bàn, tình trạng cán bộ công chức vi phạm pháp luật ngày càng nhiều và tham nhũng là điển hình nhất, một bộ phần công chức có lối sống không lành mạnh buông thả trong quan hệ dẫn đến bị lôi kéo mua chuộc, tỷ lệ cán bộ lãnh đạo vi phạm pháp luật tham nhũng là nhiều, các hình thức kỷ luật đã đặt ra và tài sản mà họ tham nhũng mà có cũng ngày càng tăng. Nhận thức của người dân về tham nhũng trên địa bàn vẫn còn hạn chế, dẫn đến nạn tham nhũng ngày càng phát triển có chiều hướng thường xuyên và trắng trợn hơn, xã hội chưa thật sự nhìn nhận đúng thực trạng tham nhũng và chưa có thái độ hành động xử lý kiên quyết với tệ nạn này, họ vẫn cho rằng tham nhũng là đương nhiên là quyền để họ bù đắp sau những tháng ngày họ vất vả học tập và xin việc, một bộ phận còn cho rằng tham nhũng luôn đồng hành cùng cán bộ lãnh đạo và đó là quyền của họ. Khi xã hội chưa có thái độ kiên quyết với tham nhũng, mà chỉ dựa vào pháp luật, nhà nước, rõng ràng là không thể làm giảm tệ nạn tham nhũng được. Hiện nay trên địa bàn huyện đã phát hiện hành loạt vụ tham nhũng liên quan đến các lãnh đạo chủ chốt của một số xã, một thực trạng là hậu hết các cán bộ này đều đã nghỉ hưu và việc phát hiện trong việc định giá tài sản thất thoát là rất khó khăn, vì đã quá lâu. Một số vụ chưa thể giải quyết do liên quan đến quá nhiều cơ quan và nhiều đối tượng, việc không phát hiện kịp thời các vụ tham nhũng cũng liên quan đến nhiều nhân tố chủ quan và khách quan, điều này đã dẫn đến một thực trạng là quá trình xử lý bị chậm gây bức xúc trong dân gây ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước tại địa phương. Tình trạng tham nhũng ngày càng nhiều dẫn đến tội phạm tham nhũng cũng ngày càng có chiều hướng gia tăng, nếu như trước đây không có tội phạm tham nhũng thì trong nhũng năm gần đây do lợi ích rất lớn từ việc tham nhũng nên một số đối tượng đã có hành vi tham nhũng gây hậu quả nghiên trọng dẫn đến các hành vi này cấu thành tội phạm tham nhũng. Đây không chỉ là thực trạng của địa phương mà cả nước nhưng nếu các cấp các nghành và nhân dân có ý thức hơn đối với tệ nạn tham nhũng thì chắc chẵn sẽ giải thiểu được tệ nạn tham nhũng. Như vậy, khi nhìn vào thực trạng chung của tham nhũng tại địa phương thì ta hiểu rằng đấy là một vấn đề hết sức phức tạp và bức thiết đối với yêu cầu giảm thiểu tệ nạn tham nhũng hiện nay, nhũng cũng cần phải thừa nhận là chúng ta vẫn chưa thật sự có ý thức đúng đắn trong phong chống tham nhũng. 3.2.2- Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng trên địa bàn. Nhằm đáp ứng vai trò của thanh tra nhà nước đối với công tác phòng chống tham nhũng của địa phương thì trong những năm qua nghành thanh tra đã có những cố gắng vượt bậc ngày càng hoàn thiện và thu được những kết quả quan trọng trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, hậu hết các vụ tham nhũng đều do cơ quan thanh tra phát hiện và xử ly khá nhanh và mang hiệu quả cao đối với công tác quản lý nhà nước góp phần giảm tệ nạn tham nhũng. Với việc tăng cường cả số lượng lẫn chất lượng cán bộ thanh tra, nâng cao trình độ là nhân tố tích cực để hoàn thành tốt công việc của mình. Việc xác định hoạt động thanh tra dựa trên các quy chế hoạt động của thanh tra tỉnh và các quyết định cụ thể về tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện hàng năm và các kế hoạch phương hướng hoạt động của thanh tra trong từng giai đoạn trong đó quy định rõ vai trò chức năng và nhiệm vụ của thanh tra huyện. Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng nhà nước và chính quyền địa phương cũng ý thức được vai trò của thanh tra trong việc góp phần ổn định xã hội và minh bạch hơn trong quản lý nhà nước của các cơ quan ban nghành huyện, tạo điệu kiện tốt cho hoạt động thanh tra nói chung và trong phòng chống tham nhũng nói riêng. Hoạt động thanh tra ngày càng đạt được hiệu quả tích cực trong phòng chống tham nhũng, số vụ tham nhũng hành vi tham nhũng ngày càng nhiều giá trị thiệt hại tài sản nhà nước ngày càng lớn. Thanh tra có vai trò rất lớn trong công tác tham mưu cho các cấp trong việc xử lý các hành vi tham nhũng, là cơ quan chuyên nghành và thanh tra kiểm tra đối với hoạt động tài chính của các cơ quan trong huyện nên việc phát hiện những hành vi tham nhũng là có, nhưng do có từng mức thiệt hại và hậu quả khác nhau nên việc xử lý cùng tùy tùng mức độ. Là người trực tiếp và đã có nhiều kinh nghiện trong xử lý các vụ tham nhũng nên thanh tra huyệ có thể tham mưu cho các cơ quan này trong việc quản lý và hoạt động công tác sao cho hợp lý nhất. Vai trò của thanh tra huyện còn có ý nghĩa rất rất trọng việc tuyên truyền phổ biến pháp luật thanh tra, luật phòng chống tham nhũng, luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí...Trong nhân dân góp phần nâng cao nhận thức pháp luật của người dân, và giúp nhân dân có ý thức hơn trong quản lý nhà nước và phòng chống tham nhung, nâng cao năng lực làm chủ của mình. Như vậy, với việc xác định vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng đã cho thấy vai trò đặc biệt của cơ quan này nhằm càng ngày càng phát hiện và xứ lý nhiều hành vi tham nhũng làm giảm sự thất thất thoát tài sản nhà nước và làm tăng lòng tin của nhân dân vào chế độ. 3.2.3- Khó khăn và giải pháp nâng cao phòng chống tham nhũng trên địa bàn kiến tập Mặc dù đã có nhiều cố gắng xong việc phát hiệ và xử lý các hành vi tham nhũng còn gặp nhũng khó khăn nhất định. Do đội ngũ cán bộ phục vụ cho công tác phòng chống tham nhũng vừa thiếu lại vừa yếu không đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn đặt ra, cụ thể là cán bộ thanh tra nhà nước của địa phương chưa đáp ứng cả về số lượng và chất lượng điều này ảnh hưởng rất lớn tới công tác thanh kiểm tra phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng. Do địa bàn hoạt động quá rộng công tác đi lại khó khăn làm cho kinh phí cũng như tốn nhiều sức lực của cán bộ thanh tra và các nghành khác. Do một bộ phần cán bộ công chức còn bao che cho nhau và nếu có xử lý thì chỉ ở mức nhẹ nhàng không mang tính răn đe làm cho quá trình tái phạm tham nhũng của các đối tượng. Việc thực hành nhận thức của người dân trong vấn đề phòng chống tham nhũng chưa cao, khâu tuyên truyền pháp luật về phòng chống tham nhũng lãng phí nói riêng và tuyên truyền pháp luật nói chung là rất hạn chế. Nhìn chung thì từ những khó khăn trên mà làm cho tình hình tham nhũng ở địa phương ngày càng tràn lam và ít có cách khắc phục, không đáp ứng được các chỉ tiêu về phòng chống tham nhũng trên địa bàn huyện. Xuất phát từ những khó khăn trên tôi xin đề ra một số giải pháp nhằm khắc phục tình trang tham nhũng hiện nay trên địa bàn huyện. Tiếp tục thực hiện tốt các quy định của pháp luật về luật thanh tra, luật phòng chống tham nhũng, luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí...Dựa trên chính sách của địa phương về hoạt động phòng chống tham nhũng qua các kế hoạch đặt ra của các cơ quan ban nghành về phòng chống tham nhũng . Có giải pháp kiến nghị các cấp về tăng cường đội ngũ cán bộ trong công tác phòng chống tham nhũng của địa phương đặc biệt chú trọng đến mặt chất lượng đưa người tài vào đội ngũ này nhằm có đủ năng lực cho phù hợp với thực tế nhằm hoạt động có hiệu quả trong phòng chống tham nhũng. Khâu tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về tham nhũng cần phải được đẩy mạnh hơn nữa tới các vùng sâu vùng xa có nâng cao được nhận thức của người dân về hậu quả của tham nhũng chúng ta mới có thể phát hiện được nhiều hành vi tham nhũng, người dân có tham gia cùng các cơ quan chức năng trong phòng chống tham nhũng thì tệ nạn này mới có thể được đẩy lùi. Xử lý nghiêm các cán bộ công chức có thái độ bao che cho người khác bằng các hình thức kỷ luật hoặc truy tố trước pháp luật về hành vi tham nhũng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài sản nhà nước trên địa bàn. Việc phân công cán bộ công tác xuống các địa bàn cơ sở để tiến hành kiểm tra, thanh tra cần phải được tiến hành thường xuyên và thực hành có trách nhiệm hơn. Thanh tra huyện có kế hoạch xây dựng các kế hoạch thanh kiểm tra trên địa bàn đình kỳ và ngày càng tăng hơn nữa, xem xét một cách nghiêm túc các đơn thư tố cáo, kiến nghị của công dân và cố gắng xử lý tốt các hành vi tham nhũng trên địa bàn. Như vậy, từ những khó khăn trên việc phát huy những thành quả đã đạt và tìm các giải nâng cao phòng chống tham nhũng trên địa bàn và nâng cao vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng là điều cần thiết vài cấp thiết hiện nay, khi mà các hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi và mức độ vi phạm ngày càng tăng cả về số lượng và hậu quả. Đòi hỏi các cấp các nghành nhà nước và nhân dân cần phải đồng sức, đồng lòng để cùng nhau thực hiện tốt việc phòng và chống tham nhũng tại địa phương. 3.3 Bài học kinh nghiệm thực tiễn Qua thực tiễn kiến tập trên địa bàn và cụ thể là tại phòng thanh tra huyện, tôi đã thu được những kinh nghiệm thực tiễn bổ ích, trong công tác quản lý xã hội của nhà nước, công tác tiếp dân cũng như việc xử lý các hành vi thanh nhũng và các việc liên quan đến thanh tra nhà nước trong đó qua các buổi đi xâm nhập thực tế là quan trong nhất, kỹ năng thực tế luôn là lớp học thú vị và tôi muốn khám phá thêm nhưng do thời gian kiến tập hạn hẹp nên cũng có một số vương mắc chưa rõ. Thực tiễn tại địa bàn kiến tập số vụ vi phạm tham nhũng là khá lớn nhưng do nhiều nguyên nhân mà công tác xử lý vẫn chưa được thực hiện đúng với mức độ vi phạm, nhiều vụ tham nhũng ngươi dân phát hiện nhưng không dám tố cáo, sợ ảnh hưởng đến bản thân gia đình và dòng họ, nhiều khiếu kiện, khiếu nại với số lượng lớn công dân cùng nhau kéo đến trụ sở UBND huyện gây mất trật tự, tình trạng người dân tiến hành kiếu kiện, khiếu nại không tìm đúng cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết vụ việc. Một thực tế tôi đã thu được đó là cách thức giải quyết các vụ việc liên quan đến lợi ích của người dân từ các quyết định hành chính của nhà nước liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng, hay các quyết định lên quan đến rừng núi...Được các cơ quan nhà nước rất quan tâm và giải quyết khá ổn thỏa. Riêng đối với các hành vi tham nhũng thì tình hình xử lý còn chậm do năng lực thực tiễn của cán bộ còn hạn chế, do phải trải qua nhiều khâu qua lãnh đạo và tham khảo ý kiến của các cơ quan nhà nước khác. Tuy nhiên từ những thực tiễn đó cho tôi những kinh nghiệm đầu tiên về công việc của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng. Thực tiễn còn nhiều điều thú vị và sinh động trên con đường học tập tôi sẽ cố gắng tiếp thu và vận dụng có ý nghĩa trong công việc của mình sau này. Phần 3: Phần kết luận Qua việc nghiên cứu vai trò của thanh tra trong phòng chống tham nhũng ở nước ta cũng như tại địa bàn kiến, đã cho thấy được tổng quan về thực trạng tham nhũng và những vấn đề lý luận đặt ra Đảng và nhà nước ta những biện pháp khắn phục trong đó vai trò của thanh tra nhà nước được nâng cao cả về mặt lý luận và thực tiễn. Qua đề tài cho thấy một phần lớn số vụ tham nhũng do thanh tra nhà nước phát hiện ra và xử lý nhưng trên thực tế vẫn chưa thấm vào đâu so với thực trạng chung và yêu cầu đặt ra cho nghành, một hệ thống chính trị mạnh là các nhánh quản lý nhà nước phải mạnh, từ đó qua đề tai đã dặt ra một số giải pháp về mặt ly luân cũng như thực tế xã hội. Vai trò của thanh tra nhà nước được khẳng định và hiệu quả qua quá trình hoạt động cũng như căn cứ vào vai trò chức năng của nghành thanh tra. Đảng ta trên cơ sở hướng dẫn hoạt động thanh tra trong công tác phòng chống tham nhũng đến năm 2020, đã nhận định đúng vị trí trung tâm của nghành thanh tra đối với công tác phòng chống tham nhũng, đề tài đã tập trung đi sâu vào nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả của phòng chống tham nhũng hiện nay, trong đó chú trọng đến công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thực hiện phòng chống tham nhũng hiện nay, và các giải pháp về mặt xã hộ đối với phòng chống tham nhũng, đặc biệt làm cho các tầng lớp xã hội hiểu đúng tác hại của tham nhũng đối với đất nước, cơ chế bảo đảm cho công dân tố giác tội phạm tham nhũng nói riêng và các loại tội phạm khác nói chung. Qua thực tế trên địa bàn kiến tập tôi đã thu được nhũng kiến thức thực tiễn và những khó khăn vướng mắc trong thực thi pháp luật phòng chống tham nhũng cũng như luật thanh tra khi áp dụng vào địa bàn cơ sở, trên cơ sở đó tôi đã nêu lên nhũng khó khăn cũng, nguyên nhân và thực trạng của địa bàn, qua đó tôi cũng đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của phòng chống tham nhũng và nâng cao vai trò của thanh tra nhà nước trong công tác phòng chống tham nhũng tại địa bàn. Khó khăn vẫn còn nhiều, thách thức còn lớn. Song cùng với cả hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm đấu tranh vói tham nhũng và ngày càng khẳng định được vai trò của thanh tra nhà nước là cơ quan chuyên trách đi đầu trong công tác phòng chố tham nhũng, góp phần đưa đất nước ta phát triển phộn vinh giàu mạnh. Xin chân thành cảm ơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhan 1.doc
Tài liệu liên quan