Đề tài Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam hiện nay

Một là, công tác quản lý của Nhà nước đối với FDI còn những mặt yếu kém, vừa sơ hở, vừa gây phiền hà, can thiệp sâu vào các hoạt động của doanh nghiệp FDI . Thể hiện: - Công tác quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập. Trong thời gian qua, cho việc tập trung vào việc cấp giấy phép đầu tư, buông lỏng khâu quản lý sau giấy phép, chưa quan tâm đúng mức đến việc giải quyết điểm và nhanh chóng các vấn đề phát sinh, tháo gỡ các vướng mắc khó khăn của doanh nghiệp, công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài chưa được chú trọng điều này dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp, lợi ích của bên Việt Nam giảm, tính cạnh tranh bình đẳng trong kinh doanh bị phá vỡ. Công tác quản lý còn nhiều sơ hở, để một số doanh nghiệp còn lợi dụng nâng giá đầu vào, hạ giá đầu ra để ăn chênh lệch, trốn lậu thuế, gian lận thương mại, lợi dụng độc quyền để đưa giá sản phẩm cao hơn giá hàng cùng loại nhập khẩu, đưa thiết bị lạc hậu, trả lương công nhân thấp hơn quy định, vi phạm quy định về quan hệ lao động.

doc73 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trạng này đã tạo ra sức ép lớn đối với tăng trưởng kinh tế. Để tạo việc lầm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải sử dụng các nguồn vốn trong và ngoài nước. FDI không sử dụng nhiều lao động nhưng cũng góp phần tạo việc làm, giải quyết tình trạng thất nghiệp. Bình quân mỗi năm khu vực FDI đã thu hút thêm 35 nghìn lao động trực tiếp và gián tiếp. Tính đến nay, khu vực này đã thu hút 47 vạn lao động trực tiếp (chưa kể số lao động gián tiếp). Trong đó có khoảng 73% số lao động làm việc trong khu sản xuất công nghiệp. Thu nhập bình quân tháng của người lao động Việt Nam trong doanh nghiệp đầu tư nước ngoài khoảng 70 USD/người, cao hơn cùng ngành nghề ở khu vực khác 30-50% và thu nhập của họ hàng năm lên tới 300-350 tr.USD. Đây là yếu tố hấp dẫn lao động Việt Nam. Tuy nhiên lao động trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đòi hỏi có trình độ tay nghề cao, cường độ lao động cao, kỷ luật lao động nghiêm khắc. Trong một số lĩng vực còn yêu cầu người lao động phải có trình độ nhất định về học vấn và ngoại ngữ. Điều này tạo cơ chế bắt buộc người lao động Việt Nam có ý thức tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ tay nghề để có đủ điều kiện được tuyển vào làm tại các doanh nghiệp này. Tại đây, người lao động tiếp thu được công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, rèn luyện tác phong công nghiệp thích ứng với cơ chế thị trường. Theo đánh giá của một số chuyên gia về lao động cho thấy, hiện nay, ngoại trừ một số ít lao động bỏ việc do mâu thuẫn với giới chủ, một số khác bị thải loại do không đáp ứng được yêu cầu, số công nhân hiện còn làm việc tại các doanh nghiệp FDI đều được bồi dưỡng trưởng thành và tạo nên một đội ngũ công nhân lành nghề, đáp ứng được yêu cầu đối với người lao động trong nền sản xuất tiên tiến. Về đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh: Trước đây chúng ta chưa có nhiều nhà doanh nghiệp giỏi có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh. Khi các dự án đầu tư nước ngoài bắt đầu hoạt động, các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào nước ta những chuyên gia giỏi, đồng thời áp dụng những chế độ quản lý, tổ chức kinh doanh hiện đại để đạt hiệu quả cao. Đây chính là điều kiện thuận lợi một mặt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập và nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý, mặt khác, để liên doanh hoạt động cho tốt, chủ đầu tư nước ngoài phải đào tạo cán bộ quả lý cũng như lao động Việt Nam đạt được trình độ nhất định đủ để đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, công nghệ của dự án đang thực hiện. Như vậy dù không muốn, các nhà đầu tư nước ngoài cũng buộc phải đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam. Số người do các doanh nghiệp tự đào tạo tay nghề chiếm hơn 60% tổng số lao động. hiện nay, tại các doanh nghiệp có khoảng 6.000 cán bộ quản lý, 25.000 cán bộ kỹ thuật và 150.000 công nhân lành nghề, họ chủ yếu là những kỹ sư trẻ, có trình độ, có thể cùng các chuyên gia nước ngoài quản lý doanh nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả và đủ khả năng tiếp thu nhanh công nghệ hiện đại, thậm chí cả bí quyết kỹ thuật. Như vậy, FDI đã góp phần tạo ra thu nhập ổn định cho một lượng lớn lao động xã hội, nâng cao mặt bằng tiền lương cải thiện đời sống nhân dân, từ đó tăng tiêu dùng và khả năng tiết kiệm cho nền kinh tế, kích thích đầu tư trong nước tăng. Bên cạnh đó, FDI góp phần đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động Việt Nam, chuyển đổi cơ cấu lao động xã hội theo hướng giảm dần lao động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp và dịch vụ cũng như giảm các tội phạm về kinh tế, tăng sự ổn định chính trị xã hội của cả nước cũng như từng địa phương. Sáu là, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Các doanh nghiệp có vốn FDI được thành lập trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển, đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Các nhà đầu tư nước ngoài thông qua thực hiện dự án đầu tư đã trở thành cầu nối giúp Việt Nam nhanh chóng tiếp cận và tiến hành hợp tác với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế cũng như các trung tâm kinh tế, kỹ thuật, công nghệ mạnh của thế giới. Các mối quan hệ song phương, đa phương của Việt Nam với các nước, khu vực trên thế giới được thiết lập và củng cố. Với trên 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam trong đó có nhiều công ty, tập đoàn lớn có sức mạnh về công nghệ tài chính. FDI góp phần mở rông quan hệ kinh tế đối ngoại, từng bước hội nhập kinh tế thế giới và khu vực tham gia sâu hơn vào quá trình phân công lao động quốc tế. Bảy là, FDI góp phần trực tiếp tăng trưởng GDP. Hoạt động FDI đã góp phần tạo ra năng lực sản xuất mới ngành nghề, sản phẩm, công nghệ mới và phương thức sản xuất mới , từ đó làm tăng năng suất lao động xã hội tăng GDP làm cho nền kinh tế nước ta từng bước chuyển biến theo nền kinh tế thị trường . Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước. Năm 1995, chỉ số phát triển của khu vực nền kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 115 %, của khu vực kinh tế Nhà nước là 109% ; kinh tế tập thể là 104,5 % ; kinh tế tư nhân 109,3 % ; kinh tế cá thể 109,8%; kinh tế hỗn hợp 112,7% và chỉ số phát triển chung của cả nước là 109,5 %. Đến năm 2000 các chỉ số tương đương là: 107,7% ;105,5%; 108,1% ; 111,0 %; 11,4% và 106,8%. Vốn FDI góp phần tạo tốc độ tăng trưởng GDP cao. Trong giai đoạn 1991-1997 nước ta đạt mức tăng GDP cao nhất bình quân hàng năm khoảng 8,4 %. Đây cũng là giai đoạn Việt Nam thu hút được khối lượng FDI lớn nhất, chiếm khoảng 26-30 % tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Nhiều nhà kinh tế cho rằng nếu thời gian qua không có nguồn vốn FDI thì mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm không htể vượt quá 5%. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực làm khối lượng FDI vào Việt Nam giảm sút hẳn kéo theo tốc độ tăng trưởng GDP cũng giảm. Từ năm 2000, đến nay cả luồng FDI vào Việt Nam và tốc độ tăng GDP đang phục hồi trở lại. Năm 2002, tốc độ tăng GDP của nước ta đạt 7,04% cao hơn một số nước trong khu vực như: Thái Lan 5,1%; Malaixia 4,6%; Philipin 3,7%; Indonesia 3,6%, và chỉ đứng sau Trung Quốc (8%). Cùng với sự ra tăng của GDP, tỷ trọng đóng góp của FDI trong đó ngày càng gia tăng và có xu hướng ổn định từ 6,3% năm 1995 lên 13,25% năm 2000 và năm 2002 đạt 13,4%. Điều đó cho thấy FDI giữ vai trò ngày càng quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta. Mối quan hệ giữa gia tăng GDP và xu hướng vận động của dòng FDI tương đối chặt chẽ, nghĩa là sự tăng lên của FDI sẽ làm tăng GDP và ngược lại. Theo các chuyên gia kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi, khi tỷ trọng FDI trong GDP tăng 1% sẽ góp phần làm tăng trưởng GDP 0,053% vào năm sau. Kết quả này thực sự có ý nghĩa chứng tỏ vai trò quan trọng của nguồn vốn đầu tư nói chung và nguồn vốn FDI nói riêng đối với sự tăng trưởng kinh tế nước ta. Bên cạnh đó FDI còn góp phần đáng kể vào ngân sách quốc gia. Doanh thu của khu vực FDI liên tục gia tăng với tốc độ nhanh chóng từ 151 tr.USD năm 1991 lên 2036 tr.USD năm 1995; 4600 tr.USD năm 1999; 6167tr.USD năm 2000 và đến năm 2002 đạt 9000tr.USD. Trong đó một phần đáng kể được nộp vào ngân sách nhà nước và khoảng đóng góp này ngày càng gia tăng: 195 tr.USD năm 1995; năm 1997 góp 315tr.USD; năm 1998 góp 317tr.USD. Trong giai đoạn 1996-2000 các doanh nghiệp FDI đóng góp vào ngân sách tổng cộng 1.858tr.USD (Bảng 10). Đây là nguồn bổ sung quan trọng góp phần giảm bớt tình trạng thâm hụt và nâng cao khả năng chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách Quốc gia. Bảng 10: Đóng góp của FDI trong GDP. Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tốc độ tăng GDP 9,54 9,43 8,15 5,76 4,77 6,79 6,89 7,04 Tỷ trọng FDI 6,3 7,39 9,07 10,03 12,24 13,25 13,1 13,4 Doanh thu (tr.USD) 2063 2743 3815 3910 4600 4117 8200 9000 Nộp NS 195 263 315 317 271 260 373 594 Tạo việc làm (100 người) 220 250 270 296 327 439 472 Trên đây là những tác động tích cực của FDI đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Những đóng góp của FDI đã khẳng định vai trò quan trọng của nó đối với tăng trưởng kinh tế nói riêng và với sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. ảnh hưởng tích cực của loại hình hoạt động kinh tế này đang ngày càng rõ rệt và lan rộng trên nhiều mặt trong đời sống kinh tế, xã hội. Tuy nhiên FDI không thể là phương thần kỳ có thể giải quyết được mọi vấn đề còn tồn tại trong một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam, thậm chí nó còn gây ra một só tác động tiêu cực. 2.4. Những nguyên nhân hạn chế tác động của FDI với tăng trưởng kinh tế. 2.4.1. Một số tác động hạn chế của FDI. Bên cạnh những đóng góp tích cực đối với tăng trưởng kinh tế nguồn FDI đã bộc lộ không ít những khía cạnh tiêu cực ngoài mong muốn đối với những nước nhận đầu tư nói chung và Việt Nam nói riêng. Những tác động tiêu cực này khó định lượng, hiện nay đang được xem xét đánh giá cụ thể, tuy nhiên có thể nêu ra một số điểm chung sau : Một là, FDI làm tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nhưng chỉ ở các ngành sử dụng các nguồn lực mà Việt Nam có lợi thế như tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động rẻ. Kim ngạch xuất khẩu luỹ kế từ năm 1991-2001 của doanh nghiệp FDI chỉ đạt trên 14 tỷUSD, bằng 48% tổng doanh thu, nghĩa là hơn một nửa doanh thu thực hiện trong nước. Hơn nữa, cùng với sự gia tăng của khối lượng FDI qua các năm, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp này cũng tăng theo. Tỷ trọng nhập khẩu của các doanh nghiệp này tăng từ 18% (1995) đến 30%(2001). Tổng hợp kết quả nhập khẩu và xuất khẩu cho thấy phần lớn máy móc, nguyên vật liệu nhập khẩu chiếm khoảng 66-72% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay nền kinh tế Việt Nam sản xuất chủ yếu theo kiểu khai thác tài nguyên để xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu linh kiện, bán thành phẩm để gia công, lắp giáp. Nghĩa là nước ta thiếu trầm trọng khâu công nghiệp trung gian và mục đích thu hút FDI để thúc đẩy các ngành cung cấp nguyên vật liệu trong nước phát triển khó thực hiện được. Các công ty đa quốc gia vào Việt Nam chủ yếu để tận dụng lao động rẻ, tài nguyên sẵn có và thị trường tiêu thụ tiềm năng có hàng rào bảo hộ hàng hoá còn cao. Về lâu dài, tình trạng này sẽ dẫn đến hậu quả là tài nguyên thiên nhiên bị khai thác kiệt quệ, nạn ô nhiễm môi trường gia tăng, cơ cấu nền kinh tế mất cân đối, ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế . Hai là , các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có thể lợi dụng những khe hở trong hệ thống pháp luật, những mặt yếu kém của chính phủ và của các doanh nghiệp trong nước để đưa những công nghệ , máy móc thiết bị, kỹ thuật lạc hậu và vốn góp tính với giá cao hơn 10-155 so với mặt bằng giá thế giới. Theo thống kê của Vụ kỹ thuật-Bộ công nghiệp, qua khảo sát 727 cơ sở có nhập máy móc thiết bị trong cả nước thì có tới 76% thiết bị mới nhập về đã được sản xuất từ thời kỳ 1950-1960, trong đó 2/3 số thiết bị đã được khấu hao hết, 50% thiết bị đã được tân trang lại, 20% thiết bị đã sử dụng trên 20 năm, khi được đánh giá lại cao hơn thực tế 15-20%. Năm 1995 Bộ kế hoạch và đầu tư đã thuê công ty SGS (Societe General de Surveilance) giám định lại giá trị máy móc thiết bị của 14 doanh nghiệp liên doanh và phát hiện 6 doanh nghiệp trong số trên đã khai vống giá trị thiết bị với tổng số 13,173tr.USD. Bên cạnh đó còn tăng giá công nghệ vốn góp thông qua khai tăng chi phí đào tạo công nhân làm cho chúng ta khó xác định được chính xác giá công nghệ. Việc khai tăng giá các công nghệ lạc hậu đem góp vốn làm giảm lợi nhuận chia cho bên Việt Nam hiệu quả sản xuất không cao và Việt Nam còn có nguy cơ trở thành bãi rác thải công nghiệp. Ba là, hoạt động của FDI có thể làm tăng sự lệ thuộc về vốn, kỹ thuật, mạng lưới tiêu thụ của nước ta vào nước ngoài. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế mở, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước diễn ra gay gắt, nếu bản thân các doanh nghiệp trong nước có khả năng cạnh tranh yếu thì với sự xuất hiện của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến sự lũng đoạn và giảm sút hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Bởi vì các doanh nghiệp nước ngoài thường chiếm ưu thế về vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm tổ chức quản lý, sản xuất so với các doanh nghiệp trong nước. Trong liên doanh, vốn góp của Việt Nam thường bằng trị giá quyền sử dụng đất, được thực hiện một lần ngay khi dự án bắt đầu triển khai xây dựng cơ bản, khi đó, vốn góp của bên nước ngoài thường được thực hiện rải ra làm nhiều lần trong một thời gian dài. Như vậy có những thời kỳ tỷ lệ vốn góp của Việt Nam lớn hơn hẳn bên nước ngoài, nhưng theo quy định thì lợi ích của hai bên được hưởng cũng như vị thế điều hành lại được chia theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định đã ghi trong giấy phép đầu tư, điều này làm giảm lợi ích của Việt Nam cả về kinh tế và quyền điều hành kinh doanh, mặt khác, mất đi yếu tố ràng buộc và thúc đẩy bên nước ngoài góp vốn đầy đủ, đúng tiến độ. Hơn nữa do bên Việt Nam chưa có khả năng tạo ra mẫu mã phù hợp với thị yếu của khách hàng quốc tế, và thiếu điều kiện tiếp cận với thị trường nước ngoài nên việc tiêu thụ sản phẩm hầu như do bên nước ngoài chủ động thực hiện. Do vậy mà một số liên doanh trên danh nghĩa là liên doanh nhưng thực chất bên Việt Nam chỉ gia công cho bên nước ngoài nên lợi ích rất thấp. Thậm chí trong một số liên doanh, bên nước ngoài còn cản trở việc xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp sang một số thị trường vốn là bạn hàng truyền thống của Việt Nam nếu ở đó đã có liên doanh sản xuất sản phẩm cùng loại của họ. Ví dụ, trước đây Trung Quốc là thị trường tương đối lý tưởng của bột giặt ViSo, Nga là thị trường của xà phòng thơm General thì khi tham gia liên doanh các chủ đầu tư nước ngoài đã không cho liên doanh thực hiện tiếp việc xuất khẩu này vì hai ở nước đó dự án đầu tư cùng loại tương ứng của họ, Xét trên quan điểm thị trường, sự phụ thuộc này bao hàm một mức độ rủi ro tiềm năng cao của chiếm lược phát triển hướng ngoại. Bốn là, hiệu quả kinh tế của khu vực đầu tư nước ngoài còn hạn chế. Thực tế chúng ta dành ưu tiên cho hình thức liên doanh, nhưng chính những doanh nghiệp liên doanhcó tỷ lệ vốn lỗ, giải thể rất nhiều, mâu thuẫn giữa các bên liên doanh khá phổ biến. Số doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài làm ăn hiệu quả còn ít. Bên Việt Nam tham gia liên doanh hầu hết là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Song hầu hết các doanh nghiệp hoật động bị thua lỗ, bên Việt Nam không được chia lãi và không có nguồn hoàn trả cho Ngân sách Nhà nước. Năm là, việc đóng góp bằng giá trị quyền sử dụng đất dẫn đến tình trạng: Khi cần khuyến khích đầu tư chúng ta tiến hành giảm giá tiền cho thuê đất, điều này đồng nghĩa với việc chúng ta chấp nhận sự giảm xuống về quy mô vốn góp của mình trong liên doanh và việc này đã tồn tại ở một số cơ quan, doanh nghiệp… Thậm chí một số trường hợp do tính toán lợi ích cục bộ (tập thể cơ quan…) nên cạnh tranh gay gắt với những doanh nghiệp Việt Nam có chuyên môn phù hợp với yêu cầu của dự án đó hơn để miễn cưỡng trở thành bên Việt Nam trong liên doanh. Kết quả là nếu dự án trở thành hiện thực thì không những liên doanh đó hoạt động không hiệu quả mà còn ảnh hưởng đến lợi ích chung của quốc gia. 2.4.2. Những nguyên nhân. Một là, công tác quản lý của Nhà nước đối với FDI còn những mặt yếu kém, vừa sơ hở, vừa gây phiền hà, can thiệp sâu vào các hoạt động của doanh nghiệp FDI . Thể hiện: - Công tác quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập. Trong thời gian qua, cho việc tập trung vào việc cấp giấy phép đầu tư, buông lỏng khâu quản lý sau giấy phép, chưa quan tâm đúng mức đến việc giải quyết điểm và nhanh chóng các vấn đề phát sinh, tháo gỡ các vướng mắc khó khăn của doanh nghiệp, công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài chưa được chú trọng… điều này dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp, lợi ích của bên Việt Nam giảm, tính cạnh tranh bình đẳng trong kinh doanh bị phá vỡ. Công tác quản lý còn nhiều sơ hở, để một số doanh nghiệp còn lợi dụng nâng giá đầu vào, hạ giá đầu ra để ăn chênh lệch, trốn lậu thuế, gian lận thương mại, lợi dụng độc quyền để đưa giá sản phẩm cao hơn giá hàng cùng loại nhập khẩu, đưa thiết bị lạc hậu, trả lương công nhân thấp hơn quy định, vi phạm quy định về quan hệ lao động. - Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước còn chưa chặt chẽ, đặc biệt là khâu quản lý sau giấy phép, thủ tục hành chính còn quá phiền hà, cửa quyền, cấp giấy thực thi pháp luật và các chính sách, chủ trương của Nhà nước còn thiếu nghiêm túc với hiện tượng sách nhiễu, tiêu cực của một số cán bộ liên quan đã làm biến dạng chính sách của Nhà nước, làm xấu đi môi trường đầu tư. Hai là, hệ thống pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ, chưa đẩm bảo tính rõ ràng, minh bạch và đoán được xu thế phát triển, môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế, biểu hiện: -Việc thực thi pháp luật, chính sách không nhất quán, tuỳ tiện. Tính ổn định của pháp luật, chính sách chưa cao, trong nhiều trường hợp làm cản trở hoặc đảo ngược các phương án kinh doanh gây thiệt hại cho cả hai phía. -Thị trường hàng hoá dịch vụ tuy chưa phát triển nhưng quản lý chưa tốt, nên vẫn còn tình trạng kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế, gian lận thương mại. Thị trường vốn, thị trường công nghệ và các dịch vụ thông tin, pháp lý, tài chính, bảo hiểm, kiểm toán phát triển chậm, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội còn nhiều hạn chế (giao thông vận tải, điện nước, các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, giải trí cho người nước ngoài…) Ba là, năng lực và trình độ của các cán bộ Việt Nam được cử tham gia quản lý các doanh nghiệp liên doanh còn yếu kém. Hầu hết các cán bộ hiện đang làm việc ở các liên doanh chưa qua đào tạo, thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững pháp luật và kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, chưa thông thạo về ngoại ngữ, một số cán bộ chưa thấy hết trách nhiệm của mình, chưa pháp huy được vai trò đại diện chủ sở hữu Nhà nước trong liên doanh, kém phẩm chất, thoái hoá, chỉ chú trọng đến lợi ích cá nhân, có trường hợp còn đứng về phía lợi ích của chủ đầu tư nước ngoài. Bốn là, trách nhiệm lao động của người Việt Nam trong liên doanh thấp, phần lớn lao động giản đơn, ý thức kỷ luật lao động còn thấp, thiếu lao động lành nghề, chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp về lao động kỹ thuật có tay nghề cao, vận hành các dây chuyền công nghệ hiện đại nên làm cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp liên doanh đạt hiệu quả thấp. Năm là, cơ sở hạ tầng của nước ta nhìn chung còn yếu kém chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư. Theo số liệu của Bộ kế hoạch- Đầu tư, hệ thống giao thông vận tải, điện nước của ta còn yếu kém, mật độ đường bộ là 1,48km/1000dân, đường sắt là 0,04km/1000dân, chất lượng đường xá kém… hệ thống dịch vụ phục vụ FDI còn yếu. Tóm lại, FDI có vai trò quan trọng đối với việc tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, việc thu hút, sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI là một tất yếu khách quan, là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. FDI đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược đầu tư phát triển ở nước ta, góp phần phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, góp phần mở rộng nguồn thu trong ngân sách quốc gia, vừa bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế, vừa đảm bảo giữ vững độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia và địng hướng XHCN. Tuy nhiên, FDI cũng bộc lộ một số hạn chế chúng ta không mong muốn mà nguyên nhân chính là do môi trường pháp lý của nước ta còn chưa thực sự hoàn thiện và đồng bộ, công tác quản lý Nhà nước còn yếu kém; năng lực, trình độ của cán bộ cũng như chất lượng lao động Việt Nam còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Vì vậy, để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng FDI cũng như hạn chế những tác động tiêu cực của nó góp phần tăng trưởng kinh tế, chúng ta cần xác định phương hướng và hệ thống giải pháp hữu hiệu, tạo dựng một môi trường đầu tư ổn định, bình đẳng, giữa các khu vực kinh tế, có tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực, hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và giảm thiểu những rủi ro do hoạt động của FDI mang lại. chương 3 Một số các giải pháp tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. 3.1. Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội giai đoạn 2001- 2010 và nhu cầu vốn FDI . 3.1.1. Những mục tiêu chiến lược quan trọng. Trên cơ sở những kết quả đã đạt được, để mở rộng quy mô và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế có vốn FDI, Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá IX vừa qua đã đề ra nhiệm vụ chiến lược:"Tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn FDI, nhất là của các tập đoàn xuyên quốc gia, hướng mạnh hơn vào những ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn. Mở rộng các lĩnh vực đầu tư và đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế". Về phần mình, với thông điệp đầu tiên của năm 2004-Nghị quyết số 01/2004, Chính phủ đã khẳng định, đi đôi với việc triển khai thực hiện Nghị định 27/2003 và Nghị định 38/2003 về thi hành Luật Đầu tư nước ngoài và chuyển đổi một số doanh nghiệp FDI sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, năm 2004 sẽ thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư nước ngoài mới, như công ty hợp doanh, công ty quản lý vốn, các hình thức sáp nhập và mua lại…,với các điều kiện và bước đi thích hợp. ý Đảng và lòng dân, sự "ra tay" của Chính phủ và sự cộng hưởng của các doanh nghiệp… đang là nguồn động lực tổng hợp thúc đẩy "con tàu" FDI trong lòng kinh tế Việt Nam tăng tốc. Ngoài ra, Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra đường lối phát triển kinh tế -xã hội 10 năm (1001-1010). Trong đó mục tiêu tổng quát là:" Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2010 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên quốc tế được nâng cao". Dưới đây là một số mục tiêu cụ thể mang tính chất quân trọng: Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng ít nhất gấp đôi năm 2000, ổn dịnh kinh tế vĩ mô. Nâng cao rõ rệt hiệu quả sử dụngvà sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và nền kinh tế. Cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế trên 30% GDP. Nhịp độ tăng xuất khẩu tăng gấp hai lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng GDP của nông nghiệp là 16-17%, công nghiệp là 40-41%, dịch vụ là 42-43%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%. Giải quyết tốt việc làm, ở thành thị thất nghiệp dưới 5%, ở nông thôn nâng cao thời gian lao động lên 80-85%, tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề khoảng 40%. Chát lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thầndư nâng cao rõ rệt. Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng áp dụng các công nghệ hiện đại. Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội. Trong quá trình thực hiện các mục tiêu trên, cần nắm vững quan điểm phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Đối với nước ta, để phát triển nhanh trước hết cần tập trung phát triển những sản phẩm, ngành, lĩnh vực nước ta có lợi thế; những vùng kinh tế trọng điểm; tăng nhanh năng suất lao độngkết hợp triệt để tiết kiệm; tăng nhanh năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những ngành và lĩnh vực then chốt. Muốn vậy, trước hết cần phải tạo ra được tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững trong các ngành và các lĩnh vực nói trên. Trong bối cảnh kinh tế nước ta hiện nay, nguồn vốn FDI là cần thiết cho tăng trưởng. FDI không những bổ sung nguồn vốn thiếu hụt tạm thời cho phát triển mà còn thực hiện chuyển giao công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật và tri thức cho nước ta, tránh được gánh nặng nợ nần và sự lệ thuộc về chính trị. FDI có vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta cần phải kết hợp nội lực và ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển và nguồn vốn trong nước mới có vai trò quyết định tới tăng trưởng và phát triển.Để đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững trong khi nội lực nền kinh tế còn kém, trong những năm tới, chúng ta cần nhận thức rõ hơn về vai trò của FDI và có biện pháp tổ chức thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này. 3.1.2. Nhu cầu vốn FDI nhằm đảm bảo những mục tiêu chiến lược. Trong những năm tới, để phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình từ 7,0-7,5%/năm, thì tỷ lệ vốn đầu tư cho phát triển phải đạt 28-30% GDP, với tổng vốn huy động trong thời kỳ 2001-2010 khoảng 136-140 tỷ USD, trong đó tỷ lệ vốn đầu tư trong nước huy động khoảng 19-20% GDP với tổng vốn khoảng 80-90 tỷ USD. Như vậy phần vốn còn lại phải bổ sung từ các nguồn vốn nước ngoài khoảng 47-50 tỷ USD. Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt mức trung bình khoảng 6,5-7,0%/ năm, thì nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển là 126-130 tỷ USD, tỷ lệ huy động vốn trong nước dự kiến sẽ giảm còn 17-18%/GDP, tương đương 80-82 tỷ USD, còn lại 46-48tỷ USD phải bổ sung từ nguồn vốn nước ngoài. Hiện nay, nguồn vốn ODA đang có xu hướng giảm cả về quy mô và mức ưu đãi, nguồn vốn vay thương mại không nhiều, lại chịu lãi suất cao thì nguồn vốn FDI trở nên quan trọng, hiệu quả và cần khuyến khích. 3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng FDI. 3.2.1. Những nhân tố trong nước. * Thuận lợi. Nước ta có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng thống nhất từ trung ương đến địa phương, được sự ủng hộ nhiệt tìng của quần chúng nhân dân tạo môi trường chính trị-xã hội ổn định lâu dài cho các hoạt động đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài ra đời năm 1987 đến nay đã nhiều lần được sử đổi và hoàn thiện dần. Hiện nay, nếu so với các nước ASEAN thì Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam đạt tới mức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam có vị trí dịa lý và vị thế chính trị thuận lợi cho việc phát triển giao thông vận tải, thông tin liên lạc, là những ngành tiền đề cho việc thu hút các dự án đầu tư , phát triển các ngành công nghiệp khác. Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào và tương đối rẻ. Thêm vào dố, người dân Việt Nam nói chung có tính cần cù, thông minh, có ý thức tuân thủ kỷ cương, kỷ luật lao động, ít có đình công, bãi công tự do. Đây là một trong những yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Thị trường Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng và triển vọng trong tương lai. Hiện nay nhiều nhà đầu tư cho rằng Việt Nam là một trong những thị trường lớn nhất trong khu vực vì vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam không chỉ là thị trường với 80 triệu dân mà còn là địa bàn cung cấp hàng hoá cho một số nước láng giềng như Lào, Campuchia, Mianma và vùng Tây Nam Trung Quốc. * Những khó khăn: Môi trường pháp lý cho FDI của Việt Nam cần phải tiếp tục hoàn thiện nhiều để tương đồng với các nước ASEAN và phù hợp với thông lệ quốc tế. Có nhiều văn bản bị thay đổi nhanh, thậm chí có nhiều điều khoản mâu thuẫn với nhau gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Có sự không đồng nhất giữa văn bản pháp luật và việc thi hành các văn bản đó trước hết và căn bản là do sự hiểu biết về pháp luật của dân còn kém. Từ đó phát sinh các tệ nạn tiêu cực làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài và cũng không tạo được cơ sở chắc chắn để giải quyết tranh chấp giữa các bên nếu có. Theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài, thủ tục hành chính của Việt Nam còn nhiều phức tạp, rườm rà gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Hoạt động quản lý chồng chéo giữa các ban, ngành. Cán bộ quản lý lại thiếu thông hiểu về pháp luật, thiếu kinh nghiệm chuyên môn trong việc sử lý tình huống pháp sinh và nhìn chung họ vẫn mang đậm tác phong nông nghiệp. Điều này cũng làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn lao động của Việt Nam có lợi thế là tương đối rẻ nhưng phần lớn là lao động giản đơn, chưa có trình độ tay nghề cao để có thể tiếp nhận những công nghệ được chuyển giao.Vì vậy,về lâu dài khi trình độ sản xuất phát triển, nếu lao động Việt Nam không được đào tạo kịp thời thì lợi thế đó cũng mất đi trong so sánh với các nước khác trong ASEAN. Việt Nam đang chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN nên còn thiếu kinh nghiệm trong việc tạo lập một hệ thống thị trường đồng bộ. Những thị trường quan trọng quyết định sự phát triển của nền kinh tế như thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán đã có nhưng còn sơ khai, chưa có thị trường lao động. sự hoạt động kém hiệu quả của những thị trường này cũng làm giảm sức hấp dẫn các nhà đầu tư và làm giảm tác động của FDI đến nền kinh tế. Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng điều kiện tiếp nhận và sử dụng vốn, công nghệ của các dự án FDI. Để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, nước sở tại cần có nguồn vốn đối ứng trong nước gấp 2-3 lần vốn đầu tư nước ngoài, có cơ sở hạ tầng tương đối phát triển,có năng lực nội tại đủ để tiếp nhận các công nghệ của dự án FDI như trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý…Nhưng Việt Nam có xuất phát điểm thấp nên chưa đáp ứng tốt những điều kiện trên. 3.2.2. Những nhân tố bên ngoài. * Thuận lợi. Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 và mới đây tham gia vào khối mậu dịch tự do (AFTA) tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút FDI từ các nước trong khu vực cũng như từ các nước khác. Sự gia nhập WTO trong tương lailà nhân tố quan trọng trong việc thu hút FDI bởi vì khi đó hàng xuất khẩu của Việt Nam không những có chi phí thấp mà còn được hưởng ưu đãi khi xuất sang các nước thuộc thị trường Bắc Mỹ, tạo cơ hội cho hàng Việt Nam tăng sức cạnh tranh, thâm nhập vào thị trường Bắc Mỹ, một thị trường lớn trên thế giới. * Khó khăn. Xu hướng toàn cầu hoá- khu vực hoá tạo ra sự cạnh tranh thu hút FDI trên thế giới và trong khu vực ngày càng trở nên gay gắt hơn. Hơn nưã, sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á các nước đều tăng cường cải thiện môi trường đầu tư làm tăng đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trong hoạt động thu hút FDI. Nếu môi trường đầu tư của Việt Nam không hấp dẫn thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển sang các nước khác trong khu vực làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá của các nước này. Trong khi đó hàng rào thuế quan trong khu vực đã được rỡ bỏ, hàng hoá nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam, chiếm lĩnh thị trường của Việt Nam do các doanh nghiệp trong nước sản xuất vốn có sức cạnh tranh kém hơn trên thị trường khu vực. Do đó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và tốc độ tăng trưởng của một số ngành trong nước. Các công ty xuyên quốc gia một mặt tạo cơ hội cho Việt Nam thu hút FDI, mặt khác thông qua hoạt đồng để thực hiện chiến lược của công ty mẹ có thể gây nên lũng loạn kinh tế xã hội, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, gây mất ổn định môi trường đầu tư. Việc tham gia khu mậu dịch tự do cũng đặt ra thách thức đối với Việt Nam trong hoạt động thu hút FDI . Xét trên giác độ ngành nghề, AFTA gần như không ảnh hưởng tới FDI vào những ngành dịch vụ, đồng thời cũng ít ảnh hưởng đến các ngành công nghệ phi chế biến mà tác động trực tiếp đến FDI trong các ngành công nghiệp chế tạo, công nghiệp chế biến thực phẩm, dệt may,cơ khí, hoá chất, điện tử và vật liệu xây dựng. Hiện nay Việt Nam có lợi thế so sánh đối với ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may,giày da. Còn những ngành công nghiệp chế biến đòi hỏi trình độ công nghệ cao, vốn lớn, yêu cầu phải có kinh nghiệm nhiều năm và có sự hỗ trợ của các ngành liên quan. Trong khi đó các nước trong khối ASEAN đã sẵn sàng tiếp nhận FDI vào các ngành này. Do vậy Việt Nam sẽ gặp trở ngại trong việc thu hút FDI vào các ngành chế biến. 3.3.Giải pháp tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI cho tăng trưởng kinh tế. 3.3.1. Giải pháp tăng cường thu hút FDI . 3.3.1.1. Đảm bảo cho môi trường chính trị xã hội ổn định cho hoạt động thu hút FDI. Thực tế cho thấy FDI là một hoạt động tài chính nên rất nhạy cảm với những thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội, luật pháp. Giữ vững ổn định chính trị là giải pháp quan trọng hàng đầu trong tất cả các giải pháp. Kinh nghiệm cho thấy nhiều quốc gia có tiềm năng lớn về tài nguyên thiên nhiên cũng như thị trường rộng lớn song lại gặp không ít khó khẳn trong hoạt động thu hút FDI do có xung đột về chính trị. Để tạo lập môi trường chính trị xã hội ổn định ở nước ta, cần tăng cường hơn nữa vai trò, nâng cao năng lực kết hợp đổi mới, coi đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định. Đồng thời mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và nâng cao hiệu lực của Nhà nước trên các lĩnh vực từ quản lý kinh tế đến quản lý xã hội. Coi trọng giải quyết các vấn đề xã hội đang ngày càng bức xúc như tham nhũng, nghèo đói, thất nghiệp, tệ nạn xã hội và cả mâu thuẫn lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trước mắt quy định và hướng dẫn phương thức sinh hoạt và hoạt động các tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phù hợp với đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thông qua các tổ chức Đảng và các đảng viên giữ chức danh lãnh đạo và quẩn lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là yếu tố đảm bảo hoạt độngcủa các doanh nghiệp theo đúng quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước và người lao động. Ngoài ra còn cần có kế hoạch thành lập công đoàn ở tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn ở các doanh nghiệp này, vì đây là hình thức thuận tiện nhất để thực hiện sự lãnh đạo của đảng và bảo vệ quyền lợi của người lao động, trực tiếp giám sát chủ đầu tư thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước. Hơn nữa cần tăng cường giáo dục pháp luật cho công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 3.3.1.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật vầ đầu tư nước ngoài nhằm cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài. Để cải thiện môi trường đầu tư, trước mắt cần phải quan tâm đến xây đượựng hệ thống pháp luật và các chính sách cá liên quan đến hoạt động FDI tại Việt Nam một cách đồng bộ, đảm bảo tính rõ ràng, nhất quán, tính dự đoán trước được, dễ hiểu, dễ thực hiện đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời nghiên cứu, xây dựng, sớm ban hành Luật Đầu tư chung cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tạo môi trường pháp lý bình đẳng cho hoạt động của hai hình thức doanh nghiệp này. Triển khai rộng việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành nghị định 24/CP để Luật Đầu tư mới bổ sung, sửa đổi được áp dụng thống nhất, các quy định mới của luật có điều kiện đi vào pháp huy hiệu quả trong cuộc sống, thể hiện sự thông thoáng, cởi mở thực sự về môi trường đầu tư của Việt Nam. Rà soát lại hệ thống văn bản, chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở dó cắt bỏ, sửa đổi, những văn bản, chính sách không phù hợp với thực tế đồng thời bổ sung những văn bản mới phù hợp hơn như: xem xét, cắt bỏ những quy định về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, quy định về những hình thức góp vốn, tỷ lệ góp vốn, nguyên tắc trong hội đồng quản trị; bổ sung một số chính sách ưư đãi thiết thực, có sức hấp dẫn cao về thuế, tiền thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển, chế độ thưởng xuất khẩu … đối với lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư nước ngoài; sửa đổi, bổ sung một số chính sách liên quan đến tổ chức và hoạt động của cá doanh nghiệp trong thời gian qua còn vướng mắc… để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư nước mgoài. Tiến tới một hệ thống pháp luật đầu tư chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, phù hợp với thông lệ quốc tế. Thực hiện tốt và tiếp tục triển khai , thực hiện lộ trình rút ngắn khoảng cách, sớm tiến tới giai đoạn xoá bỏ hẳn sự chênh lệch về giá, phí hàng hoá, dịch vụ, giá cước, …giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiẹn cho các doanh nghiệp này giảm chi phí và bình đẳng trong cạnh tranh, khắc phục tình trạng phân biệt đối xử 3.3.1.3.Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải tiến công tác tổ chức bộ máy quản lý, phân cấp và cơ chế thu hút nhằm nâng cao hiệu lực quản lý, phân cấp và cơ chế thu hút nhằm nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả kinh doanh trong lĩnh vực FDI. Tiếp tục nghiên cứu và cải tiến công tác tổ chức quản lý trong các hoạt động FDI, đặc biệt là trong các khâu: Lựa chọn dự án, hướng dẫn lập hồ sơ dự án, tính toán các chỉ tiêu của dự án, dự báo phát triển và cấp giấy phép, thực hiện các thủ tục liên quan đến việc triển khai các dự án đầu tư…để khắc phục tình trạng buôn lỏng và có nhiều khe hở trong quản lý, gây ách tắc, gián đoạn trong triển khai, quản lý bằng biện pháp hành vhính. - Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài khắc phục bộ máy cồng kềnh, hoạt động thiếu nhịp nhàng giữa các bộ phận liên quan, cải thiện chất lượng quản lý. Việc quản lý Nhà nước về FDI nhất là trong lĩnh vực hải quan, thuế, cấp giấy phép đầu tư, tuyển dụng lao động theo cơ chế "một cửa, một đầu mối"; đơn giản hoá việc cấp giấy phép đầu tư theo hướng chuyển sang chế độ đăng ký đầu tư nhằm giảm bớt các khâu trung gian, hành chính sự vụ; đẩy nhanh việc giải quyết các thủ tục về cấp các loaiị giấy phép, chứng chỉ, chứng nhận, thủ tục về đất đai, xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, hoàn thuế… 3.3.1.4. Chuẩn bị tốt cơ sở hạ tầng để đáp ứng yêu cầu của hoạt động FDI. Việc phát triển cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư triển khai, thực hiện các dự án đầu tư của mình, mà còn là cơ hội để nước ta tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực hạ tầng và cũng có thể có khả năng thu được nhiều lợi nhuận hơn từ dòng vốn FDI thu hút được. Tiếp tục nâng cấp và hiện đại hoá hệ thống hạ tầng kinh tế đặc biệt là mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống điện, cấp nước, đường giao thông, sân bay, kho, bến bãi,cảng, xử lý chất thải, vệ sinh môi trường. nâng cao chất lượng dịch vụ đối với hệ thống Ngân hàng, bảo hiểm, y tế, giáo dục, vui chơi giải trí… Tăng cường và phát triển mạng lưới đầu tư, xuất nhập khẩu, nghiên cứu thị trường, kỹ năng và kỹ thuật đàm phán, giải quyết tranh chấp, kiến thức về ngoại giao và pháp luật quốc tế. Trong giai đoạn trước mắt, chúng ta có thể đầu tư tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng của ba vùng kinh tế trọng điểm quyết định tới tăng trưởng kinh tế của đất nước. Ba vùng kinh tế trọng điểm này làm đầu tầu cho nền kinh tế chứ không phát triển độc lập mà liên kết với các vùng kinh tế khác qua thị trường hàng hoá, thị trường lao động và thị trường các yếu tố sản xuất. Sự phát triển cơ sở hạ tầng của ba vùng kinh tế này sẽ đáp ứng ngay yêu cầu của các nhà đầu tư đồng thời thúc đẩy kinh tế các vùng khác phát triển. Mặt khác, chúng ta cần có những quy chế ưu đãi rõ ràng, cụ thể đối với các hình thức BOT, BTO, BT vào các địa bàn trọng điểm để các hình thức này nhanh chóng được các nhà đầu tư triển khai thực hiện, góp phần hỗ trợ vốn cho Ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó khuyến khích đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và đặc biệt trong tương lai không xa chúng ta phải nghĩ ngay tới việc thành lập các khu đặc khu kinh tế để cải thiện cơ sở hạ tầng. 3.3.1.5. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật lành nghề cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để nguồn nhân lực nước ta cósức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hơn, chúng ta cần có kế hoạchđào tạo cán bộ và công nhân hợp lý đáp ứng nhu cầu trước mắt và chuẩn bị cho hoạt độngcủa các doanh nghiệp sau này. Trước hết, chúng ta cần đặc biệt chú trọng tới công tác đào tạo, nâng cao phẩm chất, đạo đức, trìng độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước, nâng cao đội ngũ cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn FDI. Thứ hai, cần tập trung giải quyết những vấn đề sau: -Sớm quy định những điều kiện phải có đối với cán bộ Việt Nam tham gia vào Hội đồng quản trị và quản lý các hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh, quy định cụ thể tiêu chuẩn, chuyên môn, nghiệp vụ, tráhc nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của ngững người làm trong các doanh nghiệp liên doanh. -Tổ chức đào tạo chính quy, thường xuyên tập huấn số cán bộ Việt Nam đang làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh, tranh bị kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp, kinh nghiệm cần thiết nhất, -Tổ chức đào tạo công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp FDI theo các chương trình phù hợpvà triển vọng sử dụng thực tế số lao động này. Thứ ba, khuyến khích và quy định cụ thể đối với các dự án FDI về đào tạo tay nghề có chính sách yêu cầu các công ty chủ động có kế hoạch chủ đào tạo công nhân và người quản lý địa phương. Nhờ đó khắc phục tình trạng lệ thuộc vào công nghệ. 3.3.2.Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động. 3.3.2.1. Đổi mới cơ cấu FDI nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, bao gồm: Thu hút các dự án đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, ngành sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, sản xuất thay thế hàng nhập khẩu, ngành có giá trị tăng cao và sử dụng nguồn lực tại chỗ. Đồng thời đầu tư vào ngành kinh tế có triển vộng lâu dài và khả năng phát huy hiệu quả lợi thế so sánh, phát triển cụm công nghiệp, cơ khí chế tạo, điện tử và các ngành kinh tế mũi nhọn, khai thác và chế biến dầu khí…Bên cạnh đó cần có chính sách ưu đãi để các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp và đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa. 3.3.2.2. Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch đối với FDI phù hợp vói quy hoạch phát triển ngành, vùng lãnh thổ, chiến lược sản phẩm và thị trường tiêu thụ cũng như chiến lược hội nhập của nền kinh tế đất nước trong từng thời kỳ. - Đẩy mạnh công tác quy hoạch chi tiết, đặc biệt là những vùng có khả năng thu hút mạnh vốn đầu tư, đẩy nhanh quy hoạch đô thị, quy hoạch phát triển những ngành nghề ưu tiên và hạn chế đầu tư. Trên cơ sở đó cụ thể hoá những ngành, lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư nước ngoài cũng như hệ thống chính sách ưu đãi đầu tư để đồng vốn FDI được sử dụng hiệu quả hơn. Đồng thời công khai dânh mục và các thông tin cơ bản của các dự án gọi vốn đầu tư giúp các nhà đầu tư nước ngoài có cơ sở lựa chọn và quyết định đầu tư, tiến tới công bố danh mục các dự án cấm đầu tư. -Xây dựng và quy hoạch các vùng trọng điểm thu hút vốn FDI với cơ chế và pháp lý rộng hơn so với các hình thức đầu tư như đặc khu kinh tế, thành phố tự do hoá đầu tư, khu kinh tế mở, khu đầu tư và khu xây dựng đặc biệt. 3.3.2.3. Mở rộng hợp tác đầu tư nước ngoài theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, nhằm góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Cần mở rộng các hình thức và phương thức đầu tư để thu hút được nhiều các dự án đầu tư nước ngoài, có nhiều cơ hội để đánh giá, lựa chọn được những dự án khả thi nhất, có hiệu quả cao nhất, tránh rủi ro và tạo sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư nước ngoài.Tìm kiếm thị trường và đối tác mới: Trong khi vẫn coi trọng các thị trường và đối tác hiện nay, mà chủ yếu là Châu á và các doanh nghiệp vừa, cần mở rộng việc thu hút FDI từ thi trường mới, nhất là Mỹ- một nước có tiềm năng lớn và có quan hệ thương mại gia tăng mạnh mẽ với nước ta trong ba năm vừa qua. Coi trọng việc đề ra các giải pháp để ngày càng có nhiều công ty đa quốc gia, nhất là 500 công ty hàng đầu thế giới đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là trong vĩnh vực công nghệ cao. Về hình thức đầu tư: Bên cạnh hình thức tổ chức doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là công ty tráhc nhiệm hữu hạn cần mở rộng tổ chức chúng thành công ty cổ phần, chi nhánh sở hữu toàn phần; cho phép cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn FDI và tiến hành thí điểm việc mua cổ phần trong doanh nghiệp Nhà nước cảu các nhà đầu tư nước ngoài gắn với quy chế thích hợp để tránh nguy cơ lũng đoạn, tăng khả năng thu hút vốn; tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển hình thức đầu tư từ hợp đồng hợp tác kinh doanh và từ liên doanh sang hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Đồng thời khuyến khích, đa dạng hoá các hình thức góp vốn của các dối tác Việt Nam trong liên doanh ngoài việc góp vốn bằng quyền sử dụng đát như góp vốn bằng tiền, máy móc, nhà xưởng, công nghệ, bí quyết kinh doanh và các dịch vụ khác, cho phép phát hành cổ phiếu để thu hút vốn, vay ngân hàng thương mại trong nước…nhằm tăng vốn góp của bên Việt Nam,tăng khả năng làm chủ các doanh nghiệp liên doanh về chuyển giao công nghệ, tạo dựng kinh nghiệm và khả năng quản lý. Về phương thức đầu tư : Tăng cường mở rộng các quan hệ Quốc tế song phương và đa phương , tham gia các hiệp định quóc tế về khuyến khích và bảo hộ đầu tư , các hiệp định thương mại , tạo cơ sở pháp lý Quốc tế trong xử lý các tranh chấp và điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp có vốn FDI . Ngoài ra, để tăng cường vận động, kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài, nên mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài để cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, đồng thời cần nâng cao chất lượng tài liệu vận động đầu tư, các trang web trên internet…bởi vì các nhà đầu tư thường thiếu thông tin về môi trường đầu tư. 3.4 Một số kiến nghị. Hệ thống các giải pháp trên đây đã tương đối đầy đủ giúp công tác thu hút và sử dụng FDI đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên lượng vốn FDI vào Việt Nam còn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn cho nền kinh tế, hiệu quả hoạt động đối với tăng trưởng kinh tế chưa cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa vững chắc. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của FDI nhằm phục vụ tốt hơn cho tăng trưởng kinh tế, em xin đề xuất một số ý kiến sau: 3.4.1.Kiến nghị đối với Nhà nước. Thứ nhất, cần sớm hình thành và phát triển mạnh một thị trường vốn đồng bộ nhằm tạo điều kiện để hầu hết các doanh nghiệp có thể huy động vốn cho đầu tư một cách thuận lợi cũng như có thể tham gia đầu tư vào mọi lĩnh vực mà Nhà nước không cấm. Trước mắt, xúc tiến hoạt động có hiệu quả, quy mô lớn (kể cả địa bàn) của thị trường chứng khoán.Nhờ có thị trường này, nguồn vốn đáng kể vốn trong nước và vốn nước ngoài được luân chuyển nhanh hơn, do đó hoạt động hiệu quả hơn đáp ứng mục tiêu tăng trưởng nhanh. Thứ hai, hiện nay chúng ta đã có Luật Đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, chưa có luật cạnh tranh, Luật chống bán phá giá nên mức độ điều chỉnh có khác nhau giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn FDI, nhiều khi có sự phân biệt đối xử, có những trường hợp không bảo vệ được lợi ích của các doanh nghiệp trong nước trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài. Do đó chúng ta cần sớm soạn thảo và ban hành những loại hình luật này trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia và phù hợp với thông lệ quốc tế. 3.4.2. Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước. Để tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, hấp dẫn các nhà đầu tư và tạo điều kiện cho nguồn vốn FDI hoạt động hiệu quả, trước mắt chúng ta cần ổn định giá trị tiền tệ, chống lậm phát, đây là nhiệm vụ hàng đầu của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước cần phải thực thi một số chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu và hướng tới tăng trưởng kinh tế nhanh. -Duy trì chế độ tỷ giá hối đoái ổn địn, có sự quản lý và điều tiết của Nhà nướcb nhằm tạo lập môi trường tài chính trực tiếp đảm bảo cho sự vận động tự do trong sự ổn định của nguồn vốn FDI. Ngân hàng Nhà nước cần áp dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để tỷ giá thay đổi theo hướng tương ứng theo mức lạm phát của các đồng tiền và góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cơ chế tăng trưởng xuất khẩu. -Đảm bảo một cơ chế tín dụng cởi mở và đưa ra những mức lãi suất hợp lý với những khoản tín dụng khác nhau nhằm nâng cao khả năng huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, tạo được nguồn vốn đủ để phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu vay vốn, kể cả đối tác nước ngoài. Trong giai đoạn tới, để đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng cao và ổn định cho nền kinh tế thì nhu cầu về nguồn vốn FDI rất lớn. Bối cảnh trong nước và nước ngoài hiện nay có tác động lớn đến dòng vốn FDI vào nước ta theo hai chiều ngược nhau. Vì thế chúng ta cần phải có hệ thống giải pháp nhằm tận dụng và phát huy những yếu tố thuận lợi sẵn có, khắc phục những khó khăn , bất lợi để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả hoạt động của FDI phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt các giải pháp về FDI phải thống nhất với những giải pháp phát triển kinh tế xã hội khác. kết luận Nền kinh tế thế giới đang vận động theo xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá và quá trình phân công lao động quốc tế diễn ra mạnh mẽ. Trong bối cảnh này, hoạt động FDI có vị trí ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Việc thu hút vốn FDI có vị trí ngày càng quan trọng đối với mỗi quốc gia kể cả những nước phát triển và nước đang phát triển đưa nền kinh tế đất nước hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Trong thời gian qua, hoạt động FDI ở Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm nhưng đã đóng góp một phần tích cực vào công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước. Mỗi kết quả, mỗi thành tựu chúng ta dạt được đều có sự đóng góp đáng kể của nguồn vốn FDI. Đặc biệt FDI góp phần quan trọng tạo nên tốcđộ tăng trưởng kinh tế nhanh trong giai đoạn đầu phát triển, phục vụ cho quá trình CNH-HĐH. Tuy nhiên, những tác động tích cực trên đây còn rất khiêm tốn và ở giác độ nào đó, hoạt động FDI tác động tiêu cực đến nền kinh tế như: gây ra hiện tượng chảy máu chất xám, vi phạm quyền lợi của người lao động cả về vật chất lẫn phẩm chất và lòng tự trọng dân tộc…Mặc dù vậy chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng củaf đối với tăng trưởng kinh tế của đất nước trong thời gian qua. Hiện nay FDI trở thành một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. mỗi chính sách, mỗi biến động tài chính tiền tệ, mỗi chiến lược phát triển đều có bóng dáng của FDI. Trong thời gian tới, để phát huy hiệu quả của FDI chúng ta cần tạo môi trường đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và môi trường cạnh tranh bình đẳng cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời phải kết hợp hài hoà với năng lực nội sinh của đất nước để tạo sự tăng trưởng nhanh và bền vững, thúc đẩy quá trình CNH-HĐH, sớm đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0084.doc
Tài liệu liên quan