Đề tài Vai trò của yếu tố vốn với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Quan điểm của Việt Nam về huy động và sử dụng vốn đầu tư. Thế nào là nợ nước ngoài, các giải pháp chống nguy cơ vỡ nợ ở Việt Nam

- Nên đa dạng hóa các nguồn vốn vay, hiện nay phần lớn nợ nước ngoài của Việt Nam là dưới hình thức ODA. Tuy hình thức này thường có lãi suất thấp nhưng kèm theo đó là những điều kiện mang tính chính trị, phía nhận ODA thường bị ràng buộc về phương thức mua sắm, đấu thầu, chọn tư vấn Do đó, nếu không có trình độ thẩm định kỹ thuật cao, kinh nghiệm đàm phán tốt và kỹ thuật giải ngân thì hiệu quả của dự án sẽ không cao. Vì vậy, bên cạnh các khoản vay chính thức, cần chú trọng tới hình thức vay qua phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế. Những khoản vay này thường không mang tính chất chính trị và nước vay nợ có thể toàn quyền sử dụng các khoản vay này, do đó hiệu quả sử dụng sẽ cao hơn. - Chính phủ phải quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài trong khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là vay nợ của doanh nghiệp, hạn chế sự bảo lãnh của Chính phủ đối với khoản vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp. Trong trường hợp bắt buộc phải bảo lãnh phải thẩm định cẩn trọng khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Nên khuyến khích các khoản vay mang tính dự án dài hạn để tránh đổ vỡ nợ trong khu vực này. - Sau khi vay được vốn, vấn đề quan trọng nhất là sử dụng vốn đó như thế nào. Rút bài học từ các vụ vỡ nợ ở các quốc gia, chúng ta cần phải tăng cường công tác theo dõi giám sát đảm bảo cho vốn vay được sử dụng đúng mục đích, hiệu quả, tránh thất thoát, lãng phí. Tham ô là một nguyên nhân hết sức bức xúc dẫn đến thất thoát vốn, làm giảm lòng tin của người dân trong nước cũng như các nhà tài trợ nước ngoài, do đó phải có hệ thống luật chặt chẽ, nghiêm khắc xử lý những cá nhân vi phạm.

doc30 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của yếu tố vốn với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Quan điểm của Việt Nam về huy động và sử dụng vốn đầu tư. Thế nào là nợ nước ngoài, các giải pháp chống nguy cơ vỡ nợ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm được điều này, ngoài những nghị định hướng dẫn cụ thể về quy chế đặc thù đối với đầu tư gián tiếp (hiện luật của chúng ta chưa có nghị định hướng dẫn cụ thể nào cho quy chế này), thì thị trường vốn chúng ta phải phát triển mạnh, đủ để có người mua - người bán và cần có nhiều công cụ chuyển nhượng vốn tinh vi hơn. Là thành phố trọng điểm kinh tế của cả nước, Tp.HCM đã đạt được mức tăng trưởng 11.8% trong năm qua so với mức tăng trưởng chung của cả nước là 7,4%. Để thu hút FII, về phần mình, việc làm trước mắt của Tp.HCM là giới thiệu những lĩnh vực mà các nhà đầu tư quan tâm và có thể bỏ tiền vào; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các quỹ đầu tư đang hoạt động ở Việt Nam; mở cửa những lĩnh vực mà hiện nay họ đang quan tâm như bất động sản... Mặt khác, thành phố đang và sẽ kiến nghị với Chính phủ mở cửa thêm một số lĩnh vực mà các nhà đầu tư quan tâm, đồng thời tạo điều kiện tối đa cho thị trường vốn phát triển” 2.1.1.3. Các giải pháp thu hút. Về môi trường pháp lý: - Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi, điều chỉnh hoặc loại bỏ các điều kiện không phù hợp cam kết WTO của Việt Nam và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. - Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa về ĐTNN làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư. - Ban hành Thông tư hướng dẫn một số nội dung chưa rõ ràng, cụ thể tại Nghị định số 108/2006/ NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư. - Nghiên cứu xây dựng cơ chế huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng các KKT và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng KCN. Tổ chức triển khai Nghị định quy định về KCN, KCX, KKT sau khi được ban hành. - Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành. - Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam. - Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ. Về công tác quản lý nhà nước: - Tập trung vào việc đẩy mạnh vốn giải ngân, giảm khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện : + Phối hợp hỗ trợ, thúc đẩy nhanh việc giải ngân vốn đăng ký của các dự án đã được cấp GCNĐT, đặc biệt chú trọng đến công tác thúc đẩy triển khai các dự án quy mô vốn đầu tư lớn được cấp GCNĐT trong vài năm gần đây bằng cách tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng .v.v. giúp cho các dự án này triển khai nhanh chóng. + Thường xuyên phối hợp với địa phương hỗ trợ giải quyết về luật pháp, chính sách, vướng mắc của các doanh nghiệp trong việc hình thành và hoạt động. Đồng thời, có kế hoạch nắm bắt cụ thể tình hình triển khai của các dự án ĐTNN có quy mô vốn đầu tư lớn (từ khi hình thành dự án đến khi hoạt động) - Nghiên cứu xây dựng, củng cố hệ thống quản lý thông tin ĐTNN, tiến đến dần kết nối các đầu mối quản lý đầu tư trong cả nước địa phương để đảm bảo tốt chính sách hậu kiểm. - Theo dõi, đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương triển khai các biện pháp nêu tại Chỉ thị số 15/2007/CT-TTG ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy ĐTNN vào Việt Nam để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. - Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý ĐTNN giữa Trung ương với địa phương và các Bộ, ngành liên quan. - Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát sau cấp phép nhằm hướng dẫn việc thực hiện đúng pháp luật và ngăn chặn các vi phạm pháp luật. Tiếp tục rà soát các dự án để có hình thức xử lý phù hợp, hỗ trợ dự án nhanh chóng triển khai sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Thực hiện việc thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án không triển khai đúng tiến độ cam kết để dành quỹ đất cho các dự án mới. Chủ trì tổ chức các đoàn kiểm tra tình hình triển khai quy hoạch đầu tư, quy hoạch KCN, KKT và tình hình sử dụng vốn hỗ trợ ngân sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KKT. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các cam kết song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết cho cơ quan quản lý nhà nước các cấp và các doanh nghiệp nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Tổ chức hướng dẫn các địa phương xây dựng Đề án quy hoạch phát triển KCN và phối hợp với các đơn vị nghiên cứu phương án điều chỉnh Quy hoạch phát triển các KCN cả nước với biện pháp bảo vệ môi trường. - Phối hợp với các đơn vị, cơ quan theo dõi, giải quyết kịp thời các vấn đề đình công, bãi công của công nhân trong KCN, đặc biệt là trong các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Về thủ tục hành chính: Tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế ‘liên thông-một cửa’ ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư. Tăng cường năng lực quản lý ĐTNN của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan,... nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. Nâng cao trình độ toàn diện của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý ĐTNN. Về kết cấu hạ tầng: - Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó ban hành quy chế khuyến khích tư nhân, đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh. - Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v. - Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. - Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu, Về lao động, đào tạo nguồn nhân lực: - Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động, bao gồm: (i) Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động; (ii) Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. - Triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ người lao động làm việc trong các KCN, nhất là về nhà ở và điều kiện sinh hoạt của người lao động. - Tiếp tục tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả về cán bộ quản lý các cấp và cán bộ kỹ thuật. - Phối hợp với các cơ quan tăng cường giám sát, hướng dẫn triển khai Nghị định số 03/2006/NĐ-CP ngày 6/1/2006 về quy định mức lương tối thiểu đối với lao động Việt Nam làm việc cho các doanh nghiệp ĐTNN, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam, tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp và địa phương trong quá trình triển khai. - Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Về xúc tiến đầu tư: - Tăng cường phối hợp hoạt động XTĐT giữa trung ương và địa phương. Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. - Nhanh chóng ban hành Quy chế phối hợp và triển khai các bộ phận XTĐT ở một số địa bàn trọng điểm. Đổi mới phương thức XTĐT, chuyển mạnh sang hình thức vận động đầu tư theo dự án và đối tác trọng điểm, tiếp cận và vận động các công ty, tập đoàn lớn có thực lực về tài chính- công nghệ cao đầu tư vào Việt Nam. Tổ chức hiệu quả các hội thảo XTĐT ở trong và ngoài nước. Nâng cao chất lượng trang thông tin điện tử về ĐTNN bằng một số ngôn ngữ (các thứ tiếng : Anh, Nhật, Hàn, Trung và Nga) đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư. - Triển khai đúng tiến độ việc thực hiện Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình XTĐT quốc gia giai đoạn 2007-2010 để có thể bắt đầu thi hành từ ngày 01/01/2998 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. - Tăng cường các đoàn vận động XTĐT tại một số địa bàn trọgn điểm (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, EU và Hoa Kỳ) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. Một số vấn đề khác: - Tiếp tục xây dựng chương trình thực hiện Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản giai đoạn III một cách hiệu quả; cũng như Cơ chế hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Việt Nam) và Cơ quan Phát triển kinh tế- EDB (Singapore) phù hợp với tình hình mới. - Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự quản lý hoạt động ĐTNN các cấp đáp ứng nhu cầu tình hình mới. Đồng thời, đẩy mạnh công tác chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí. - Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành với các nhà đầu tư nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án đang hoạt động, đảm bảo các dự án hoạt động có hiệu quả, đúng tiến độ và nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các hiệp hội doanh nghiệp thông qua các hoạt động của Nhóm M & D, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam... - Kiến nghị việc bổ sung vốn đối ứng của bên Việt Nam trong dự án JICA về ‘Tăng cường năng lực điều hành hoạt động ĐTNN của Cục ĐTNN’ để đẩy nhanh việc triển khai phục vụ công tác thu thập thông tin FDI và quản lý hoạt động XTĐT trong bối cảnh mới. 2.1.2. Thực trạng huy động vốn đầu tư ở Việt Nam Các chỉ tiêu chính của Việt Nam Chỉ tiêu 2006 2007 2008E 2009E Tăng trưởng GDP (%) 8,2 8,5 8,0 8,5 Chỉ số sản xuất công nghiệp (%) 17,0 17,1 16,8 17,2 Tỷ lệ thất nghiệp (% khu vực thành phố) 4,8 4,6 4,5 4,5 Chỉ số giá tiêu dùng (%) 7,5 12,6 12,6 9,0 Cán cân thương mại (tỷ USD) -5,1 -14,2 -16,0 -17,6 Xuất khẩu (tỷ USD) 39,8 48,5 59,2 72,3 Nhập khẩu (tỷ USD) 44,9 62,7 75,2 89,9 Nợ nước ngoài (tỷ USD) 19,2 22,4 24,8 26,8 % tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP 31,5 31,6 30,5 30,2 Dự trữ, bao gồm vàng (tỷ USD) 11,5 21,6 22,1 22,7 Tăng trưởng tín dụng (%) 25,4 53,9 30,0 30,0 Lãi suất ngắn hạn (%-3 tháng) 7,9 8,9 9,0 8,5 Nguồn: WB - GSO,SBV,IMF / Ghi chú: E là ước tính. VỐN ĐẦU TƯ TOÀN XÃ HỘI CHO PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ (Theo nguồn vốn) Đơn vị: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu 2006 Ước thực hiện Kế hoạch 2007 2008 1 Tổng vốn ĐTPT toàn xã hội 398,900 461,900 567,300 Tr. đó: + Vốn NSNN 86,400 97,000 98,130 + Vốn tín dụng đầu tư 34,900 40,300 45,000 + Vốn của DNNN 61,600 62,700 85,000 + Vốn đầu tư trực tiếp NN 65,600 74,100 96,000 + Vốn dân cư và tư nhân 133,900 160,000 195,000 + Vốn huy động khác 16,500 27,800 48,170 2 Cơ cấu vốn ĐTPT XH 100% 100% 100% Tr.đó: + Vốn NSNN 21.7% 21.0% 17.3% + Vốn tín dụng đầu tư 8.7% 8.7% 7.9% + Vốn của DNNN 15.4% 13.6% 15.0% + Vốn đầu tư trực tiếp NN 16.4% 16.0% 16.9% + Vốn dân cư và tư nhân 33.6% 34.6% 34.4% + Vốn huy động khác 4.1% 6.0% 8.5% 3 Vốn ĐTPT XH so GDP 41.0% 40.4% 42.0% Tr.đó: + Vốn NSNN 8.9% 8.5% 7.3% + Vốn tín dụng đầu tư 3.6% 3.5% 3.4% + Vốn của DNNN 6.3% 5.5% 6.4% + Vốn đầu tư trực tiếp NN 6.7% 6.5% 7.2% + Vốn dân cư và tư nhân 13.8% 14.0% 14.6% + Vốn huy động khác 1.7% 2.4% 3.6% Đây là bảng số liệu cho thấy các khoản chi tiêu của Việt Nam qua các năm qua. Có thể thấy rằng, trong năm 2007, nền kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua ( 8,48%), tạo khả năng hoàn thành nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2006-2010 ngay trong năm 2008. Các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản được bảo đảm. Tổng thu ngân sách nhà nước vượt kế hoạch đề ra, tỷ lệ huy động từ thuế và phí vào ngân sách nhà nước đạt 23,4% GDP. Cán cân thanh toán quốc tế có thặng dư khá, dự trữ ngoại tệ tăng từ gần 12 tuần nhập khẩu vào cuối năm 2006 lên gần 20 tuần nhập khẩu vào cuối năm 2007, đáp ứng được các nhu cầu về ngoại tệ và bình ổn thị trường ngoại hối. Nợ của Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia tiếp tục được duy trì ở mức an toàn. Đầu tư phát triển của nền kinh tế tăng mạnh, nhiều công trình hạ tầng và cơ sở sản xuất được đưa vào sử dụng, tạo tiền đề quan trọng để phát triển đất nước trong các năm tiếp theo. Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội năm 2007 ước đạt khoảng 464,5 nghìn tỷ đồng, bằng 40,6% GDP, tăng 16,4% so với năm 2006; trong đó, nguồn vốn của Nhà nước tăng 17,5%, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tăng 12%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 17,1%, vốn đầu tư dân doanh tăng 19,5%. Thị trường chứng khoán phát triển khá nhanh, đang trở thành một kênh huy động vốn đầu tư dài hạn quan trọng trong nền kinh tế. Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp để bảo đảm cho thị trường tài chính phát triển nhanh và bền vững. 2.1.2.1. Tiết kiệm trong nước: a. Tiết kiệm của chính phủ: Việt Nam luôn coi nguồn vốn đầu tư trong nước là chủ đạo, vốn đầu tư nước ngoài chỉ giữ vai trò bổ trợ quan trọng. Do đó, trong nhiều năm qua, việc huy động vốn trong nước đã có nhiều khởi sắc. Cụ thể như, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội năm 2007 ước đạt khoảng 464,5 nghìn tỷ đồng, bằng 40,6 % GDP, tăng 16,4 % so với năm 2006, trong đó nguồn vốn nhà nước tăng 17,5 %. Tổng thu ngân sách nhà nước vượt kế hoạch đề ra, tỷ lệ huy động từ thuế và phí vào ngân sách nhà nước đạt 23,4 % GDP. b. Tiết kiệm của các doanh nghiệp : Nhờ có gia nhập WTO mà thị trường tiêu thụ các sản phẩm của Việt Nam được mở rộng. Kéo theo đó là thị trường chứng khoán ở Việt Nam được một mùa bội thu năm 2007. Tính riêng trên thị trường chứng khoán, tổng giá trị vốn hóa thị trường đến cuối năm 2007 đạt gần 500 nghìn tỉ đồng (sàn Tp. HCM 370 nghìn tỷ đồng, sàn Hà Nội 130 nghìn tỷ đồng), chiếm 43,8 % GDP ( tính theo giá thực tế năm 2007), cao hơn rất nhiều so với năm 2006 ( 22,7% GDP ) và năm 2005 (1,21%). Cũng trong năm 2007, hoạt động huy động vốn được xem là một đặc trưng nổi bật của thị trường chứng khoán Việt Nam với tổng huy động vốn ước đạt 90.000 tỷ đồng thông qua đấu giá, phát hành thêm trên thị trường chính thức, tăng gấp 3 lần so với tổng mức huy động vốn năm 2006. Chỉ tính riêng trên địa bàn Hà Nội, trong tháng 5/2008, nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng đạt 387.094 tỷ đồng, tăng 2,12 % so với tháng 4 và tăng 4,89 % so với năm 2007. Trong đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng 2,2 % so với tháng 4/2008. Tổng dư nợ cho vay tháng 5/2008 đạt 224.844 tỷ đồng, tăng 1,72 % so với tháng 4 và tăng 17,57 % so với cuối năm 2007. Trong đó, dư nơ ngắn hạn tăng 1,8 %, dư nợ trung và dài hạn tăng 1,6 % so với tháng 4/2008. c. Tiết kiệm của dân cư : Do thị trường chứng khoán phát triển, trở thành kênh đầu tư hấp dẫn hàng đầu, thu hút rất nhiều nhà đầu tư. Đây là nguyên nhân khiến tiền gửi tiết kiệm vào ngân hàng của dân cư bị giảm và chảy mạnh qua chứng khoán. Báo cáo của Bộ Kế Hoạch – Đầu tư cho biết, trong 3 tháng đầu năm 2008, điểm đáng chú ý nhất trên lĩnh vực huy động vốn và cho vay của nền kinh tế là tiền gửi VND của dân cư tăng rất thấp, chỉ tăng 6,6 % so với mức tăng 13,2 % của cùng kỳ năm ngoái. Nguyên nhân của tình trạng này do thời gian qua nhiều doanh nghiệp đã phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tăng vốn và rất nhiều người dân đã dùng tiền đầu tư vào chứng khoán thay vì gửi vào ngân hàng. 2.1.2.2.Tiết kiệm ngoài nước : a. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài  (FDI) : Với việc là thành viên thứ 150 của WTO và việc tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, Việt Nam đã huy động vốn đầu tư FDI tăng mạnh, đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,1% so với năm 2006. Việt Nam đã chứng tỏ là ngôi sao đang lên ở khu vực châu Á xét về mức độ thu hút đầu tư. Năm 2007, tỷ lệ thu hút vốn đầu tư đạt tốc độ kỷ lục đối với cả vốn trong và ngoài nước, chiếm 40,5% GDP, trong đó đặc biệt phải kể đến kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, năm 2006 là 12,7 tỷ USD và năm 2007 là 20,3 tỷ USD. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH-ĐT, trong quý I năm 2008, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đã góp vốn đầu tư thực hiện trên 1,68 tỷ USD, tăng 24% so với vốn thực hiện của cùng kỳ năm trước. Tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm trong quý I, cả nước đã thu hút thêm 5,436 tỷ USD vốn FDI, tăng 31% so với cùng kỳ năm trước. b. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII): Nước ta đã có những thành công trong thu hút nguồn vốn FDI, nhưng nguồn vốn FII vẫn còn hạn chế. Sau khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FII vào Việt Nam có xu hướng tăng, nhưng quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI. Một số quỹ mới hoạt động tại Việt Nam từ năm 2001 có quy mô vốn bình quân từ 5-20 triệu USD cho một quỹ nhỏ hơn giai đoạn (1991-1997), chiếm 1,2% vốn FDI, tăng lên 3,7% (2004), tỷ lệ này còn quá thấp so với các nước trong khu vực (tỷ lệ thu hút FII/FDI trong khoảng 30-40%). Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, đầu tư FII vào Việt Nam trong thời gian gần đây cũng đã tăng rất mạnh. Biểu hiện rõ nhất là việc đầu tư vào thị trường chứng khoán của các tập đoàn tài chính quốc tế trong thời gian qua đã không ngừng gia tăng. Đến cuối năm 2006, khoảng trên 2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp được công bố thông qua các quỹ đầu tư chính thức. c. Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA): Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tháng 4/2001 về Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2001-2005 khẳng định sự cần thiết thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X ngày 18 tháng 4 năm 2006 khẳng định: “Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn ODA, đẩy nhanh triến độ giải ngân vốn các công trình, dự án đã được ký kết; xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng vốn ODA, tập trung vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở các trung tâm kinh tế và các vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn”.       d. Nguồn vốn tín dụng thương mại: Với nguồn tín dụng mới được tiếp cận, hiện VN đang nhận được đồng thời hai nguồn vốn hỗ trợ từ WB- vốn IDA cho xóa đói giảm nghèo và vốn IBRE cho nước có thu nhập trung bình. Việt Nam là một khách hàng lớn của IDA ( Hiệp hội phát triển quốc tế ) kể từ năm 1993, khi đó tỷ lệ nghèo là 58%. Đến 2004, tỷ lệ nghèo đã giảm xuống dưới 20%. GDP bình quân đầu người cũng tăng nhanh, từ dưới 200 USD/ người năm 1993 đến 835 USD/ người năm 2007. IBRE (Ngân hàng tái thiết và phát triển) là nguồn tín dụng có lãi suất thấp nhất, rẻ nhất mà các nước đang phát triển có thể tiếp cận trên thị trường vốn quốc tế. Các điều khoản vay của IBRE cũng ưu đãi hơn so với các khoản vay tương tự cho các nước có thu nhập trung bình trên thị trường tài chính. Hiện nay, có nhiều quốc gia khu vực Châu Á- Thái Bình Dương thời gian qua đã nhận được hỗ trợ từ IBRE như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Thái Lan... 2.2. Vấn để sử dụng.      2.2.1. Nguồn vốn trong nước.    Nguồn từ doanh nghiệp và hộ gia đình thường được sử dụng để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Nguồn vốn của Chính phủ có vai trò đặc biệt quan trọng trong đầu tư xây dựng cơ bản. Thứ nhất, đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước trong thời gian qua đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế - xã hội ở các vùng, ngành trong cả nước; quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn và nông nghiệp, các vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế - xã hội ngày càng được phát triển, hoàn thiện làm thay đổi diện mạo của nhiều địa phương trong cả nước, một số đô thị mới ra đời; nhiều khu công nghiệp được hình thành; nhiều sân bay, bến cảng được hiện đại hóa; giao thông đường bộ (quốc lộ, tỉnh lộ) phát triển mạnh; giao thông nông thôn được cải thiện; vận tải đường sắt được nâng cấp; bệnh viện, trạm y tế đạt tiêu chuẩn cao hơn; các trường đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề, các trường trung học phổ thông được xây dựng khang trang hơn; các trường trung học cơ sở, tiểu học ở các vùng, kể cả các vùng khó khăn đang nhanh chóng được kiên cố hóa... Tốc độ và quy mô tăng đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần quan trọng vào tốc độ tăng GDP hằng năm, tăng cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thứ hai, đầu tư xây dựng cơ bản đã góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng đáng kể năng lực sản xuất mới. Trong những năm qua, công tác xây dựng cơ bản đã tập trung vào những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội. Các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, điện, bưu chính - viễn thông, nông nghiệp, nông thôn, khoa học và giáo dục - đào tạo, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng; tăng dần và cơ cấu lại ngành dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành nông, lâm, thủy sản. Trong từng ngành cũng tiếp tục có sự chuyển dịch về cơ cấu. Nhiều dự án, công trình hoàn thành đi vào sử dụng đã tăng thêm năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Dầu khí, điện lực, bưu chính viễn thông... đã trở thành những ngành công nghiệp, dịch vụ mũi nhọn của đất nước. Thứ ba, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Nhà nước thực sự có vai trò chủ đạo, dẫn dắt, thu hút và làm cho các nguồn vốn của xã hội được huy động cho đầu tư phát triển không ngừng tăng nhanh hằng năm và ngày càng đa dạng. Tỷ trọng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước ngày càng tăng. Mặc dù ngân sách còn hạn hẹp, nhưng Đảng và Nhà nước vẫn dành một phần ngân sách đáng kể cho đầu tư phát triển, trong đó phần lớn cho đầu tư xây dựng cơ bản. Trong 3 năm (2001 - 2003), nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước nói chung, vốn đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng (bao gồm nhiều nguồn vốn đầu tư khác nhau như: vốn ngân sách, vốn tín dụng đầu tư Nhà nước, vốn doanh nghiệp nhà nước...) luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tăng lên qua các năm. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo, tạo môi trường để thu hút mạnh các nguồn vốn khác. Trong khi vốn đầu tư của Nhà nước tiếp tục là nguồn chủ lực chiếm 54,9%, thì các nguồn vốn khác đã tăng nhanh, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 17,4%; vốn dân cư và tư nhân chiếm 25,7%; vốn huy động khác chiếm 2%. Tính chung nguồn lực trong xã hội dành cho đầu tư phát triển, đặc biệt từ năm 2001 đến nay tăng khá. Thứ tư, quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản có một số mặt tiến bộ hơn những năm trước. Việc sửa đổi, bổ sung các quy chế về quản lý đầu tư, xây dựng, đấu thầu đã tạo khung pháp lý hoàn thiện hơn về đầu tư xây dựng cơ bản. Công tác chỉ đạo, điều hành, lập và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch được quan tâm. Cơ chế quản lý đầu tư được cải tiến một bước theo hướng tăng cường phân công, phân cấp cho các bộ, ngành và địa phương. Tính công khai, minh bạch, công bằng, hợp lý trong việc phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo Luật Ngân sách nhà nước mới đã được quan tâm hơn. 2.2.2. Nguồn vốn nước ngoài. - FDI: Đối với nguồn vốn FDI, khuyến khích vốn FDI vào các ngành du lịch, mở cửa theo lộ trình các lĩnh vực dịch vụ “nhạy cảm” như ngân hàng, tài chính, vận tải, viễn thông, bán buôn và y tế, giáo dục, đào tạo. Mở lẻ; Khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng các phương thức thích hợp gồm BOT, BT để xây dựng cảng biển, cảng hàng không, đường cao tốc, đường sắt, viễn thông, cấp – thoát nước; Một xu hướng khác là trước đây vốn FDI thường giới hạn trong hai lĩnh vực nông nghiệp và dệt may, nhưng gần đây đã hướng đến công nghệ cao (hoạt động của hai công ty Microsoft và Intel thu hút sự chú ý của thế giới đến Việt Nam như một địa điểm đầu tư vào công nghệ cao). Quan tâm nhiều hơn đến công tác thu hút các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có chất lượng, đặc biệt chú trọng thu hút các dự án đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia. Hạn chế việc thu hút các dự án thâm dụng lao động, gia công giá trị gia tăng thấp và các ngành công nghiệp công nghệ lạc hậu. Đầu tư nước ngoài đã có sự chuyển dịch tích cực về chất. Đó là sự xuất hiện các dự án của nhiều tập đoàn kinh tế lớn, của các khu vực đầu tư có tiềm năng như Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và một số nước trong khu vực có nền công nghiệp phát triển. Một chuyển dịch tích cực nữa là các nhà đầu tư đã đi vào các lĩnh vực công nghệ cao hay công nghiệp có chất lượng cao, như điện - điện tử, sản xuất vật liệu, khu du lịch cao cấp…, khác hẳn với trước đây các dự án chỉ tập trung trong các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày… - ODA Trong báo cáo tổng quan về tình hình quản lý và thực hiện các dự án ODA tại Hội nghị quản lý các dự án đầu tư  sử dụng vốn ODA cũng đã nêu lên nhu cầu vốn ODA riêng cho đầu tư cơ bản là rất đáng kể. Bảng 1: Dự kiến nhu cầu vốn ODA trong tổng vốn cho đầu tư cơ bản   Chuyên ngành Dự kiến vốn đầu tư cơ bản giai đoạn 2001-2010 (tỷ đồng) ODA dự kiến (2001-2010) Tổng cộng % theo ngành 2001-2005 2006-1010 Tỷ đồng % trong tổng số vốn Đường bộ 121.420 59,2 79.583 41.837 67.998 56,0 Giao thông liên tỉnh Hàng hải 18.357 8,9 8.210 10.147 5.050 27,5  Đường sắt 11.080 5,4 6.144 4.936 2.602 28,5  Đường thuỷ nội địa 3.819 1,9 1.820 1.999 2.340 61,3  Hàng không 9.744 4,7 8.568 1.176 Cộng 164.420 80,1 1043252 60.095 779303 50,41  Giao thông đô thị 25.492 12,4 15.055 10.437 17.542 68,8  Giao thông nông thôn 15.315 7,5 9.275 5.940 3.430 22,4 Tổng cộng 205.227 100,0 128.755 76.472 98.962 50,6  Chi thường xuyên 35.000 - - - - - (1) Không tính phần hàng không (2) Bao gồm cả 44.800 tỷ đồng Việt Nam cho các dự án đang tiến hành (3) 1 USD = 16.000 Vnđ Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư   Từ đường lối chính sách hiện nay của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội đã hình thành nên một hệ thống các quan điểm trong công tác thu hút, tiếp nhận, quản lý và sử dụng ODA. Các quan điểm này đã giúp các cơ quan quản lý nhà nước về vốn ODA phát huy tốt hiệu quả của nguồn vốn này. Các quan điểm bao gồm: Quan điểm 1: Tranh thủ vốn ODA không gắn với các ràng buộc chính trị; phù hợp với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam Quan điểm 2: Sử dụng vốn ODA cần phối hợp với các nguồn vốn khác Quan điểm 3: Sử dụng vốn ODA để phát triển hạ tầng kinh tế xã hội có trọng tâm, trọng điểm. Một mục tiêu chung nhất của các nhà tài trợ là sử dụng ODA để tạo môi trường, tạo điều kiện ban đầu cho nước nhận tài trợ khai thác các nguồn lực khác nhau trong nước. Đại bộ phận ODA được sử dụng để đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực và tăng cường thể chế. Phát triển theo trung tâm và lan tỏa dần là vấn đề có tính quy luật trong phát triển kinh tế theo không gian. Chính vì vậy, tập trung vốn ODA xây dựng một tổ hợp hạ tầng kinh tế - xã hội ở các vùng trọng điểm trong một thời gian ngắn, tạo ra một vùng kinh tế phát triển là phương án tối ưu. Một tổ hợp cơ sở hạ tầng ở đây có nghĩa là phải đảm bảo cho một vùng kinh tế trọng điểm có cảng, sân bay hiện đại, liên lạc viễn thông tốt, đường xá và cầu cống thuận tiện, kho tàng và bốc dỡ tốt, việc cung cấp điện nước được đảm bảo, việc chăm sóc sức khoẻ cho những người làm việc trong vùng phải được lo liệu chu đáo... Tóm lại, không nên phân rải vốn ODA phân tán, mỗi nơi một ít, nơi này có cái cầu, nơi kia có con đường, nơi khác có cái cảng... mà nên tập trung chúng vào một vùng trọng điểm trong một thời gian, sau đó lại tập trung xây dựng các tổ hợp cơ sở hạ tầng ở những nơi khác. Mục tiêu trong kế hoạch 1996-2000 là dùng nguồn vốn ODA đầu tư trọng điểm hệ thống giao thông huyết mạch xuyên suốt đất nước, và nối với các vùng trong nước, hệ thống bưu chính viễn thông cũng như hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ ở cả ba địa bàn kinh tế trọng điểm. Trong thời kỳ 2000 - 2005 và tiếp theo cho tới năm 2010, một trong những trọng tâm sử dụng vốn ODA là xoá đói giảm nghèo. Quan điểm 4: ODA là khoản vay nợ nước ngoài Văn kiện Đại hội Đảng VIII đã chỉ rõ các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được. Đồng thời, khi sử dụng vốn vay của nước ngoài ta phải tính toán tới khả năng trả nợ trong nước. ODA được coi là khoản nợ quan trọng nhất của Chính phủ đứng ra vay. Đối với nước ta, cần phải xem xét hai loại nợ, đó là nợ quốc gia và nợ Chính phủ: Nợ quốc gia là các khoản vay nợ nước ngoài cho các hoạt động của Việt Nam do tất cả các bên (Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước, tư nhân trong và ngoài nước) vay các loại đối tác nước ngoài. Nợ quốc gia có xuất xứ từ tất cả các nguồn vay như ODA, vay đối ứng FDI, vay thương mại và một số khoản vay khác, kể cả vay theo cơ chế mua trả chậm. Nợ Chính phủ bao gồm các khoản Chính phủ vay trực tiếp của nước ngoài (ODA) hoặc Chính phủ bảo lãnh vay, gánh nặng nợ nần sẽ do ngân sách nhà nước gánh chịu. Tất cả các khoản nợ này cuối cùng cũng phải trả cả gốc và lãi theo những lịch trình khác nhau (vay ngắn hạn một hai năm, trung hạn 5-10 năm và dài hạn 10-20 năm), chính vì vậy quá trình vay trả nợ nước ngoài không được quản lý chặt chẽ thì có thể gây mất cân đối cho các cân thanh toán quốc tế của đất nước, làm ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Nợ chính phủ hiện đang chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số nợ quốc gia. Kinh nghiệm quốc tế đã cho chúng ta nhiều bài học quý giá về việc lựa chọn phương thức và mức độ vay vốn nước ngoài. Tuy nhiên, mỗi nước đều có những điều kiện phát triển đặc thù, hơn nữa tình hình thế giới lại không ngừng biến đổi Định hướng sử dụng vốn ODA trong thời kỳ 2006-2010 Với mục tiêu không để Việt Nam tụt hậu so với các nước láng giềng vào năm 2020 thì theo phương án thấp nhất, GDP bình quân đầu người của Việt Nam phải đạt được mức 3.934 USD vào cuối năm 2010. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho giai đoạn 2000-2010 với mục tiêu phát triển kinh tế đề ra, Việt Nam có thể cần một lượng vốn dành cho đầu tư gấp 4 lần giai đoạn 1996-2000. Để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ 5 năm 2006 - 2010, Chính phủ tiếp tục chủ trương huy động mọi nguồn vốn, trong đó nguồn vốn trong nước có tính chất quyết định, nguồn vốn ODA tiếp tục góp vị trí quan trọng, tổng nguồn vốn ODA thực hiện dự kiến khoảng 11- 12 tỷ USD trong 5 năm 2006 - 2010,  chiếm khoảng 80 % tổng ODA cam kết. Để đạt được mục tiêu trên, Việt Nam chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cả bề rộng lẫn chiều sâu quan hệ đối tác với các nhà tài trợ. Việc sử dụng ODA theo hướng lựa chọn giữa các nguồn lực, đặt trọng tâm vào tính hợp lý và hiệu quả của viện trợ. Việc sử dụng ODA sẽ định hướng vào các ưu tiên sau: - Phát triển nông nghiệp và nông thôn gắn với xóa đói giảm nghèo góp phần thực hiện chương trình tăng trưởng toàn diện và xoá đói giảm nghèo (CPRGS) và các chương trình xoá đói, giảm nghèo khác. Trong lĩnh vực này, cần ưu tiên ODA cho các chương trình, dự án hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển ngành nghề để tăng thu nhập cho người nông dân; phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn (hệ thống thủy lợi, lưới điện nông thôn, thông tin liên lạc, giao thông nông thôn, cấp nước sinh hoạt, trường học, trạm xá...) để hỗ trợ sản xuất ổn định và cải thiện đời sống nhân dân; tranh thủ nguồn vốn ODA để trồng mới, chăm sóc và bảo vệ rừng, phát triển các khu bảo tồn thiên nhiên, góp phần cải thiện môi trường sinh thái và giảm nhẹ hậu quả thiên tai. - Đối với hạ tầng kinh tế, cần ưu tiên sử dụng ODA cho giao thông vận tải, cải thiện điều kiện cấp và thoát nước và vệ sinh môi trường tại các khu đô thị và khu công nghiệp, phát triển các hệ thống thủy lợi và hệ thống phân phối điện, nhất là khu vực nông thôn, miền núi. Trong 5 năm tới, cần tranh thủ ODA để hoàn thiện hệ thống các đường quốc lộ huyết mạch, các cầu đường bộ trong cả nước, phát triển các tuyến đường trong khuôn khổ hợp tác tiểu vùng Mêkông mở rộng; hỗ trợ ngành đường sắt để nâng cao năng lực chạy tàu, tăng cường an toàn và cải tiến chất lượng dịch vụ; đầu tư cải tạo và xây dựng mới một số sân bay quốc tế; cải thiện vận tải đường sông trên một số tuyến chính; phát triển một số cảng biển nước sâu, nhất là ở phía Nam. Sử dụng ODA để phát triển hệ thống thủy lợi ở ba miền, xây dựng đê điều, kể cả đê biển góp phần phát triển sản xuất, giảm nhẹ thiên tai. Trong lĩnh vực năng lượng, vốn ODA sử dụng để hỗ trợ phát triển hệ thống đường dây, trạm biến thế, lưới điện phân phối, chú trọng lưới điện nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc coi trọng nguồn năng lượng sạch (gió, mặt trời, địa nhiệt) để hỗ trợ năng lượng cho các vùng sâu, vùng xa, hải đảo. - Đối với hạ tầng xã hội, ngoài việc sử dụng ODA để tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở tất cả các cấp học, cần sử dụng ODA, kể cả ODA vốn vay để đầu tư xây dựng hoàn chỉnh và đồng bộ một số trường đại học tại ba miền Bắc, Trung và Nam. Ưu tiên kêu gọi nguồn ODA để tăng cường trang thiết bị cho các bệnh viện tuyến tỉnh, hỗ trợ thực hiện các chương trình quốc gia như tiêm chủng mở rộng, chương trình phòng chống sốt rét, chương trình phòng chống HIV/AIDS, chương trình dân số và phát triển. Định hướng ODA hỗ trợ thực hiện chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững, nhất là các dự án góp phần giải quyết một số vấn đề môi trường bức xúc như xử lý rác thải tại các đô thị, cấp thoát nước và xử lý nước thải... - Tranh thủ nguồn vốn ODA để tăng cường năng lực con người, chú trọng ở cấp cơ sở; tập trung vốn ODA để nâng cao năng lực các trường dạy nghề, qua đó cải thiện chất lượng đội ngũ công nhân kỹ thuật cung cấp cho khu vực kinh tế tư nhân. Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý, phát triển thể chế, nhất là cải cách hành chính; xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó ưu tiên giáo dục và thực thi pháp luật. - Có thể sử dụng ODA cho một số chương trình dự án phát triển công nghiệp có khả năng hoàn trả vốn vay, tạo ra công ăn, việc làm góp phần xoá đói, giảm nghèo. Tuy nhiên, cần phải được cân nhắc kỹ nếu sử dụng ODA cho các dự án sản xuất kinh doanh, do quy định và thủ tục ODA thường kéo dài, làm mất cơ hội đầu tư. Hơn nữa, nhiều nhà tài trợ cung cấp ODA có ràng buộc làm cho giá công trình cao, ảnh hưởng tới hiệu quả dự án và khả năng trả nợ vốn vay. Điều ấn tượng là việc thu hút đầu tư từ nguồn vốn ODA, các nhà tài trợ đã cam kết tăng hơn 20% so với năm 2006 (4,4 tỷ USD năm 2006 lên 5,4 tỷ USD năm 2007). Các nhà tài trợ cũng đang có sự chuyển dịch tài trợ khi đã đi vào các dự án lớn. Trước đây, ODA chủ yếu cho các dự án xoá đói giảm nghèo, vệ sinh môi trường, nhưng hiện đang chuyển hướng sang đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng có quy mô lớn. Điều này tạo điều kiện cho nước ta khởi công các dự án cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Chẳng hạn như 3 dự án lớn của Nhật Bản là đường sắt Bắc – Nam cao tốc, đường bộ Bắc – Nam cao tốc, Khu công nghệ cao Hoà Lạc, rồi dự án đường xe điện ngầm ở TP.HCM cũng do Nhật Bản tài trợ, dự án đường xe điện ngầm ở Hà Nội do Pháp và Nhật Bản tài trợ, các dự án khác như tuyến đường Hà Nội – Lào Cai do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đồng tài trợ với Cơ quan Phát triển Pháp (AFD). 3. Nợ nước ngoài 3.1. Khái niệm và tác động của nợ nước ngoài Một số khái niệm. - Theo ngân hàng thế giới: Nợ nước ngoài là tổng số tiền mà một quốc gia có trách nhiệm và bị rằng buộc phải thanh toán cho các chủ nợ có quyền sở hữu chính thức đối với khoản tiền đó. - Theo Việt Nam: vay nợ nước ngoài là các khoản vay ngắn, trung hoặc dài hạn (có hoặc không có lãi) do Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam hoặc doanh nghiệp là pháp nhân của Việt Nam ( kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) vay của tổ chức tài chính quốc tế, của chính phủ, của ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức và cá nhân nước ngoài khác. Một số khái niệm liên quan đến nợ nước ngoài: - Nợ nước ngoài có bảo lãnh của Chính phủ: Nghĩa vụ nợ nước ngoài của con nợ được Chính phủ hoặc một tổ chức thay mặt Chính Phủ đảm bảo nghĩa vụ thanh toán. - Nợ nước ngoài của khu vực công: Bao gồm nợ nước ngoài của chính phủ, nợ nước ngoài (nếu có) của chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nợ nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tài chính, tín dụng nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước(gọi tắt là doanh nghiệp nhà nước) trực tiếp vay nước ngoài. - Nợ nước ngoài dài hạn: Là khoản nợ nước ngoài có thời hạn trên 1 năm. -Nợ nước ngoài ngắn hạn: là các khoản nợ có thời hạn 1năm hoặc ngắn hơn. Thời hạn nợ được xác định trên cơ sở ban đầu hoặc trên phần nợ còn lại. - Nợ quá hạn: Là khoản nợ đã tới hạn nhưng ngưới đi vay chưa thực hiện việc trả nợ cho người người cho vay. Nợ quá hạn xảy ra đối với cả hai trường hợp là chậm thanh toán gốc và chậm thanh toán lãi của các công cụ nợ cũng như là việc chậm thanh toán trong các giao dịch khác. - Nợ song phương: là các khoản nợ với các chủ nợ song phương. Chu kỳ nợ được chia thành 5 giai đoạn: - Con nợ trẻ - Con nợ trung tuổi - Con nợ giảm dần - Nhà cho vay trẻ - Cho vay chín muồi Để xem xét nợ nước ngoài thường được xem xét qua 4 phương diện chính: - Quy mô nợ: Xem xét qua 2 chỉ tiêu chính: + Tổng nợ nước ngoài: là lượng tiền và vốn mà Chính phủ, doanh nghiệp, người dân của một nước đã và đang vay để chi đầu tư và tiêu dùng +Tổng thanh toán nợ: là lượng ngoại tệ ( hoặc hàng hoá quy đổi thành ngoại tệ) hàng năm phải thanh toán cho chủ nợ bao gồm cả lãi nợ và gốc tới kỳ hạn phải trả. - Cơ cấu nợ: Chủ cho vay là ai, người đi vay là ai, tỷ lệ nợ chính phủ bảo lãnh là bao nhiêu, cơ cấu tới thời hạn vay,… - Tương quan nợ và các chỉ tiêu KT-XH có liên quan: so sánh tổng nợ và tổng thu nhập quốc dân, so sánh vay nợ với xuất khẩu - Tốc độ thay đổi của 3 chỉ tiêu trên Tác động của nợ nước ngoài Ở tất cả các nước nguồn vay nợ nước ngoài rất quan trọng. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, đây là một nguồn quan trọng để bù đắp các hố thâm hụt về tiết kiệm và đầu tư, thâm hụt ngân sách và thâm hụt trong cán cân thương mại. Thông qua các khoản vay nợ của các nước vay nợ các chương trình, kế hoạch phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội được nâng lên một bước. Nếu các nước vay nợ sử dụng vốn có hiệu quả thì đây sẽ là một nhân tố đóng vai trò tích cực trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Mặt khác các nước cho vay nợ lại nhận được một khoản lợi tức từ việc cho vay này. Lợi tức từ việc cho vay này đóng góp vào khả năng chi cho ngân sách nhà nước. Đã là nợ thì phải trả, người trả là thế hệ này hoặc thế hệ sau, thông qua phần đóng thuế hay tài nguyên đất nước. Nếu các khoản thu thuế thông thường được sử dụng không hiệu quả thì quốc gia sẽ nghèo đi, nhưng các khoản vay sử dụng không hiệu quả, không những quốc gia nghèo đi mà gánh nặng nợ nần cho các thế hệ mai sau ngày càng chồng chất. Do đó cần phải có các biện pháp quản lý nguồn vốn một cách có hiệu quả nhất. Bên cạnh đó ở các nước cho vay có thể không thu được cả tổng số nợ cho vay và cả phần lợi nhuận thu được từ việc cho vay đó sẽ làm ảnh hưởng tơi tổng thu ngân sách của nền kinh tế quốc dân. 3.2. Tình trạng nợ nước ngoài ở một số quốc gia. Nợ nước ngoài có thể xem như một tất yếu đối với tất cả các quốc gia. Các nước trên thế giới có tình hình vay nợ khác nhau. Hiện nay trên thế giới Mỹ là nước có nợ nước ngoài cao nhất. Theo cơ quan tài chính MBG có trụ sở tại Oasinhton D.C vừa cho biết nợ nước ngoài của Mỹ đã lên tới 3,1 ngàn tỷ USD chiếm gần 25% GDP của Mỹ.Cứ mỗi phút nợ nước ngoài của Mỹ tăng thêm 1,1 triệu USD. Giá trị đồng đola Mỹ giảm 1/5 trong vòng 2 năm qua. Đối với Trung Quốc theo số liệu của cơ quan quản lý ngoại hối quốc gia Trung Quốc cho biết nợ nước ngoài của nước Trung Quốc ( chưa tính Hồng Kông, Ma Cao) đã lên tới 281,04 tỷ USD trong năm ngoái tăng 13.56% so với năm 2004. Trong đó nợ nước ngoài trung và dài hạn đã tăng 614 tr USD lên mức 124.9 tỷ USD. Còn nợ ngắn hạn trội thêm 52.94 tỷ USD lên mức 156.14 tỷ USD. Tính hai năm cuối năm ngoái dữ trữ ngoại hối của Trung Quốc đã tăng 34.3 % so với năm 2004, lên 818.9 tỷ USD. Với Việt Nam nợ nước ngoài chiếm khoảng 37.5% tổng sản lượng nội địa,thấp hơn mức an toàn là 50% mà nhiều nước trên thế giới thừa nhận. Tổng số nợ nước ngoài của Việt Nam nằm ở mức từ 13 đến 14 tỷ đô la, trong đó phần lớn là các khoản vay ưu đãi. Trong bản báo cáo ra ngày 20/6 nói riêng về tình hình tiền VND của Việt Nam, HSBC nhận định rằng tình hình lạm phát và thâm hụt Việt Nam đang được cải thiện và việc tăng lãi suất sẽ làm thay đổi luồng tiền. Bản báo cáo cho rằng so với các nước bị khủng hoảng tiền tệ nghiêm trọng hoặc đã đến mức bị vỡ nợ khác, chẳng hạn Thái Lan thì Việt Nam vẫn chưa đến mức vỡ nợ. Nền kinh tế Việt Nam trải qua một giai đoạn tăng trưởng kinh tế nóng. Nguy cơ vỡ nợ thực sự là không đáng kể. Nợ của Việt Nam ở trên chủ yếu để đầu tư vào các dự án năng lượng và giao thông bao gồm các nhà máy điện, hệ thống đường xá và các nhà máy lọc dầu, sẽ tiếp tục góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong vài năm tới đây. Trước đó, vào ngày 18/6, Công ty xếp hạng tín dụng Standard & Poor’s cho rằng, nợ nước ngoài của Việt Nam phần lớn đều là những khoản nợ dài hạn. Standard & Poor’s cũng tin rằng, dòng vốn nước ngoài tiếp tục chảy mạnh vào Việt Nam sẽ tiếp tục là một nguồn tiền quan trọng bù đắp cho cán cân vãng lai. Năm 2007, vốn FDI chảy vào Việt Nam đạt mức 6,7 tỷ USD, còn thâm hụt cán cân vãng lai là 7 tỷ USD. Mặt khác, dự trữ ngoại hối hiện tại của Việt Nam là đủ để bù đắp cho thâm hụt cán cân vãng lai, ít nhất là trong năm nay. Standard & Poor’s cho rằng, các biện pháp can thiệp của Chính phủ Việt Nam giúp giảm tăng trưởng tín dụng, kiềm chế lạm phát và giảm thâm hụt thương mại đã và sẽ tiếp tục cải thiện niềm tin của các nhà đầu tư. Báo cáo cũng đánh giá cao việc các cơ quan chức năng cung cấp dữ liệu kinh tế và tài chính giúp cho công việc dự báo diễn ra tốt hơn. Mặt khác, việc kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động của lĩnh vực ngân hàng cũng giúp các nhà đầu tư tăng cường sự tin tưởng vào thị trường Việt Nam. Nợ nước ngoài của Việt Nam có tác dụng tích cực trong tăng trưởng kinh tế. Giải pháp chống nguy cơ vỡ nợ. Như chúng ta đã biết, có 3 nguyên nhân chính dẫn đến vỡ nợ ở 1 quốc gia: - Vay nợ để trả nợ. - Sự sai lầm trong hoạch định chính sách. - Thất bại trong việc thực hiện một chính sách cải tổ kinh tế, mặc dù chính sách đó là đúng. Do vậy, để chống nguy cơ vỡ nợ, chúng ta sẽ tập trung giải quyết vào 3 nguyên nhân trên. Tuy nhiên ở đây nhóm chúng tôi đưa ra một số giải pháp chung bởi vì việc phân tách tác động của từng giải pháp lên từng nguyên nhân là không rõ ràng lắm. - Trước hết, việc huy động vốn phải đảm bảo nguyên tắc phát huy nguồn nội lực là chính. Để làm được điều này, chúng ta phải đảm bảo thực hiện tốt các nguồn thu trong nước, có cơ chế huy động nguồn lực nhàn rỗi trong dân cư và của doanh nghiệp, tránh thất thoát thuế, tránh tình trạng ào ạt trong tư hữu hóa các doanh nghiệp nhà nước (để không bị giảm nguồn thu ngân sách một cách đột ngột), đa dạng hoá các nguồn thu… Chính phủ phải tạo được sự ổn định chính trị, giảm tham ô, lãng phí, tạo sự an tâm tin tưởng cho người dân, điều này giúp cho việc huy động nguồn vốn trong nước thông qua phát hành trái phiếu…được hiệu quả. Các nguồn vốn nước ngoài (FDI, ODA, viện trợ, vay thương mại) chỉ là một nguồn bổ trợ quan trọng, phải thu hút nhưng không phải bằng mọi giá, đặc biệt đối với vay thương mại, chỉ vay khi không thể huy động nguồn vốn trong nước hiệu quả hơn. - Tăng cường hoạt động xuất khẩu cũng như các nguồn khác để tạo dự trữ ngoại tệ. - Đảm bảo đúng mục đích của việc vay vốn nước ngoài đó là đầu tư phát triển đất nước và cơ cấu lại nền kinh tế. - Tính khả thi, hiệu quả của các dự án sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ phải là những tiêu chuẩn hàng đầu khi quyết định vay vốn nước ngoài. - Tăng cường quản lý đối với những khoản vay nợ của Nhà nước, tổ chức và cá nhân, quy định rõ đối tượng trả nợ. Để tránh rủi ro nợ phát sinh, trong cơ cấu nợ nước ngoài, nợ dài hạn nên chiếm tỷ trọng lớn hơn. - Nâng cao năng lực giám sát tài chính – tiền tệ vĩ mô: phải theo dõi chặt chẽ biến động của các dòng vốn, đặc biệt là các luồng vốn ngắn hạn, tạo hành lang an toàn tài chính – tiền tệ quốc gia dựa trên các ngưỡng an toàn (tài khoản vốn, tài khoản vãng lai, ngân sách nhà nước…), kiểm soát nợ nước ngoài cân đối với dự trữ ngoại tệ, thực hiện giám sát tài chính ngay từ quá trình soạn thảo, hoạch định các chính sách, cơ chế đến việc tổ chức thực hiện các chính sách quản lý tài chính – tiền tệ, theo dõi diễn biến và dự đoán xu hướng tài chính – tiền tệ trong nước, khu vực và thế giới, từ đó vận dụng vào Việt Nam. - Nên đa dạng hóa các nguồn vốn vay, hiện nay phần lớn nợ nước ngoài của Việt Nam là dưới hình thức ODA. Tuy hình thức này thường có lãi suất thấp nhưng kèm theo đó là những điều kiện mang tính chính trị, phía nhận ODA thường bị ràng buộc về phương thức mua sắm, đấu thầu, chọn tư vấn…Do đó, nếu không có trình độ thẩm định kỹ thuật cao, kinh nghiệm đàm phán tốt và kỹ thuật giải ngân thì hiệu quả của dự án sẽ không cao. Vì vậy, bên cạnh các khoản vay chính thức, cần chú trọng tới hình thức vay qua phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế. Những khoản vay này thường không mang tính chất chính trị và nước vay nợ có thể toàn quyền sử dụng các khoản vay này, do đó hiệu quả sử dụng sẽ cao hơn. - Chính phủ phải quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài trong khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là vay nợ của doanh nghiệp, hạn chế sự bảo lãnh của Chính phủ đối với khoản vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp. Trong trường hợp bắt buộc phải bảo lãnh phải thẩm định cẩn trọng khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Nên khuyến khích các khoản vay mang tính dự án dài hạn để tránh đổ vỡ nợ trong khu vực này. - Sau khi vay được vốn, vấn đề quan trọng nhất là sử dụng vốn đó như thế nào. Rút bài học từ các vụ vỡ nợ ở các quốc gia, chúng ta cần phải tăng cường công tác theo dõi giám sát đảm bảo cho vốn vay được sử dụng đúng mục đích, hiệu quả, tránh thất thoát, lãng phí. Tham ô là một nguyên nhân hết sức bức xúc dẫn đến thất thoát vốn, làm giảm lòng tin của người dân trong nước cũng như các nhà tài trợ nước ngoài, do đó phải có hệ thống luật chặt chẽ, nghiêm khắc xử lý những cá nhân vi phạm. - Nâng cao năng lực của cơ quan lãnh đạo, có được giải pháp đúng đắn và kịp thời khi xảy ra sự cố. KẾT LUẬN Qua phân tích, chúng ta đã thấy được vai trò của yếu tố vốn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam. Đối với một nước nghèo như nước ta, nhu cầu về vốn để phát triển là rất lớn. Nhà nước ta cũng đã đưa ra quan điểm của mình về việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư sao cho có hiệu quả. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII khẳng định chủ trương của Đảng trong giai đoạn 1996-2000 là: ”Tiếp tục phương châm huy động nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ ở bên ngoài. Về lâu dài phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư (tối đa 50%). Tuy nhiên, trong những năm đầu của thời kỳ công nghiệp hoá đòi hỏi nguồn vốn lớn, mà vốn trong nước còn hạn hẹp nên phải huy động thêm nguồn vốn bên ngoài cho nhu cầu đầu tư phát triển, trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế và trả được nợ”. Đại hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001) đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 – 2010. Mục tiêu cụ thể của chiến lược là đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2001; ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; bội chi ngân sách, lạm phát, nợ nước ngoài được kiểm soát trong giới hạn an toàn và tác động tích cực đến tăng trưởng. Để đạt được các mục tiêu của chiến lược, tích lũy nội bộ ít nhất phải đạt trên 30%. Trong phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005 xác định tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 7.5%, dự kiến tỷ lệ đầu tư so với GDP khoảng 31 – 32% tương đương 59 – 61 tỷ USD, trong đó nguồn vốn trong nước chiểm 2/3. Thực tế trong những năm gần đây, những quan tâm này của Chính phủ đã mang lại một số kết quả quan trọng, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta luôn đạt ở mức cao, cơ sở hạ tầng có những bước chuyển biến, đời sống nhân dân được cải thiện, công tác xóa đói giảm nghèo có những thành tựu đáng kể…Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều hạn chế. Tình trạng vay nợ của Việt Nam hiện nay vẫn nằm trong ngưỡng an toàn, tuy nhiên nguy cơ vỡ nợ không phải là không có. Do đó, tính hiệu quả trong việc thu hút và sử dụng vốn là điều mà chúng ta cần phải quan tâm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Thời báo Kinh tế Sài Gòn tháng 11-2004 Tạp chí tài chính số 4/2004

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25020.doc