Để thực hiện điều này cần:
- Tổ chức một bộ phận chuyên trách đủ mạnh.
- Tăng cường điều hành hướng dẫn.
- Tăng cường hơn nữa vai trò của Nhà nước trong việc thiết lập kỷ cương trật tự mới để tạo môi trường cho cơ chế thị trường vận động có hiệu quả.
- Cần phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước với chức năng quản lý kinh doanh.
- Quản lý Nhà nước cần được đổi mới cho phù hợp với cơ chế mới.
- Cần hệ thống hoá việc sử dụng các công cụ quản lý
- Cần mở rộng thêm phạm vi tác động của cơ chế thị trường.
- tăng cường hoàn thiện hệ thống ngân hàng.
52 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1084 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng kinh tế cao: Hiện nay với sự chuyển đổi cơ chế mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của ta khá cao ( 8 - 9% năm). Đây là cơ sở chứng minh sự đúng đắn trong đường lối quản của Nhà nước. Trong những năm sắp tới mục tiêu của chúng ta là phải duy trì và không ngừng nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế mới có cơ hội đuổi kịp các nước trên thế giới.
Về tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Ngày nay thước đo cuối cùng để đánh giá thành công kinh tế là khả năng của một nước tạo ra sản lượng cao và tăng nhanh được sản lượng hàng hoá và dịch vụ kinh tế. Nước ta hiện nay mới chuyển sang cơ chế thị trường vì vậy GNP và GDP chưa cao nhưng đang xu hướng tăng mạnh đặc biệt sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, đầu tư của nước ngoài tăng lên đáng kể, nhờ đó sản xuất phát triển, đời sống được nâng cao. Tuy nhiên, để tránh lạm phát cao với mức sản lượng tiềm năng, không được cao cấp quá hoặc không được thấp quá để phát huy được tối đa các nguồn nhân lực - toàn dụng.
Chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người 1 năm đây là một chỉ tiêu quan trọng cho phép xem xét mức sống của người dân, sự giàu có và phồn thịnh của một quốc gia. Hiện nay, nước ta có dân số 80 triệu người, mức thu nhập còn thấp. Tuy nhiên với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay, chúng ta phấn đấu đến năm 2000 thu nhập bình quân đầu người của ta sẽ là 500USD/người/năm và có thể cao hơn.
b. Việc làm và vấn đề thất nghiệp
Tình trạng nhàn rỗi không tự nguyện không những gây khó khăn về kinh tế mà nó còn gây ra những tổn thất lớn về tâm lý, xã hội, đạo đức và y tế. Đây là một vấn đề nhức nhối luôn làm đau đầu các nhà kinh tế. Mục tiêu đặt ra là phải khai thác một cách triệt để nguồn lực về lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp tới mức tối đa. Nhờ đó mà tiêu cực xã hội cũng sẽ giảm xuống và hơn nữa việc làm ảnh hưởng đến thu nhập do vậy mà ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống người dân.
c. Lạm phát
Lạm phát là một căn bệnh đối với bất kỳ một nền kinh tế thị trường nào, ở bất kỳ nước nào trong mọi giai đoạn phát triển. Sự phát triển kinh tế thường đi kèm theo với lạm phát, mà lạm phát lại ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân. Vì vậy nền có một sự cấn đối hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Có thể kìm chế lạm phtá thông qua hàng loạt các công cụ vĩ mô như: chỉ số trong giá, cân đối ngân sách, phát triển sản xuất để tăng cung... (Mặc dù lạm phát không phải bao giờ cũng là điều tồi tệ, bởi lạm phát có thể kèm theo tăng trưởng). Nhưng tuyệt nhiên không nền áp đặt một tập hợp giá cứng nhắc như vậy nó ngăn chặn không để cho “bàn tay vô hình” hoạt động một cách có hiệu quả nhất.
d. Cán cân thanh toán quốc tế
Xuất khẩu hàng hoá (export) phải có những chính sách thích hợp gắn liền với từng giai đoạn phát triển. Giai đoạn đầu tiên khi nền kinh tế của ta còn yếu kém, sản xuất chưa phát triển mạnh, chúng ta có thể nhập khẩu hàng hoá để đáp ứng nhu cầu trong nước. Khi nền kinh tế đã phát triển ở mức cao hơn, đáp ứng được phần nào nhu cầu trong nước thì phải hạn chế nhập khẩu và dần dần chuyển sang xuất khẩu. Hiện nay nước ta mở rộng giao lưu hợp tác trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, với nhiều bạn hàng quốc tế, tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm xấp xỉ 20%. Tiến hành đầu tư gián tiếp hoặc trực tiếp khuyến khích đầu tư nước ngoài, tranh thủ các dự án tài trợ để tiến hành đầu tư gián tiếp hoặc trực tiếp vào sản xuất, tạo sức mạnh sản xuất lớn đáp ứng nhu cầu trong nước và tiến hành xuất khẩu.
Xuất khẩu lao động, nhanh chóng tham gia vào quá trình phân công hoá lao động quốc tế, đặc biệt nguồn nhân lực ở nước ta rất dồi dào. Xuất khẩu lao động cũng là một hình thức để chúng ta giải quyết việc làm cho số người nhàn rỗi, khi mà sản xuất trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu về việc làm.
Đảm bảo sự cân bằng xã hội, bắt đầu từ nhiều vấn đề thiếu công bằng trong việc phân phối thu nhập của người lao động trong cơ chế thị trường. Sự bất công bằng do đồng tiền gây ra giữa mối quan hệ phức tạp trong xã hội. Sự hình thành rõ rệt giữa các tầng lớp người giàu và người nghèo, sự bất công bằng trong cuộc sống... Tất cả những vấn đề này là mục tiêu cuối cùng của vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
2. Chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
a. Khái nhiệm
Các chức năng kinh tế Nhà nước cho thâý Nhà nước phải làm gì trong lĩnh vực kinh tế; còn thực hiện những điều đó như thế nào và bằng phương pháp nào là chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế.
Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng và giai đoạn tác động có chủ đích của Nhà nước lên đối tượng và khách thể quản lý. Là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà Nhà nước phải tiến hành trong quá trình quản lý.
Như vậy, thực chất của chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế chính là lý do của sự tồn tại các hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước.
Nói đến quản lý Nhà nước là nói đến quản lý hành chính, tức là nói đến tổng thể những hoạt động của các cơ quan Nhà nước không thuộc bộ phận lập pháp và tư pháp nhằm tổ chức phát triển kinh tế xã hội, giữ gìn trật tự xã hội và thoả mãn những yêu cầu của xã hội. Nói đến quản lý Nhà nước về kinh tế là nói đến Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế bằng pháp luật, bằng hệ thống các chính sách, quy chế điều hành các quan hệ vĩ mô, không làm thay, không giải quyết những công việc thuộc quyền tự chủ của các đơn vị kinh doanh.
Như vậy, quản lý Nhà nước về kinh tế là quản lý kinh tế vĩ mô, nghĩa là quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân với tính cách là một hệ thống lớn và phức tạp do vô số các phần tử nhỏ hơn với cấp độ khác nhau hợp thành. Nhà nước tổ chức và quản lý nền là một hệ thống lớn và phức tạp do vô số các phần tử nhỏ hơn với cấp độ khác nhau hợp thành. Nhà nước tổ chức và quản lý nền là một hệ thống lớn và phức tạp do vô số các phần tử nhỏ hơn với cấp độ khác nhau hợp thành. Nhà nước tổ chức quản lý nền kinh tế quốc dân trên quy mô toàn xã hội, hướng dẫn nền kinh tế đi lên chủ nghĩa xã hội, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Các đơn vị kinh doanh trực tiếp tiến hành quản lý sản xuất kinh doanh. Nhà nước không quản lý các đơn vị kinh doanh theo chức năng quản lý của mình.
b. Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế theo phương hướng tác động
Theo phương hướng tác động quản lý Nhà nước về kinh tế như Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra gồm các chức năng quản lý sau:
Thứ nhất, tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh như:
Bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế xã hội cho mọi người yên tâm sản xuất kinh doanh. Duy trì luật pháp, trật tự và an toàn xã hội; bảo đảm bình đẳng trong kinh doanh, thi hành nhất quản các chính sách và thể chế theo hướng đổi mới ổn định môi trường kinh tế vĩ mô; khống chế lạm phát, điều tiết thị trường, ngắn ngừa và xử lý những đột biến xấu; chống sự cản phá của nước ngoài.
Xây dựng cơ sở hạ tầng bảo đảm điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh tế: cơ sở hạ tầng (như giao thông, điện nước, thông tin, dự trữ quốc gia...), hệ thống tài chính - tiền tệ, hệ thống pháp chế, cơ sở hạ tầng văn hoá - xã hội (giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế, bảo vệ môi trường...).
Thứ hai, dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển, thông qua kế hoạch và các nguồn tài lực tập trung và lực lượng dự trữ, phát huy vai trò kinh tế Nhà nước khai thác thông qua các quan hệ bang giao và làm chỗ dựa cho các tổ chức và cá nhân trong kinh tế đối với.
Thứ ba, hoạch định và thực hiện hiệu quả các chính sách xã hội, bảo đảm sự thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. San sẻ rủi ro với các doanh nghiệp và cá nhân.
Thứ tư, quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia, nhằm bảo tồn và phát triển các tài sản đó, trong đó có bộ phận tài sản giao cho kinh tế quốc doanh.
Thứ năm, phân biệt quản lý Nhà nước về kinh tế và quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp, với các đặc trưng sau:
- Các cơ quan Nhà nước có chức năng tổ chức và quản lý toàn bộ xã hội và nền kinh tế quốc dân ở tầm vĩ mô với ý nghĩa chủ yếu là điều tiết tổng thể các mối quan hệ phức tạp của nền kinh tế bằng sức mạnh và các công cụ có trong tay; các loại biện pháp kết hợp nhằm tạo ra khuôn khổ cho các tổ chức kinh doanh hoạt động thuận lợi.
Các doanh nghiệp có chức năng tổ chức và hoạt động kinh doanh bằng biện pháp kinh doanh nhằm tạo ra những giá trị vật chất đáp ứng nhu cầu xã hội.
- Các cơ quan Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bằng chiến lược, định hướng, kế hoạch, chính sách, cơ chế quản lý, điều tiết lợi ích trong phạm vi toàn xã hội.
Các doanh nghiệp được hoạt động trong môi trường thuận lợi do Nhà nước tạo ra, được xác định phần lợi ích xứng đáng của mình và chịu sự điều tiết bởi lợi ích của Nhà nước.
Các cơ quan quản lý Nhà nước, quản lý toàn xã hộivà nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực của Nhà nước, bằng hệ thống pháp luật , theo quan hệ thứ bậc hành chính trên dưới và các ngành, các cấp, các đơn vị trực thuộc, kiểm tra mọi tổ chức và công dân tuần thủ pháp luật và xử phạt mọi hành vi phạm pháp.
Các tổ chức kinh doanh thuộc các thầnh phần kinh tế khác nhau là những đơn vị tự chủ, có tư cách pháp nhân và bình đẳng với nhau trong kinh doanh trước pháp luật Nhà nước, chịu sự kiểm tra của cơ quan Nhà nước trong việc chấp hành pháp luật.
- Các mối quan hệ trong hoạt động và quản lý của Nhà nước được điểu chỉnh chủ yếu bằng luật hành chính. Còn các mối quan hệ trong kinh doanh được điều chỉnh chủ yếu bằng luật dân sự.
- Các cơ quan Nhà nước hoạt động bằng cấp phát của ngân sách Nhà nước. Còn các tổ chức kinh doanh hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính, bằng vốn tự có hoặc tín dụng, tự cấp phát vốn và hạch toán kinh doanh.
Tuy cần phân biệt quản lý Nhà nước và quản lý kinh doanh song cũng cần thấy hai mặt đó không thể tách rời nhau một cách máy móc, mà kết hợp với nhau, thống nhất với nhau trong hệ thống kinh tế và cơ chế quản lý của Nhà nước.
c. Chức năng của quản lý của Nhà nước về kinh tế theo giai đoạn tác động
Theo giai đoạn tác động quản lý, quản lý Nhà nước về kinh tế có 6 chức năng sau:
Thứ nhất, xác định phương hướng, mục tiêu, chiến lược, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (nhiệm vụ của Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện).
Phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, phát triển kinh tế nói riêng là một mục tiêu cơ bản, vĩnh hằng của mỗi quốc gia.
Để phát triển kinh tế, vấn đề đầu tiên là phải xác định rõ phương hướng, đề ra các mục tiêu lớn và cạch chiến lược cho sự phát triển nhằm không ngừng hoàn thiện và chuyển đổi nền kinh tế theo các bước phát triển từ thấp lên cao xét dưới các góc độ khác nhau, đặc biệt phải nhanh chónh chuyển đổi từ nền kinh tế có cơ cấu nông nghiệp sang nền kinh tế có cơ cấu công nghiệp và công nghiệp phát triển. Hội nghị ban chấp hành trung ương đảng lần thứ 7 (khoá VII) đã chỉ rõ: Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản , toàn diện các hoạt động kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta, đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới.
Điều cần lưu ý là việc gứn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, với việc áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại, đúng như C.Mác đã nói: “Các thời đại kinh tế khác nhau không ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”. Qua đây, chúng ta càng hiểu sâu sắc rằng: Nâng cao cả mặt bằng dân trí và đỉnh cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Văn kiện hội nghị trung ương VII).
* Xác định phương hướng phát triển: Là vấn đề cơ bản nhất trong các chương trình quản lý, bởi vì nó gắn liền với việc lựa chọn chương trình hành động trong tương lai của đất nước. Chẳng những xác định phương hướng là chức năng cơ bản của Nhà nước quản lý mà các chức năng còn lại cũng phải dựa trên nó. Xác định phương hướng là một phương pháp tiếp cận hợp lý để đả tới các mục tiêu định trước. Vì phương pháp tiếp cận này không tách rời khỏi môi trường, nên phương hướng đúng phải xét tới bản chất của môi trường, mà các quyết định và hành động của phương hướng được dự kiến để hoạt động trong đó xác định phương hươngs là một quá trình ấn định những nhiệm vụ, những mục tiêu và các phương pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ đó.
Xác định phương hướng là quyết định trước xem phải làm gì, làm như thế nào, khi làm, là làm cho các sự việc có thể xảy ra hoặc không được xảy ra.Nó đòi hỏi Nhà nước phải xác định chiến lược phát triển đất nước và đề ra các đường lối một cách có ý thức, đưa ra được các quyết định dựa trên cơ sở mục tiêu đòi hỏi của các quy luật, sự hiểu biết và những đánh giá thận trọng.
Thực chất của việc xác định phương hướng là nhằm hoàn thành mục đích và mục tiêu của Nhà nước đặt ra xuất phát từ bản chất của thể chế xã hội, để thực hiện mục tiêu của Nhà nước đặt ra xuất phát từ bản chất của thể chế xã hội, để thực hiện các mục đích chung của đất nước thông qua sự hợp tác chặt chẽ và nỗ lực của mọi công dân trong đất nước.
* Mục tiêu: Là các quyết định trước khi hành động. Khi đề ra mục tiêu là Nhà nước đã đề ra một loạt các biện pháp bằng cách dự đoán trước các hành động. Bởi vì tất cả mọi mục tiêu đề ra đều cần có một sự quyết định, cho nên việc suy luận là biện pháp có bản để đạt điều đó. Muốn đưa ra mục tiêu Nhà nước phải thu lượm các thông tin cần thiết, đề ra các giả thiết và quy vùng các vấn đề chính yết lại, nghiên cứu những giải pháp có thể và chọn lấy giải pháp hoàn chỉnh nhất. Các mục tiêu kinh tế của Nhà nước nêu rõ tất cả những điều mà Nhà nước muón các cá nhân, các doanh nghiệp phải làm để thực hiện các dự đoán của Nhà nước.
* Các chiến lược: Trong quân sự, thuật ngữ chiến lược thường được dùng theo nghĩa các kế hoạch lớn, được khởi thảo trên cơ sở tin chắc là cái gì đối phương có thể làm, không thể làm hoặc sẽ làm khi xuất hiện các điều kiện nào đó. Nhưng trong quản lý kinh tế, thuật ngữ chiến lược được hiểu là hệ thống các cơ quan điểm, các đường lối, các mục tiêu lớn và biện pháp chủ yếu nhằm đưa đất nước đạt đến các mục tiêu đã định.
Thứ hai, lập chương trình kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (nhiệm vụ của chính phủ thực hiện).
Chương trình theo cách hiểu thông thường là tổ hợp các mục tiêu, các chính sách, các thủ tục, các qui tắc, các nhiệm vụ, các bước tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng và các yếu tố cần thiết để thực hiện một ý đồ lớn một mục đích nhất định nào đó của Nhà nước. Chương trình thường được gắn liền với các ngân sách cần thiết, các chương trình có thể là lớn và dài hạn nhiều năm như công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước; xây dựng và cải tạo nền hành chính quốc gia; hay trung hạn 2 - 3 năm nhằm đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý hoặc xây dựng đường điện xuyên Việt, hoặc cũng có thể là chương trình nhỏ ngắn hạn dưới 1 năm v.v...
Việc thành lập chương trình là nhiệm vụ của chính phủ, không có chương trình thì chính phủ dễ có khuynh hướng làm những điều mới thoạt nhìn có là quan trọng nhưng chỉ là trước mắt, gạt bỏ những vấn đề lớn, mà nếu không bắt tay vào thực hiện chúng ngay từ đầu thì khó có thể thực hiện xong.
Một chương trình tốt phải là một công cụ có ích giúp cho chính phủ cần nhắc đánh giá các khả năng hiện đang có và dành các cố gắng tối đa cho các vấn đề quan trọng nhất, kịp hành động trước khi chúng trở thành cấp bách, phát hiện trước được các giải pháp cho các vấn đề đó và phối hợp trong mục đích đó các tài nguyên, các khả năng và các cơ hội của đất nước.
Thứ ba, xây dựng và thực hiện luật pháp về quản lý kinh tế ( do quốc hội và toà án thực hiện).
Để điều hành và tổ chức quản lý nền kinh tế quốc dân, Nhà nước phải ban hành một hệ thống văn bản qui phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về kinh tế và lĩnh vực kinh doanh, đó là pháp luật kinh tế. Hiểu theo nghĩa rộng, pháp luật kinh tế là tổng hợp các quy phạm pháp luật kinh tế, những chế định pháp lý do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đặt ra trong các văn bản qui phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về quản lý kinh tế và kinh doanh trong xã hội. Đó là các quan hệ giữa các cơ quan hành chính Nhà nước với các doanh nghiệp trong quản lý kinh tế, các quan hệ giữa các doanh nghiệp với người lao động mà doanh nghiệp thuê mướn, sử dụng và các quan hệ xã hội khác.
Pháp luật kinh tế ở nước ta thực chất là các chế độ chính sách kinh tế do Nhà nước quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật; các chế độ chính sách này cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về kinh tế. Và đang được Nhà nước tập trung nghiên cứu giải quyết.
Thứ tư, tổ chức các hệ thống kinh tế trong nước hoạt động (chủ yếu do chính phủ thực hiện).
Bao gồm các phân hệ theo ngành, theo lãnh thổ, theo thành phần kinh tế, theo loại hình kinh doanh sản xuất.v.v... cùng các cơ quan quản lý chức năng, các trung tâm khoa học và đào tạo cần thiết.
Thứ năm, kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển (do nhiều cơ quan lãnh đạo của Đangr, quốc hội, chính phủ và toà án thực hiện). Kịp thời phát hiện các sai sót, rủi ro mà đất nước có thể gặp phải; phát hiện các thời cơ có lợi cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân trong lương lai.
Thứ sáu, điều chỉnh và tìm kiếm các biện pháp phát triển nền kinh tế, mở rộng và khai thông môi trường kinh tế đối ngoại (do nhiều cơ quan chức năng của Nhà nước, các đoàn thể tổ chức xã hội trong đó chủ yếu là vai trò của toà án và chính phủ). Nhằm kịp thời sửa chữa, chỉnh lý các sai sót, tận dụng các thời cơ có lợi để phát triển đất nước.
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐỔI MỚI VÀ TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Thực trạng quản lý kinh tế của Nhà nước hiện nay
a. Quản lý kinh tế của Nhà nước trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung
Con đường tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vì cơ bản khác với các nước xã hội chủ nghĩa (đặc biệt các nước Đông Âu). Chúng ta tiến lên xã hội chủ nghĩa với xuất phát điểm rất thấp - là một nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Cho nên chúng ta gặp phải không ít khó khăn, nhất là trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế. Để sớm có xã hội chủ nghĩa chúng ta sao chép mô hình kinh tế của Liên Xô - nước XHCN đầu tiên, và các nước XHCN khác đang có. Đó là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với sự thống trị của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, trong đó sở hữu toàn dân đóng vai trò chủ đạo.
Xuất phát từ quan niệm nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế phát triển có kế hoạch, quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân là quy luật đặc thù riêng của xã hội chủ nghĩa, là quy lịt điều tiết mọi hoạt động cuả nền kinh tế, nên Nhà nước ta đã lấy kế hoạch hoá làm công cụ chủ yếu để quản lý nền kinh tế. Vấn đề này trong văn kiện Đại hội lần thứ 3 của Đảng ta đã ghi: “Chúng ta đều biết rằng nền kinh tế XHCN về bản chất là nền kinh tế kế hoạch hoặc các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội gồm cả những quy luật phát triển có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân dưới chế độ XNCH đều phát sinh từ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Chúng ta cũng biết rằng các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội phản ánh tính hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng tự nó không thể phát huy tác dụng được mà chúng ta phải biết vận dụng các quy luật ấy. Cho nên việc lãnh đạo phát triển kinh tế quốc dân có là một vấn đề cơ bản nhất trong nhiệm quản lý kinh tế của Nhà nước XHCN.
Việc quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung còn được Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng khẳng định một lần nữa : “cần tổ chức lại nền sản xuất xã hội, xây dựng một hệ thống quản lý và kế hoạch hoá có hiệu lực nhằm sử dụng hợp lý và phát huy tốt mọi lực lượng sản xuất làm cho sản xuất và tái sản xuất được thực hiện một cách có kế hoạch”. Cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung được áp dụng ở nước ta đều hết năm 1986. Trong cơ chế này Nhà nước nắm hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh - dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân.
Các cơ sở sản xuất (quốc doanh và tập thể chiếm đại bộ phận, thành phần kinh tế cá thể nhỏ bé, không đáng kể) việc sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào và bán cho ai?, đều do Nhà nước quyết định và theo một kế hoạch thống nhất từ trung ương . Các cơ sở sản xuất chỉ là người chấp hành một cách thụ động.
Việc quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch tập trung đã chứng minh chúng ta giải quyết được một số vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng, nhất là việc huy động nhân tài, nhân lực phục vụ cho cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng niền Nam, thống nhất đất nước.
Những khi đất nước đã hoà bình, thống nhất và bước vào thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế thì cơ chế quản lý này bộc lộ nhược điểm cơ bản là nó thiếu động lực cho sự phát triển.
b. Những thay đổi căn bản của nền kinh tế nước ta từ sau năm 1986 đến nay
Nền kinh tế nước ta bắt đầu có xu hướng đổi mới từ đầu thập kỷ 80. Nhưng mãi đến tháng 12 - 1986 sau Đại hội VI của Đảng, mới có những nhận thức mới và thay đổi quan điểm. Những quan điểm mới được thay đổi là :
- Nền kinh tế với hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, đã dần đàn chuyển sang nền kinh tế đa thành phần. Các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Kinh tế hộ nông dân được coi là đơn vị sản xuất tự chủ.
Nền kinh tế từ chỗ mang nặng tính chất tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp đã từng bước chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Các phạm trù và các quy luật của sản xuất hàng hoá trước đây bị xem thường, thạm chí bị bài xích, giờ đây đã dần dần được thừa nhận và ứng dụng.
Với hai vấn đền nêu trên, dự thảo chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2000 đã viết “phát triển có kế hoạch nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là con đường dân chủ hoá đời sống kinh tế, giải phóng mọi tiềm năng, phát triển lực lượng sản xuất, mở rộng phân công lao động xã hội và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Phải tạo ra môi trường và điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá, hình thành thị trường ngày càng hoàn chỉnh. Tôn trọng các quy luật khách quan , vận dụng đúng đắn đổi mới kế hoạch hoá và quản lý, điều tiết thị trường bằng nhiều công cụ và biện pháp, chủ yếu là biện pháp kinh tế.
- Nền kinh tế từ trạng thái khép kín, đã dần dần mở cửa, thị trường trong nước ngày càng mở rộng, thông suốt và chặt chẽ với nền kinh tế của các nước trên thế giới, trước hết là các nước trong khu vực. Vấn đề này, dự thảo chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2000 cũng đã khẳng định : “Khai thác và phát huy tối đa mọi nguồn lực trong nước đi đôi với việc ra sức thủ vốn, công nghệ và thị trường bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giành vị trí ngày càng có ý nghĩa trong phân công lao động quốc tế... phù hợp với điều kiện mở rộng kinh tế thị trường ở nước ta và nó góp phần làm nền tảng cho sự phát triển thể chế chính trị và xã hội ở nước ta.
Có chính sách kinh tế đối ngoại cởi mở, bảo đảm môi trường chính trị, xã hội ổn định và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước và quan hệ giao lưu, hợp tác với bên ngoài”.
Dân chủ hoá nền kinh tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Đây là một quan điểm có ý nghĩa chiến lược.
Những thay đổi trên đây của nền kinh tế đòi hỏi vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước cũng phải thay đổi cho phù hợp.
c. Thực trạng đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi căn bản. Nhưng nền kinh tế thị trường ở nước ta mới chỉ sơ khai, chưa đầy đủ. Điều đó được thể hiện rõ ở các điểm sau đây:
- Sản xuất hàng hoá trong các lĩnh vực, tiểu thủ công nghiệp còn ở trình độ thấp, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm làm ra còn xấu. Vì thế thị trường tiêu thụ hết sức hạn chế. Nếu có thị trường sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường yếu.
- Tuy sản xuất nông - lâm nghiệp là ngành sản xuất chiếm tỷ trọng lớn (hơn 85%), chiếm nhiều lao động xã hội trong cơ cấu kinh tế nhưng quá trình thương mại hoá sản phẩm nông - lâm - ngư - nghiệp chỉ diễn ra ở một số nơi có cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải thuận lợi, gần thị trường lớn và có bình quân ruộng đất trên đầu người tương đối cao. Chỉ có ở những nơi này là sản xuất được hàng hoá , và cũng mới có một số sản phẩm nông nghiệp hàng hoá, với khối lượng tương đối lớn và tỷ suất hàng hoá tương đối cao, phần còn lại vẫn trong tình trạng sản xuất tự cung tự cấp.
- Các hoạt động dịch vụ đã phát triển mạnh mẽ, nhưng chỉ mới tập trung vào một số ngành như ăn uống, buôn bán nhỏ các hàng công nghiệp tiêu dùng v.v... các ngành như du lịch, bảo hiểm, cung ứng kỹ thuật và công nghệ chưa tương xứng, chất lượng các hàng hoá dịch vụ nhìn chung còn thấp.
- Nhiều điều kiện cần thiết cho sự ra đời của sản xuất hàng hoá như thị trường đất đai, thị trường sức lao động, thị trường tiền tệ chưa được thiết lập một cách hoàn chỉnh, công khai. Một số các yếu tố cầu thành đầu vào của sản phẩm chưa phải là hàng hoá, hoặc đang trong trạng thái độc quyền.
Chính vì nền kinh tế đang trong giai đoạn quá độ của sự chuyển đổi như vậy nên Nhà nước cũng chưa kiên quyết từ bỏ ngay cách quản lý trực tiếp đối với nền kinh tế để chuyển hẳn sang cách quản lý giản tiếp được mà vânx phải tiến hàng đan xen cả hai phương thức, điều này thể hiện rõ trên các mặt sau:
+ Trong nền kinh tế thị trường, cơ sở sản xuất là những đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, họ tự lo lấy vốn, tự thuê lao động, và tự túc mọi vật tư kỹ thuật, tự chịu trách nhiệm lỗ lãi; sản xuất cái gì, như thế phân phối ra sao đều do họ quyết định không có sự can thiệp của chính phủ. Tuy nhiên, đó chỉ mới là trên lý thuyết, còn thực tế thì một sô cơ quan Nhà nước vẫn còn muốn được chính phủ can thiệp và đặc biệt trong công nghiệp chế độ bao cấp vẫn còn tồn tại trên thực tế.
+ Để cho sản xuất hàng hoá phát triển nhanh, phát triển đúng quy luật, Nhà nước phải là người tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho nó, tạo ra hành lang pháp lý thích hợp. Chúng ta khuyến khích sự ra đời nhanh chóng của các thị trường hàng hoá, thị trường vật tư kỹ thuật thông suốt và thống nhất cả nước đó là điều đáng mừng. Song bên cạnh đó còn có nhiều thị trường chúng ta còn bỏ ngỏ như : thị trường tài chính tiền tệ, thị trường lao động; thị trường đất đai; thị trường chất xám;... . Đây là những thị trường mà Nhà nước vẫn chưa có hướng giải quyết dứt khoát có hiệu lức để hình thành nó. Đây chính là một trong những trở ngại lớn nhất trong sự phát triển chung của nền sản xuất hàng hoá nói chung.
+ Trong nền kinh tế thị trường công cụ chủ yếu của Nhà nước để quản lý vĩ mô nền kinh tế là hệ thống pháp luật. Đây là một vấn đề bao trùm mấy năm qua của Nhà nước ta. Nhà nước đã và đang tiến hành sửa đổi, thay thế, điều chỉnh lại hệ thống công cụ này sao cho đầy đủ, đồng bộ để việc quản lý của Nhà nước càng chặt chẽ thuận lợi bấy nhiêu. Thực tế hệ thống pháp luật của nước ta còn đang lỏng lẻo, các văn bản chỉ mới “dưới luật”, chứ chưa phải là “trong luật” như ở các nước phát triển khác, cũng chính vì điều này mà motọ số cơ quan nn, cũng chính vì điều này mà motọ số cơ quan Nhà nước có trách nhiệm lại buông lỏng quản lý ( cả tầm vi mô lẫn vĩ mô) để mặc cho các hoạt động sản xuất kinh doanh phi pháp hoạt động gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân.
+ Trong cầu kinh tế thị trường, bộ máy Nhà nước phải được tổ chức gọn nhẹ; nhưng chất lượng phải tốt hiệu lực chỉ đạo mạnh, nhất là bộ công cụ thế vụ - hải quan toà án, nhưng công cụ thi hành pháp lý của Nhà nước. Việc cải tổ cơ bản bộ máy Nhà nước tháng 5/1992 đã tạo điều kiện và đặt ra những yêu cầu mới cho việc nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế Nhà nước. Tuy nhiên, hoạt động này còn diễn ra chậm chạp còn nhiều lúng túng và vướng mắc, còn tồn đọng một bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả, biểu hiện:
* Bộ máy Nhà nước vẫn chưa hợp lý, nhiều cơ quan chưa rõ chức năng, nhiệm vụ, có người mới đẻ ra việc, nhiều người đứng đầu các cơ quan Nhà nước vẫn chưa phải là người tiêu biểu, đại diện cho trí tuệ cơ quan, của ngành đó.
* Chức năng, nhiệm vụ vav cách tổ chức bộ máy chính quyền ở các cấp vẫn chưa được phân định rõ ràng, còn gây nhièu nỗi băn khoăn trong cán bộ và nhân dân.
* Luật viên chức Nhà nước vẫn chưa rõ, chính vì vậy việc bố trí ngoài còn rất tuỳ tiện, người được đào tạo, người có tài năng không được quan tâm trọng dụng.
* Việc đãi ngộ cho đội ngũ nhân viên chức Nhà nước chưa xứng đáng, lương Nhà nước chưa đủ nuôi bản thân mà bên cạnh đó còn có gia đình của họ. Đây cũng có thể là một trong những nguyên nhân dẫn tới tham nhũng, tham ô, trở thành quốc nạn.
Những thiếu sót trên đây đã làm cho công việc quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế kém hiệu lực và hiệu quả thấp.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước thông qua chính sách và công cụ của mình như thuế, giá cả, tiền tệ, tín dụng, lãi suất, tỷ giá hối đoái...để tiến hành quản lý của mình. Ở Việt Nam trong những năm đổi mới tới nay cũng đã để ra được nhiều chính sách nhằm khuyến khích sản xuất hàng hoá phát triển. Tuy nhien, bên cạnh những cái làm được chúng ta còn có những thiếu sót như thiếu một lộ trình tổng quát để chỉ đạo quá trình đổi mới bộ máy Nhà nước, đổi mới phương thức sử dụng các công cụ quản lý kinh tế cho phù hợp với cơ chế mới. Chính vì vậy nó thúc đẩy nhanh việc cơ cấu lại nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường. Nhà nước cần xác định lại vai trò của mình, đổi mới và hoàn thiện lại công cụ quản lý kinh tế. Đó chỉ là một trong những nội dung cơ bản đảm bảo cho sự hình thành công của đổi mới.
2. Hoàn thiện và đổi mới công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước
Để hoàn thành các chức năng của mình Nhà nước cần có hệ thống các công cụ quản lý. Vấn đề các công cụ quản lý không phải là mới. Bởi vì trên thực tế trong cơ chế kinh doanh kế hoạch hoá chúng ta đã có hệ thống công cụ quản lý rồi, vấn đề là ở chỗ hệ thống này được tạo ra để điều hành nền kinh tế quản lý tập trung. Khi chuyển sang mô hình thị trường có sự quản lý cần phải xem xét công cụ quản lý nào, gạt bỏ những yêu tố lỗi thời lạc hậu, kế thừa và phát huy những yếu tố còn dùng được để làm cơ sở cho quá trình hình thành cơ chế mới. Cần phải cải tạo cái lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp, đang càn trở sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta.
a. Kế hoạch hoá: là công cụ thể hiện các mục tiêu lý tưởng của một nền kinh tế, nhờ có kế hoạch hoá mà chính phủ có thể phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp, của các bộ, các ngành, các địa phương. Kế hoạch hoá là công cụ duy nhất để chính phủ có thể chuyển tải nội dung đường lối chính sách. Trong nền kinh tế tập trung kế hoạch hoá không phát huy được bởi phương pháp kế hoạch và mục tiêu lựa chọn. Khi chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá vẫn còn là công cụ quản lý quan trọng, vấn đề là phải đổi mơi công cụ này cho thích hợp. Kế hoạch trong cơ chế mới không phải là áp đặt mà là định hướng và thực hiện theo dự án.
b. Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế: sẽ giúp cho Nhà nước có điều khiển hoạt động của của các doanh nghiệp, có thể nói mỗi chính sách kinh tế là một hành lang hướng dẫn hoạt động đầu tư mở rộng phát triển sản xuất, hướng dẫn các doanh nghiệp hành động một cách phù hợp với lợi ích toàn xã hội. Chính sách có nhiều loại, tuy nhiên có thể phân thành 2 loại:
Thứ nhất, sử dụng để tác động vào phía cung hoặc cầu. Mỗi chính sách kinh tế đều có thể tác động vào cả hai phía. Khi Nhà nước định sử dụng một chính sách cụ thể nào đó để tác động vào phía cung thì phải tạo ra các phản ứng phụ để hạn chế ảnh hưởng của nó vào phía càu và ngược lại.
Thứ hai, phân loại theo khu vực; các chính sách kinh tế có thể tác động đồng thời lên các lĩnh vực sau: Lĩnh vực tài chính, lĩnh vực tiền tệ; lĩnh vực kinh tế đối ngoại; lĩnh vực tỷ giá...
Chính vì vậy khi ban hành chính sách cần xem xét chính sách đó là chính sách tiền tệ hay tài chính hay tỷ giá... để có thể tạo ra cơ chế phối hợp giữa chúng.
c. Các chiến lược phát triển kinh tế kế hoạch hoá định hướng và các chính sách kinh tế chỉ có thể đi vào cuộc sống khi nó được thể chế hoá pháp luật.
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp luật thể hiện vai trò của nó trên 2 phương diện sau:
Thứ nhất, pháp luệt là công cụ cưỡng chế hành vi của các doanh nghiệp nếu như hoạt động của nó có thể làm tổn hại cho lợi ích cộng đồng, xã hội.
Thứ hai, pháp luật là công cụ tạo ra môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, bởi nhờ có pháp luật mà các doanh nghiệp biết được làm cái gì? và không được làm gì? Để từ đó mà mỗi doanh nghiệp tự định hướng cho mình làm những gì mà họ có khả năng.
3. Một số giải pháp cơ bản trong thời kỳ này
Trên cơ sở đánh giá thực trạng cùng với vấn đề hoàn thiện và đổi mới công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước ta; cũng như phân tích những thành tựu đạt được và những cái chưa làm được còn tồn đọng.
Từ đó chúng ta có thể đưa ra một số hướng giải quyết sau:
1. Tiếp tục quá trình tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế một cách triệt để hơn:
Tự hoá hoá giả cả và thương mại hoá nền kinh tế là một trong những nội dung trọng yếu của lộ trình chuyển đôỉ.
Với điều kiện nước ta hiện nay thị trường giá cả còn có những diễn biến phức tạp. Điều đó càng đòi hỏi Nhà nước đưa ra những biện pháp quản lý hữu hiệu phù hợp với diễn biến của từng loại hình tái thị trường đang từng bước chuyển mình.
* Đối với giá cả trên thị trường độc quyền, Nhà nước quản lý bằng hình thức sau:
+ Quy định giá chuẩn đối với hàng hoá dịch vụ độc quyền (như điện nước).
+ Quy định chính sách, cơ chế quản lý giá cước phí bưu chính viễn thông cũng như giá sử dụng tài nguyên thiên nhiên (trong ddó có giá cho thuê đất).
+ Ngoài ra đối với một số sản phẩm tuy rằng xu hướng sẽ không phải là sản phẩm độc quyền nhưng trong thời gian hiện tại và sắp tới Nhà nước vẫn phải đầu tư hoàn toàn hoặc thuộc sở hữu Nhà nước, thì Nhà nước cũng phải có quy định mức giá chuẩn (như quản lýgiá thuỷ lợi phí).
Trong tương lai và hiện nay đã và đang được Nhà nước từng bước xoá bỏ vị trí độc quyền của một số sản phẩm bằng cách cổ phần hoá hoặc liên doanh với nước ngoài... Hơn nữa Nhà nước còn tạo cơ chế cạnh tranh giữa nội bộ các ngành các doanh nghiệp Nhà nước trong khu vực Nhà nước nắm độc quyền.
* Các biện pháp quản lý giá trên thị trường cạnh tranh mà Nhà nước quản lý như sau:
- Đối với một số sản phẩm quan trọng vừa có sự tham gia của Nhà nước vừa có sự tham gia của các đơn vị kinh tế thì Nhà nước quy định giá giới hạn xăng, dầu, sắt, thép, urê... giá tối đa nước máy tại các thành phố, khu công nghiệp, giá xuất khẩu tối thiểu...
- Đối với các sản phẩm còn lại thì quản lý bằng cách: quy định chính sách, cơ chế quản lý giá (như công trình xây dựng cơ bản thuộc sở hữu Nhà nước...) quy định giá giới hạn đối với hàng đặc biệt (như lương thực...), tổ chức đăng ký giá, hiệp thương giá và niêm yếu giá.
- Thực hiện chính sách bình ổn giá một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu, bảo họ sản xuất trong nước.
- Tiến hành thanh tra xử lý vi phạm kỷ luật về giá.
* Hình thành đầy đủ các thị trường cần thiết cho việc thương mại hoá nền kinh tế như: thị trường vốn, thị trường lao động, đưa các thị trường này vào hoạt động. Đặc biệt là thị trường vốn - là yếu tố bản chất của nền kinh tế thị trường hiện đại. Nhà nước phải quản lý sao cho nó hoạt động có hiệu quả tránh thất thoát kém hiệu quả (bài học kinh nghiệm nhất, mà cũng còn lắng đọng trong các nhà quản lý trong lĩnh vực này, đó là vụ thất thoát vốn lớn nhất từ khi đổi mới đến nay - vụ Tăng Minh Phụng và đồng bọn gây ra).
* Tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thông qua chính sách mở cửa bằng cách như:
- Khai thác tốt các tiềm năng và lợi thế trong nước, từng bước ổn định và phát triển kinh tế có hiệu quả cao làm nền tảng cho các quan hệ đối ngoại.
- Có chính sách tăng nhanh tỷ trọng hàng công nghiệp, chế biến trong cơ cấu xuất khẩu. Đi đôi với việc tăng tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu, cũng cần đẩy mạnh xuất khẩu các loại dịch vụ như du lịch, vận tải biển...
Bên cạnh đó cũng cần có biện pháp “cấm” nhập khẩu đối với những mặt hàng cần bảo vệ và sản xuất trong nước chú ý nó chỉ được sử dụng khi các công cụ như thuế, lãi xuất không phát huy hiệu lực.
- Phải có một chính sách nhập khẩu “chủ động” tức là nhập khẩu đáp ứng trước hết cho việc đổi mới công nghệ đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều giá trị gia tăng.
- Chính sách thị trường phải thích ứng với hoàn cảnh chung của thế giới hiện nay.
- Tham gia nhiều các hiệp định và công ước quốc tế liên quan đến kinh tế thương mại.
- Thiết lập mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa các khu vực quốc doanh và ngoại quốc thông qua tác động của thị trường.
2. Tiếp tục đa dạng hoá chế độ sở hữu theo xu hướng phát triển doanh nghiệp tư nhân, đổi mới phương thức hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp với cơ chế thị trường
Sở hữu là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Các hình thức sở hữu đựơc luật hoá thành chế độ sở hữu. Theo tinh thần của Đại họi khoá VIII của Đảng nước ta đang tồn tại 5 loại sở hữu.
* Sở hữu Nhà nước: bao gồm các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các lực lượng vật chất (như tài nguyên, khoáng sản, đất đai...). Nếu xét về đối tượng sở hữu Nhà nước rộng hơn thành phần kinh tếnn, bởi vì sở hữu Nhà nước còn bao gồm các phần vốn trong Công ty cổ phần, các Công ty liên doanh v.v...
* Sở hữu tập thể : đó là hình thức sở hữu của các cá nhân tổ chức kinh tế dựa trên nguyên tắc tự nguyện.
* Sở hữu hỗn hợp : đó là hình thức sở hữu mà chủ thể có thể là Nhà nước, cá nhân trong hoặc ngoài nước, doanh nghiệp. Sở hữu này thường tồn tại trong các hình thức như xí nghiệp, liên doanh, cổ phần sở hữu nhỏ...
* Sở hữu tư nhân : chủ thể sở hữu là các cá nhân trong kinh tế sản xuất với quy mô nhỏ.
* Sở hữu tư nhân tư bản: Chủ thể sở hữu là các nhà tư bản tư nhân.
Các hình thức này có mối quan hệ vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau tạo nên cơ sở kinh tế của kinh tế thị trường, trong sự vận động quá độ phát triển theo định hướng mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” ở nước ta.
Đa dạng hoá chế độ sở hữu là một nội dung trọng yếu của lộ trình chuyển đổi, nó quyết định mức độ hoạt động của kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta. Phải nhận định rằng tư duy mới về kinh tế cho thấy cái quan trọng nhất và có ý nghĩa nhất không phải ở hình thức sở hữu mà ở hiệu quả của sở hữu. Cần thu hẹp hình thức sở hữu Nhà nước ở những ngành kinh tế không hoặc chưa cần thiết. Đẩy mạnh phát triển các hình thức sở hữu tư nhân và các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước thuộc sở hữu hỗn hợp.
Tự do kinh doanh theo pháp luật là điều kiện quan trọng nhất để phát huy tính năng động, sáng tạo và những tiềm năng của con người Việt Nam. Tự do kinh doanh sẽ dẫn đến tự do cạnh tranh và chính điều đó sẽ dẫn đến các yếu tố khách quan cho sự chuyển đổi nền kinh tế. Một nền kinh tế thị trường không thể khước từ nền kinh tế tư nhân vì đó là động lực đầu tiên của xã hội, cho phép mọi người dân có điều kiện đầu tư phát huy tối đa nguồn lực hướng vào phát triển.
Tóm lại, Nhà nước cần quan tâm đầy đủ hơn đến các hình thức chuyển hoá sở hữu khác.Mỗi hình thức đều đòi hỏi những điều kiện và các bước đi thích hợp, vì vậy xu hướng chuyển đổi sở hữu phù hợp sẽ là hình thức nào đủ điều kiện, dễ làm và có hiệu quả thì áp dụng hình thức đó trước.
3. Tăng cường kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước đối với sự hoạt động của các doanh nghiệp. Để làm được điều đó Nhà nước cần:
a. Tạo hình dáng pháp lý cho các doanh nghiệp tự do kinh doanh.
b. Thành lập các Công ty kiểm toán tư nhân và Nhà nước đặt dưới sự chỉ đạo nghiệp vụ của Bộ tư pháp. Không thừa nhận tư cách pháp nhân của cơ quan kiểm toán do bộ chủ quản và Bộ tài chính thành lập.
c. Thực hiện chế độ nghiêm ngặt đăng ký hệ thống kiểm toán.
4. Cải cách bộ máy hành chính, hiện đại hoá Nhà nước
Bộ máy Nhà nước phải được cải cách có hệ thống. Vai trò lập pháp, kiểm soát, giám sát của quốc hội được tăng cường. Phương thức điều khiển của nền kinh tế được từng bước chuyển từ trực tiếp sang gián tiếp (quản lý vĩ mô). Năng lực nghiệp vụ của cán bộ được nâng cao, người có đức , có tài được trọng dụng, tưng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ và trân trọng phát huy. Kiến thức kinh nghiệm ở cán bộ cao tuổi, cán bộ nữ được trọng dụng hơn do đó có nhiều cơ hội cống hiến cho đất nước, góp phần giải quyết vấn đề nam nữ bình đẳng trong việc quản lý bộ máy Nhà nước.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN do dân, vì dân phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước ta kiên quyết đấu tranh chống quan liêu cực quyền, chống tham ô lãng phí, đặc quyền đặc lợi, lập lại kỷ cương, chống hiện tượng cực đoan, xây dựng hệ thống luật pháp đồng bộ nhất.
5. Đổi mới công tác kế hoạch hoá theo xu hướng kế hoạch hoá định hướng đồng thời đổi mới hệ thống các mục tiêu định hướng
Kế hoạch hoá không phải chỉ là những chỉ tiêu, pháp lệnh trước đây mà chủ yếu phải là những thông tin, chỉ tiêu hướng dẫn để các doanh nghiệp có được cái nhìn dài hạn. Có nghĩa là kế hoạch hoá định hướng chuyển từ “áp đặt” sang “hướng dẫn”. Với cơ chế hiện nay. Nhà nước không còn can thiệp sâu vào các hoạt động của các cơ sở sản xuất kinh doanh nhưng không có nghĩa là thả lỏng cho họ hoạt động. Nhà nước cần có công cụ kế hoạch hoá định hướng để hướng dẫn ở tầm xa. Và nếu như chỉ dựa vào sự điều chiẻnh của thị trường mà có kế hoạch định hướng phát triển, trung hạn và dài hạn thì sẽ không đạt được kết quả lâu dài. Mặt khác, kế hoạch định hướng còn có tác dụng như một diễn đàn hoà hợp tất cả các lợi ích kinh tế của các tầng lớp, các giai cấp khác nhau và tạo ra một sự nhất trí trong nhân dân hướng vào “đường ray” của sự phát triển kinh tế quốc gia. Những thông tin về nguyên vật liệu và thị hiếu người tiêu dùng và tài nguyên thiên nhiên và dân số, về quan hệ kinh tế đối ngoại và những gợi ý về các hướng đầu tư cho Nhà nước và các doanh nghiệp vạch ra một kế hoạch tối ưu.
6. Đổi mới hệ thống thông tin kinh tế - thông tin quản lý theo yêu cầu của cơ chế thị trường
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có điều tiết đồng thời với việc đổi mới cơ chếquản lý kinh tế, hệ thống thông tin kinh tế - quản lý cũng phải đổi mới cho phù hợp với cơ chế quản lý theo mô hình kinh tế thị trường. Hệ thống tin cũ được tổ chức phù hợp với hệ thống phân công và phân cấp quản lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ (hệ thống thông tin này về cơ bản vẫn là hệ thống thông tin cũ) đến nay không còn phù hợp nữa. Để phù hợp với cơ chế mới và để làm đúng chức năng mô tả thực trạng thị trường hàng hoá dịch vụ, dự báo xu hướng biến động cung- cầu và giá cả về các trạng thái của sản lượng việc làm và giá cả cần phải căn cứ vào hệ thống mục tiêu quản lý theo cơ chế mới, hệ thống chi tiêu kế hoạch hoá định hướng theo cơ chế mới để cải tạo các thông tin và hệ thống chỉ tiêu thông tin kinh tế - quản lý cho phù hợp với việc điều hành và quản lý kinh tế vĩ mô.
7. Đổi mới cách thức sử dụng các chính sách kinh tế theo yêu cầu của kinh tế thị trường tạo ra cơ chế phù hợp với các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô
Nhà nước cần phân loại hệ thống hoá các chính sách kinh tế thành từng nhóm để xử lý theo tình huống. Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thường phân loại theo hai nhóm cơ bản: nhóm thứ nhất là các chính sách tác động vào phía cầu còn nhóm thứ hai là chính sách tác động vào phía cung.
Sau khi đã phân loại các chính sách theo nhóm để xử lý theo tình huống chính phủ tạo ra cơ chế để phân phối các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô. Theo cơ chế này mỗi chính sách không có mục tiêu nào riêng ngoài mục tiêu định hướng. Tác động của tất cả các chính sách cần phải được hội tụ ở việc giải quyết các mục tiêu định hướng của nền kinh tế. Chính phủ đề ra cho mỗi thời kỳ như tăng trưởng sản lượng lạm phát, thất nghiệp...
8. Đổi mới hệ thống pháp chế kinh tế theo định hướng dân chủ hoá nền kinh tế
Thứ nhất là các nước pháp quyền trước hết phải thể hiện ở những bộ luật đồng bộ, đầy đủ nhất quán và khoa học.
Thứ hai là việc thực hiện luật pháp phải được nghiêm minh, bảo đảm sự bình đẳng hoàn toàn của mọi công dân trước pháp luật.
Thức ba là phải có quá trình tổ chức giám sát kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện pháp luật, tất cả nhằm đảm bảo cho việc thực thi một kiểu Nhà nước trên cơ sở pháp luệt thực hiện thông qua luật pháp và bị hạn chế bởi pháp luật.
Ngoài ra, phải cải cách hệ thống các cơ quan tài phán đề nâng cao năng lực đặc biệt là tính công minh, liêm chính của các nhà cầm cân nẩy mực. Như vậy pháp luật phải phản ánh trong bản thân nó sự vận động của nền kinh tế thị trường tư tưởng nhân đạo, các nguyên tắc tự do bình đẳng của con người.
9. Hoàn thiện và đổi mới quản lý Nhà nước và tiền tệ - tín dụng và ngân hàng
Tiền tệ có tác động mạnh vào nền kinh tế nên cần phải có những chính sách đúng đắn về mặt tiền tệ. Cho nên Nhà nước cần:
- Ban hành các văn bản pháp quy thuộc thẩm quyền của mình về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng thi hành việc kiểm tra việc thi hành các văn bản pháp luật về tiền tệ tín dụng thanh toán ngoại hối và ngân hàng.
- Thực hiện vai trò ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng.
- Áp dụng các biện pháp quản lý nhằm đảm bảo sự tôn trọng các nguyên tắc hoạt động nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng.
- Thanh tra các tổ chức tín dụng trong việc chấp hàng luật pháp về tiền tệ tín dụng, thanh toán ngoại hối và ngân hàng.
Có như vậy thì chính sách tiền tệ - tín dụng và ngân hàng mới hoạt động có hiệu quả góp phần đưa đất nước vào quỹ đạo của sự phát triển nền kinh tế nói chung.
10. Tiếp tục kìm chế lạm pháp vẫn là nhiệm vụ trung tâm trong những năm trước mắt. Các giải pháp để giải quyết đó là:
- Điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu tiêu dùng.
- Giảm mức thâm hụt ngân sách.
- Sửa đổi hệ thống ngân hàng.
- Chấn chỉnh hệ thống tài chính, giá cả, xuất nhập khẩu.
- Cải cách chế độ tiền lương.
- Xây dựng hoàn thiện hệ thống luật và các văn bản dưới luật.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý.
- Cải cách bộ máy hành chính.
Chống lạm phát đồng thời chống cả thiểu pháp và thiếu phát tất yếu sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng hơn.
11. Đổi mới chế độ tiền lương
Đã đến lúc cần “Cách mạng chế độ lương bổng” bằng thang lương đúng nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa là hưởng theo năng lực chứ không chỉ dừng ở mức độ “cải tiến” lương của những người có “ năng lực đích thực” giữa trách nhiệm nặng chỉ nhính lên mang tính tượng trưng so với người kém cỏi. Hãy trả cho cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội điều kiện tái sinh sức lao động, chiến đấu của bản thân, nuôi dưỡng lực lượng xã hội. Trả cho họ quyền được hưởng thụ tương xứng với quá trình cống hiến và tài năng được sử dụng.
12. Tăng cường phối hợp các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô
Để thực hiện điều này cần:
- Tổ chức một bộ phận chuyên trách đủ mạnh.
- Tăng cường điều hành hướng dẫn.
- Tăng cường hơn nữa vai trò của Nhà nước trong việc thiết lập kỷ cương trật tự mới để tạo môi trường cho cơ chế thị trường vận động có hiệu quả.
- Cần phân biệt rõ chức năng quản lý Nhà nước với chức năng quản lý kinh doanh.
- Quản lý Nhà nước cần được đổi mới cho phù hợp với cơ chế mới.
- Cần hệ thống hoá việc sử dụng các công cụ quản lý
- Cần mở rộng thêm phạm vi tác động của cơ chế thị trường.
- tăng cường hoàn thiện hệ thống ngân hàng.
Với một số biện pháp như vậy chúng ta có quyền hy vọng có một Nhà nước với vai trò quản lý kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa có hiệu quả góp phần phát triển nền kinh tế.
KẾT LUẬN
Như đã phân tích ở trên, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết hàng hoá một cách có hiệu quả, tuy nhiên “...cơ chế thị trường không phải là sự hiện thân của sự hoàn hảo...”Paul A.Samuelsou. Cho nên bên cạnh đó có những khuyết tật chính ví lý do đó mà bất kỳ ở đâu, nơi nào trên thế giới và cũng không có chính phủ nào, dù bảo thủ đến đâu lại không nhúng tay vào nền kinh tế.
Ở Việt Nam cũng vậy vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Với đặc điểm riêng của mình thì vai trò của Nhà nước ta có những tác động đến nền kinh tế trên những mặt, phương diện và bằng những cách thức cũng khác nhau nhưng đều nhằm mục đích dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, tạo ra chiếc cầu nối xã hội hôm nay với xã hội khác trong nay mai - xã hội xã hội chủ nghĩa là đỉnh cao của nó là chủ nghĩa cộng sản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
DAVIT BEGG - Kinh tế chính trị học, tập 1 - Chương IV.
2.
PAUL A.SAMNELSON - KTCT học, tập 2 - Chương III.
3.
SFISCHEr - KTCT học, tập 2 NXB Giáo dục Hà nội - 1992.
4.
R.DORNBUSCH - KTCT học, tập 2 NXB Giáo dục Hà nội - 1992.
5.
Giáo trình KTCT học, tập 2-Chương XIII-Trường ĐH KTQD- Hà nội.
6.
PGS - TS MAI HỮU THỰC - “Đặc trưng của nềnkt thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp 10 - 99 (Tr 18 - 20).
“Quản lý kinh tế vĩ mô với tăng trưởng kinh tế ở nước ta” Tạp chí kinh tế và phát triển - Số 9 (Tr 8 - 9).
7.
GS - PTS NGUYỄN ĐÌNH HƯƠNG - “Chuyển đổi kinh tế ở nước ta với việc quản lýkt vĩ mô trong nền kinh tế hiện nay” Tạp chí kinh tế và phát triển - Số 9 (Tr 25 - 27)
8.
NGUYỄN NGỌC QUANG - “Vai trò kinh tế của Nhà nước và khả năng định hướng sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta” Nghiên cứu kinh tế - Số 215 Tháng 4/96 (Tr 3 - 5).
9.
TRẦN VĂN CHÁNH - “Chức năng quản lý về kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường” Tạp chí phát triển và kinh tế - Số 1/94.
10.
LƯƠNG XUÂN QUỲ (chủ biên) - “Cơ chế thị trường và vai trò kinh tế của Nhà nước ở Việt Nam” NXB Thống kê Hà nội 1994.
11.
NGUYỄN PHÚ TRỌNG - “Kinh tế thị trường và vai trò lãnh đạo của Đảng” - Tạp chí Cộng sản số 1/1994.
12.
TRẦN TÔN TỬ - “Vai trò quản lý nnTrần Tôn Tử - “Vai trò quản lý nông nghiệp đối với nền kinh tế theo cơ chế thị trường”. Tạp chí phát triển kinh tế, số 3/1994.
13.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ Vi, VII, VIII.
14.
VŨ THỊ NGỌC PHÙNG - “Vai trò kinh tế của Nhà nước và kế hoạch trong cơ chế thị trường” - Tạp chí kinh tế và phát triển (Tr 11 - 13).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8429.doc