Đề tài Vai trò, mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và ngoài nước đối với sự tăng trưởng, phát triển kinh tế

Mỗi bộ cần trở thành đầu mối thông tin về ngành và cơ hội đầu tư vào ngành mà bộ quản lý.Các tỉnh và khu công nghiệp có thể có những nghiên cứu riêng về các nhà đầu tư mục tiêu, từ đó, đưa ra các chiến lược khác nhau với các biến số khác nhau. Chính các địa phương và các khu công nghiệp là những người hiểu rõ nhất về việc nhà đầu tư nào sẽ đến với mình. Các tỉnh và khu công nghiệp vẫn có thể cạnh tranh với nhau để thu hút FDI thông qua việc xác định nhà đầu tư mục tiêu khác nhau, cải thiện chương trình marketing, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng địa phương và đưa ra các dịch vụ sáng tạo trước và sau đầu tư. Và tất nhiên tất cả các nỗ lực này đều phải nằm trong khuôn khổ quốc gia do Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Công nghiệp và các bộ khác đưa ra. Một trong những lý do cản trở việc thực hiện một chiến lược xúc tiến FDI hiệu quả là hạn chếvề ngân sách. Trên phạm vi quốc gia, Việt Nam không có một ngân sách riêng biệt dành cho xúc tiến đầu tư. Phần lớn các chuyến đi khảo sát hay xúc tiến do phía đối tác nước ngoài tài trợ. Ở tầm địa phương, ngân sách dành cho xúc tiến đầu tư cũng hạn chế. Một số địa phương đã có ngân sách riêng cho hoạt động này là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Dương

doc50 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò, mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và ngoài nước đối với sự tăng trưởng, phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mại quốc tế đối với quá trình phát triển kinh tế Việt Nam cho đến nay là việc góp phần giúp cho Việt Nam có được sự viện trợ trở lại của IMF, WB và ADB. Từ năm 1976 đến năm 1981, Việt Nam đã vay được từ 3 tổ chức này hơn 300 triệu USD để phục vụ cho việc khôi phục cán cân thanh toán và thực hiện một số dự án trọng điểm. Tuy nhiên, đến năm 1985, do không thanh toán được nợ quá hạn với IMF, quyền vay vốn của Việt Nam với tổ chức này bị đình chỉ, kéo theo việc không được vay vốn ở 2 tổ chức còn lại, các quan hệ giữa Việt Nam và các tổ chức này dừng lại ở mức đối thoại chính sách và trợ giúp kỹ thuật. Năm 1993, những nỗ lực phục hồi và đổi mới nền kinh tế của Việt Nam đã tạo tín hiệu tốt để cộng đồng quốc tế có cái nhìn mới về Việt Nam. Trước những nỗ lực thanh toán các khoản nợ quá hạn và những cam kết cơ cấu lại nền kinh tế của Việt Nam, làm cơ sở cho việc thành lập nhóm hỗ trợ huy động vốn để thanh toán nợ quá hạn cho Việt Nam. Tháng 10/ 1993, cùng với phần viện trợ không hoàn lại từ các quốc gia Pháp, Nhật, Úc, Thuỵ Sỹ, Canada, Phần Lan…khoản vay bắc cầu từ các ngân hàng thương mại quốc tế mà đứng đầu là Ngân hàng ngoại thương Pháp và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Nhật Bản đã giúp Việt Nam thanh toán được toàn bộ nợ quá hạn với IMF. Quyền vay vốn của Việt Nam tại IMF được phục hồi, ngay sau đó WB và ADB cũng nối lại quan hệ tín dụng với Việt Nam. Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 10 năm kể từ ngày bình thường hoá quan hệ tài chính với những tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế này, Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ lớn về tài chính và kỹ thuật cho quá trình đổi mới nền kinh tế. Trong 10 năm đó, tổng số cam kết tài trợ của IMF, WB và ADB cho Việt Nam lần lượt là 1,07 tỷ USD ; 4,1 tỷ USD và 2,5 tỷ USD thông qua hàng chục chương trình và dự án trong nhiều lĩnh vực. Ngoài ra, còn phải kể đển hàng trăm khoản trợ giúp kỹ thuật giúp tăng cưòng năng lực thể chế cho hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Như vậy, mặc dù không trực tiếp góp phần vào phát triển kinh tế Việt Nam nhưng khoản vay tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế này đã mở ra một nguồn tài trợ lớn từ các tổ chức quốc tế. Điều này đã tác động rất tích cực đến tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước ta trong những năm qua. 4. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp(FPI): Khi nguồn vốn ODA đang có xu hướng giảm trong những năm tới thì nguồn vốn FPI đã được chú ý khai thác như một nguồn bổ sung thay thế cho nguồn vốn viện trợ này. Theo khảo sát của quỹ tiện tệ quốc tế (IMF) gần đây cho thấy, vào năm 2001 lợi nhuận từ vốn FPI thế giới tăng gấp 2 lần so với vốn FDI. Trong vòng 4 năm, đầu tư gián tiếp toàn cầu đã tăng 2 lần, nước có tỷ trọng đầu tư gián tiếp lớn nhất là Mỹ chiếm 24,5 %, tiếp đó là Anh chiếm 10%. Dòng vốn FPI đang trỗi dậy mạnh mẽ sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997 và đang chuyển hướng đầu tư sang các quốc gia đang phát triển có tiềm năng nhằm hạn chế bớt rủi ro đầu tư. Năm 2007 đã có nhiều thương vị FPI lớn.nổi bật là việc công ty bảo hiểm tập đoàn tài chính HSBC mua10% cổ phần Bảo việt với số tiền lên đế 225 triệu đôla mỹ.ta thấy chỉ một thương vụ thôi đã gần bằng con số'300 triệu đola mỹ mơ ước'của hồi 200.nhiều quĩ đang theo đuổi các khoản đầu tư có qui mô khá cao.Indochina Capital chẳng hạn,đã đưa ra tiêu chí từ 5-15 triệu đola mỹ mỗi khoản Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các yếu tố sản xuất trong quá trình tái sản xuất hàng hoá dịch vụ đuợc dịch chuyển tự do từ nơi này sang nơi khác nhằm phát huy lợi thế so sánh của các quốc gia thông qua các cam kết mở rộng thị trường. Việt Nam đang nổi lên như một quốc gia có nhiều tiềm năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vì ngoài vị trí địa lý thuận lợi chính trị ổn định, tiềm năng tăng trưởng kinh tế dài hạn, Việt Nam còn là một quốc gia có nhiều lợi thế so sánh hấp dẫn nhà đầu tư như: nguồn lao động dồi dào, thị trường, tài nguyên thiên nhiên phong phú…Hơn nữa Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò, vị trí và tầm quan trọng của mình trên bản đồ kinh tế khu vực và thế giới. Sự quan tâm của khu vực và thế giới đến Việt Nam, đặc biệt là trong thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, cộng với sự thành công của các nhà đẩu tư hiện hữu tại đây sẽ mở ra một cơ hội lớn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Với các yếu tố thuận lợi khách quan, Việt Nam hoàn toàn có khả năng khai thác tiềm năng dòng chảy vốn FPI của thế giới phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của mình. Thực tế ở Việt Nam, nguồn vốn FPI chưa được quan tâm thích đáng, tuy nhiên chúng ta cũng đã có được những thành công đáng kể. Sau cuộc khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FPI vào Việt Nam có xu hướng tăng nhưng quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với FDI. Một số quỹ mới hoạt động ở Việt Nam từ năm 2001 có quy mô vốn bình quân từ 5-20 triệu USD cho một quỹ nhỏ hơn giai đoạn 1991-1997, chiếm 1,2% vốn FDI, tăng lên 3,4% năm 2004, tỷ lệ này còn qúa thấp so với các nước trong khu vực khi mà ở họ, tỷ lệ FPI/FDI vào khoảng 30-40%. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy đầu tư FPI vàoViệt Nam vẫn có xu hướng tăng nhanh, năm 2006 đã xuất hiện nhiều quỹ đầu tư mới, cũng như sự cam kết tăng vốn của các quỹ hiện hữu. Quỹ Vietnam Opportunity Fund (VOF) vừa thông báo tăng thêm 76 triệu USD nữa, nâng quy mô vốn đến thời điểm hiện tại là 171 tỷ USD. Phía VinaCapital, đơn vị quản lý quỹ VOF, kỳ vọng sẽ đầu tư hết khoản vốn tăng thêm này trong khoảng từ 6 đến 9 tháng, sau đó tiếp tục gọi vốn để tăng quy mô vốn đầu tư lên tới 250 triệu USD cuối năm 2006. Theo các nhà đầu tư cho biết, lý do để họ hướng về Việt Nam là chính phủ đã khẳng định đuợc vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của nền kinh tế, tính chuyên nghiệp hoá của môi trường đầu tư và sự thành công của các nhà đầu tư hiện hữu Nửa cuối năm 2006, lượng vốn FPI vào Việt Nam khá mạnh, lên đến 3 tỷ USD góp phần làm cho thị trường chứng khóan Việt Nam trở nên nóng bỏng. Đầu năm 2007, lượng vốn FPI còn tăng mạnh hơn, ước tính đến nay đã lên tới trên 4 tỷ USD, chiếm gần 1/3 tổng giá trị vốn hoá thị trường (khoảng 14 tỷ USD). Trong thời gian sắp tới, khi có nhiều công ty đại gia đựoc cổ phần hoá và niêm yết lên sàn, số vốn này sẽ còn tiếp tục tăng lên. 5. Trái phiếu chính phủ trên thị trường vốn: Tuy chỉ chính thức phát hành ra thị trường thế giới vào năm 2005 song trái phiếu Chính phủ Việt Nam đã đi được một chặng đường khá dài chia làm ba giai đoạn : - Giai đoạn trước 2000: Thời gian đầu, Chính Phủ Việt Nam thực hiện phát hành trái phiếu quốc tế nhằm mục đích chuyển đổi số nợ quá hạn nước ngoài. Với việc phát hành trái phiếu để chuyển đổi nợ, Việt Nam chính thức tham gia thị trường vốn quốc tế. Về cơ bản, đợt phát hành trái phiếu này cũng tuân theo những nguyên tắc chuẩn mực của phát hành trái phiếu quốc tế, song vẫn có điểm khác với việc phát hành mới là không huy động thêm đựơc lượng vốn mới, chủ đầu tư được xác định chính xác là các chủ nợ, các điều khoản chủ yếu phụ thuộc vào đàm phán nên không có tính thị trường, thủ tục phát hành cũng đơn giản hơn hẳn so với việc phát hành mới. Trái phiếu chuyển đổi nợ của Việt Nam có tính thanh khoản thấp, khối lượng trái phiếu giao dịch trên thị trường nhỏ bé nên Việt Nam cũng có chủ trưong phát hành trái phiếu ra nước ngoài để huy động vốn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường vốn quốc tế : - Giai đoạn 2000- 2005: Nhận thấy việc phát hành trái phiếu chính phủ ra quốc tế sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam có khả năng huy động vốn dài hạn với khối lượng lớn, tăng nguồn thu góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, Việt Nam đang trong quá trình lên kế hoạch thực hiện việc phát hành trái phiếu quốc tế một cách kỹ lưỡng. - Giai đoạn 2005 đến nay: Một sự kiện đáng ghi nhận là trong năm 2005, Chính phủ Việt Nam đã phát hành trái phiếu thành công ra thị trường vốn quốc tế, đánh dấu thời điểm Việt Nam chính thức tham gia vào kênh huy động vốn quan trọng này.Việc Việt Nam phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngoài đã tạo ra một chuẩn mực mới trong các kênh huy động vốn đồng thời nhận được sự hưởng ứng ủng hộ cũng như gây dựng được lòng tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế nhận thấy, số lượng các nhà đầu tư quổc tế tham gia mua trái phiếu lần này đạt mức kỷ lục trên thị trường vốn trong nhiều năm gần dây, với số lượng hơn 255 nhà đầu tư, so với 150 nhà đầu tư mua trái phiếu của chính phủ Indonexia tháng 10/2005. Ngay ngày đầu tiên phát hành tại Hồng Kông, 19/10/2005, số lượng các nhà đầu tư đặt mua vào khoảng 1 tỷ USD, gấp 2 lần số lượng trái phiếu Chính phủ Việt Nam định phát hành. Đến ngày 26/10/200, sau khi chính phủ quyết định tăng khối lượng phát hành thêm 250 triệu USD (Tổng lượng phát hành là 750 triệu USD), số lượng các nhà đầu tư đặt mua đã tăng lên hơn gấp 3 lần, từ 1 tỷ thành 3 tỷ USD. Ngày 29/10/2005 là ngày định giá trái phiếu Chính phủ Việt Nam trên thị trường tài chính thế giới thì số lượng các nhà đầu tư đặt mua lên tới 4,5 tỷ USD, tức là gấp 6 lần số lượng trái phiếu Chính phủ Việt Nam định phát hành trong đợt này. Tất cả các nhà đầu tư quan trọng, có uy tín lớn trên thị trường tài chính thế giới từ Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ đều quan tâm, tham gia đặt mua trái phiếu của Chính Phủ Việt Nam với số lượng lớn. Đặc biệt lần này, một số Ngân hàng trung ương và các tổ chức đầu tư của Chính phủ các nước trong khu vực Châu Á đặt mua khoảng 50-100 triệu USD, trong đó Ngân hàng dự trữ quốc gia Malaysia tính đến nay chưa từng mua trái phiếu của quốc gia nào thì nay đã đặt mua trái phiếu của Chính phủ Việt Nam bằng tiền dự trữ với tổng số lượng vào khoảng 50 triệu USD. Điều này đã chứng tỏ được sức hút to lớn của trái phiếu Việt Nam trên thị trường vốn quốc tế. Kết quả mang lại là 750 triệu USD trái phiếu đã được bán hết với lãi suẩt danh nghĩa là 7,125%/năm, trong đó các nhà đầu tư Châu Á nắm giữ 38%,Châu Âu là 32% và Mỹ là 30%. Trong số các nhà đầu tư này, các quỹ đầu tư tài chính là đối tượng quan tâm nhiều nhất đến trái phiếu Việt Nam (chiếm tới 52%), còn lại là các ngân hàng( 25%), các công ty bảo hiểm (17%) và các công ty tài chính khác (7%).Theo Thứ trưởng Bộ Tài Chính Lê Thị Băng Tâm, lãi suất trái phiếu chính phủ Việt Nam phát hành rất hiệu quả, thấp hơn lãi suất trái phiếu của các nước trong khu vực có cùng hệ số tín nhiệm, lãi suất trái phiếu loại 10 năm ở Việt Nam thực trả là 7,125%/ năm, trong khi mức lãi suất trái phiếu Chính phủ Philippin loại 10 năm giao dịch ở mức 8,1%/ năm, còn trái phiếu Chính phủ Indonexia loại 10 năm giao dịch ở mức 7,8%. Đây cũng là một trong những yếu tố giúp cho trái phiếu Chính phủ Việt Nam đựơc bán một cách nhanh chóng. Ngay lần đầu tiên phát hành, Chính phủ Việt Nam đã có được thành công khá rực rỡ. Ngày 3/11/2005 giờ Mỹ, tức ngày 04/11/2005 giờ Việt Nam, số tiền bán trái phiếu Chính phủ 750 triệu USD đã được chuyển về Việt Nam, số tiền này sẽ được bơm vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh với tốc độ trung bình 7-8% của Việt Nam. Dự báo đến năm 2010, khi nguồn vốn ODA rót cho Việt Nam không nhiều, nguồn vay tín dụng thương mại phải chịu lãi suất cao và những điều khoản ngặt nghèo...thì phát hành trái phiếu quốc tế để huy động vốn nước ngoài sẽ là một kênh huy động vốn cực kỳ quan trọng cho đầu tư phát triển của Việt Nam. Việc huy động vốn ra bên ngoài của Việt Nam đã tạo cơ hội cho nhiều doanh nghiệp khác như Tổng công ty Điện lực Việt Nam EVN, Tổng công ty dầu khí Việt Nam Petrolimex... gặp thuận lợi sau này. Với thành công này đã thúc đẩy các doanh nghiệp tăng những doanh nghiệp không đủ điều kiện phát hành trái phiếu quốc tế để vay vốn thì cũng có thêm cơ hội vay vốn trong nước . *Hạn chế - Mặc dù phát triển khởi sắc những năm qua, tuy nhiên không hẳn là không tồn tại những khó khăn nếu chúng ta thực hiện phát hành trái phiếu quốc tế trong giai đoạn này. Mức tín nhiệm của Việt Nam chưa đạt điểm đầu tư, lợi thế so sánh thấp hơn so với các quốc gia khác, khi đi vay sẽ phải chịu mức lãi suất lớn hơn. Mặt khác, giai đoạn 2000- 2005 khả năng khai thác vốn ODA còn tiềm tàng nên việc đi vay bằng phát hành trái phiếu phải đặt trong tương quan chung về vay nợ nước ngoài nên vay vốn bằng trái phiếu quốc tế cần được hạn chế. Hơn nữa, việc vay vốn phải gắn với mục tiêu sử dụng vốn cụ thể để đảm bảo có hiệu quả cao thực sự vì đây là nguồn vốn vay thương mại, nhà phát hành phải có năng lực tài chính đủ để thanh toán cả lãi và gốc khi đáo hạn, nếu sử dụng vốn không hiệu quả sẽ dẫn đến lãng phí, không có khả năng thanh toán nợ. Từ những điểm thuận lợi và khó khăn trên, Việt Nam cần thận trọng trong lần phát hành trái phiếu huy động vốn mới ra thị trường quốc tế để có thể mang lại kênh huy động vốn mới có lợi ích thiết thực. Chương III : Một số giải pháp huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước và nước ngoài cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. I.Các giải pháp tăng cường tính quyết định cho nguồn vốn trong nước: 1.Nguồn vốn Nhà nước: Nguồn vốn nhà nước mà chủ yếu là nguồn vốn ngân sách là một nguồn vốn quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là cơ sở, là nền tảng để nước ta thực hiện được các kế hoạch CNH-HĐH, tạo môi trường đầu tư tốt nhằm thu hút các nguồn vốn khác. Chính vì vậy mà Nhà nước ta phải làm tăng ngân sách, và sử dụng nguồn vốn này một cách hợp lý và hiệu quả. Ngân sách Nhà nước chính là phần tiết kiệm của Nhà nước, nó phản ánh hiệu số thu- chi ngân sách. Chính vì vậy mà để tăng ngân sách thì có thể tăng thu và giảm chi ngân sách: *Thu ngân sách: chủ yếu là thu từ thuế. Việc nâng cao tỷ suất thuế có ý nghĩa quyết định đến quá trình mở rộng tiết kiệm của chính phủ. Tỷ suất thuế có thể được nâng lên và đóng góp vào việc mở rộng tiết kiệm của chính phủ, thông qua thực hiên các biện pháp chủ yếu về thuế là: tăng định kì mức thuế hiện hành, ban hành thêm một số loại thuế mới để tận thu những khoản thất thu, cải tiến bộ máy quản lý để giảm thất thu và trốn thuế trên cơ sở biểu thuế hiện hành, cải cách cơ bản hệ thống thuế. Tăng mức thuế hiện hành là biện pháp hiện hành thường là biện pháp thuận lợi, do việc tăng mức thuế suất mà không làm thay đổi gì về luật thuế hoặc bộ máy quản lý thuế. Nhưng thực tế ở nước ta và các nước đang phát triển đã chỉ ra rằng, việc tăng thuế thu nhập quá cao sẽ không khuyến khích hoạt động tiết kiệm để tái đầu tư của khu vực tư nhân cũng như của doanh nghiệp. *Tiết kiệm chi ngân sách: Tiết kiệm và khống chế khoản chi tiêu dùng thường xuyên của chính phủ, trong phạm vi nguồn thu thường xuyên có được. Chính phủ chỉ được vay để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển mà không hoặc rất hạn chế vay cho nhu cầu tiêu dùng thường xuyên. Xác định sự cân đối và hợp lý giữa chi cho tiêu dùng thường xuyên và chi cho đầu tư, theo hướng tiết kiệm tiêu dùng thường xuyên và ưu tiên cho các nguồn lực cho đầu tư, đồng thời đảm bảo hiệu quả của chúng. Việc ưu tiên của chi ngân sách cho đầu tư chỉ góp phần làm tăng sự phát triển nếu như việc sử dụng vốn đầu tư đảm bảo tiết kiệm và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, trên cơ sở đã có sự cân nhắc, lựa chọn về lĩnh vực đầu tư như : tập trung chủ yếu vào cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực, một phần khác đầu tư cho một số công trình có ý nghĩa quan trọng, cũng như dành khoản chi tiêu thích đáng cho các chi phí vận hành và bảo dưỡng các công trình trước đây. Việc sử dụng vốn ngân sách Nhà nước như thế nào cho có hiệu quả cũng còn vấn đề nan giải. Để nâng cao hiệu quả đầu tư, phát huy tối đa ưu thế của vốn đầu tư Nhà nước trong xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, có nhiều việc phải làm và cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, nhưng trước hết phải tập trung vào các giải pháp sau: - Giảm bớt gánh nặng bao cấp ngân sách, thông qua các biện pháp cổ phần hoá, tư nhân hoá các doanh nghiệp Nhà nước, mà chính phủ thấy không cần thiết phải nắm giữ sự tồn tại của chúng, khuyến khích cac thành phần kinh tế tự đầu tư mới và tái đầu tư trong tất cả các doanh nghiệp. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước được tiến hành thí điểm từ tháng 6 năm 1992. Tính đến ngày 31/12/2005, cả nước đã cổ phần hóa được 2.935 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, doanh nghiệp thuộc các ngành  công nghiệp, giao thông, xây dựng chiếm 66,0% ; ngành thương mại, dịch vụ chiếm 27,6%; ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 6,4%. Phân theo chủ sở hữu, doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chiếm 61,7%; thuộc các Bộ, ngành chiếm 29%; thuộc các tổng công ty 91 chiếm 9,3%. Phân theo quy mô vốn, doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 5tỷ đồng chiếm 54,0%; từ 5-10tỷ đồng chiếm 23,0%; trên 10tỷ đồng chiếm 23,0%. Sau 20 năm chuyển đổi nền kinh tế, nước ta đã đạt được một số thành tựu về tăng trưởng kinh tế, nhưng hiệu quả, chất lượng tăng trưởng còn chưa cao. Trên nền chung đó lại diễn ra quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, triển vọng của quá trình cổ phần hóa sẽ như thế nào có quan hệ chặt chẽ với chất lượng đổi mới nền kinh tế từ nay trở về sau.Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước chỉ có hiệu quả khi : Thứ nhất, điều chỉnh phương hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này, khai thác những lợi thế của đất nước và các nguồn đầu tư bên ngoài để đưa đến một mô hình kinh tế hợp lý. Theo dõi quá trình phát triển kinh tế Việt Nam, giáo sư David Dapice đại học Harvard nêu rõ: thực tế mỗi năm Chính phủ Việt Nam đầu tư khoảng 30% GDP, nhưng chỉ tăng trưởng 7%-8%. Nếu biết đầu tư đúng thì tăng trưởng phải đạt ở mức 9%-10% như Trung Quốc. Theo cách tính toán trên, do đầu tư không phù hợp, chúng ta đã làm tổn thất 2% GDP của đất nước (khoảng 1 tỉ USD mỗi năm). Vì thế, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải dựa trên quan điểm tiết kiệm ngân sách, đầu tư khôn ngoan, chứ không phải chỉ là giải pháp cho những yếu kém trong kinh tế nhà nước. Trên thế giới, đã có những nước sử dụng rất hiệu quả ngân sách nhà nước. Ví dụ, Đài Loan vào thập kỷ 1960-1970 chỉ có mức thu nhập bình quân đầu người như Việt Nam hiện nay, nhưng họ đã đạt được tăng trưởng kinh tế ở mức 11% trong suốt 10 năm liền, tuy lượng đầu tư chỉ chiếm 25% ngân sách. Thứ hai, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước phải hướng tới sự thu hút và tập trung các nguồn vốn xã hội vào phát triển kinh tế, tạo ra hình ảnh nhân dân xây dựng và làm chủ nền kinh tế. Khi điều này được thực hiện thì các khâu của quy trình cổ phần hóa sẽ thay đổi, từ việc định giá doanh nghiệp, cơ cấu vốn điều lệ doanh nghiệp cổ phần, cơ cấu cổ đông, tổ chức bộ máy, đến những vấn đề nhân sự khác... sẽ không như hiện nay, mà sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn trước, có lợi cho người lao động, nhà đầu tư và cho cả nền kinh tế. Thứ ba, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải tính tới những yêu cầu đặt ra khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO để sau khi cổ phần hóa thì các doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. Tác động của việc gia nhập WTO tốt hay xấu đối với doanh nghiệp đã cổ phần hóa hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm và định hướng quy trình cổ phần hóa. Ở đây xin nêu lên hai vấn đề quan trọng: Cần xác định rõ: ai là chủ sở hữu thực tế của công ty cổ phần và chủ sở hữu phải gắn liền với trách nhiệm đối với công ty như thế nào?. Trong vấn đề này có một nội dung phải làm rõ: ai đại diện chủ sở hữu số vốn nhà nước trong công ty cổ phần nhằm chấm dứt quan hệ sở hữu nhà nước chung chung và không có trách nhiệm, kéo dài nhiều năm nay. Cần vận dụng: “Quy chế quản trị công ty” nhằm tạo ra môi trường đầu tư minh bạch, lành mạnh. Yêu cầu này chỉ thực hiện được khi có sự lựa chọn những giám đốc phù hợp với quy chế quản trị công ty, nhất là phải sớm đào tạo và bố trí các giám đốc tài chính của công ty (có vai trò và phạm vi hoàn toàn khác với kế toán trưởng trong doanh nghiệp kiểu cũ) -Tập trung nâng cao chất lượng, tính đồng bộ, tính liên kết, tính pháp lý trong công tác quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản có tầm nhìn dài hạn trong công tác quy hoạch gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập của đất nước. - Ap dung cơ chế, giải pháp mạnh trong quản lý dự án, quản lý công trình đầu tư xây dựng cơ bản - Rà soát và tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư - Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát, trước hết là các biện pháp giám sát và kiểm soát nội bộ, sau đó là các biện pháp kiểm tra, thanh tra từ bên ngoài. - Đẩy nhanh quá trình cải cách hành chính trong đầu tư xây dựng. - Thu từ bất động sản   Thị trường bất động sản là 1 trong những thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng trong của nền kinh tế , tại các nước phát triển bất động sản chiếm khoảng 60% giá trị và đối với các nước đang phát triển như chúng ta thì tỉ lệ này cáo hơn rất nhiều khoảng 70%- 80% tổng giá trị tài sản cố định của nền kinh tế,đóng góp một phần quan trọng cho ngân sách nhà nước . Nhưng với những đặc điểm phức tạp về thông tin , chính sách , vốn và thị trường  làm cho một lượng lớn tiền của thị trưòng vốn bị hút và giữ ở đây . Thị trường càng biến động tiêu cực thì thời gian chết của tiền càng lâu gây thiệt hại cho nền kinh tế .   *Thực trạng nguồn vốn trong thị trường bất động sản.         - Đóng góp cho ngân sách nhà nước : Trước năm 1994  thị trường bất động sản đóng góp khoảng 2000tỷ VNĐ ( Với cơ cấu nguồn thu : Thuế sử dụng đất nông nghiệp , thuế nhà đất , thuế chuyển quyền sử dụng đất ) Đến năm 2003 thì con số này đã là 17594 tỷ VNĐ ( Có thêm 3 nguồn thu mới : Tiền sử dụng đất , tiền thuê đất , bán nhà sở hữu nhà nước ). Riêng tiền sử dụng đất chiếm 80% nguồn thu , tuy nhiên đây ko phải là cơ cấu bền vững vì nguồn cung có hạn .  Nguồn thu này ko đúng với tiềm năng của thị trường , một số chuyên gia cho rằng chúng ta có thể thu được 40tỷ USD mỗi năm nếu chúng ta có những biện pháp quản lý tốt -Từ tình hình thị trường đang có chiều hướng đảo chiều giảm sốt đã liên tục có những chính sách và dự kiến chính sách kiểm soát thị trường cụ thể như hạn mức cho vay bất đống sản của ngân hang , đánh thuế luỹ tiến … Đã làm mức tín dụng cho vay của các ngân hàng ( Tín dụng hạn mức khoảng 10% ). Điều này đã làm thị trường nhanh chóng đi xuống và nguy cơ các ngồn vốn khó có thể rút ra ngay => Ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn . - Đầu tư nước ngoài đang đổ dồn vào thị trường bất động sản nhưng có sự tập trung ở những mảng thị trường nóng ( 85% FDI vào TPHCM năm 2007 là tập trung vào thị trường bất động sản ). Dự kiến năm 2008 chúng ta cũng sẽ tiếp tục đón những đợt đầu tư lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài nhưng có xu hướng giảm tương đối do môi trường vĩ mô ko đựơc tốt cho lắm. - Biến động của thị trường CK với ảnh hưởng theo kiểu bình thông nhau làm cho thị trưòng hiện giờ đang rất căng thẳng => Tâm lí các nhà đầu tư đang có xu hướng chờ đợi .     * Giải Pháp           - Giải pháp vĩ mô : Chỉ số môi trường vĩ mô VN năm 2007 bị giảm sút so với các nước trong khu vực . Cần cải thiện thông qua 3 chỉ số chính ( Lạm phát , tăng trưởng , chính sách )         - Giải pháp ngành :              + Minh bạch thị trường bất đống sản bằng cách ( Mở rông sự hoạt động của sàn , đẩy nhanh tốc độ đăng kí bất động sản , triển khai các biện pháp chống đầu cơ … )              + Thay đổi cơ cấu các nguồn thu từ bất động sản chú trọng vào cá nguồn thu bền vững như ( Thuế nhà đất, Thuê đất )              + Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh bất đống sản cũng như các chính sách phát triển thị trường ( Có các chỉ thị nghị định về hướng đẫn thi hành luật bất động sản )              + Phát triển cơ sở hạ tầng để tạo cơ điều kiện cho đầu tư ..              + Kiểm soát các nguồn vốn vay bất động sản tiếp tục hỗ trợ các dự án khả thi phải có 1 lộ trình đối với việc hạn chế cho vay bất động sản   ……………………………………………………………….      Với vai trong quan trọng của thị trường bất động sản thì vấn đề  sử dụng nguồn vốn tiềm năng này là vấn đề rất quan trọng trong việc đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế - Thuế thu nhập cá nhân Một trong những giải pháp đang được tính đến là đánh thuế thu nhập cá nhân.Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế trực thu (đánh lên thu nhập) bao giờ cũng công bằng hơn thuế gián thu (đánh lên tiêu dùng). Lý do đơn giản là với sắc thuế này, người có thu nhập cao phải đóng thuế với tỉ lệ cao hơn người có thu nhập thấp, chưa cần xét đến thu nhập đó sẽ dùng để làm gì. Chính vì vậy, ở các nước tiên tiến, tỉ lệ thuế thu nhập cá nhân thường chiếm từ 30% đến 50% tổng thu ngân sách của chính phủ. Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam (tên hiện tại là pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao) đã được áp dụng từ năm 1991. Tuy nhiên, trong suốt 16 năm, loại thuế này vẫn chỉ chiếm tỉ lệ quanh quẩn 2% trong tổng thu ngân sách. Cũng trong 16 năm qua, ngưỡng bắt đầu chịu thuế áp dụng cho người Việt Nam đã được điều chỉnh 5 lần (chưa tính những lần Chính phủ đề xuất nhưng không được Quốc hội thông qua), ngưỡng này tăng dần từ 500 ngàn đồng/tháng (áp dụng từ năm 1991) đến 5 triệu đồng/tháng (áp dụng từ năm 2004). Đồng thời, thuế suất tối đa áp dụng cho người Việt Nam cũng giảm dần từ mức 80% xuống 72%, rồi 65%, rồi 40%, để còn lại mức 35% như trong dự thảo luật thuế hiện tại. Hiện nay, căn cứ theo Pháp lệnh thuế thu nhập cao, cả nước có khoảng trên 300.000 người thuộc diện phải chịu thuế thu nhập. Dự kiến, số đối tượng chịu thuế thu nhập khi Luật Thuế TNCN được thông qua và có hiệu lực thi hành ước tính khoảng 2,3 triệu người với khoản thu gần 13.000 tỷ đồng, chiếm hơn 4% GDP . *Thu nhập chịu thuế Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân bao gồm những khoản thu nhập sau đây Thu nhập từ sản xuất, kinh doanh; Thu nhập từ tiền lương, tiền công, tiền thù lao, các khoản thu nhập có tính chất tiền lương, tiền công theo quy định của pháp luật mà người sử dụng lao động trả cho người lao động, bằng tiền và không bằng tiền (sau đây gọi chung là thu nhập từ tiền lương, tiền công); Thu nhập từ đầu tư vốn bao gồm lãi cho vay, lãi trái phiếu, lợi tức cổ phần, lợi tức từ các hình thức góp vốn khác; Thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng vốn; Thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản; Thu nhập khác bao gồm thu nhập từ trúng thưởng xổ số, trúng thưởng trong các hình thức khuyến mại, trò chơi có thưởng; tiền bản quyền; thu nhập từ nhượng quyền thương mại; thu nhập từ chuyển giao công nghệ; thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là cổ phiếu, trái phiếu, quyền sở hữu công ty, bất động sản. Ngoài các giải pháp trên chúng ta còn phải chú trọng đến việc quản lý và sử dụng vốn Nhà nước vào kinh doanh, mà chủ yếu là thông qua các doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị kinh doanh có sử dụng vốn của Nhà nước. Việc đầu tư vốn Nhà nước vào kinh doanh đem lại lợi ích kinh tế cho Nhà nước và là công cụ quan trọng để điều tiết nền kinh tế. Chính vì vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước vào lĩnh vực này là cần thiết và hợp lý. Nhà nước trước hết phải xác định được mục đích đầu tư vốn Nhà nước chuyển vào kinh doanh để chuyển hướng có hiệu quả hơn. Tiếp theo, việc hình thành Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước là cần thiết để chuyển cơ chế chuyển giao vốn sang cơ chế đầu tư vốn. Một vấn đề được đặt ra là trong cải cách doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hoá một khối lượng vốn lớn từ ngân sách, nhưng quỹ này chưa đưa vào hệ thống ngân sách. Vậy Nhà nước phải tìm hướng giải quyết và sử dụng quỹ này một cách hợp lý và hiệu quả. Bên cạnh đó là việc hình thành quỹ đầu tư riêng cho quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào kinh doanh với nhiệm vụ tạo nguồn đầu tư cơ bản cho các dự án có vốn Nhà nước. Mặt khác Nhà nước cần thiết kế hai phương thức đầu tư vốn của Nhà nước. Đầu tư trực tiếp thông qua cấp, phát, giao vốn trực tiếp cho doanh nghiệp và đầu tư gián tiếp thông qua cho vay, hỗ trợ tín dụng.. qua quỹ đầu tư phát triển. Việc hình thành cơ chế sau đầu tư và cơ chế quản lý sau đầu tư là cần thiết để lựa chọn phương án đầu tư hiệu quả hơn và hạn chế tối đa thất thoát vốn Nhà nước. Và cuối cùng cần phải có cơ chế minh bạch và công khai thông tin tài chính từ các doanh nghiệp. Nguồn vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước cũng cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng vì đây là một khâu quan trọng. Trước hết kiên quyết xóa bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của DNNN. Thực hiện đầu tư vốn thông qua các Công ty đầu tư tài chính của Nhà nước. Thứ hai là, trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn phải giải quyết nhu cầu chi tiêu lớn cho an ninh quốc phòng và các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, nên DN phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh là chính, tận dụng mọi nguồn thu và huy động vốn từ nhiều nguồn để giảm bớt những áp lực khó khăn nói chung. Thứ ba là, đối với các DNNN đã, đang và sẽ sắp xếp lại để cổ phần hóa, các ngân hàng thương mại chủ động tham gia xây dựng và quyết định phương án sắp xếp lại DNNN với vai trò là chủ nợ, phù hợp với chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới DNNN. Đồng thời, tiếp tục mở rộng đầu tư vốn tín dụng để giúp cho các DN đổi mới công nghệ bằng nguồn vốn trung dài hạn để mua sắm các loại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và xây dựng nhà xưởng để DN có đủ sức cạnh tranh cao, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế. Thứ tư, đối với tín dụng ngân hàng cần tập trung đầu tư vốn vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có dự án khả thi và có khả năng trả nợ. Thứ năm, tăng cường đôn đốc thu hồi nhanh vốn nhanh, thực hiện phương thức "tiền vào hàng ra, tiền trao cháo múc" hạn chế tối đa nhất các khoản vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng trong thanh toán. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó tạo ra lợi nhuận trong DN, nâng cao đời sống của người lao động. 2.Khu vực tư nhân: Đối với việc huy động và sử dụng nguồn vốn trong các doanh nghiệp tư nhân thì cần thực hiện các chính sách sau: - Nhà nước nên thành lập một đầu mối để giải quyết các vấn đề vướng mắc cho các doanh nghiệp. Điều này giúp cho các doanh nghiệp có chỗ dựa và cơ sở hoạt động, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp còn non trẻ. Do các doanh nghiệp tư nhân không có tổ chức bảo trợ và đỡ đầu như các doanh nghiệp Nhà nước nên việc này giúp cho các doanh nghiệp công bằng hơn trong cạnh tranh kinh doanh. - Nhà nước ta cũng nên khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tự đầu tư trực tiếp để mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư gián tiếp nhằm tăng lợi nhuân. Để các doanh nghiệp không để ứ đọng vốn, gây lãng phí nguồn lực, tạo hiệu quả trong việc sử dụng vốn nhằm thúc đẩy và phát triển hoạt động kinh doanh, cũng như là phát triển nền kinh tế nước ta. - Ngoài ra cũng cần phải quy định bắt buộc kết hợp với những biện pháp khuyến khích về thuế, tiêu dùng để các doanh nghiệp tư nhân áp dụng chế độ chứng từ, sổ sách kế toán đã ban hành, nhằm tăng cường công tác kiểm tra tài chính, chống thất thu thuế, tạo căn cứ cho việc gọi vốn và liên doanh, hợp tác với các doanh nghiệp khác. - Để các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ dễ dàng tiếp cân với các nguồn vốn, các ngân hàng cũng cần đẩy mạnh phát triển các sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa. bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng phải tự nâng cao năng lực của mình, tự hoàn thiện mình. Mô hình HTX của nước ta cũng cần có những giải pháp khuyến khích đầu tư cụ thể. Để thúc đẩy phát triển HTX nông nghiệp trong thời gian tới, bộ NN&PTNT chủ trương cần tiếp tục ban hành nhiều giải pháp để nâng cao năng lực hoạt động của HTX nông nghiệp theo hướng củng cố tập trung phát triển dịch vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản nhằm mục tiêu hạ giá thành và nâng cao chất lượng các dịch vụ; khuyến khích HTX phát triển các dịch vụ phục vụ đa dạng trong nông, lâm, ngư nghiệp; tiếp tục xây dựng mới HTX theo mô hình kinh doanh đa ngành; đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý và xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của HTX. Những vướng mắc trong cơ chế vay vốn, giao đất sản xuất cho HTX cần được nhanh chóng tháo gỡ với sự chỉ đạo sát sao của chính quyền địa phương. Ngoài ra Nhà nước ta cần tạo điều kiện để các HTX nhận được những trợ giúp tích cực hơn trong công tác xúc tiến thương mại, chuyển giao khoa học kỹ thuật, đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt cần tạo điều kiện thành lập các doanh nghiệp trên cơ sở liên kết các HTX cùng sản xuất những loại hàng nông sản hoặc phát triển các HTX quy mô lớn có nhiều “ chi nhánh nhỏ” làm gia tăng năng lực cạnh tranh của kinh tế hợp tác trong tương lai. Hoạt động đầu tư kinh doanh có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, do vậy sự đồng bộ của hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực chính là tạo dựng môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn, có sức thu hút các nguồn lực đầu tư mạnh mẽ hơn. Một cơ chế, hay chính sách thoả đáng về đất đai, thuế, thủ tục và các giao dịch dân sự là những nhân tố hết sức quan trọng trong việc tạo điều kiện và thu hút đầu tư đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, do vậy để tạo điều kiện thuận lợi để doanh nhân đầu tư về nước cần tiến hành một số công việc cụ thể sau: - Thực thi hiệu quả các quy định của Luật Đầu tư (2005). Với các quy định mới trong luật Đầu tư, kì vọng sẽ góp phần cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư Việt Nam, tác động tích cực trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam. - Rà soát lại các văn bản pháp quy hiện hành có liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài để kiến nghị bổ sung, sửa đổi cho phù hợp. - Thực hiện triệt để việc công bố công khai các dự án đầu tư; xây dựng kế hoạch công bố theo định kì trên các phương tiện thông tin đại chúng ở tầm quốc gia đối với các dự án thuộc trung ương quản lý và có kế hoạch kêu gọi đầu tư. -Tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư là người Việt Nam định cư ở nước ngoài có mặt bằng kinh doanh. - Quy định rõ ràng minh bạch các khâu thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các quá trình thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục - Nghiên cứu xây dựng chiến lược thu hút chất xám, nguồn tài sản trí thức quý báu đáp ứng nhu cầu của trong nước. - Xây dựng chính sách khen thưởng cho các doanh nghiệp, doanh nhân kiều bào có nhiều đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước qua các dự án đầu tư của họ vào Việt Nam. II.Các giải pháp nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nước ngoài: 1.Khuôn khổ chính sách thu hút FDI Chính sách thu hút vốn FDI tại Việt Nam đã được thực hiện ngay từ khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và được thể chế hóa thông qua ban hành Luật Đầu tư Nước ngoài năm 1987. Cho đến nay, Luật Đầu tư Nước ngoài đã được sửa đổi và hoàn thiện lần vào các năm 1990, 1992, 1996 và gần đây nhất là năm 2000. Những thay đổi quan trọng trong chính sách thu hút FDI qua các kỳ sửa đổi Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam là ngày càng nới rộng quyền, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài và thu hẹp sự khác biệt về chính sách đầu tư giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Để có được như vậy chúng ta cần phải: -Hoàn chỉnh chiến lược thu hút và sử dụng FDI đến năm 2010 phù hợp với chiến lược phát triển KTXH.Xác định rõ mục tiêu,nhiệm vụ và giải pháp cho từng năm,từng giai đoạn.Hoàn thiện qui hoạch ngành theo hướng xóa bỏ hạn chế đối với các doanh nghiệp nước ngoài phù hợp với cam kết quốc tế,tạo điều kiện cho khu vực ĐTTN tham gia nhiều hơn vào việc phát triển các ngành(ví dụ như xi măng,nước giải khát,tổng sơ đồ phát triển điện…) Về hoạt động xúc tiến đầu tư.Chính sách và chiến lược thu hut FDI của các nước đều trải qua 3 giai đoạn:xây dưng môi trường đầu tư,đẩy mạnh quảng cáo tiếp thị hình ảnh,giới thiệu chánh sách và môi trường đầu tư của nước mình đến các nhà đầu tư tiềm năng lớn,xác định một ssos ngành chiến lược,địa điểm chiến lược và cấp lãnh đạo cao nhất đứng ra tiếp thị trực tiếp với các công ty đa quốc gia có khả năng lớn về FDI - Cải thiện môi trường đầu tư,tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp,công tác qui hoạch,các chính sách về đầu tư nước ngoài - Tập trung và hướng việc thu hút FDI vào các lĩnh vực tạo đà vững chắc cho sự phát triển KTXH nói chung và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để tăng cường thu hút FDI,những lĩnh vực tạo ra giá trị gia tăng lớn và làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế như đầu tư vào cơ sở hạ tầng,lĩnh vực dịch vụ,nghiên cứu,và ứng dụng khoa học công nghệ - Đẩy mạnh,hoàn thiện công tác quản lí nhà nước,cải tiến thủ tục hành chính đối với hoạt động ĐTNN -Muốn tăng nguồn vốn FDI đầu tư vào VN, không những chỉ đi tìm kiếm các nhà đầu tư mà VN cũng cần phải có các phương pháp tự quảng bá hình ảnh của mình, biến mình thành điểm đầu tư hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư tìm đến. Đây chính là phương pháp Marketing. MPI năm 2003 tiến hành nghiên cứu toàn diện về chiến lược xúc tiến FDI. Nghiên cứu đề xuất việc xây dựng hình ảnh quốc gia như là nội dung trọng tâm của công tác xúc tiến. Nghiên cứu cũng cho rằng Việt Nam cần xác định rõ ràng các nhà đầu tư mục tiêu và sử dụng các kỹ thuật xúc tiến phù hợp. Nghiên cứu cũng nhấn mạnh các biện pháp đặc thù đảm bảo thành công của công tác xúc tiến FDI như xây dựng một cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia và thực hiện các chương trình hành động cụ thể. Hiện tại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang thực hiện những gợi ý từ nghiên cứu này song việc thu hút FDI vẫn còn nhiều tồn tại nghiêm trọng cần được giải quyết. Chính phủ cần am hiểu các yêu cầu đối với các doanh nghiệp FDI và sử dụng chính sách để thoả mãn nhu cầu của các doanh nghiệp FDI. Hệ thống hai giá (các công ty trong nước và các công ty FDI đang trả phí khác nhau cho cùng một dịch vu) cũng là một trở ngại trong thu hút FDI. Mặc dù Việt Nam đang cố gắng để thu hẹp khoảng cách này cũng như đã đạt được những kết quả đáng kể song nỗ lực này vẫn chưa được tuyên truyền hiệu quả tới các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư tiềm năng vẫn cho rằng họ sẽ phải trả phí cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Việt Nam không cần phải trở thành quốc gia có chi phí kinh doanh thấp nhất vì nỗ lực này đòi hỏi nhiều thời gian và các nhà đầu tư sẵn sàng trả chi phí cao hơn ở những môi trường đầu tư tốt hơn. Vấn đề nghiêm trọng nhất là chi phí kinh doanh ở Việt Nam không cao như nhà đầu tư đang nghĩ và nhà đầu tư không biết về điều này. Một lần nữa điều này cho thấy Việt Nam cần tuyên truyền một cách hiệu quả về những nỗ lực giảm chi phí của mình. Các nhà đầu tư cần biết rằng chi phí kinh doanh ở Việt Nam đang giảm đáng kể và hệ thống hai giá chẳng bao lâu nữa sẽ không còn tồn tại (Ohno 2004). Một đặc điểm khác của mọi nhà đầu tư đó là để khẳng định lợi ích mà nhà đầu tư có thể đạt được ở Việt Nam, cơ quan thu hút đầu tư cần sử dụng ngôn ngữ của nhà đầu tư, đó là phải chỉ ra được khả năng thu được lợi nhuận từ kinh doanh ở Việt Nam. Một yếu tố thành công khác đó là khai thác mối quan hệ của các nhà đầu tư đã có mặt tại Việt Nam với nhà đầu tư ở nước chủ nhà. Chẳng hạn, tỉnh Vĩnh Phúc đã sử dụng được quan hệ của một Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp ở một tỉnh của Hàn Quốc để làm việc với Thống đốc của tỉnh này và tiếp xúc với cộng đồng doanh nghiệp ở địa phương đó (Dam 2004). Bên cạnh đó, các cuộc hội nghị và hội thảo được chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ có tác dụng nhiều hơn là gửi tài liệu xúc tiến cho đối tác (Nguyen 2004b).Ngoài ra, các yếu tố hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư bao gồm:chi phí lao động rẻ; thị trường nội địa tiềm năng lớn trong tương lai; nguồn nhân lực tốt; và phân tán rủi ro Hình 4 cho thấy kích cỡ thị trường tương lai và lao động rẻ là hai yếu tố quan trọng nhất hấp dẫn các nhà đầu tư. Mỗi bộ cần trở thành đầu mối thông tin về ngành và cơ hội đầu tư vào ngành mà bộ quản lý.Các tỉnh và khu công nghiệp có thể có những nghiên cứu riêng về các nhà đầu tư mục tiêu, từ đó, đưa ra các chiến lược khác nhau với các biến số khác nhau. Chính các địa phương và các khu công nghiệp là những người hiểu rõ nhất về việc nhà đầu tư nào sẽ đến với mình. Các tỉnh và khu công nghiệp vẫn có thể cạnh tranh với nhau để thu hút FDI thông qua việc xác định nhà đầu tư mục tiêu khác nhau, cải thiện chương trình marketing, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng địa phương và đưa ra các dịch vụ sáng tạo trước và sau đầu tư. Và tất nhiên tất cả các nỗ lực này đều phải nằm trong khuôn khổ quốc gia do Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Công nghiệp và các bộ khác đưa ra. Một trong những lý do cản trở việc thực hiện một chiến lược xúc tiến FDI hiệu quả là hạn chếvề ngân sách. Trên phạm vi quốc gia, Việt Nam không có một ngân sách riêng biệt dành cho xúc tiến đầu tư. Phần lớn các chuyến đi khảo sát hay xúc tiến do phía đối tác nước ngoài tài trợ. Ở tầm địa phương, ngân sách dành cho xúc tiến đầu tư cũng hạn chế. Một số địa phương đã có ngân sách riêng cho hoạt động này là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Dương (MPI-JICA 2003).Chính vì thế chính phủ cần có chính sách cụ thể cho vấn đề này. Cụ thể, Chính phủ nên phân bổ ngân sách trực tiếp cho các Sở Kế hoạch và Đầu tư. Thậm chí sẽ tốt hơn nếu ngân sách được phân bổ cho từ 3 đến 5 năm (khoảng thời gian cần thiết để thực hiện hiệu quả các chương trình vận động đầu tư).Trên phạm vi quốc gia, nên thành lập một Cơ quan xúc tiến đầu tư của Việt Nam (Vietnam Investment Promotion Agency, VNIPA) nhằm đảm bảo sự phối hợp có hiệu quả giữa các bên liên quan. 2.Giải pháp thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA: Những khuyến nghị cụ thể được đưa ra, như: xây dựng hoàn thiện môi trường pháp lý cho việc vận động, thực hiện nguồn vốn ODA; hoàn thiện hệ thống quản lý, giám sát thực hiện nguồn vốn ODA; Thu hút vốn ODA tập trung theo định hướng vào lĩnh vực cụ thể, tránh dàn trải theo lối tư duy “hoa thơm mọi người cùng ngửi”; Xây dựng quy hoạch phải có sự đánh giá chi tiết việc vận động và sử dụng ODA trên cả bình diện tổng thể nền kinh tế và của từng ngành, từng vùng; Xây dựng hệ thống tiêu chí ưu tiên vận động và sử dụng ODA một cách thống nhất...Cụ thể: * Nhóm chính sách thu hút ODA: - Tiếp tục thực hiện mạnh mẽ một số chính sách mà các nhà tài trợ thường nhấn mạnh và coi là thông điệp để cam kết tài trợ (phát triển kinh tế, xã hội nhanh và bền vững; xoá đói giảm nghèo; cải thiện môi trường đầu tư; minh bạch tài chính công; chống tham nhũng…) -Tăng cường quan hệ đối tác giữa chính phủ và các nhà tài trợ như cải tiến hơn nữa Hội nghị CG thành diễn đàn đi vào thực chất hơn; tăng cường đối thoại chính sách, chia sẻ thông tin và tăng cường phối hợp giữa các nhà tài trợ. - Xây dựng và ban hành các tiêu chí làm cơ sở cho việc huy động ODA cho các tỉnh và thành phố để đảm bảo tính minh bạch và công bằng. - Thúc đấy sự tham gia của cộng đồng, đặc biệt là cấp địa phương vào quá trình huy động ODA. * Nhóm chính sách và giải pháp sử dụng và quản lý ODA gồm: - Kiện toàn môi trường pháp lý về quản lý và sử dụng ODA với các quy trình, thủ tục nhất quán, rõ ràng và cụ thể - Hoàn thiện chính sách tài chính trong nước đối với ODA: cơ chế tài chính cho vay; chính sách thuế đối với các dự án ODA, quản lý nợ nước ngoài, ghi nhận vốn ODA vào ngân sách Nhà nước. -Cải thiện hệ thống của chính phủ về mua sắm công, quản lý tài chính công, theo dõi và đánh giá… -Thống nhất một đầu mối về công tác thu hút, quản lý và sử dụng ODA ở các cấp. Nâng cao tính tự chủ và chất lượng chuẩn bị nôi dung các chương trình, dự án ODA, tăng cường năng lực cán bộ quản lý và thực hiện dự án. -Hoàn thiện mô hình quản lý và thực hiện chương trình dự án ODA, tăng cừờng năng lực thẩm định dự án. Tăng cường năng lực và hiệu lực tổ công tác ODA của chính phủ. - Khuyến khích để người dân tham gia vào quản lý và sử dụng ODA, tăng cường hoạt động hài hoà quy trình và kĩ thuật giữa Chính phủ với nhà tài trợ và giữa các nhà tài trợ với nhau. - Cần đấy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về ODA và các quy trình thủ tục của Chính phủ cũng như nhà tài trợ. Một thực tế đặt ra là những dự án sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thường mắc phải vấn đề thiếu vốn - vốn đối ứng, một yếu tố quan trọng để bảo đảm tiến độ và hiệu quả dự án, mặc dù trong các điều ước, hiệp định ký kết với phía các nhà tài trợ về ODA, Chính phủ đã cam kết cung cấp đầy đủ vốn đối ứng. Vốn đối ứng là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình, dự án ODA được cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước ngoài trên cơ sở hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Nguồn để bố trí vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA bao gồm: Nguồn vốn ngân sách cấp phát, bao gồm khoản chi sự nghiệp và khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản tập trung mà trong quyết định đầu tư đã quy định. Căn cứ vào quyết định đầu tư, một phần hoặc toàn bộ vốn đối ứng của chương trình, dự án ODA được sử dụng nguồn ngân sách cấp phát (theo 2 khoản chi ngân sách nói trên). Nguồn vốn tín dụng: Nhà nước ưu tiên dành một phần vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước cho các chủ đầu tư vay để làm vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA trên cơ sở các hợp đồng cho vay lại vốn của nước ngoài được ký kết giữa chủ đầu tư và Bộ Tài chính. Chủ đầu tư vay vốn tín dụng phải có trách nhiệm hoàn trả vốn vay (gốc và lãi) theo đúng hợp đồng vay. Bộ Tài chính chỉ bố trí vốn để bù chênh lệch lãi suất (giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay). Nguồn vốn tự huy động của các doanh nghiệp Nhà nước bao gồm khấu hao cơ bản tài sản cố định có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước, lợi tức sau thuế, nguồn vay thương mại, huy động trong dân... để bố trí vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA mà trong quyết định đầu tư quy định chủ đầu tư phải tự cân đối nguồn vốn đối ứng. Nguồn vốn huy động từ các tầng lớp dân cư, kể cả sự đóng góp bằng công lao động để cân đối nguồn vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA (các chương trình, dự án đầu tư thực hiện theo phương thực Nhà nước và nhân dân cùng làm). Kế hoạch vốn đối ứng phải phân bổ cụ thể theo từng loại nguồn vốn: nguồn vốn ngân sách chi sự nghiệp, vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung do ngân sách cấp phát, vốn vay tín dụng theo kế hoạch Nhà nước, vốn huy động của các doanh nghiệp Nhà nước, vốn vay từ các nguồn khác, vốn huy động sự đóng góp của các tầng lớp dân cư (kể cả huy động công lao động). Để có thể đảm bảo được vốn đối ứng cho các dự án ODA,cần thiết phải có hướng dẫn cụ thể về điều kiện thực hiện các cơ chế cho vay của các tổ chức tín dụng như Quỹ hỗ trợ phát triển, Ngân hàng Thương mại quốc doanh... về nguồn và thể thức bù chênh lệch lãi suất khi cấp tín dụng ưu đãi nhà nước để làm vốn đối ứng các dự án ODA. Đối với các dự án ODA với cơ chế trong nước là cấp phát, việc giao kế hoạch vốn đối ứng vẫn được thực hiện theo những quy định chung cho nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, dẫn đến sự suy giảm tính ưu tiên cao của dự án ODA. Để hạn chế vấn đề này, thiết nghĩ cần phải xây dựng một phương thức giao kế hoạch vốn đối ứng mới, nhằm đáp ứng được các yêu cầu sau: Đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn đối ứng của chủ dự án nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện dự án như đã cam kết với nhà tài trợ; Bảo đảm các Bộ, ngành, địa phương không sử dụng ngân sách cân đối cho vốn đối ứng vào những mục đích khác (ví dụ: ghi sử dụng cho các dự án đầu tư trong nước); Bảo đảm sự chủ động của các Bộ, ngành, địa phương trong việc điều chuyển nguồn vốn đối ứng giữa các dự án ODA do mình quản lý. Những yêu cầu nói trên có thể đáp ứng được bằng cách ghi kế hoạch vốn đối ứng cho các dự án ODA thành một dòng ngân sách riêng trong kế hoạch vốn tập trung của các Bộ, ngành và địa phương, chỉ được sử dụng nguồn vốn theo dòng ngân sách này làm đối ứng cho các dự án trong danh mục các dự án ODA đang thực hiện đã được phê duyệt. Nguồn vốn đối ứng cho các dự án khi đã cân đối cho các Bộ, ngành, địa phương nếu không sử dụng hết sẽ được kết dư sang năm sau hoặc sẽ được điều chuyển sang các Bộ, ngành, địa phương khác có nhu cầu lớn về vốn đối ứng. (Nguồn: KTDB) 3.Đầu tư gián tiếp(FPI) Việc thực hiện các cam kết trong khi gia nhập WTO là một trong những giải pháp quan trọng để Việt Nam giải quyết những vấn đề rào cản trong thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Ngoài ra, cần phải tính đến các giải pháp nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa thu hút FPI và hạn chế các tác động tiêu cực của dòng vốn này trong thời kỳ hậu WTO. Có một số chính sách cơ bản sau: - Cần sớm ban hành và thực thi chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài FPI, xem xét nới lỏng ngành nghề hoạt động và tỷ lệ nắm giữ cổ phần đối với các nhà đầu tư nước ngoài. - Thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá và niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán đối với các doanh nghiệp Nhà nước. - Thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm gia tăng tính minh bạch của thị trường tài chính, gia tăng quy mô và chất lượng các sản phẩm tài chính, sớm có những hướng dẫn cụ thể về luật chứng khoán, khuyến khích phát triển các công ty quản lý quỹ. - Tăng cường các kênh thông tin, quảng bá hình ảnh Viêt Nam ra thế giới. - Tăng cường an ninh tài chính, thực hiện các chính sách kiểm soát các dòng vốn khi cần thiết, phối hợp giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và chính sách thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngân hàng - tài chính - chứng khoán trong việc quản lý các dòng vốn nhằm đảm bảo sự an toàn, vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính 4. Trái phiếu quốc tế: Kinh nghiệm thực tế đã khẳng định vai trò của trái phiếu quốc tế nói chung và thị trường trái phiếu chính phủ nói chung đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, do vậy ở Việt Nam, một số giải pháp thúc đẩy sử dụng trái phiếu chính phủ để huy động vốn cho đầu tư phát triển kể đến như sau: - Đa dạng hoá các loại hình trái phiếu chính phủ, tăng tính hấp dẫn của trái phiếu Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài. - Cải tiến cơ chế phát hành trái phiếu chính phủ để tăng cường khả năng huy động vốn. -Tăng cường cơ chế quản lý, giám sát việc phát hành trái phiếu chính phủ và việc sử dụng vốn vay từ trái phiếu quốc tế. -Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về phát hành và giao dịch trái phiếu quốc tế - Đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ chuyên môn và tăng cường tuyên truyền phổ cập thông tin về trái phiếu chính phủ ra công chúng Muốn thực hiện được những giải pháp đã đặt ra trên đây, Việt Nam cần có những chính sách ổn định nền kinh tế vĩ mô, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, nâng cao khả năng huy động vốn trên thị trường tài chính. Ngoài ra, phát triển thị trường tài chính nhằm nâng cao khả năng luân chuyển và huy động các nguồn lực tài chính cũng là vấn đề mà Việt Nam cần thực hiện trong những năm trước mẳt.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24916.doc