Phát triển thị trường sức lao động cũng như việc tăng cường vai trò nhà nước để phát triển thị trường này là một tất yếu khách quan. Vấn đề này đã được khảng định cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, phát triển thị trường sức lao động trong điều kiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là một vấn đề vô cùng khó khăn, phức tạp và mới mẻ. Điều đó càng thấy rõ tầm quan trọng của nhà nước đối với việc phát triển loại thị trường này ở nước ta nói chung thành phố Hải Phòng nói riêng. Nhà nước tăng cường vai trò của mình để phát triển thị trường sức lao động với mục tiêu thông qua thị trường sức lao động để sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn nhân lực của đất nước-một yếu quan trọng nhất, năng động nhất của quá trình sản xuất xã hội.
Thị trường sức lao động ở nước ta là thị trường sức lao động định hướng xã hội chủ nghĩa, được hình thành và phát triển trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của thị trường sức lao động định hướng xã hội chủ nghĩa là xây dựng quan hệ lao động mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Trong quá trình hình thành và phát triển thị trường sức lao động đã thể hiện rõ nét vai trò, sự nỗ lực của nhà nước để thúc đẩy thị trường này. Nhà nước đã phát huy ưu thế của thị trường, đồng thời hạn chế được sự tự phát và những hậu quả tiêu cực nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình đổi mới, Chính quyền và các cơ quan chuyên môn của Hải Phòng đã hết sức cố gắng để tác động, hỗ trợ, thúc đẩy thị trường sức lao động hình thành và phát triển. Sự cố gắng đó bước đầu đã đem lại những kết quả rất đáng phấn khởi; góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội Song, bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế của thị trường sức lao động nói chung, vai trò nhà nước ở Hải Phòng đối với thị trường này nói riêng cần phải khắc phục. Thành phố Hải Phòng chưa thực sự quan tâm tới đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Công tác quản lý nhà nước đối với các kênh giao dịch trên thị trường sức lao động còn nhiều hạn chế. Vẫn còn trung tâm giới thiệu việc làm “ma”; tình trạng người lao động bị lừa đảo trong quá trình tìm kiếm việc làm hoặc đi xuất khẩu lao động vẫn còn xảy ra; thành phố vẫn chưa đẩy mạnh việc thành lập để đưa sàn giao dịch việc làm vào hoạt động Nhìn chung, vai trò của nhà nước ở Hải Phòng vẫn chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn trong việc phát triển thị trường sức lao động.
Trên cơ sở phân tích thực trạng thị trường sức lao động, thực trạng vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng luận văn đã đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Phân tích khái niệm, vị trí và vai trò của thị trường sức lao động.
- Phân tích sự cần thiết phải có can thiệp của nhà nước đối với phát triển thị trường sức lao động và nội dung vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động.
118 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1591 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Thành phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ý ổn định lâu dài, đặc biệt là chính sách về thuế, các thủ tục hành chính… để các doanh nghiệp yên tâm phát triển hoạt động của mình.
- Có các lớp đào tạo, bồi dưỡng quản lý kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp và mở rộng các hình thức dạy nghề tư nhân để đào tạo nhân lưc cung cấp cho thị trường sức lao động.
Như vậy, vấn đề phát triển thị trường sức lao động ở khu vực thành thị cần gắn với chiến lược phát triển đô thị và phù hợp với từng thời kỳ lịch sử được định ra trong chiến lược đó.
Từ nay đến năm 2010, mục tiêu chiến lược nhằm tạo nên sự ổn định trong nền kinh tế với cơ chế thị trường, tập trung chủ yếu vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hướng đầu tư vào các ngành kinh tế, khu vực kinh tế trọng điểm tạo nên các cực phát triển về đô thị nhằm đạt các mục tiêu và hiệu quả cao về phát triển kinh tế, xã hội, làm tăng lực lượng lao động trong dịch vụ, thương mại nhanh hơn lực lượng lao động công nghiệp.
Cần phải chấp nhận dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị như một quy luật. Dòng di chuyển này còn tiếp tục tăng về quy mô và các hướng. Trên địa bàn thành thị vấn đề việc làm cho đối tượng này cũng cần được tính đến. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước liên quan cần có sự chỉ đạo thống nhất trong quản lý bộ phận người lao động chuyển từ khu vực khác vào khu vực nội thành, nội thị tìm kiếm việc làm, sinh sống.
*. Phương hướng phát triển thị trường sức lao động ở khu vực không kết cấu.
Từ sự đổi mới cơ chế quản lý, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi và nhân tố mới để nhân dân chủ động tạo chỗ làm việc mới, giải quyết được một bước cầu về việc làm và đời sống của người lao động; quan hệ về cung cầu lao động trên thị trường sức lao động được điều chỉnh và thay đổi phù hợp hơn với quy luật của nền kinh tế thị trường. Thị trường sức lao động được phát triển đa dạng và phong phú hơn, trong đó đặc biệt là khu vực không kết cấu được phát triển khá sôi động cả ở thành thị và nông thôn.
Khu vực không kết cấu đó là những hoạt động sản xuất và kinh doanh nhỏ, có tính chất cá thể, dùng sức lao động của bản thân và gia đình là chính hoặc có thuê lao động nhưng vốn ít, không có thời gian và địa điểm hoạt động cố định, chủ yếu là hoạt động ở nhà, ở mặt phố, chợ, vỉa hè, lề đường, chưa được Nhà nước kế hoạch hoá, định hướng và có chính sách phát triển. Ở nông thôn, hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu trên quy mô hộ gia đình và không bị hạn chế trong lĩnh vực thuần nông. Trong đó, đang có xu hướng khá rõ phát triển công nghiệp nhỏ ở nông thôn, gia đình phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản xuất khẩu, phát triển khá mạnh hệ thống dịch vụ sản xuất và dịch vụ đời sống, áp dụng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào nông thôn để khai thác các nguồn lợi đặc sản xuất khẩu có giá trị cao (nuôi tôm, nuôi cua, trồng nấm…).
Đặc điểm cơ bản nhất của loại hình hoạt động kinh tế không kết cấu là quy mô nhỏ (vốn, lao động…), trình độ tổ chức thấp, công nghệ đơn giản, thị trường phong phú và linh hoạt, tính thích nghi cao…
Lĩnh vực hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế không kết cấu hiện nay chủ yếu là thương nghiệp, còn lại hoạt động trong lĩnh vực sản xuất (may mặc, đồ da, chế biến gỗ, gia công kim loại, vật liệu xây dựng, chế biến ngũ cốc, thức ăn, xây dựng nhà cửa) và dịch vụ khác (sửa chữa đồ điện, cắt tóc, vận tải…), có thu nhập thấp nhất là dạng hoạt động buôn bán nhỏ, hàng rong, còn cao nhất thường nằm ở ngành dịch vụ ăn uống.
Con đường phát triển của nó là từ thấp lên cao phù hợp với khả năng tích luỹ vốn của mỗi người. Giai đoạn đầu ở “tầng thấp”, chủ yếu có thu nhập tối thiểu đủ sống; giai đoạn hai khi bắt đầu có tích luỹ có thể lập doanh nghiệp nhỏ gọi là “tầng trung bình”; hoặc có thể phát triển lên doanh nghiệp quy mô lớn khi đủ điều kiện về vốn, kỹ thuật, thị trường… đó là “tầng cao”.
Trong chính sách điều chỉnh kinh tế cần chú ý phát triển khu vực kinh tế không kết cấu là quy luật tất yếu khách quan. Đó là nơi thị trường sức lao động hoạt động sôi động, thu hút được nhiều lao động, góp phần giảm sức ép về việc làm, nhất là ở thành thị.
Khu vực kinh tế không kết cấu phải được coi là một lĩnh vực có khả năng thu hút nhiều lao động và tồn tại lâu dài ở nước ta, là bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, là một trong những lĩnh vực hoạt động sôi động nhất của thị trường sức lao động, góp phần tăng tổng sản phẩm xã hội và ổn định đời sống nhân dân, song phải được kiểm soát về mặt nhà nước thông qua cơ chế và chính sách được quy hoạch, kế hoạch hoá và định hướng phát triển.
*. Phương hướng phát triển thị trường sức lao động ngoài nước.
Phát triển thị trường sức lao động ngoài nước hay nói cách khác là phát triển thị trường sức lao động thông qua xuất khẩu lao động. Trong điều kiện kinh tế thị trường, xuất khẩu lao động đích thực là một hoạt động kinh tế, hoàn toàn dựa trên quan hệ cung cầu về lao động. Nó chịu tác động điều tiết bởi các quy luật của kinh tế thị trường.
Xuất khẩu lao động là kết quả của sự mất cân đối giữa nước nhận và nước gửi lao động, thường là sự mất cân đối về kinh tế, về khả năng cung cầu lao động, về sự phân bố tài nguyên - địa lý không đồng đều và sự phụ thuộc vào các chính sách quốc gia. Các yếu tố đã tạo ra sự di chuyển hoặc tuyển người lao động từ nước này qua nước khác để bù đắp sự thiếu hụt và dư thừa lao động giữa các nước và khu vực.
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế của một quốc gia, thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở giữa các hiệp định, hợp đồng gữa các Nhà nước, tổ chức kinh tế, pháp nhân cá nhân của quốc gia xuất khẩu với quốc gia nhập khẩu lao động.
Từ đây ta có thể thấy, xuất khẩu lao động là một hoạt động mang tính kinh tế nhằm mang lại lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế của xuất khẩu lao động được xét trên cả ba mặt cá nhân, các tổ chức kinh tế và Nhà nước. Đối với cá nhân và tổ chức kinh tế lợi ích được biểu hiện về mặt thu nhập khi tham gia xuất khẩu lao động. Còn đối với Nhà nước lợi ích không hẳn chỉ là các chỉ tiêu kinh tế như số ngoại tệ thu về cho đất nước, cho ngân sách mà còn phải kể đến các chỉ tiêu như giải quyết việc làm, bảo đảm an toàn xã hội, phát triển quan hệ quốc tế.
Trong thời kỳ tới, để tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với xuất khẩu lao động cần phải quán triệt các quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất là, thị trường trong xuất khẩu lao động là việc chấp nhận sự cạnh tranh quốc tế về thị trường sức lao động ngoài nước. Đó là chuẩn bị những loại lao động mà thị trường cần, cung cấp các loại lao động với chất lượng mang tính cạnh tranh. Trong khi xu thế toàn cầu hoá về kinh tế ngày càng gay gắt thì trên thị trường xuất khẩu lao động quốc tế sự cạnh tranh cũng không kém phần khốc liệt, đòi hỏi việc hoạch định các chính sách và thực hiện nhiệm vụ xuất khẩu lao động phải lấy nguyên tắc chủ yếu cho các hoạt động của mình.
Thực hiện quan điểm thị trường trong xuất khẩu lao động bao gồm cả việc chấp nhận một cách chọn lọc sự tham gia của các thành phần kinh tế trong lĩnh vực xuất khẩu lao động phù hợp với quy định của pháp luật.
Quan điểm thứ hai, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong xuất khẩu lao động thể hiện ở chỗ các chính sách đối với người lao động đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của họ và nhằm các mục đích chung khác của xã hội, bảo đảm sự công bằng, dân chủ trong xuất khẩu lao động, không để các tác động xấu của thị trường ảnh hưởng đến người lao động, nhất là đối với người nghèo.
Quan điểm thứ ba, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội trong hoạt động xuất khẩu lao động. Hiệu quả của xuất khẩu lao động mang cả ý nghĩa kinh tế và xã hội. Việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động vừa là mục tiêu, vừa là đòi hỏi của quản lý Nhà nước.
Hiệu quả kinh tế là việc tính toán chi phí bỏ ra và lợi ích thu về trong xuất khẩu lao động sao cho đạt mức lợi ích cao nhất. Hiệu quả kinh tế có thể được tính cho từng người lao động, từng tổ chức kinh tế tham gia xuất khẩu lao động và hiệu quả kinh tế toàn xã hội về xuất khẩu lao động.
Đối với người lao động tính hiệu quả khi tham gia xuất khẩu lao động thể hiện là tổng số thu nhập ròng (sau khi đã trừ đi số tiền chi để đi xuất khẩu lao động). Đối với các tổ chức kinh tế, hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động thể hiện ở các chỉ tiêu thông thường như đối với các doanh nghiệp khác, trong đó lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng nhất. Xét trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả xuất khẩu lao động được tính trên cơ sở so sánh chi phí với lượng ngoại tệ chuyển về nước của người lao động hàng năm, góp phần làm tăng thu nhập quốc dân bình quân của đất nước; ngoài ra còn phải tính đến các hoạt động xã hội như số lượng lao động đi xuất khẩu cũng là số được giải quyết việc làm, phần thu nhập của người lao động gửi về góp phần tạo việc làm trong nước, nâng cao đời sống cho gia đình…
Quan điểm thứ tư, mở rộng thị trường xuất khẩu lao động theo phương châm đa phương hoá đa dạng hoá. Cũng như xuất khẩu các loại hàng hoá khác, xuất khẩu lao động đòi hỏi phải có thị trường, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, cuộc cạnh tranh gay gắt về tranh giành thị trường xuất khẩu lao động càng khốc liệt mà phần thắng thuộc về những quốc gia có chiến lược đúng đắn. Do vậy, để phát triển xuất khẩu lao động chúng ta phải đưa ra các biện pháp để chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị trường và giữ thị trường.
Trên đây là những phương hướng chung và những phương hướng phát triển cho từng loại thị trường sức lao động cụ thể nhằm phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng. Mỗi loại phương hướng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi phương hướng đòi hỏi phải có những giải pháp nhất định để cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả nhằm thúc đẩy thị trường sức lao động ở Hải Phòng ngày một phát triển và hoàn thiện.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng trong thời gian tới.
Phần trên đã phân tích tương đối cụ thể những phương hướng chung và những phương hướng cụ thể để phát triển thị trường sức lao động nói chung và của từng loại thị trường sức lao động ở Hải Phòng. Giải pháp để phát triển thị trường sức lao động có nhiều, song với mục tiêu là để tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng thì có thể phân theo 4 nhóm giải pháp cơ bản dưới đây:
Gồm có 4 nhóm giải pháp:
- Nhóm giải pháp Nhà nước tác động nhằm kích cầu sức lao động.
- Nhóm giải pháp Nhà nước tác động nhằm điều tiết quan hệ cung - cầu sức lao động, nâng cao chất lượng cung sức lao động.
- Nhóm giải pháp Nhà nước tác động nhằm hoàn thiện hệ thống giao dịch chính thức, phát triển hệ thống thông tin thị trường sức lao động.
- Nhóm giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường sức lao động.
3.2.1. Giải pháp kích cầu sức lao động.
- Lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp nhằm giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm theo hướng ưu tiên tăng trưởng cao đối với các ngành chủ lực, tận dụng ưu thế khoa học kỹ thuật để phát triển ngành kỹ thuật mới, công nghệ cao, phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa có một sự lựa chọn đặt ra đối với nước ta là: ‘Tăng trưởng kinh tế nhanh hay toàn dụng lao động’. Vì vấn đề dân số, lao động và việc làm tạo sức ép rất lớn đến mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 của nước ta. Do đó, nếu lựa chọn các ngành nghề sử dụng vốn lớn, kỹ thuật cao, đặc biệt là các ngành khai thác tài nguyên đất nước đem lại lợi ích kinh tế nhanh như năng lượng, dầu mỏ … thì không có khả năng tiệm cận mục tiêu toàn dụng lao động. Cho nên, chiến lược của nước ta nói chung, Hải Phòng nói riêng là khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và cả ở khu vực truyền thống lẫn hiện đại, cả thành thị và nông thôn, có khả năng tạo nhiều việc làm hơn so với công nghiệp quy mô lớn. Để thực hiện chiến lược này Hải Phòng cần phải: Ưu tiên đầu tư hoặc khuyến khích đầu tư trực tiếp vào các ngành này. Thông qua việc tái phân phối cho người nghèo để làm tăng thu nhập và tiêu dùng của họ, mà cơ cấu tiêu dùng của người nghèo lại là những hàng hóa vừa ít yếu tố nhập khẩu vừa sử dụng nhiều lao động, vì thế sẽ có tác dụng tăng cầu việc làm.
- Tiếp tục phát triển các khu, cụm công nghiệp; phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân, trước hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp hoạt động nông nghiệp. Đẩy mạnh kinh tế hộ gia đình, tiểu chủ, tổ hợp sản xuất, hợp tác xã…
Kinh tế tư nhân ở Hải Phòng hình thành sớm và phát triển khá nhanh. Thực tế những năm qua cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân là khu vực tạo nhiều chỗ việc làm, góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho người lao động. Khu vực kinh tế tư nhân có ưu điểm là suất đầu tư cho một chỗ việc làm rẻ, phù hợp với giai đoạn hiện nay là thiếu vốn, dư thừa lao động phổ thông. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân có mặt hạn chế, tiêu cực là: Bản chất của kinh tế tư nhân luôn vì động cơ và lợi ích cá nhân, sẵn sàng bỏ qua lợi ích chung của cộng đồng và xã hội, dễ dàng có hành vi vi phạm pháp luật để thu lợi bất chính. Do đó, trong những năm trước mắt, để tạo được nhiều chỗ làm việc ở khu vực này, Hải Phòng cần:
+ Xây dựng và tổ chức triển khai chiến lược phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố.
+ Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển, như: hỗ trợ về vốn, thông tin thị trường, đào tạo nhân lực.
+ Nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý nhà nước, cải cách thủ tục hành chính để tránh tiêu cực, gây phiền hà, tham nhũng …
+ Tăng cường nâng cao hiệu lực công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và ngăn ngừa, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế tư nhân.
- Đẩy mạnh sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng đa sở hữu, có tiềm lực tài chính, công nghệ và lao động dẫn đầu tham gia thị trường trong nước và thế giới. Tiếp tục tiến trình cổ phần hoá, tập trung đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá thiết bị, công nghệ để tạo môi trường cạnh tranh nhằm phát triển và thu hút lao động.
- Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là giải pháp có tác dụng hai mặt: Một mặt làm tăng cầu tại chỗ, mặt khác hạn chế dòng di cư có xu hướng ngày càng tăng từ nông thôn ra thành thị. Qua đó, dần nâng cao nguồn nhân lực ở nông thôn, tăng thu nhập cho người lao động và giảm quy mô của thị trường sức lao động phi chính thức ở đô thị. Đảng và nhà nước ta luôn coi nông nghiệp, nông thôn là mặt trận hàng đầu không chỉ bởi ý nghĩa kinh tế mà còn bởi tầm quan trọng về mặt xã hội, chính trị. Đã có nhiều chính sách được ban hành, gần đây nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa IX về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong phiên họp thường kỳ tháng 5/2002, Chính phủ cũng đã khảng định cần có phương hướng tích cực “đưa Luật doanh nghiệp về nông thôn”, vừa qua, Nghị quyết Đại hội X của Đảng tiếp tục khảng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là mặt trận hàng đầu. Do đó, đã có nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước được huy động nhằm mục tiêu này.
Trong thời gian tới, để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển thị trường sức lao động các cấp ủy Đảng, chính quyền Hải Phòng cần có cơ chế chính sách để làm tốt các nhiệm vụ sau:
Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp theo hướng đa canh, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi. Hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn, trên cơ sở cơ giới hóa nông nghiệp, nông thôn, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm; đầu tư các công trình thủy lợi trọng điểm, đầu tư ứng dụng các loại giống cây trồng, con vật nuôi mới.
Tiếp tục phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ với phương châm đưa công nghiệp gắn với nguồn nguyên liệu, với thị trường, tạo sự liên kết, gắn bó giữa công nghiệp – nông nghiệp và dịch vụ nhằm vừa khai thác lợi thế và nguồn lợi giữa các tiểu vùng trong thành phố, vừa tham gia vào sự phân công hợp tác với khu vực đầu tư nước ngoài, với cả trong nước và quốc tế. Trước mắt, cần ưu tiên phát triển ngành chế biến lương thực, thực phẩm và đồ uống công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Khuyến khích, ưu tiên phát triển ngành công nghiệp dệt may, giày dép về địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đồng thời, cũng cần phát triển những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động mà Hải Phòng có lợi thế như sản xuất vật liệu xây dựng, hàng thủ công mỹ nghệ … khôi phục các làng nghề truyền thống, phát triển các làng nghề mới và các làng đã có nghề.
Công nghiệp hóa nông thôn luôn gắn với đô thị hóa, do đó cần phải đầu tư thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn một cách có quy hoạch tránh ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất, đời sống và môi trường.
Để thực hiện các biện pháp trên thì vấn đề mấu chốt, có tính chất tiền đề là phải xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và cơ sở hạ tầng xã hội cho khu vực nông thôn. Nhờ đó, quan hệ thuê mướn nhân công ở nông thôn được mở rộng, nông thôn sẽ có điều kiện rút ngắn khoảng cánh với thành thị.
- Phát triển kinh tế đối ngoại và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sẽ cung cấp cơ hội cho phép Hải Phòng thu hút được nhiều ngoại lực hơn, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài để mở rộng sản xuất-kinh doanh, tạo cơ hội việc làm cho người lao động.
Ngày nay, phát triển kinh tế đối ngoại và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra rất nhiều yêu cầu đối với nguồn nhân lực của các quốc gia. Trong điều kiện toàn cầu hóa, cùng với các thành tựu khoa học-công nghệ, nhân tố con người có ý nghĩa quyết định mức độ phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia. Nền kinh tế hiện đại cần cả 3 loại lao động: Lao động có kỹ thuật cao, có kỷ luật lao động; đội ngũ doanh nhân biết cách tổ chức sản xuất và kinh doanh trong các doanh nghiệp; đội ngũ cán bộ nhà nước có tâm huyết, có ý chí và tài năng. Do đó, để hội nhập thành công, Hải Phòng cần phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Cần phải xây dựng đội ngũ doanh nhân vì đây là những nhà quản trị doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh kinh tế quốc tế, mặt khác phải có đội ngũ người lao động được đào tạo kỹ năng lao động chuyên nghiệp và có khả năng thích nghi với sự thay đổi, cũng như biết tạo ra sự thay đổi làm nên năng lực, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Vì vậy, phát triển kinh tế đối ngoại, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời tạo nhiều chỗ việc làm cho người lao động.
- Mở rộng và phát triển thị trường sức lao động ngoài nước. Giữ ổn định và mở rộng các thị trường truyền thống như Đài Loan, Malaysia, khu vực Trung Đông, thị trường trên biển, đồng thời dần hình thành đội ngũ xuất khẩu lao động có trình độ cao vào các thị trường mới như Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Séc…
- Xây dựng chính sách ưu đãi về đầu tư, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch; phát triển các dịch vụ có trình độ và chất lượng cao để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào Hải Phòng.
Chuẩn bị tốt các điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật cho thu hút đầu tư nước ngoài. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động xúc tiến đầu tư, tạo lập đầu tư mới ngoài châu Á, chú trọng các tập đoàn lớn có tiềm lực về vốn, công nghệ, thương hiệu … Để làm được điều này, cần tăng cường chi ngân sách cho các hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, xúc tiến đầu tư; chuyển hướng thu hút đầu tư từ các đối tác ở khu vực châu Á sang các đối tác ở khu vực Tây Âu, Bắc Mỹ … nhằm khai thác tiềm năng về vốn, công nghệ kỹ thuật hiện đại, có hàm lượng chất xám cao.
Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thiểu khó khăn cho nhà đầu tư. Tăng cường kiểm tra, giám sát các hành vi nhũng nhiễu, tham nhũng, tiêu cực trong đầu tư nước ngoài. Thực hiện tốt nguyên tắc “một cửa, tại chỗ” trong hoạt động thu hút đầu tư.
Tăng cường bảo vệ, giải quyết những kiến nghị, khó khăn vướng mắc và hỗ trợ các dự án đầu tư nước ngoài hiện tại và các dự án đang gặp khó khăn khi triển khai về giải phóng mặt bằng … tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
- Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tạo việc làm, có cơ chế chính sách tạo việc làm phù hợp từ nguồn vốn: ngân sách nhà nước, vốn vay từ nước ngoài, vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế, tổ chức từ thiện, nguồn vốn trong dân. Đặc biệt quan tâm cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp thu hút, sử dụng nhiều lao động, các làng nghề, các hộ sản xuất hàng xuất khẩu; tập trung nguồn vốn nhiều hơn cho các khu vực có đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng.
- Phối hợp với các bộ, ngành trung ương, các tỉnh, thành phố để phát triển mạnh kinh tế vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, từng bước thu hút lao động từ các địa phương lân cận.
3.2.2. Giải pháp điều tiết quan hệ cung -cầu sức lao động, nâng cao chất lượng cung sức lao động.
3.2.2.1 Thực hiện giải pháp điều tiết quan hệ cung-cầu sức lao động.
- Tiếp tục thực hiện chủ trương di chuyển các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong nội thành ra khu vực ngoại thành nhằm giảm sức ép việc làm ở nội thành và tạo điều kiện thu hút lao động ngoại thành, ngoại tỉnh vào làm việc. Ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, người tàn tật, người sau cai nghiện…; có cơ chế phân luồng học sinh nhằm phân bố, sử dụng hợp lý lao động.
Trong những năm gần đây, Hải Phòng đã thực hiện việc di chuyển các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động từ khu vực nội thành ra khu vực ngoại thành. Việc di chuyển doanh nghiệp được thực hiện cả những doanh nghiệp sẵn có trong nội thành và những doanh nghiệp mới được thành lập. Chủ trương di dời các doanh nghiệp từ khu vực nội thành ra ngoại thành sẽ còn tiếp tục thực hiện trong nhiều năm tới. Đây là một chủ trương đúng đắn về mặt kinh tế xã hội đồng thời là một giải pháp quan trọng để điều tiết quan hệ cung-cầu sức lao động trên thị trường sức lao động của Hải Phòng.
Việc ban hành các chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp nhận nhiều lao động nữ, lao động là người tàn tật, người sau cai là hết sức cần thiết, vừa tăng vai trò xã hội của các doanh nghiệp, đồng thời thực hiện điều tiết quan hệ cung cầu sức lao động.
- Tiếp tục kiểm soát, hạn chế tốc độ gia tăng dân số tự nhiên; áp dụng công nghệ tin học vào quản lý dân cư, lao động.
Mục tiêu điều tiết cung lao động trên thị trường sức lao động của Hải Phòng là làm giảm sức ép của cung lao động lên cầu lao động, từ đó giảm sức ép về việc làm và nâng cao mức độ linh hoạt của cung lao động trên thị trường. Để đạt được mục tiêu đó cần thực hiện có hiệu quả chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, vì: Cung lao động là một bộ phận cấu thành của dân số, một dân số đông và tăng nhanh sẽ tạo nên một cung lao động lớn. Đến lượt mình, dân số lại ảnh hưởng của quá trình sinh, chết, di dân và một số yếu tố kinh tế xã hội khác. Do đó, để giảm sức ép về cung lao động trên thị trường sức lao động Hải Phòng, trước hết, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể cần thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra nhằm thực hiện tốt, có hiệu quả chính sách dân số-kế hoạch hóa gia đình.
- Ban hành chính sách quản lý và sử dụng lao động ngoại tỉnh:
Di chuyển lao động trên thị trường sức lao động trong mỗi địa phương cũng như cả nước là hiện tượng hết sức bình thường trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để có chính sách tốt trong việc quản lý nguồn nhân lực, ngoài việc nắm chắc nguồn nhân lực của Hải Phòng thì việc nắm di biến động lao động đối với lao động của Hải Phòng đi làm việc ở các địa phương khác và từ địa phương khác đến Hải Phòng là một việc làm hết sức cần thiết, đặc biệt đối với lao động nhập cư vào thành phố. Muốn vậy, Hải Phòng cần phải:
+ Xây dựng quy chế về nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động ngoại tỉnh vào thành phố.
+ Xây dựng Quy định về trách nhiệm của đơn vị, cá nhân trong việc sử dụng lao động ngoại tỉnh, bao gồm quy định về khai báo di biến động lao động, giải quyết nơi ăn, chỗ ở và đảm bảo về điều kiện làm việc cho lao động ngoại tỉnh.
+ Thành phố dành đất ưu tiên cho các đơn vị sử dụng nhiều lao động ngoại thành, ngoại tỉnh thuê để xây dựng nhà ở cho lao động, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh nhà ở xây dựng một số khu nhà ở với giá rẻ cho lao động ngoại thành, ngoại tỉnh thuê.
+ Đổi mới quy định và cải tiến thủ tục đăng ký hộ khẩu đối với lao động nhập cư.
3.2.2.2. Nâng cao chất lượng cung sức lao động cho thị trường.
Muốn nâng cao chất lượng cung sức lao động thì giải pháp cơ bản nhất, quan trọng nhất là thực hiện tốt chính sách về giáo dục, đào tạo. Trong đó, công tác dạy nghề cho người lao động phải được hết sức ưu tiên.
*. Thúc đẩy phong trào học tập, nâng cao trình độ học vấn của lực lượng lao động, đặc biệt là lực lượng lao động trẻ. Phấn đấu hết năm 2008, thành phố cơ bản hoàn thành chương trình phổ cập bậc trung học và nghề. Tiến hành phân luồng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học lớp 10, đảm bảo một tỷ lệ thích hợp học sinh vào học nghề và các loại hình học tập khác. Việc phân luồng học sinh phải đảm bảo theo hướng tăng dần số học sinh học nghề.
*. Xây dựng và phát triển mạnh hệ thống đào tạo, dạy nghề:
- Phát triển mạnh hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề trên địa bàn theo hướng đồng bộ về cơ cấu, ngành nghề, chú trọng các ngành nghề hiện đang thiếu trên thị trường sức lao động, đáp ứng sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cụ thể:
+ Chú trọng đầu tư các trường thuộc ngành công nghiệp chủ lực, dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao, công nghệ hiện đại…
+ Tập trung đầu tư xây dựng cụm trường nghề ở khu vực ven đô và một số khu đô thị mới.
+ Nâng cấp một số trường dạy nghề hiện tại thành trường Cao đẳng nghề để đáp ứng đào tạo liên thông theo 3 cấp trình độ: sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề. Hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật công nghệ thực hành.
+ Thực hiện xã hội hoá đối với một số trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề thuộc Thành phố quản lý; xem xét áp dụng phương pháp đào tạo nghề từ xa.
+ Hình thành, xây dựng các vườn ươm công nghệ, vườn ươm doanh nghiệp góp phần đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp và lao động chất lượng cao.
+ Đổi mới chương trình, giáo trình các trường đào tạo nghề. Đa dạng hoá các hình thành đào tạo nghề, chú trọng đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất; tăng cường đào tạo tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.
- Xây dựng và thực hiện các chính sách thu hút giáo viên cho các cơ sở dạy nghề, tạo điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo:
+ Xây dựng, hoàn thiện chính sách ưu đãi, thu hút nhân tài.
+ Xây dựng chính sách thu hút tuyển dụng, đào tạo, đãi ngộ giáo viên, trong đó quan tâm đến chính sách đặc thù để thu hút cán bộ, giáo viên, công chức nhà nước tham gia giảng dạy trong các trường cao đẳng nghề, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề của thành phố.
+ Hỗ trợ ngân sách về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ giáo viên ở trong nước và nước ngoài đối với các trường đào tạo nghề.
- Xây dựng và thực hiện các chính sách khuyến khích các cơ sở dạy nghề:
+ Thực hiện cơ chế chính sách ưu đãi về tín dụng, đất đai, thủ tục đầu tư để khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đào tạo nghề.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo nghề cho người lao động thông qua chính sách hỗ trợ của thành phố cho doanh nghiệp trong đào tạo nghề cho người lao động.
+ Thành lập Quỹ đào tạo nghề từ các nguồn: ngân sách thành phố, đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, hợp tác quốc tế…
+ Ban hành quy chế về mối quan hệ giữa đào tạo, dạy nghề với cơ sở sử dụng lao động nhằm thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp, các tổ chức vào công tác đào tạo nghề.
+ Xây dựng kế hoạch đào tạo nghề theo đơn đặt hàng.
- Thực hiện đổi mới cơ chế sử dụng ngân sách trong đào tạo nghề:
+ Tổ chức đấu thầu chỉ tiêu đào tạo nghề do Thành phố đặt hàng đào tạo trên cơ sở đảm bảo chất lượng đào tạo theo quy định của Thành phố.
+ Chuyển đổi việc cấp phát kinh phí đào tạo cho lao động trong vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp (từ hình thức trực tiếp trả cho hộ dân sang cơ quan quản lý lao động để thực hiện chuyển trả cho cơ sở đào tạo nghề cho người lao động).
+ Vấn đề học bổng, học phí cho học sinh học nghề: Đổi mới chế độ học bổng hoặc trợ cấp học phí cho học sinh học những ngành, nghề mũi nhọn hoặc những ngành, nghề cần thiết phục vụ nền kinh tế quốc dân mà không thu hút được học sinh, những học sinh thuộc diện chính sách, người tàn tật, người thuộc diện hộ nghèo ở cả cơ sở công lập và ngoài công lập.
3.2.3. Hoàn thiện các giao dịch chính thức, phát triển hệ thống thông tin thị trường sức lao động.
3.2.3.1. Phát triển hệ thống giao dịch của thị trường sức lao động.
Phát triển hệ thống giao dịch của thị trường sức lao động là điều kiện quan trọng để thị trường sức lao động hoạt động bình thường, khách quan, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cầu nối giữa cung – cầu lao động. Các giải pháp chủ yếu mà thành phố Hải Phòng cần tập trung là:
- Đầu tư hiện đại hoá một trung tâm giao dịch lao động đạt tiêu chuẩn các nước trong khu vực. Trung tâm có thiết bị hiện đại, sử dụng công nghệ thông tin tiên tiến (Internet, Website…) để thực hiện giao dịch mua bán lành mạnh, có hiệu quả, mang tính chuyên nghiệp.
- Phát triển đa dạng các kênh giao dịch trên thị trường sức lao động (thông tin, quảng cáo, trang tìm việc làm, trang dạy nghề trên các phương tiện thông tin đại chúng như: đài phát thanh, truyền hình, báo, tổ chức các hội chợ việc làm, sàn giao dịch việc làm…) nhằm đa dạng, phong phú, linh hoạt các giao dịch giữa người mua và người bán trên thị trường.
- Củng cố, sắp xếp hệ thống giới thiệu việc làm để hoạt động có hiệu quả, làm tốt vai trò cầu nối gữa cung-cầu lao động trên thị trường. Cụ thể:
+ Quy hoạch lại mạng lưới giới thiệu việc làm phù hợp với thị trường sức lao động của thành phố.
+ Đào tạo, tập huấn trao đổi kỹ năng nghiệp vụ cho độ ngũ thực hiện chức năng tư vấn, cung cấp dịch vụ việc làm tại các trung tâm nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường sức lao động.
+ Tạo hành lang pháp lý cho các đơn vị có chức năng giới thiệu việc làm của mọi thành phần kinh tế hoạt động bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, hoạt động đúng quy định của pháp luật, bám sát thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội và khoa học công nghệ trong nước và quốc tế.
+ Củng cố, chấn chỉnh hoạt động của các đơn vị, doanh nghiệp có chức năng giới thiệu việc làm. Tổ chức thẩm định, cấp phép hoạt động giới thiệu việc làm đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Xem xét đề nghị các bộ, ngành, đoàn thể củng cố các trung tâm giới thiệu việc làm hiện có trên địa bàn thành phố.
- Tăng cường quản lý Nhà nước, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các đơn vị xuất khẩu lao động:
+ Kiện toàn, sắp xếp lại hệ thống các đơn vị xuất khẩu lao động thuộc thành phố quản lý, hỗ trợ gián tiếp các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
+ Ban hành một số quy định cụ thể trong xuất khẩu lao động: chính sách ưu đãi cho người lao động vay đi xuất khẩu lao động, ưu tiên các đối tượng gia đình chính sách, hộ nghèo; bố trí kinh phí hàng năm tổ chức các đoàn xúc tiến xuất khẩu lao động, mở thị trường xuất khẩu lao động mới ở các nước trong khu vực và trên thế giới.
3.2.3.2. Phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường sức lao động.
Việc điểu chỉnh hoạt động của thị trường sức lao động đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin đầy đủ, cập nhật, có độ tin cậy cao. Đó là các thông tin về cung-cầu lao động, về cơ cấu việc làm, về đào tạo nghề, di chuyển lao động, tiền lương, tiền công, chỗ việc làm mới, chỗ việc làm trống … Thông qua các số liệu về dân số, hoạt động kinh tế, thông tin thị trường sức lao động cung cấp cơ sở dữ liệu để xác định cung lao động, là nền tảng để hình thành các chính sách về phát triển nguồn nhân lực. Để làm tốt việc này, Hải Phòng phải:
- Thiết lập hệ thống thông tin, thống kê thị trường sức lao động thống nhất từ thành phố đến quận, huyện, xã, phường; bao gồm 3 hệ thống sau:
+ Hệ thống thông tin hướng nghiệp, dạy nghề: Cung cấp các thông tin về cơ hội đào tạo, các chương trình giáo dục, đào tạo, hướng dẫn lựa chọn nghề nghiệp, trình độ tay nghề và nhu cầu học nghề, cơ cấu trình độ đào tạo.
+ Hệ thống thông tin giới thiệu việc làm: Cung cấp các thông tin về cơ hội việc làm, nhu cầu tuyển lao động trong các doanh nghiệp, nhu cầu của người tìm việc, khả năng làm việc trên thị trường.
+ Hệ thống thông tin thống kê thị trường sức lao động: Cung cấp các thông tin về cung, cầu lao động, phân bố dân số hoạt động kinh tế, nguồn lao động, điều kiện làm việc, an toàn lao động, quan hệ lao động, giá trị sức lao động và năng suất lao động…
- Tổ chức cập nhật các thông tin về cung, cầu lao động trên thị trường sức lao động. Tiến hành điều tra, khảo sát, tổng hợp, đánh giá, lưu trữ các thông tin về số lượng, chất lượng nguồn lao động, về thị trường sức lao động.
- Thực hiện công tác thông tin thị trường sức lao động, tổ chức thực hiện tốt các quy định về chế độ, hệ thống báo cáo thông tin về quản lý nguồn lao động từ thành phố đến quận, huyện, xã, phường.
- Đổi mới, nâng cao chất lượng về tổ chức chợ việc làm. Khuyến khích các đơn vị tự tổ chức các “phiên chợ” lao động việc làm.
3.2.4. Giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường sức lao động.
Thị trường sức lao động là một thị trường mới được thừa nhận, nó là một thị trường hàng hóa đặc biệt - hàng hóa sức lao động, gắn với con người. Đó là một thị trường hết sức năng động, nhạy cảm. Vì vậy, tăng cường công tác quản lý đối với các hoạt động của thị trường này là một nội dung hết sức quan trọng, nó quyết định đến việc làm hạn chế các mặt tiêu cực vốn có xuất phát từ bản chất thị trường nói chung, hướng thị trường sức lao đông theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để quản lý tốt hoạt động thị trường sức lao động về phía chính quyền thành phố Hải Phòng cần phải thực hiện tốt các nội dung sau:
- Thường xuyên tổ chức điều tra, khảo sát để nắm vững cung-cầu lao động cả số lượng, chất lượng, cơ cấu, nắm vững sự biến động của cung-cầu lao động trong từng thời điểm cũng như dự báo sự biến động này trong tương lai để có cơ sở khoa học trong quy hoạch, phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực.
Đây là một nội dung quan trọng trong quản lý các hoạt động của thị trường sức lao động. Song công tác này từ trước đến nay Hải Phòng chưa thực sự quan tâm. Chưa có năm nào thành phố đầu tư để khảo sát toàn bộ nguồn lao động của thành phố cũng như nhu cầu sử dụng lao động trong các doanh nghiệp làm cơ sở dữ liệu cho việc hoạch định chính sách phát triển thị trường sức lao động. Các cuộc điều tra hàng năm chủ yếu là điều tra mẫu theo từng nội dung của thị trường lao động nhằm phục vụ cho từng chuyên đề cụ thể. Do đó, không có được những số liệu tin cậy trong hoạch định các chính sách phát triển chung của thị trường sức lao động của thành phố.
- Tăng cường công tác giáo dục pháp luật lao động, phổ biến quán triệt các văn bản pháp quy có liên quan đến lao động, thể chế thị trường sức lao động để nâng cao trình độ hiểu biết cho người lao động và người sử dụng lao động nhằm nâng cao khả năng thực thi các văn bản đó. Đồng thời tăng cường công tác thanh, kiểm tra việc thực thi pháp luật lao động, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật lao động.
- Tăng cường quản lý nhà nước về tiền lương, tiền công, giá cả sức lao động trên thị trường sức lao động:
+ Trên cơ sở các văn bản quy định của nhà nước, thực hiện điều tiết và giám sát tiền lương, tiền công, trong đó có tiền lương tối thiểu trên thị trường sức lao động. Kiên quyết xử lý các trường hợp trả lương trái với các văn bản pháp quy như trả lương dưới mức lương tối thiểu, áp dụng lương tối thiểu không đúng theo quy định…
+ Tổ chức khảo sát, điều tra, cập nhật thông tin giá cả thị trường sức lao động đối với các loại hình lao động phổ biến hiện nay ở Hải Phòng, thực hiện việc báo giá các loại lao động theo định kỳ trên các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Hướng dẫn các tổ chức, doanh nghiệp trả lương cho người lao động tuân thủ các chính sách, chế độ quy định về tiền lương của nhà nước, đồng thời tiếp cận với thị trường sức lao động để điều chỉnh các quan hệ lao động, quan hệ tiền lương, tiền công phù hợp.
+ Tổ chức rà soát, đánh giá các văn bản của nhà nước, của thành phố trong lĩnh vực tiền lương, tiền công để loại bỏ các văn bản không phù hợp, chồng chéo; xây dựng và bổ sung các văn bản mới, nhất là các văn bản liên quan đến chính sách thu hút, trọng dụng lao động có trình độ cao.
- Quản lý có hiệu lực và hiệu quả các công cụ của thị trường sức lao động như quản lý các trung tâm giới thiệu việc làm, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, hệ thống thông tin thị trường sức lao động của thành phố.
- Nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý lao động các cấp. Tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác lao động. Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý lao động cho các cấp.
- Tăng cường vai trò của các tổ chức đoàn thể trong việc điều tiết thị trường sức lao động và bảo vệ quyền lợi của các bên có liên quan. Thường xuyên giáo dục tác phong công nghiệp cho đội ngũ công nhân đồng thời có biện pháp bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động qua tổ chức Đảng, công đoàn, đoàn thanh niên, nhất là đối với lao động làm việc ở khu vực dân doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
KẾT LUẬN
Phát triển thị trường sức lao động cũng như việc tăng cường vai trò nhà nước để phát triển thị trường này là một tất yếu khách quan. Vấn đề này đã được khảng định cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, phát triển thị trường sức lao động trong điều kiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là một vấn đề vô cùng khó khăn, phức tạp và mới mẻ. Điều đó càng thấy rõ tầm quan trọng của nhà nước đối với việc phát triển loại thị trường này ở nước ta nói chung thành phố Hải Phòng nói riêng. Nhà nước tăng cường vai trò của mình để phát triển thị trường sức lao động với mục tiêu thông qua thị trường sức lao động để sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn nhân lực của đất nước-một yếu quan trọng nhất, năng động nhất của quá trình sản xuất xã hội.
Thị trường sức lao động ở nước ta là thị trường sức lao động định hướng xã hội chủ nghĩa, được hình thành và phát triển trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của thị trường sức lao động định hướng xã hội chủ nghĩa là xây dựng quan hệ lao động mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Trong quá trình hình thành và phát triển thị trường sức lao động đã thể hiện rõ nét vai trò, sự nỗ lực của nhà nước để thúc đẩy thị trường này. Nhà nước đã phát huy ưu thế của thị trường, đồng thời hạn chế được sự tự phát và những hậu quả tiêu cực nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình đổi mới, Chính quyền và các cơ quan chuyên môn của Hải Phòng đã hết sức cố gắng để tác động, hỗ trợ, thúc đẩy thị trường sức lao động hình thành và phát triển. Sự cố gắng đó bước đầu đã đem lại những kết quả rất đáng phấn khởi; góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội … Song, bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế của thị trường sức lao động nói chung, vai trò nhà nước ở Hải Phòng đối với thị trường này nói riêng cần phải khắc phục. Thành phố Hải Phòng chưa thực sự quan tâm tới đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Công tác quản lý nhà nước đối với các kênh giao dịch trên thị trường sức lao động còn nhiều hạn chế. Vẫn còn trung tâm giới thiệu việc làm “ma”; tình trạng người lao động bị lừa đảo trong quá trình tìm kiếm việc làm hoặc đi xuất khẩu lao động vẫn còn xảy ra; thành phố vẫn chưa đẩy mạnh việc thành lập để đưa sàn giao dịch việc làm vào hoạt động …Nhìn chung, vai trò của nhà nước ở Hải Phòng vẫn chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn trong việc phát triển thị trường sức lao động.
Trên cơ sở phân tích thực trạng thị trường sức lao động, thực trạng vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng luận văn đã đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Phân tích khái niệm, vị trí và vai trò của thị trường sức lao động.
- Phân tích sự cần thiết phải có can thiệp của nhà nước đối với phát triển thị trường sức lao động và nội dung vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động.
- Nghiên cứu các kinh nghiệm phát triển thị trường sức lao động của thành phố Hồ Chí Minh, của tỉnh Bình Dương và rút ra các bài học cho phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thị trường sức lao động, đặc biệt là thực trạng vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng. Từ đó, đi đến những nhận định các vấn đề còn tồn tại trong thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng, nhất là những hạn chế của vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố.
- Cuối cùng, luận văn đã đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường vai trò nhà nước để phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng trong thời gian tới./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Những điều cần biết về Bộ luật Lao động sau khi đã sửa đổi bổ sung, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2001), Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam năm 2001, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2002), Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam năm 2002, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam năm 2003, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam năm 2004, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1994), Thị trường lao động và giải quyết việc làm.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Sổ tay thống kê thông tin thị trường lao động ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Chiến lược đào tạo nghề 2001 - 2010.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết việc làm, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (1997), Kinh tế chính trị học Mác – Lênin (tài liệu dùng trong lớp bồi dưỡng giáo viên Mác – Lênin), Hà Nội.
Bùi Đức Kháng (2005), Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4/2005.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Kinh tế chính trị học Mác – Lênin, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
C.mac-Ph.Anghen (1993), tuyển tập, tập 23, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cục Thống kê thành phố Hải Phòng (2006), Niên giám thống kế thành phố Hải Phòng 2005, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2001), Giáo trình Kinh tế học vi mô, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (1998), Giáo trình Kinh tế lao động, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
Hoàng Văn Hoa (2006), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thị trường trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 3/2006.
Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (2007), Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Luật Bảo hiểm xã hội (2006), Nhà xuất bản Lao động -Xã hội, Hà Nội.
Luật Dạy nghề (2007), Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Lao động - Thương binh và Xã hội, Chuyên đề thông tin thị trường lao động từ năm 2000 đến năm 2005.
Nguyễn Lương Trào, (2003), Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài: Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Nguyễn Đại Đồng, Định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam, Website Người tìm việc – việc tìm người của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bà rịa – Vũng Tàu.
Nguyễn Quang Hiển (1995), Thị trường lao động thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Tổ chức lao động quốc tế (2004), Tạo môi trường thuận lợi để phát triển doanh nghiệp nhỏ nhằm góp phần tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo, Hà Nội.
Phạm Đức Chính (2004), Thị trường lao động: Vấn đề lý thuyết và thực trạng hình thành, phát triển ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 1/2004.
Thành uỷ Hải Phòng (2002), Văn kiện Đại hội lần thứ XII Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2001-2005.
Thành uỷ Hải Phòng (2006), Văn kiện Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2005-2010.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hải Phòng (2001), Báo cáo công tác lao động – thương binh và xã hội năm 2001.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hải Phòng (2002), Báo cáo công tác lao động – thương binh và xã hội năm 2002.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hải Phòng (2003), Báo cáo công tác lao động – thương binh và xã hội năm 2003.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hải Phòng (2004), Báo cáo công tác lao động – thương binh và xã hội năm 2004.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hải Phòng (2005), Báo cáo công tác lao động – thương binh và xã hội năm 2005.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hải Phòng (2006), Báo cáo công tác lao động – thương binh và xã hội năm 2006.
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2005), Thực trạng lao động việc làm thành phố Hải Phòng 2005.
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2006), Chương trình phát triển bền vững (chương trình nghị sự 21 cấp địa phương) thành phố Hải Phòng.
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2000), Báo cáo chuyên đề rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội thành phố Hải Phòng đến năm 2010.
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2000), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng từ năm 2001 đến năm 2006.
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU.
TÓM TẮT LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG
Những vấn đề chung về thị trường sức lao động.
Thị trường sức lao động và các yếu tố cấu thành.
Đặc điểm và vai trò của thị trường sức lao động trong nền kinh tế thị trường.
1.2. Sự cần thiết và nội dung tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
1.2.1. Sự cần thiết phải tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
1.2.2. Nội dung tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
1.3. Kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở một số địa phương và bài học rút ra cho chính quyền thành phố Hải Phòng.
1.3.1. Kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hồ Chí Minh.
1.3.2. Kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở tỉnh Bình Dương
1.3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho chính quyền thành phố Hải Phòng trong phát triển thị trường sức lao động.
Chương 2:
THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂNTHỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG Ở HẢI PHÒNG
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hải Phòng tác động đến vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hải Phòng.
2.1.2. Tình hình thị trường sức lao động ở Hải Phòng những năm gần đây.
2.2. Tình hình thực hiện vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng:
2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân.
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân.
Chương 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂNTHỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG Ở HẢI PHÒNG
3.1. Phương hướng phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
3.1.1. Những căn cứ xác định phương hướng phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
3.1.2. Phương hướng phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng trong thời gian tới.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng trong thời gian tới.
3.2.1. Giải pháp kích cầu sức lao động
3.2.2. Giải pháp điều tiết quan hệ cung-cầu sức lao động, nâng cao chất lượng cung sức lao động.
3.2.3. Hoàn thiện các giao dịch chính thức, phát triển hệ thống thông tin thị trường sức lao động.
3.2.4. Giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường sức lao động.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Biểu 2.1: Dân số, lực lượng lao động của Hải Phòng giai đoạn 2001-2005.
Biểu 2.2. Trình độ văn hóa phổ thông
Biểu 2.3. Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Biểu 2.4. Lao động trong các loại hình kinh tế.
Biểu 2.5. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế.
Biểu 2.6. Thu nhập theo nhóm tuổi.
Biểu 2.7. Thu nhập theo trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Biểu 2.8. Thu nhập theo ngành kinh tế.
Biểu 2.9. Thu nhập theo loại hình kinh tế.
1
5
5
5
13
17
17
23
27
27
30
32
34
34
34
38
57
57
60
71
71
71
76
93
94
99
104
106
109
112
Trang
40
41
43
45
47
50
52
54
55
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10496.doc