Đề án làm rõ, để đẩy nhanh CNH - HĐH ở nước ta Nhà nước phải kết hợp hài hoà, thống nhất và đồng bộ những nội dung cơ bản của vai trò Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH. Chúng ta cần phải xác định bước đi chiến lược cho tương lai trong việc phát triển khoa học công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp điều kiện kinh tế thế giới và phát huy được các nguồn lực. Để đạt được điều đó chúng ta cần phải xây dựng bộ máy quản lý kinh tế Nhà nước có hiệu quả, đồng thời phát huy tính sáng tạo, năng động của nguồn nhân lực. Mặt khác phải có cơ chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện phát triển cho mọi thành phần kinh tế, tạo ra "sân chơi" cho những nhà đầu tư tâm huyết làm thu hút vốn và công nghệ của các nước phát triển.
43 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1646 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an hệ kinh tế quốc tế, đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với quá trình phát triển nhân loại.
Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã tạo ra cơ sở cho sự thay đổi chiến lược. Đại hội tuy chưa đưa ra được một chiến lược hoàn chỉnh nhưng đã có những sự thay đổi mang tính chất đổi mới. Đại hội tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH trong chặng đường tiếp theo. Đông thời Đại hội cũng xác định lại mục tiêu, lựa chọn bước đi cho CNH. Mục tiêu là thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế. Muốn vậy phải sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo một cơ cấu thật hợp lý, phù hợp với tính quy luật về sự phát triển và phù hợp với khả năng đát nước. Đại hội khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phát triển công nghiệp nặng và xây dựng kết cấu hạ tầng. Đại hội cũng đề ra kế hoạch 5 năm(1986-1990) là chương trình lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Đại hội Đảng đã đánh dấu quá trình đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung,bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Bản chất của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở. Nền kinh tế mở có thể lợi dụng được nguồn lực bên ngoài. Chính vì vậy mà đại hội chủ chương khuyến khích đầu tư nước ngoài vào nước ta dưới nhiều hình thức. Đây thực sự là một cuộc cách mạng trong chiến lược CNH ở nước ta.
Đại hội lần thứ VII (1990) đã đưa ra cương lĩnh xây dựng đất nước trong hời kỳ quá độ lên CNXH, trong đó đưa ra đường lối mới về CNH. Điểm then chốt trong cương lĩnh là nhấn mạnh CNH theo hướng hiện đại. Đây là một điểm có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện hiện nay: CNH tất phải diễn ra theo quy luật phát triển hiện đại. Việc định ra quan điểm CNH theo hướng hiện đại có ý nghĩa bước ngoặt trong tư duy về phát triển, làm cơ sở cho việc thay đổi chiến lược CNH ở nước ta. Hội nghị Trung ương 7 khoá VII đã đưa ra quan điểm mới về CNH. Quan điểm đó đã gắn CNH với HĐH, coi đây là khái niệm kép, trong đó CNH và HĐH có quan hệ mật thiết với nhau, đặc biệt, nó định vị CNH giờ đây trên cơ sở HĐH. Đảng ta đã gắn liền CNH và HĐH . Đó là thực hiện CNH tuần tự và nếu có điều kiện thì hực hiên nhảy vọt đi tắt trong phát triển khoa học kỹ thuật.
Đại hội VII đã chính thức đưa ra chiến lược CNH-HĐH mới. Đó là “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Đến đại hội Đảng VIII tiếp tục khẳng định lại một lần nữa và phát triển chiến lược CNH-HĐH ở nước ta. Chiến lược CNH-HĐH đã thực sự chuyển từ chiến lược hướng nội sang chiến lược hỗn hợp. Tức là vừa coi trọng xuất khẩu, vờa coi trọng đến sản xuất hàng thay thế nhập khẩu. Đó là sự khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước đồng thời mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới để thu hút các nguồn lực từ nước ngoài.
Đến đại hội Đảng lần thhứ IX tiếp tục khẳng định chiến lược CNH-HĐH này. Đó là: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và nước ngoài tạo nên sức mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu.
Sự thay đổi chiến lược CNH-HĐH đã đem lại những thành tựu đáng ghi nhận. Trong những năm đầu của quá trình đổi mới, CNH-HĐH dã mang sắc thái mới, có sự điều chỉnh mục tiêu nội dung, và bước đầu đồng bộ hoá, cụ thể hoá bằng cơ chế chính sách. Do vậy CNH-HĐH đã được tiến hành phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc tế và điều kiện khả năng trong nước. Vì vậy, các tiềm năng nguồn lực của đất nước bước đầu được khơi dậy, thu hút được nguồn lực từ bên ngoài. Điều đó đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển tốc độ cao và bền vững GDP tăng liên tục. Từ 1991 đến 2000 GDP tăng bình quân hàng năm 7.5% (chiến lược đề ra 6.9-7.5%) giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5.4%(mục tiêu 4-4.2%) công nghiệp tăng 12.9% (mục tiêu 9.2-12.5%) dịch vụ tăng 8.2%(mục tiêu 12-13%).
Cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã ó sự chuyển dịch đa dạng và hợp lý hơn. CNH-HĐH đã thúc dẩy quá trình thay đổi và phát triển cơ cấu kinh tế từ giản đơn, lạc hậu, trì trệ, kếm hiệu quả dần dần tới một cơ cấu có nhiều ngành nhiều thành phần, khắc phục một bước tỷ trọng đơn điệu, mất cân đối, trái với quy luật chung của nhưng nước từ nông nghiệp lạc hậu đi lên. Thời kỳ đầu đổi mới cơ cấu kinh tế nước ta là nông nghiệp 38.7%; công nghiệp 28.7%; dịch vụ 44.1% thì đến nay cơ cấu kinh tế là: nông nghiệp 24.3%; công nghiệp 36.6%; dịch vụ 39.1%. Như vậy đã có sự chuyển dịch phù hợp trong cơ cấu kinh tế.
Quá trình xác định chiến lược CNH-HĐH có những hạn chế do một số lý do sau:
Nước ta ảnh hưởng quá nhiều của Liên xô, chiến lược này hợp với Liên xô và nước ta trong chiến tranh. Khi đất nước hoà bình, chúng ta vẫn máy móc thực hiện chiến lược cũ vì vậy không phù hợp với điều kiên mới. Và do chúng ta nhận thức phiến diện không đầy đủ về các quan điểm CNH của Mac; Ăngghen và Lênin.
2.2. Thực trạng của công tác quản lý kinh tế của nhà nước trong quá trình CNH-HĐH ở nước ta.
2.2.1. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Quá trình CNH-HĐH ở nước ta từ năm 1986 về trước được thực hiện rộng điều kiên cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp và do nước ta mới thoát khỏi chiến tranh nên nguồn lực thực hiện CNH-HĐH còn hạn chế. Lúc bấy giờ quan điểm của nhà nước ta là CNH là sự nghiệp của toàn dân, của các thành phần kinh tế, nhưng thực chất chỉ là nhiệm vụ của nhà nước, của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Sau đổi mới, Cơ chế nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nước ta phát triển nền kinh tế hàng hoá, tồn tại nhiều thành phần kinh tế vì vậy nhà nước có nhiều chính sách tạo điều kiên, môi trường cho các thành phần kinh tế phát triển, làm tăng nguồn lực, góp phần thúc đẩy CNH-HĐH. Chính sách này mang tính quyết định đối với việc huy động các nguồn lực cho CNH.
Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, coi mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Các thành phầnn kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư nhân, được thừa nhận là một bộ phận trong cơ cấu kinh tế. Kinh tế nhà nước đóng vai trò nền tảng chứ không phải độc tôn như trước kia. Đồng thời nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách về xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế như: chính sách tín dụng; chính sách đầu tư hỗ trợ; chính sách khu công nghiệp...
Toàn bộ hệ thống đã góp phần làm chuyển đổi từ lượng đến chất đối với các thành phần kinh tế, góp phần huy động các nguồn lực tiềm ẩn của đất nước, đẩy nhanh CNH-HĐH.
2.2.2. Chính sách huy động và sử dụng vốn.
Chính sách huy động nguồn vốn trong nước.
Trước hết là huy động vốn qua ngân sách nhà nước được thực hiện dưới hình thức như thuế, phí, các hình thức vay nợ qua kho bạc, như công trái tín phiếu. Trước đây ở nước ta còn tình trạng phát hành tiền chi cho tiêu dùng của ngân sach nhưngđến 1992 thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ thắt chặt chúng ta đã châ,ms dứt tình trạng này. Và sau khi hệ thống kho bạc nhà nước đưa vào hoạt động chúng ta đã huy động được nguồn vốn trong nhân dân.
Chính sách huy động vốn thông qua tín dụng ngân hàng.
Từ năm 1989 về trước việchuy động vốn của ngân hàng chủ yếu dựa vào các nguồn phát hành tiềnđể cho vay, viẹc huy động vốn trong doanh nghiệp và dân cư bị xem nhẹ, do lãi suất huy đông vốn thấp hơn tỷ lệ lạm phát nên việc huy động vốn gặp nhiếu khó khăn. Song từ 1989 đến nay thực hiện nhiều chíh sách mới nên việc huy động vốn đã có nhiều thuận lợi, ngoài lãi suất tiết kiệm, chúng ta còn phát hành các loại kỳ phiếu trung hạn và ngắn hạn, kỳ phiếu ngân hàng, ... đem lại là nguồn vốn tăng lên. Ngoài ra chúng ta còn huy động vốn trong doanh nghiệp.
Huy động vốn nước ngoài.
Trước năm 1987, nguồn vốn vay của chúng ta chủ yếu thông qua viện trợ và cho vay của các nước XHCN. Sau 1987, thu hút vốn nước ngoài ở nước ta chủ yếu thông qua FDI, đầu tư gián tiếp và ODA. Tháng 12/1987 Quốc hội đã thông qua “Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, chúng ta còn hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất mở rộng và đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, liên kết ... để thu hút vốn đầu tư. Không những thế, chúng ta còn thiết lập và mở rông mói quan hệ với các tổ chức quốc tế như: IMF, WB, WTO... tạo điều kiện cho chúng ta vay vốn và nhận được sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế.
Kết quả của chính sách huy động vốn: nguòn vốn cho đầu tư phát triển trong 10 năm (1991-2000) là 632 nghìn tỷ đồng (57 tỷ USD) tăng bình quân hàng năm 17.9% trong đó vốn ngân sách nhà nước chiếm 22.5% tăng 15.3%; vốn tín dụng đầu tư 12.1% tăng 26.1%, vốn của doanh nghiệp nhà nước 14.2% tăng 23.3%; vốn đầu tư của dân >27% tăng 9.9%; vốn FDI chiếm 24% tăng 20.5%.
Về sử dụng nguồn vốn: Sau khi đổi mới sử dụng nguồn vốn ở nước ta bước đầu khắc phục được tình trạng đầu tư tràn lan và quá chú trọng vào các xí nghiệp có quy mô lớn. Ngân sách nhà nước đã chú ý tới đầu tư phát triển các ngành mà nước ta có lợi thế so sánh, và chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng.
2.2.3. Chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Khi nói đến phát triển nguòn nhân lực là nói đến phát triển chất lượng và số lượng, trong đó chất lượng giữ vai trò quyết định. Chất lượng của nguồn nhân lực phụ thuộc vào đào tạo nguồn nhân lực đó vì vậy có quan hệ chặt chẽ với giáo dục đào tạo.
Mục tiêu trực tiếp của giáo dục đào tạo là “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”. Mục tiêu này hàm chứa ba cấp độ kkhác nhau. Với toàn xã hội là “ nâng cao dân trí ”. Đây là sự nâng cao trình độ văn hoá; nhận thức và ý thức dân tộc. Với đội ngũ lao động là “đào tạo nhân lực”. Nội dung của quá trình này là cung cấp kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, ngoài ra còn là phương pháp tổ chức công viêc, kỹ năng lao đông sáng tạo. Những nhân tài ở những ngành nghề; lĩnh vực hoạt động cần được phát hiện và bồi dưỡng để là điểm tựa cho sự phát triển nước nhà.
Ngày nay, hệ thống giáo dục đào tạo ở nước ta phát triển trong cơ chế thị trường, quy mô không ngừng tăng lên. Ngoài việc phát triển hệ thống các trường quốc lập còn phát triển các trường bán công và dân lập. Đồng thời phát triển cả hình thức đào tạo chính quy cũng như đào tạo tại chức, từ xa... đáp ứng nhu cầu học tập của các tầng lớp dân cư, góp phần nâng cao dân trí. Qua đó thực hiện chủ trương “xã hội hoá giáo dục đào tạo”.
Với chính sách giáo dục này, nhất là sau khi có nghị quyết trung ương 2 về giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, luật giáo dục trong vài năm gần đây hệ thống giáo dục ở nước ta có nhiều khởi sắc, được xây dựng hoàn chỉnh từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học và trên đại học. Trình độ dân trí và trình độ nhân lực được nâng lên. Số sinh viên đại học trong 10 năm (1991-2000) tăng 5.7 lần, đào tạo nghề có tiến bộ, tính đến năm 2000, lưc lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật chiếm 22.2% tổng số lực lượng lao động.
2.2.4. Chính sách phát triển khoa học công nghệ.
Khoa học công nghệ là lĩnh vực được nhà nước hết sức quan tâm và xác định là đối tượng quản lý ở cả cấp vĩ mô và vi mô. Nhà nước ta đã thành lập Bộ khoa học công nghệ và môi trường. Từ ngày thành lập đến nay Bộ khoa học công nghệ và môi trường đã giúp nhà nước ban hành nhiều văn bản pháp quy về quản lý khoa học công nghệ và môi trường. Từ những năm 60 nước ta đã xác định đúng vai trò của khoa học công nghệ song các chính sách trong hời kỳ này mang nặng tính hành chính bao cấp, không coi khoa học công nghệ là hàng hoá, chưa có thị trường khoa học công nghệ. Do đó đã không kích thích nhu cầu đổi mới công nghệ, không khai thác hết khả năng đổi mới của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp, bán sản phẩm theo giá nhà nước quy định và doanh nghiệp được hưởng lợi nhuận theo định mức. Điều đó đã không kích thích doanh nghiệp đổi mới công nghệ để hạ giá thành sản phẩm.
Từ năm 1986 đến nay, nhà nước ta tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của khoa học , công nghệ. Nghị quyết 26- NQ/TW (1991) Bộ chính trị đã chỉ ra: “khoa học và công nghệ không chỉ là động lực phát triển kinh tế xã hội mà còn là động lực quan trọng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và cơ sở để củng cố và nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo và vị trí tiên phong của Đảng ”. Qua đó ta thấy được nhận thức đúng đắn của Đảng ta về khoa học và công nghệ. Các chính sách khoa học công nghệ trong thời kỳ này đã có sự thay đổi căn bản hướng vào các nội dung chủ yếu sau: Các thành tựu phát minh về khoa học công nghệ đã trở thành hàng hoá. Đổi mới công nghệ là công việc chính của bản thân doanh nghiệp và do doanh nghiệp quyết định. Đầu tư của nhà nước vào khoa học công nghệ đã có trọng điểm, tập trung vào các hướng ưu tiên ngày càng ít hơn, cơ bản hơn. Chú trọng việc nhập và chuyển giao công nghệ nước ngoài. Và nâng cao quyền hạn, trách nhiệm, của doanh nghiệp và tăng cường vai trò quản lý nhà nước thông qua các biện pháp xây dựng tiêu chuẩn chất lượng hoá, xét cấp giải chất lượng.
Với chính sách khoa học công nghệ đo, kết quả là khoa học công nghệ đã chuyển biến tích cực. Năng lực nghiên cứu khoa học được tăng cường, ứng dụng được nhiều công nghệ tiên tiến. Một số kết quả nghiên cứu được áp dụng vào sản xuất kinh doanh. FDI từ 1991-2000 là 15 tỷ USD nên việc chuyển giao công nghệ ở nước ta tương đối khả quan, trình độ công nghệ được nâng lên một bước, rút ngắn khoảng cách vì các nước trong khu vực và các nước phát riển.
2.3. Các biện pháp tổ chức CNH-HĐH ở Việt Nam.
2.3.1. Xây dựng và kiên toàn bộ máy nhà nước.
Từ năm 1986 đến nay, nước ta liên tục sắp xếp, tổ chức lại bộ máy quản lý kinh tế nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH và phát triển kinh tế trong điều kiên kinh tế thị trường. Điều đó được thực hiện trong việc điều chỉnh bộ máy quản lý kinh tế, giảm biên chế. Nhà nước sắp xếp lại cơ quan,Bộ theo hướng chuyển từ Bộ quản lý đơn ngành sang bộ quản lý với nhiều ngành lĩnh vực có chức năng gần hoặc lân cận giống nhau, giảm bớt sự phồng to, chồng chéo. Nhà nước tập trung hơn vào việc xây dựng đổi mới thể chế hành chính phù hợp với CNH-HĐH. Đến 1996, chúng ta đã hình thành được hành lang pháp lý cho quyền kinh doanh của công dân, tạo lập khuôn khổ cơ bản của kinh tế thị trường có sự quản lý nhà nước theo định hướng XHCN.
Việc thể chế hoá và việc thực hiện các quyền tự do và dân chủ của công dân về chính trị xã hội cũng có bước tiến mới, xác định rõ hơn chức năng, trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan dân cử, quy định quyền tự do dân chủ và nhân dân có thể giám sát hoạt động. Nhà nước hình thành và phát triển những cơ quan trước đây chưa có như cơ quan kiểm toán và uỷ ban chứng khoán nhà nước. Tuy còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình đổi mới song chúng ta đang cố gắng nâng cao phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ quản lý. Đây là một trong những công tác quan trọng quyết định sự thành công của việc đổi mới này.
2.3.2. Điều hoà mối quan hệ giữa nhà nước và các thành phần kinh tế.
Trong thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung bao cấp nhà nước quyết định tất cả từ khối lượng đến giá cả sản phẩm. Nhà nước can thiệp trực tiếp vào quá trình sản xuất cũng như phân phối sản phẩm. Vốn do nhà nước cấp, lỗ do nhà nước bù giá cả do nhà nước quyết định. Hầu như mọi hoạt động trong doanh nghiệp đều do giám đốc do nhà nước bổ nhiệm và như vậy các doanh nghiệp luôn được nhà nước che chở không hề tạo ra sự cạnh tranh và không có động lực phấn đấu làm cho nền kinh tế không thể phát triển được.
Chuyển sang cơ chế thị trường, nhà nước đã để thị trường quyết định hầu hết giá cả của các loại hàng hoá bằng cách tạo ra sự bình đẳng giữa người mua và người bán. Nhà nước đã xoá bỏ cơ chế phân phối tập trung của phần lớn các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, xoá bỏ hệ thống phân phối khẩu phần hàng hoá tiêu dùng với giá thấp, tự do hoá buôn bán trong nước và mở cửa ra thế giới bên ngoài. Nhà nước kiểm soát kinh tế ở tầm vĩ mô, và trả lại quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp.
Chúng ta đã biết, kinh tế nhà nước là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển. Vì vậy nhà nước luôn chú trọng trong mối quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước. Song nhà nước vẫn để các doanh nghiệp nhà nước tự chủ về tài chính và được quyền quyết định trong sản xuất kinh doanh.
2.3.3. Kiểm tra giám sát thực hiện CNH-HĐH.
Công tác kiểm tra giám sát là vô cùng quan trọng. Qua đó chúng ta phát hiện được những định hướng, mục tiêu, những chỉ tiêu đã không còn phù hợp, từ đó kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế. Ngoài ra còn giúp doanh nghiệp nhận thức những ưu khuyết điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó góp phần thúc đẩy tiến trình CNH-HĐH.
Song quá trình cải tổ bộ máy hành chính còn chậm chạp còn kém hiệu quả nên bộ máy hành chính còn quá cồng kềnh. Nguyên nhân này dẫn đến tình trạng thanh tra, kiểm tra của các ngành trùng nhau, gây mất thời gian và tiền của, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Về phía các doanh nghiệp còn hạn chế về hiểu biết pháp luật thanh tra nên có rất nhiều doanh nghiệp vi phạm pháp luật. Khi các doanh nghiệp có việc làm sai trái thì tìm mọi cách để che dấucán bộ điều tra và đội tạo điều kiện cho những hành vi tiêu cực.
Chúng ta cần nhiều thời gian để tổ chức và thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra để đây thực sự là một động lực thực sự cho quá trình CNH-HĐH.
Chương 3:
những định hướng cơ bản nhằm nâng cao vai trò quản lý của nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở việt nam trong thời gian tới.
3.1. Những yếu tố tác động đến vai trò của nhà nước trong quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.1.1. Hoàn cảnh phát triển của các nước trên khu vực.
Nền kinh tế thế giới đang bước sang nền kinh tế tri thức cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. chúng ta đang sống trong giai đoạn chuyển tiếp từ thời đại vật thể sang thời đại phi vật thể. Kinh tế tri thức do lao động trí óc xây dựng nên. Các ngành mới lần lượt ra đời dựa vào thành tựu khoa học, kỹ thuật như: công nghệ thông tin, điện tử tự động... Nếu như thế kỷ 20 là thế kỷ của nền kinh tế nông nghiệp,thì dự báo thế kỷ 21 là thế kỷ của kinh tế tri thức.
Nhiều người ước tính vào khoảng năm 2030, kinh tế các nước phát triển đều trở thành kinh tế tri thức. Sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức tạo cơ hội cho nước ta có thể tiếp thu được những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại nhất của thế giới để đi nhanh, thực hiên rút ngắn tiến trình CNH-HĐH, nhưng cũng tạo ra những thách thức, nguy cơ tụt hậu nếu ta không tận dụng được những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại đó.
Nền kinh tế thế giới đang phát triển trong điều kiên xu hướng toàn cầu hoá, hợp tác hoá phát triển mạnh, cạnh tranh ngày càng gay gắt. Toàn cầu hoá đồng nghĩa với mở cửa nền kinh tế. mỗi quốc gia là một bộ phận trong mối liên hệ chặt chẽ với các quốc gia khác tạo ra một sân chơi chung bất kể trình độ và xuất phát điểm gì. Đây là một cơ hội lớn để nước ta hoà nhập kinh tế thế giới song chúng ta gặp phải rất nhiều khó khăn khi điều kiện còn thiếu như: trình độ nguồn nhân lực thấp, khả năng cạnh tranh còn hạn chế, trình độ quản lý kém, hệ thống tài chính chậm phát triển... Ngoài ra khi tham gia vào thị trường lớn này, hàng hoá nước ta gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến một số doanh nghiệp trong nước đứng trước nguy cơ làm ăn thua lỗ, phá sản.
Nói chung, những cơ hội và thách thức đó đòi hỏi chúng ta trong quá trình CNH-HĐH phải nỗ lực để nắm bắt được cơ hội và giảm thiểu những thách thức. Để rút ngắn quá trình CNH-HĐH chúng ta phải hội nhập được với nền kinh tế thế giới. Nếu không hội nhập được, bỏ lỡ cơ hội do kinh tế tri thức và toàn cầu hoá mang lại thì chúng ta sẽ bị tụt hậu xa hơn.
3.1.2. Đặc điểm nền kinh tế Việt Nam.
Sau hai cuộc chiến tranh, lại trải qua một thời gian dài trong cơ chế tập trung bao cấp, vì vậy chúng ta chưa chuẩn bị tốt mọi mặt thực hiện CNH-HĐH. Chúng ta vẫn thuộc nhóm nước nghèo, với 76% dân số vẫn sống ở nông thôn, vẫn là người sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp GDP theo đầu người vẫn còn thấp. Theo báo cáo của UNDP thì GDP ngang sức mua theo đầu người của Việt Nam đang đứng thứ 133 trong tổng số 174 nước trên thế giới thuộc nhóm 50 nước ngheo nhất.
Chúng ta là nước tiến hành CNH sau vì vậy có nhiều lợi thế, ngoài ra Việt Nam còn nằm trong khu vực phát triển kinh tế năng động thế giới với đường bộ đường biển, đường không đều thuận lợi. Nhưng những thuận lợi này phần lớn nằm ở dạng tiềm năng, đòi hỏi chúng ta phải có giải pháp phù hợp mới khai thác được.
Nước ta có phương thức CNH, không hoàn toàn giống các nước khác, vì vậy chúng ta cần phải có những linh hoạt nhất định phù hợp hoàn cảnh về chính trị, kih tế, xã hội. Chúng ta cần phát huy các nguồn lực lợi thế so sánh của đất nước, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
3.1.3. Mục tiêu tiến hành CNH-HĐH ở Việt Nam.
3.1.3.1. Quan điểm về CNH-HĐH.
Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc,tự chủ đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại, phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá về kinh tế, qua đó khai thác tối đa các ưu thế, lợi thế. Như vậy quan điểm này vừa phù hợp với xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá về kinh tế vừa giữ vững độc lập tự chủ. Chúng ta dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
CNH-HĐH lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cho việc phát triển nhanh bền vững. Con người vừa là mục đích vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững. nguồn nhân lực được coi là nguồn lực của mọi nguồn lực khác. Như vậy, đòi hỏi phải có những chính sách kinh tế xã hội phù hợp về văn hoá, giáo dục, y tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, coi đầu tư cho giáo dục, đào tạo là đầu tư chiều sâu cho sự phát triển kinh tế xã hội và giáo dục, đào tạo cùng với khoa học công nghệ phải thực sự là vấn đề hàng đầu.
Khoa học công nghệ là động lực của CNH-HDH. Chúng ta phải kết hợp giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại và nhanh chóng trang bị công nghệ hiện đại cho các ngành, lĩnh vực mũi nhọn. Điều đó cho phép kết hợp tuần tự với nhảy vọt, khai thác có hiệu quả công nghệ mới. Đồng thời, chống lại tư tưởng bảo thủ, trì trệ nóng vội trong quá trình CNH-HĐH.
lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển.Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có.Ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo việc làm thu hồi vốn nhanh dồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh.
Xây dựng và bảo vẹ tổ quốc luôn là hai nhiệm vụ chiến lược có sự tác động qua lại lẫn nhau. CNH-HĐH là cơ sở tăng cường khả năng quốc phòng an ninh, và ngược lại bảo vệ vững chắc Tổ quốc là điều kiện kiên quyết để phhát triển kinh tế.
3.1.3.2. Mục tiêu cơ bản của CNH-HĐH.
Mục tiêu đầu tiên của CNH-HĐH là phát triển sản xuất để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dan, thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Từ mục tiêu đó, chúng ta tiến hành CNH-HĐH với mục tiêu cụ thể là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, dựa trên nền khoa học và công nghệ tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hê jsản xuất ngày càng tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đủ khả năng xây dựng một cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc của toàn dân, bảo vệ vững chắc nền độc lập tự do của tổ quốc, cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, củng cố an ninh quốc phòng, nâng cao khả năng hợp tác với bên ngoài. đó là sự phấn đấu trong khó khăn nhưng không phải chúng ta không làm được.
Đại hội Đảng IX khẳng định “Đẩy mạnh CNH-HĐH xây dựng nền kinh tế đọc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phú hợp theo định hướng XHCN”. Để làm được điều đó, chúng ta phải phấn đâu để đạt nhiều tiêu chuẩn như: trình độ khoa học công nghệ; thu nhập bình quân(khoảng 9000USD/năm) giá trị ngành công nghiệp phải chiếm 80-90% giá trị xã hội.
3.2. Những giải pháp nhằm tăng cường vai trò của nhà nước trong quá trình CNH-HĐH ở nước ta trong thời gian tới.
3.2.1. Xác định bớưc đi tiếp thích hợp cho tương lai.
Chiến lược của nước ta trong thời gian tới có một số đặc trưng cơ bản như sau:
Một là: Do tác động của toàn cầu hoá với xu hướng tự do hoá thương mại theo khu vực và thế giới,việc kết hợp giữa hướng mạnh về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu dường như được coi là một tất yếu có tính phổ biến song lại không có ý nghĩa lớn với việc định hướng chiến lược phát triển. Các rào cản dần được dỡ bỏ, hàng hoá được lưu thông tự do giữa các quốc gia theo các hiệp định thương mại song phương hoặc đa phương. như vậy mỗi nước cần xác định rõ lợi thế của mình khi tham gia các quan hệ kinh tế quốc tế và tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá tại thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Thứ hai là; Chúng ta phải dựa trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học và công nghệ chứ không đơn thuần là dựa trên những lợi thế truyền thống, để nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường. Nội dung cụ thể của chiến lược trên được thể hiện ở xác định giải pháp phát triển khoa học công nghệ và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Về bước đi của phát triển khoa học công nghệ.
Mục tiêu của nước ta là trở thành một nước công nghiệp mà lấy chuẩn mực là GDP bình quân đầu người làm mục tiêu phấn đấu thì chúng ta rất khó đuổi kịp các nước phát triển. Song chúng ta có thể rút ngắn khoảng cách bằng trình độ phát triển một cách có trọng điểm kinh tế tri thức. Sự phát triển khoa học công nghệ phải là sự kết hợp giữa bước đi tuần tự và lợi dụng những thành tựu kinh tê tri thức để đi tắt nhảy vọ. Sự kết hợp đó không phải chỉ là sự kết hợp đơn thuần các trình độ phát triển khác nhau của khoa học công nghệ mà còn kết hợp các trình độ phát triển khác nhau của văn minh nhân loại.
Đó là chuyển từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp và chuyển thẳng lên văn minh ri thức. Hai nhiệm vụ ấy luôn kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ bổ xung cho nhau nhưng định hướng chỉ đạo là phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để HDDH sản xuất.
Để làm diều đó, chúng ta phải đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất những ngành công nghiệp cơ bản, giải quyết những nhu cầu cơ bản và bức xúc của dân cư, trước hết nước ta phải chuyển nhanh nền kinh tế và mang nặng tính tự cấp tự túc sang sản xuât hàng hoá và phát triển công nghệ nhiều tầng.
Đồng thời chúng ta phải chủ động tiếp nhận những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới, có cải tiến cho phù hợp với thực tiễn nước ta,với nghiên cứu , sáng chế ở trình độ hiện đại qua đó phát triển nhanh các ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, hiện đại hoá va nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Lịch sử đã chứng minh rằng các nước thành công trong CNH đa số thực hiện trong nền kinh tế hàng hoá kinh tế thị trường. Vì vậy thực hiện CNH-HĐH trong điều kiên KTHH,KTTT là phù hợp với các nước ĐPT. Muốn nhanh chống hội nhập vào nên kinh tế thế giới, nước ta nhất thiết phải phát triển kinh tế theo hướng đó., Đây là bước đi tuần tự về mặt kinh tế đồng thời cũng là bước đi tuần tự về mặt kỹ thuật.
Mặt khác do lực lượng sản xuất ở nước ta còn nhiều trình độ phát triển khác nhau nên việc giải quyết những nhu cầu cơ bản bức xúc của dân cư dồng thời thực hiên rút ngắn qúa trình CNH-HĐH trong thời gian tới phải phát triển công nghiệp nhiều tầng, kết hợp nhiều trình độ khác nhau công nghệ cao, công nghệ thích hợp ,công nghệ truyền thống.
Cơ cấu công nghệ nhiều tầng ở nước ta phải là một cơ cấu công nghệ đa dạng trong đó công nghệ hiện đại và công nghệ cao đóng vai trò trọng yếu , đồng thời phải phát triển nâng cao công nghệ truyền thống, tạo ra các công nghệ thích hợp đa dạng theo yêu cầu của sản xuất và của từng địa phương, coi đó là một hướng chiến lược phát triển.Công nghệ hiện đại và công nghệ cao trong các doanh nghiệp lớn ở thành thị có thể liên kết với công nghệ thích hợp , công nghệ truyền thống của các doanh nghiệp vệ tinh ở thành thị hoặc nông thôn và chuyển giao công nghẹ cần thiết cho các doanh nghiêp đó.
Đối với nước ta trong giai đoạn tới phải phát huy được năng lực nội sinh, nói cách khác là phải làm chủ khoa học công nghệ. Đó là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, mang tính xã hội hoá cao, một năng lực có tổ chức trong nhân thức nhu cầu xã hội về công nghệ, cũng như hành đông chung để đưa khoa học công nghê vào phục vụ cho những nhu cầu của mình. Quá trình đổi mới và phat triển khoa học công nghệ gồm các khâu: nghiên cứu, triển khai, thích nghi, phổ biến, khai thác, sử dụng rồi được thay bằng cái mới. Đối với mỗi quốc gia, làm chủ khoa học công nghệ là khả năng nhận thức một cách tường tận nhu cầu về đổi mới khoa học công nghệ và khả năng giải quyết các nhu cầu đó.
Công nghệ thông tin phải được ưu tiên hàng đầu trong việc thực hiên đảy nhanh CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế tri thức và toàn cầu hoá kinh tế. Đây là những lĩnh vực mà nước ta có khả năng đi tắt đón đầu, tận dụng được lợi thế của người đi sau.Phải nhanh chóng xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm. Sử dụng các ngành công nghệ cao để phát triển một số ngành công nghiệp then chốt như chế tạo máy. trong từng ngành từng lĩnh vực kinh tế cũng cần lựa chọn đơn vị kinh tế đi thẳng vào công nghệ mới nhất để thúc đẩy đôỉ mới toàn ngành toàn lĩnh vực.
Về định hướng chuyển dich cơ cấu kinh tế.
Về chuyển dịch cơ cấu nội tại các ngành. Mỗi ngành, đặc bệt là công nghiệp thường được chia thành các phân ngành hẹp với những đặc thù riêng. Ngoài việc địng hướng chuyển dịch cơ cấu nội tại của các ngành kinh tế tổng hợp, cần có định hướng cho mỗi ngành, phân ngành. Phải xác định các nhóm sản phẩm chủ yếu mà cần tập trung phát triển. Việc xác định đó lại phải dựa vào: dự báo cầu thị trường, tiến bộ khoa học và công nghệ, điều kiện bảo đảm khả năng cạnh trạnh của thị trường...
Về các yếu tố của kinh tế tri thức trong chuyển dịch cơ cấu và nâng cao khả năng cạnh tranh. Trong sự phát triển của tất cả các ngành kinh tế, chủ yếu phải là các nhóm ngành có khả năng cạnh tranh và các nhóm ngành có triển vọng nâng cao khả năng cạnh tranh, sự phát triển theo bề rộng phải kết hợp chặt chẽ với sự phát triển theo chiều sâu.
Về định hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế.
Trong những năm tiếp theo, cần tiếp tục giảm tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong GDP của nền kinh tế quốc dân, đồng thời tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ lên một cách tương ứng. Hiện nay tỷ trọng nông nghiệp của năm 2003 là 23.0% của công nghiệp là 38.6% và dịch vụ là 38.4%. Thời gian tới chúng ta phấn đấu giảm tỷ trọng nông nghiệp xuống còn 20.0% và tăng tỷ trọng công nghiệp lên 39% dịch vụ lên 41%.
Nhóm ngành được ưu tiên phát triển với tốc độ cao là những ngành tạo được ưu thế nổi trội trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nhóm này gồm hai loại, đó là: các ngành truyền thống và các ngành mới phát triển, đại diện cho trình độ khoa học và công nghệ cao. Các ngành truyền thống là các ngành phát triển dựa trên cơ sở lợi thế về tài ngguyên: nông, ngư nghiệp, kkhai thác khoáng sản và các ngành phát triển dựa trên lợi thế lao động: dệt may, giầy dép, lắp ráp cơ khí... Còn những ngành công nghiệp mới như: điện tử, tin học, công nghệ thông tin, cơ- điện tử, vật liệu mới...
Về định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ.
Đảng và nhà nước ta chủ trương phát triển ba vùng kinh tế trọng điểm là:
Vùng thành phố Hồ Chí Minh- Vũng Tàu- Biên Hoà.
Vùng Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh.
Vùng Đà Nẵng- Huế- Dung Quất.
Đây là ba khu vực có điều kiện thuận lợi nhất ở nước ta hiện nay trong việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để phục vụ cho sự phát triển. Ba vùng này làm đầu tàu cho nền kinh tế nhưng không phát triển độc lập mà liên kết với các vùng khác thông qua thị trường hàng hoá, thị trường lao động, và thị trường của các yếu tố sản xuất. Song song với kế hoạch phát triển ba vùng này cần đưa ra một kế hoạch dài hạn là kế hoạch phát triển các vùng khác nữa.
Về định hướng chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế.
kinh tế nhà nước phải tập trung đàu tư phát triển những ngành, lĩnh vực kinh tế trọng yếu của nền kinh tế quốc dân như kết cấu hai tầng, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... Kinh tế nhà nước phải thực sự trở thành đòn bẩy để nhà nước đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát tiển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô.
3.2.2. Hoàn thiện các chính sách đẩy mạnh CNH-HĐH.
Thực hiện nhất quán chính sách thống nhất và đồng bộ.
CNH-HĐH ở nước ta là sự nghiệp của toàn dân của các thành phần kinh tế. Do vậy phương thức huy động nguồn lực của nước ta là phải dựa và sức của toàn dân của các thành phần kinh tế. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải nhất quán chính sách nhiều thành phần. Vần đề này phải được quán triệt trong đướng lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước. Mặt khác, luật pháp chính sách phải tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế góp phần vào sự nghiệp CNH-HĐH. Để làm được điều đó chúng ta cần chú trọng một số mặt sau:
Chú trrọng phát triển kinh tế nhà nước để đủ sức đóng vai trò chủ đạo trong CNH-HĐH. Trong những năm tới, thành phần kinh tế nhà nước cần tập trung đầu tư vào những ngành, lĩnh vực như: phát triển các yếu tố của kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông, cầu cảng...). Các doanh nghiệp cần được cung cấp các dịch vụ cần thiết: thông tin thị trường, dịch vụ tư vấn, cho vay tài chính, uỷ thác tiêu thụ sản phẩm. Dó là các dịch vụ mà chỉ có doang nghiệp nhà nước mới có đử điều kiện thực hiện. Ngoài ra phải đầu tư vào các lĩnh vực công ích và dịch vụ bảo đảm đời sống xã hội, đây là lĩnh vực có lợi nhuận thấp nên các thành phần khác không muốn thực hiện. Đồng thời thành phần kinh tế nhà nước có nhiệm vụ tập trung phát triển những ngành mũi nhọn đòi hỏi công nghệ cao đầu tư lớn, quan trọng mà các thành phần kinh tế khác chưa thể đảm nhiệm như: bưu chính viền thông, hàng không, dầu khí, cơ khí chế tạo...
Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhà nước phải thực sự hoạt đông theo cơ chế thị trương, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nhà nước chỉ bảo hộ khi cần thiết. trước tiên phải định hướng và phân loại các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích và kinh doanh. Tiếp tục hoàn thiện năng cao hiệu qua rhoạt động của các tổng công ty, kiên quyết cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương sát nhập, khoán kinh doanh, cho thuê, giao bán, phá sản các doanh nghiệp thua lỗ kéo dài.
Đa dạng hoá các hình thức kinh tế tập thể, đặc biệt là dịch vụ nông nghiệp và nông thôn.
Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh doanh theo hướng bảo đảm cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Các doanh nghiệp có quyền chủ động kinh doanh theo quan hệ cung cầu, giá cả thị trường cạnh tranh và hợp tác.
Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển, bằng việc xây dựng đầy đủ hệ thống luật pháp, quy định dưới luật, các biện pháp khuyến khích.
Như vậy, nhất quán chính sách phát triển các thành phần kinh tế sẽ huy độnh sức mạnh cho CNH-HĐH.
Hoàn thiện các chính sách huy động và sử dụng vốn.
Để có vốn cho CNH-HĐH nước ta vừa phải dựa vào nguồn vốn trong nước, đặc biệt là nguồn vốn của toàn dân, vừa phải tranh thủ thu hút nguồn vốn nước ngoài. Để làm được điều đó cần: mở rộng và khuyến khích các hình thức góp vốn kinh doanh bằng cổ phiếu, tạo tiền đề cho việc hình thành thị trường vốn, tạo điều kiện phát triển thị trường chứng khoán. Tăng cường hoạt động của tài chính trung gian như hệ thống các ngân hành thương mại, tiết kiệm mở rông hình thức bảo hiểm, khắc phục thủ tục hành chính rườm rà khi xin giấy phép thnàh lập doanh nghiệp. cần tiếp tục hoàn thiện luật đầu tư trong nước theo hướng không phân biệt đầu tư trong nước với đầu tư nước ngoài, tiến tới thống nhất chung thành luật đầu tư. Nhà nước cần có chính sách tín dụng đúng đắn nhằm tạo môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút tối đa nguồn vốn trong dân cư, của các tổ chức kinh tế. Tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của các ngân hàng cổ phần, ngân hàng tư nhân, ngân hàng liên doanh với nước ngoài nâng cao hiệu quả huy động vốn.
Để huy động nguồn vốn nước ngoài; chúng ta phải cải thiện môi trường đầu tư, hệ thống các chính sách và biện pháp khuyến khích phải đồng bộ, tạo mội trường thuận lợi thu hút vốn. Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nước ngoài thông qua việc bán trái phiếu chính phủ và cổ phiếu của các công ty cho các cá nhân các tổ chức nước ngoài. Tiếp tục phát triển quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế như: WB, IMF, ADB... cũng như mở rộng quan hệ ngoại giao và kinh tế với các nước để vay vốn vơi lãi suất ưu đãi. Cần có biện pháp, chính sách ưu đãi hơn với Việt kiều góp vốn kinh doanh.
Để sử dụng hiệu quả nguồn vốn: Cần tập trung vốn cho giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ.Tập trung vốn đầu tư cho hệ thống các công trình cơ sở hạ tầng thực hiện nguyên tắc cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước, nhằm tạo điều kiện vật chất để phát triển kinh tế. Khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất mà nước ta có lợi thế so sánh để đẩy mạnh xuất khẩu và tạo thêm việc làm. Tăng cường quản lý kiểm tra, kiểm soát của nhà nước đối với quá trình huy động và sử dụng vốn đầu tư cho CNH-HĐH theo hướng tiếp ttục hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư , xác định và điều chỉnh cơ cấu đầu tư, thẩm định cấp độ công nghệ, quy mô dự án.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH.
Nước ta là một nước nghèo về vốn lạc hậu về công nghệ, nhưng giàu về nguồn nhân lực. Vậy việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta có ý nghĩa hàng đầu. Sự thành công của sự nghiệp CNH_HĐH phụ thuộc lớn vào quy mô, số lượng đội ngũ lao động có hàm lượng chất xám cao. Chúng ta cần nâng cao trình độ văn hoá cho người dân, đặc biệt là nông thôn. Mở rộng và phát triển các loại hình đào tạo công nhân kỹ thuật. Xác định quy mô, cơ cấu các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học phù hợp với nhu cầu của xã hội. Xác định cơ cấu, và phân bổ hợp lý số người và trình độ đào tạo cho các ngành các địa phương. Khuyến khích và tạo điều kiên cho sinh viên đi học ở các nước tiên tiến dưới mọi hình thức. Tăng đầu tư ngân sách nhà nước dẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo.
3.2.3. Đổi mới và hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý nhà nước.
Thứ nhất, tiếp tục chấn chỉnh, kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý kinh tế nhà nước.
Bộ máy quản lý kinh tế nhà nước phải phù hợp với cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý mới. Chúng ta đã xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đòi hỏi bộ máy quản lý kinh tế tinh, gọn nhẹ, điều hành có hiệu quả. Cần xây dựng đội ngũ viên chức nhà nước có phẩm chất, chính trị, tinh thần trách nhiệm cao và thạo nghiệp vụ. đồng thời, nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế thống nhất của nhà nước Trung ương. Trong hệ thống bộ máy quản lý kinh tế, cấp trung ương là cấp chủ đạo, vì hiệu lực quản lý mạnh hay yếu, hiệu quả cao hay thấp trước hết xét ở tầm vĩ mô. Vì vậy phải nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế cấp trung ương bao gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Ngoài ra phải sắp xếp lại bộ máy quản lý kinh tế. Xuất phát từ thực trạng bộ máy quản lý kinh tế của chúng ta, trên cơ sở quy định chức năng nhiệm vụ quản lý ở mỗi cấp, việc sắp xếp lại bộ máy quản lý kinh tế phải thực hiện theo hướng: giảm đầu mối, các khâu trung gian, tinh giảm biên chế hành chính.
Đổi mới chế độ làm việc của bộ máy quản lý kinh tế.
Nhà nước ban hành một chế độ công tác như, chế độ thủ trưởng, chế độ trách nhiệm chế độ bảo vệ của công... mà các cơ quan quản lý phải chấp hành. Một vấn đề quan trọng là khắc phục bệnh quan liêu, cửa quyền, hách dịch, xa rời thực tế...
Thứ hai, giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước trung ương và chính quyền địa phương.
Nền kinh tế thị trường là một cơ cấu thống nhất, không có phân chia kinh tế trung ương và kinh tế địa phương như hai cơ cấu riêng biệt. Tuy nhiên để nâng cao tính hiệu quả nhà nước trong quản lý kinh tế, cần phân cấp quản lý giữa nhà nước trung ương với chính quyền địa phương. Chúng ta cần xác định những vấn đề thuộc quyền của nhà nước trung ương không có phân cấp phân quyền như: tài nguyên quốc gia, thuế, hải quan, quân đội, các quy định về quyền con người, quyền tự do dân chủ và nghĩa vụ của công dân, pháp luật về dân sự, hình sự, tín dung, và tiền tệ ... Ngoài ra phải xác định các quyền về sở hữu tài sản và những nhiệm vụ và quyền hạn về xây dựng và quản lý kinh tế của các cấp chính quyền địa phương, có phân biệt các cấp khác nhau. Vấn đề quan trọng trong phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương là quản lý ngân sách. Trong điều kiện hiện nay, để huy động nguồn lực và phát huy tính sáng tạo chủ động của chính quyền địa phương trong quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH cần giải quyết tốt vấn đề này.
Giải quỷết hài hoà mối quan hệ giữa nhà nước và các chủ thể kinh tế khác.
Trước hết chúng ta cần đề ra những tiêu chuẩn phân biệt tổ chức và nội dung quản lý nhà nước với nội dung và tổ chức quản lý kinh doanh và quản lý sự nghiệp. Sự phân biệt đó dựa trên cơ sở: phân tích vấn đề sở hữu, nghiên cứu vấn đề quản ý các thành phần kinh tế khác nhau của các cấp chính quyền trên các đơn vị hành chính và lãnh thổ khác nhau, xác định sự quản lý của nhà nước bằng quyền lực, theo pháp luật.
Nhà nước không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh- sự nghiệp trên những vấn đề mà thuộc quy định thuộc quyền tự quản của đơn vị kinh doanh hay đơn vị sự nghiệp. nhưng do trình độ phát triển kinh tế xã hội ngày càng cao, các mối quan hệ ngày càng phong phú, sự phát triển nhanh chóng của mạng khoa học công nghệ, trình độ dân trí được nâng cao, do xu hướng quốc tế hoá kinh tế, Nhà nước phải can thiệp, hay phải tăng cường quản lý về kinh tế.
Nhà nước giữ đúng chức năng quản lý và phạm vi tác động của nền hành chính quốc gia của mình bằng hệ thống các văn bản pháp quy dưới luật và sự điều hành hằng ngày, trên cư sở tôn trọng quyền tự do dân chủ và phát huy sức sáng tạo của công dân, quyền tự quản của các đơn vị kinh doanh và các đơn vị sự nghiệp.
Với một nền kinh tế thị trường phát triển, trong khuôn khổ một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, một nền pháp chế nghiêm ngặt, chúng ta hoàn toàn có thể phối hợp hài hoà mối quan hệ của nhà nước và các chủ thể kinh tế.
Hoàn thiện hệ thống kiểm tra giám sát trong quá trình CNH-HĐH.
Quá trình CNH-HĐH trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, đòi hỏi phải khắc phục những tồn tại và bất cập trong công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước. Đây là một vấn đề lớn và quan trọng, và có liên quan đến thể chế pháp luật. Để công tác kiểm tra giám sát thực có hiệu quả, chúng ta cần quan tâm đến việc tiến hành sửa đổi, bổ xung pháp luật về thanh tra kiểm tra gắn liền với cải tổ sắp xếp linh hoạt bộ máy nhà nước,đồng thời phải hạn chế tối đa kiển tra thanh tra chồng chéo tràn lan, như vậy tức là cần xác định cơ quan kiểm tra cho từng lĩnh vực. Phân định rõ và kết hợp tốt giữa các cơ quan của hệ thống viện kiểm soát nhân dân và hệ thống cơ quan thanh tra của chính phủ, các bộ các địa phương. Nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của cán bộ thanh tra, kiểm sát.
Do bản chất của nhà nước ta là của dân do dân và vì dân nên trong quá trình CNH-HĐH đòi hỏi phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao dộng trong quản lý nhà nước, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Thực hiện được các vấn đề trên, kiểm tra, giám sát, sẽ thực hiện tốt chức năng vai trò của mình, đáp ứng được yêu cầu của quá trình CNH-HĐH trong điều kiện hiện nay.
Kết luận
Đề án góp phần làm rõ về mặt cơ sở lý luận thực chất vai trò Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH thể hiện ở việc xác định chiến lược CNH - HĐH, tạo ra những điều kiện thuận lợi để thực hiện CNH - HĐH thông qua việc xây dựng các chính sách và hệ thống pháp luật nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, tổ chức thực hiện CNH - HĐH. Đây chính là nội dung xuyên suốt trong đề án.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển ngày càng tạo ra nhiều thách thức mới cho chúng ta. Để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần huy động sức mạnh của toàn Đảng toàn dân.
Với một lực lượng đông đảo nhiều thành phần, tầng lớp cần phải tạo ra một tiếng nói chung nhất vì vậy cần phải nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH cũng như sự nghiệp phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá nói chung.
Đề án làm rõ, để đẩy nhanh CNH - HĐH ở nước ta Nhà nước phải kết hợp hài hoà, thống nhất và đồng bộ những nội dung cơ bản của vai trò Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH. Chúng ta cần phải xác định bước đi chiến lược cho tương lai trong việc phát triển khoa học công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp điều kiện kinh tế thế giới và phát huy được các nguồn lực. Để đạt được điều đó chúng ta cần phải xây dựng bộ máy quản lý kinh tế Nhà nước có hiệu quả, đồng thời phát huy tính sáng tạo, năng động của nguồn nhân lực. Mặt khác phải có cơ chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện phát triển cho mọi thành phần kinh tế, tạo ra "sân chơi" cho những nhà đầu tư tâm huyết làm thu hút vốn và công nghệ của các nước phát triển.
DAnh mục Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Văn Bích , Chu Tiến Quang (1996): Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội.
2. Mác, Ăngghen, Lênin V.I (1976), về CNH XHCN, NXB Sự thật - Hà Nội.
3. Mác, Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 24, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4. Chu Văn Cấp (1996) Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia , Hà Nội
5. Mai Ngọc Cường (1996) CNH theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
6. Mai Ngọc Cường (2001) Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội.
7. Nguyễn Trí Dĩnh (1993) Vai trò Nhà nước trong phát triển kinh tế các nước ASEAN, NXB Thống kê, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 6, 8, 9 NXB Sự thật, Hà Nội.
9. Nguyễn Duy Gia (1997) Một số vấn đề cơ bản về hoàn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội.
10. Nguyễn Duy Hùng (1996) Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường - kinh nghiệm ở các nước ASEAN, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.
11. Võ Đại Lược (1999) Những xu hướng phát triển của thế giới và sự lựa chọn mô hình CNH ở nước ta, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Phạm Khắc Nghiêm (1993) Một số quan điểm về đổi mới chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. NXB Thống kê 2001, Niên giám thống kê 2000, Hà Nội.
14. Lương Xuân Quỳ (1994) Cơ chế thị trường và vai trò quản lý Nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội,
15. Trần Việt Tiến (1999) Phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá tình CNH, HĐH ở Việt Nam, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 32.
16. Trần Việt Tiến (2000) Xây dựng chính sách trong quá trình CNH, HĐH của các nước đang phát triển, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 41.
17. Trường ĐHKTQD - Bộ môn Quản lý kinh tế ("2001), Quản lý Nhà nước về kinh tế, NXB Giáo dục, Hà Nội.
18. Trường ĐHKTQD - Bộ môn Kinh tế chính trị (1998) Kinh tế chính trị Mác - Lênin, NXB Giáo dục Hà Nội.
Mục lục
Trang
Lời mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về vai trò Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH 2
1.1. Thực chất của vai trò Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH 2
1.1.1. Những nét khái quát về vấn đề CNH - HĐH 2
1.1.2. Tính tất yếu khách quan về vai trò của Nhà nước trong CNH - HĐH 4
1.1.3. Đặc điểm của vai trò Nhà nước trong quá trình CNH ở các nước XHCN 5
1.2. Nội dung vai trò Nhà nước trong sự nghiệp CNH - HĐH 8
1.2.1. Xác định mục tiêu CNH 8
1.2.2. Xác định chiến lược CNH - HĐH 8
1.2.3. Tạo mọi điều kiện để tiến hành CNH - HĐH đảm bảo tính hiệu quả đồng bộ và thích hợp 11
1.2.4. Chỉ đạo tổ chức thực hiện CNH - HĐH 12
1.3. Kinh ngihệm các nước trong khu vực về vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH 14
1.3.1. Nhà nước thay đổi chiến lược CNH - HĐH để phù hợp với điều kiện bên trong và bên ngoài 14
1.3.2. Nhà nước ban hành các chính sách hấp dẫn để thu hút vốn: nhân lực và công nghệ 15
1.3.3. Tăng cường công tác quản lý và sự ảnh hưởng của Nhà nước trong CNH - HĐH .15
Chương 2: Thực trạng và vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam 16
2.1. Chiến lược CNH - HĐH ở nước ta trong thời gian qua 16
2.2. Thực trạng của công tác quản lý kinh tế của Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH ở nước ta 20
2.2.1. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần 20
2.2.2. Chính sách huy động và sử dụng vốn 20
2.2.3. Chính sách phát triển nguồn nhân lực 22
2.2.4. Chính sách phát triển khoa học công nghệ 23
2.3. Các biện pháp tổ chức CNH - HĐH ở Việt Nam 24
2.3.1. Xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước 24
2.3.2. Điều hoà mối quan hệ giữa Nhà nước và các thành phần kinh tế 24
2.3.3. Kiểm tra, giám sát thực hiện CNH - HĐH 25
Chương 3: Những định hướng cơ bản nhằm nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH ở Việt Nam trong thời gian tới 26
3.1. Những yếu tố tác động đến vai trò Nhà nước trong quá trình CNH - HĐH ở nước ta trong thời gian tới 26
3.1.1. Hoàn cảnh phát triển của các nước trên khu vực 26
3.1.2. Đặc điểm kinh tế Việt Nam 27
3.1.3. Mục tiêu tiến hành CNH - HĐH ở Việt Nam 27
3.2. Những giải pháp nhằm tăng cường vai trò của Nhà nước trong thời gian tới 29
3.2.1. Xác định bước đi tiếp thích hợp cho tương lai 29
3.2.2. Hoàn thiện các chính sách đẩy mạnh CNH - HĐH 33
3.2.3. Đổi mới và hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý Nhà nước 36
Kết luận 39
Danh mục tài liệu tham khảo 40
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35532.doc