Đề tài Vai trò và chức năng của kế toán tài chính trong nền kinh tế Việt Nam

Cho đến nay số công ty hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán ở Việt nam lên tới 23với tổng số khoản 2000 nhân viên, trong đó có 5 công ty 100% vốn nước ngoài, 1công ty liên doanh, 7công ty quốc doanh (Theo Báo Diễn đàn doanh nghiệp – số 20 – ngày 8/3/2001) đây thực sự là một con số đáng khích lệ, song chưa phải là lớn khi mà nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng có những thay đổi lớn mạnh. Vì vậy không chỉ cần tăng về số lượng mà chúng ta cần phải đa dạng hoá các loại hình dịch vụ dươí mọi hình thức (văn phòng, trung tâm, công ty dịch vụ ) không chỉ cung cấp các dịch vụ kiểm toán, tư vấn kế toán mà còn phải cung ứng các loại dịch vụ tư vấn thuế, tư vấn tài chính, mua bán, cung ứng phần mềm kế toán Cần mở rộng hơn nữa mạng lưới kiểm toán độc lập đáp ứng nhu cầu kiểm toán của mọi Doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, các dự án đầu tư, công trình xây dựng cơ bản, đặc biệt hiện nay có dự kiến của Nhà Nước về việc quy định bắt buộc kiểm toán đối với các tổng công ty, Doanh nghiệp nhà nước, đây là cơ hội và thách thức không nhỏ đối với các công ty kiểm toán của Việt nam. Mặt khác, các công ty kiểm toán Việt Nam cần mạnh dạn lựa chọn liên doanh, liên kết với các công ty, tổ chức kiểm toán Quốc tế. Bởi việc hội nhập quốc tế không chỉ tạo điều kiện cho việc học hỏi kinh nghiệm, nầng cao chất lượng khả năng của mình mà còn giúp các công ty kiểm toán Việt nam mở rộng thêm các quan hệ bên ngoài và nâng cao khả năng cạnh tranh. Mặt khác các công ty kiểm toán Việt nam cần mạnh dạn lựa chọn liên doanh, liên kết với các công ty, tổ chức kiểm toán Quốc tế. Bởi việc hội nhập Quốc tế không chỉ tạo điều kiện cho việc học hỏi kinh nghiệm, nâng cao chất lượng khả năng của mình mà còn giúp các công ty kiểm toán Việt nam mở rộng thêm các quan hệ bên ngoài và nâng cao khả năng cạnh tranh. Cuối cùng, để công tác kiểm toán đi đúng hướng và hoạt động thực sự có hiệu quả chúng ta cần xây dựng, thiết lập các cơ quan kiểm tra, quản lý để tăng cường công tác thanh tra, giám sát đối với hoạt động kiểm toán. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay chất lượng kiểm toán phải được chú trọng hơn bao giờ hết và phải coi đây là công cụ đắc lực có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy vai trò của cơ quan thanh tra giám sát đối với công tác kiểm toán là đặc biệt quan trọng. Muốn vậy cần phải: Xây dựng, thiết lập một hệ thống giám sát chặt chẽ hoạt động dịch vụ kiểm toán, kiểm toán đảm bảo các dịch vụ này cung cấp có chất lượng, có độ tin cậy an toàn và đặc biệt đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho các hoạt động trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh vì các quyền lợi của người cung cấp các dịch vụ kế toán, người được kiểm toán. - Củng cố cơ cấu tổ chức và nâng cao năng lực các cơ quan quản lý nhà nước đối với các ngành dịch vụ kế toán và kiểm toán. Có cơ chế công nhận và ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với kết quả tư vấn trong lính vực này. - Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của các tổ chức hoạt động nghề nghiệp đặc biệt cần tăng cường chất lượng và năng lực hoạt động hội kế toán Việt Nam. Thành lập mới tổ chức nghề nghiệp các chuyên gia kế toán, các kiểm toán viên có chứng chỉ. - Chủ trương hạn chế và từng bước từ bỏ việc quản lý kinh tế đối với ngành kiểm toán, tăng cường biện pháp hành chính chuyển sang quản lý bằng pháp luật, bằng đòn bẩy kinh tế và công cụ kinh tế.

doc23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1691 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò và chức năng của kế toán tài chính trong nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu. Sự chuyển nền kinh tế ViệtNam từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, cũng đồng nghĩa với sự chấp nhận cạnh tranh gay gắt trong phạm vi toàn quốc và trên thị trường quốc tế. Vì vậy, có rất nhiều vấn đề bức xúc cần giải quyết về mặt lý luận thực tiễn từ quản lý vĩ mô đến quản lý vi mô của nền kinh tế. Một trong những vấn đề cấp bách đó là phải đảm bảo thông tin kinh tế trung thực, đáng tin cậy và có sự đảm bảo về mặt pháp lý. Thực chất hoạt động kiểm toán trong nền kinh tế là hoạt động nhằ thẩm định độc lập độ tin công cậy của các thông tin kinh tế tài chính và được thực hiên bởi những kiểm toán viên có trình động kỹ năng chuyên môn cao, tuân thủ nghiêm ngặt các chuẩn mực kiểm toán đá xây dựng. Những thông tin đã được kiểm toán sẽ là căn cứ, cơ sở cho việc đề ra các quyết định quản lý, lập các dự án từ cấp cơ sở cho đến quản lý vĩ mô của nhà nước và của các thành phần khác trong nèen kinh tế xã hội. Chính vì vậy, kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính nói riêng đã ra đời và ngày càng khẳng định vị thế và tầm quan trọng của mình trong nền kinh tế thị trường. Với đề tài: “ Vai trò và chức năng của kế toán tài chính trong nền kinh tế Việt Nam” chúng tôi chia kết cấu của bài viết thành 3 phần chính: Phần 1: Lý luận cơ bản về chức năng và vai trò của kiểm toán tài chính. Phần 2: Vai trò và chức năng của kiểm toán tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam. Phần 3: Phương hướng hoàn thiện và phát huy vai trò của kiểm toán tài chính. Tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Viết Tiến, giảng viên lớp KTT. Mặc dù tôi đã cố gắng song điều kiện và khả năng có hạn nên bài viết của tôi không thể tránh khỏi những sai sót. Tôi mong nhận được sự hướng dẫn và giúp đỡ của thầy. Phần I. Lý luận cơ bản về chức năng và vai trò của kiểm toán tài chính. I. Lý luận chung về kiểm toán tài chính. 1.Sự hình thành của kiểm toán tài chính. Trong giai đoạn chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang một nền kinh tế thị trường thì nhu cầu đổi mới nghiề kiểm toán đáng tin cậy và được công nhận trở nên lớn hơn bao giờ hết. Đơn giản là vì những công cụ sự dụng trước đó không còn phù hợp với một nền kinh tế thị trường. Hơn nữa những người chịu trách nhiệm lập thông tin tai chính không đủ kiến thức và hiểu biết về nguyên tắc kiểm toán… Do đó đã làm cho thông tin trở thành không đầy đủ và trung thực. Điều đó dẫn đến kết quả là không có thông tin để phục vụ cho những người ra quyết định bao gồm cả cơ quan chính phủ mà hậu quả là sự sai mất định hướng tổng thể và mất lòng tin trong công chúng nói chung. Trong bối cảnh đó không có hoạt đọng kiểm toán để xác nhận tính tin cậy của các thông tin tài chính sẽ gây cản trở lớn đến quá trình chuyển đổi. Cũng cần phải nói thêm rằng phương pháp tự kiểm tra của kế toán dù có ưu việt song cũng chỉ tạo được niềm tin cho một giới hạn nhất định của người quan tâm đến tình hình tài chính trước hết là những người làm kinh tế và những nhà quản lý am hiểu nghiệp vụ kiểm toán. Do vậy viên kiểm tra ngoài kế toán là yêu cầu tất yếu của quản lý, đặc biệt trong điều kiện đa phương hoá sở hữu và đa dạng hoá các loại hình đơn vị kinh doanh. Như vậy, kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính nói riêng là yêu cầu tất yếu đối với một nền kinh tế. 2. Khái niệm kiểm toán tài chính. Kiểm toán váo cáo tài chính (kiểm toán tài chính) la sự kiểm tra và trình bày ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về tính trung thực, hợp lý, tính hợp thức và tính hợp pháp của các báo cáo tài chính. Nếu báo cáo tài chính chỉ cung cấp và trình bày cho người đọc thực trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời gian nhất định thì việc kiểm toán các báo cáo tài chính sẽ gây dựng lòng tin của những người sử dụng đối với báo cáo đó. Vì vậy, không phải bàn nhiều đến vấn đề tại sao lại cần phải có kiểm toán thay thế vào đó hãy tập trung đi sâu vào vai trò và chức năng của kiểm toán tài chính trong nền kinh tế thị trường. II. Chức năng của kiểm toán tài chính. Theo quan điểm triết học, chức năng là tán dụng của các đặc tính của hệ thống khách thể đối với hệ thống môi trtường cùng nằm trong một hệ thống các quan hệ khách thể. Như vậy chức năng của kiểm toán tài chính cũng xuất phát từ bản chất của ngành. Đồng thời chính chức năng có tác dụng góp phần duy trì một cách ổn định để tạo niềm tin cho những người quan tâm vào những kết luận kiểm toán. Qua nghiên cứu và phân tích, ta có thể rút ra các chức năng cơ bản của kiểm toán tài chính như sau: 1.Chức năng kiểm tra và thẩm định. Chức năng kiển tra và thẩm định của kiểm toán tài chính nhằm xem xét mức độ trung thực của tài liệu và tính hợp pháp của việc thực hiện các nghiệp vụ mức độ trung thực của tài liệu và tính hợp pháp của việc lập các bảng tài chính thể hiện trên hai phương diện: - Độ tin cậy của các con số, các thông tin đã được công bố. - Tính đúng đắn và trung thực của các biểu mẫu sổ sách phản ánh tình hình tài chính. Có thể nói chức năng kiểm tra của kiểm toán tài chính là xem xét, đối chiếu để đánh giá độ xác thực của thông tin,từ đó góp phần điều chỉnh các hoạt động được xem xét theo hệ thống mục tiêu xác định. 2. Chức năng tư vấn của kiểm toán tài chính. Việc công bố kết quả kiểm toán tài chính trước công chúng, công khai kết quả kiểm toán tài chính được xem như một phần của chức năng kiểm toán. Khi kiểm toán tài chính đã được phát triển, chức năng tư vấn đã được đưa vào báo cáo kiểm toán ngoài phần xác nhận hoặc chỉ ra những sai lệch, những vi phạm pháp luật, vi phạm kinh tế trong điều hành và quản lý tài chính ngân sách, còn đưa ra những kiến nghị, biện pháp để sửa chữa, khắc phục những sai sót vi phạm và ngăn chặn không cho chúng lập lại trong tương lai. Chức năng tư vấn được thể hiện trong cả lĩnh vực kiểm toán khu vực công cộng và khu vực kinh doanh. - Đối với khu vực Nhà nước thông tin kết quả hoạt động kiểm toán, kiểm toán tài chính sẽ cung cấp thông đầy đủ có giá trị đáng tin cậy về kết quả thu chi nhân sách Nhà nước, chấp hành kế hoạch nhân sách, tình hình quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước. Đồng thời thực hiện chức năng tư vấn, góp ý với Bộ tài chính trong quá trình xây dựng dự thảo kế hoạch ngân sách. - Chức năng tư vấn đang dần dần đóng vai trò quan trọng và chiếm ưu thế. Trong hoạt động kiểm toán, kết quả mà các Doanh nghiệp mong đợi không chỉ là sự đúng đắn, trung thực của số liệu mà là những tư vấn của kiểm toán viên về hệ thống kiểm soát nội bộ, về thuế cho Doanh nghiệp khắc phục những mặt còn hạn chế đem lại những hiệu quả, hiệu năng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3. Chức năng xác nhận và giải toả trách nhiệm. Đây là một chức năng có vai trò quan trọng trong việc quản lý ngân sách Nhà nước song hiện nay chưa được thực hiện ở Việt Nam. Nội dung chính của chức năng này là xác nhận thông tin và san sẻ trách nhiệm, công việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan quyền lực cấp trên đối với các cơ quan trực thuộc, chịu sự chỉ đạo và giám sát. Mô hình thể hiện rõ nét chức năng “giải toả trách nhiệm” biểu hiện sự chặt chẽ và đầy đủ của quá trình duyệt Ngân sách cho đến thẩm định lại kết quả việc sử dụng Ngân sách. Đây là mô hình mà Việt Nam cần phải học tập và áp dụng cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, phát huy tối đa chức năng, tác dụng của kiểm toán vào thực tiễn quản lý tài chính nước ta. III. Vai trò kiểm toán tài chính. Kiểm toán không phải là hoạt động “tự thân” và “ vị thân”, kiểm toán sinh ra từ yêu cầu quản lý và phục vụ cho yêu cầu quản lý. Từ đó có thể thấy rõ vai trò, tác trong dụng của kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính nói riêng được thể hiện trên những mặt sau: 1.Tạo niềm tin cho những người quan tâm. Trong cơ chế thị trường có nhiều người quan tâm tới tình hình tài chính và sự phản ánh của nó trong tài liệu kế toán. Những người quan tâm có thể kể đến là: - Các cơ quan Nhà nước : cần có thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. - Các nhà đầu tư: cần có tài liệu tin cậy để trước hết có hướng dẫn đầu tư đúng đắn, sau đó điều hành, sử dụng vốn đầu tư và cuối cùng là có tài liệu trung thực về phân phối kết quả đầu tư. - Các nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà quản lý khác: cần thông tin trung thực để có những quyết định trong mọi giai đoạn quản lý. - Người lao động cần có thông tin đáng tin cậy về kết quả kinh doanh, ăn chia phân phối, thực hiện chính sách tiền lương … - Khách hàng, nhà cung cấp và những người quan tâm khác cần hiểu rõ thực chất kinh doanh về tài chính của các đơn vị về nhiều mặt. Có thể nói việc tạo niềm tin cho những người quan tâm là yếu tố quyết định sự ra đời và phát triển của kiểm toán tài chính với tư cách là một hoạt động độc lập. 2. Kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nền nếp hoạt động tài chính kế toán nói riêng và hoạt động của đơn vị được kiểm toán nói chung. Hoạt động tài chính bao gồm những mối quan hệ đa dạng, luôn biến đổi và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Để hướng các nghiệp vụ này vào mục tiêu giả quyết tốt các quan hệ trên không cần có định hướng đúng và thực hiện tốt mà còn cần thường xuyên soát xét việc thực hiện để hướng các nghiệp vụ vào quỹ đạo mong muốn. Đặc biệt nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế thì các quan hệ tài chính, chế độ kinh tế thay đổi nhiều lần cùng với sự bung ra của nhiều thành phần kinh tế và các hoạt động kinh doanh khác. Trong khi đó, công tác kiểm tra, kiểm soát chưa chuyển hướng kịp thời dẫn tới tình trạng kỷ cương bị buông lỏng, nhiều kỷ cương trong kiểm toán tài chính trước đây nay cũng bị phá vỡ. Vì vậy có triển khai tốt hơn công tác kiểm toán mới có thể nhanh chóng đưa công tác tài chính kế toán đi vào nề nếp. 3. Kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. Rõ ràng kiểm toán tài chính không chỉ có chức năng xác minh mà còn có chức năng tư vấn, đặc biệt trong những bước chuyển đổi cơ chế kinh tế có nhiều mối quan hệ phức tạp nảy sinh. Trong khi đó hệ thống quản lý chưa hoàn chỉnh kinh nghiệm và chuyên gia giỏi về quản lý chưa có nhiều. Trong điều kiện đó duy trì kỷ cương và bảo đảm phát triển đúng hướng chỉ có thể chính sách được trên cơ sở xây dựng đồng bộ và tổ chức thực hiện tốt kiểm toán tài chính trên mọi lĩnh vực để trên cơ sở tích luỹ kinh nghiệm từ xác minh đi đến tư vấn cho mọi lĩnh vực hoạt động. Từ tất cả những điều trình bày trên cho thấy kiểm toán tài chính có vai trò quan trọng trên nhiều mặt. Đó là “ quan toà công minh của quá khứ”, “người dẫn dắt cho hiện tại” và là “cố vấn sáng suốt cho tương lai” (lời của ier – khán - Sere). Phần II. Vai trò và chức năng của kiểm toán tài chính đối với nên kinh tế Việt Nam. I.Những đóng của kiểm toán tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam. ở Việt Nam hiện nay, cơ sở pháp lý để quản lý nền kinh tế thị trường mở cửa đã và đang hình thành và hoàn thiện. Trong bối cảnh đó, các thành phần kinh tế tham gia thị trường ngày càng nhiều, các doanh nghiệp ra đời với nhiều hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng và phức tạp. Trong sự phát triển của nền kinh tế, ngày càng có nhiều đối tượng khác nhau quan tem đến những thông tin tài chính của các doanh nghiệp, bởi vì những thông tin này có ảnh hưởng mạnh tới sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Do vậy, kiểm toán tài chính với vai trò và chức năng xác minh, tư vấn không chỉ giúp cho sự quản lý vĩ mô của Nhà nước mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác. 1.Đối với Nhà nước. Để quản lý kinh tế vĩ mo nói chung và quản lý ngân sách Nhà nước, công quỹ quốc gia nói riêng thì Nhà nước cần phải có những thông tin trung thực, chính xác về hoạt dộng tài chính của các tổ chức, các doanh nghiệp, đặc biệt là các tổ chức, các doanh nghiệp có sử dụng ngân sách Nhà nước. Hiện nay, trong sự phát triển của kinh tế thị trường, trong xu thế hội nhập quốc tế, Nhà nước ngày càng thấy rõ tầm quan trọng của hoạt động kiểm toán tài chính đối với nền tài chính quốc gia. Do đó đã từng bước sử dụng kiểm toán (thông qua cơ quan kiểm toán Nhà nước) như một công cụ quản lý không thể thiếu được trong một nhà nước pháp quyền. Vì vậy, có thể nói kiểm toán Nhà nước đảm nhận một chức năng rất quan trọng trong việc kiểm soát, quản lý việc sử dụng nguồn lực tài chính công. Từ năm 1995 đến hết năm 1999, kiểm toán Nhà nước đã thực hiện gần 3000 cuộc kiểm toán với quy mô khác nhau tại các đơn vị sản xuất kinh tế quốc doanh, đơn vị thụ hưởng ngân sách Nhà nước, đơn vị được giao kinh phí ngân sách Nhà nước trên hầu hết các ngành, lĩnh vực, lãnh thổ. Những kết quả của hoạt động kiểm toán tài chính đã đáp ứng phần nào yêu cầu của Quốc hội và Chính phủ trong việc kiểm tra, giám sát, hoàn thiện và nâng cao hiệu chất lượng quản lý điều hành ngân sách Nhà nước, cụ thể như sau: Thứ nhất: Kiểm toán tài chính giúp Nhà nước kiểm tra, giám sát việc thu các khoản nộp ngân sách Nhà nước, chủ yếu là các khoản thuế phải nộp, đảm bảo nộp đủ theo qui định của pháp luật. Từ đó góp phần cải cách công tác tổ chức và quản ký thu ngân sách Nhà nước có hiệu quả. Một mặt tập trung tăng nguồn thu đáp ứng nhu cầu chỉ tiêu ngân sách Nhà nước, điều quan trọng là lập lại trật tự trong việc chấp hành luật Nhà nước, trả lại sự bình đẳng trong môi trường kinh doanh giữa các tổ chức kinh tế trong và ngoài quốc doanh. Thứ hai: Kiểm toán tài chính giúp Nhà nước kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng ngân sách Nhà nước, chống thất thoát, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản Nhà nước. Trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay, nhu cầu chi ngân sách Nhà nước rất lớn trong khi khả năng đáp ứng còn hạn hẹp, thì lý luận cơ bản về chức năng và vai trò của kiểm toán tài chính nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà nước có một ý nghĩa rất quan trọng. Để đạt được yêu cầu đó, công tác kiểm toán tài chính còn giúp đỡ các đối tượng sử dụng ngân sách Nhà nước tuân thủ những qui định của pháp luật về các mặt thủ tục, trình tự, chi đúng mục đích, đối tượng, đúng định mức toán được duyệt. Đến hết năm 1999, với việc kiểm toán báo cáo quyết toán của 61 tỉnh, thành phố, 10 Bộ, 10 chương trình dự án mục tiêu của Chính phủ, 7 Quân khu, Quân chủng, Tổng cục và nhiều doanh nghiệp Nhà nước… Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện và kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi cho Ngân sách Nhà nước gần 3.000 tỷ đồng. Thứ ba: Kiểm toán tài chính giúp Nhà nước thấy được những vướng mắc thực tế khi thực hiện các chế độ, chính sách tài chính hiện hành, từ đó có giải pháp để hoàn thiện cơ chế, chính sách về kinh tế tài chính. Đồng thời các kết quả kiểm toán tài chính còn có ý nghĩa quan trọng trong việc: Thiết lập cơ chế quản lý, cấp phát và thanh quyết toán đối với ngân sách địa phương đối với các khoản hỗ trợ từ ngân sách địa phương cho các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn; Rà soá, sửa đổi, bổ sung các định mức kinh tế tài chính và định mức chi tiêu ngân sách Nhà nước; Công tác hạch toán kế toán, tăng cường kỷ luật ngâng sách Nhà nước, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm… Thứ tư: Kiểm toán tài chính giúp cho công tác điều hành vĩ mô của các nhà lãnh đạo quản lý kinh tế tài chính. Kết quả kiểm toán tài chính cung cấp thông tin dữ liệu chính xác, kịp thời trong việc xây dựng dự toán, điều chỉnh dự toán phù hợp với thực trạng và điều kiện phát triển kinh tế địa phương, ngành nghề nói riêng và của Nhà nước nói chung. 2.Vai trò đối với doanh nghiệp được kiểm toán. Kiểm toán tài chính có các vai trò chủ yếu sau: - Thứ nhất: Kiểm toán tài chính giúp lãnh đạo doanh nghiệp được kiểm toán thấy những sai sót trong quản lý tài chính – kế toán và giúp họ nhận thấy được nghĩa vụ phải thực hiện đúng các qui định của pháp luật hiện hành về tài chính kế toán. - Thứ hai: giúp cho đội ngũ cán bộ chuyên môn thấy được các sai sót trong nghiệp vụ chuyên môn của mình. - Thứ ba: Giúp cho đơn vị được kiểm toán loại bỏ những chi phí không đúng để tiết kiệm cho doanh nghiệp. - Thứ tư: Giúp nhà lãnh có thêm cơ sở ra các quyết định về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Thứ năm: Nâng cao chất lượng công tác hạch toán kế toán. - Thứ sáu: Giúp doanh nghiệp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ. - Thứ bảy: Giúp các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả được tăng thêm uy tín. Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên sẽ giúp doanh nghiệp (chủ doanh nghiệp, giám đốc ) kịp thời ra những sai sót, lãng phí về tài chính cũng như tình hình tổ chức của doanh nghiệp để có những chấn chỉnh kịp thời hoặc ngăn ngừa các tổn thất. Đồng thời, giúp doanh nghiệp hạn chế được những rủi ro hoặc phát hiện ra những thế mạnh, những tiềm năng tài chính nội tại đang có trong doanh nghiệp, và quan trọng hơn, doanh nghiệp có thể lập kế hoạch phát triển một cách phù hợp. Người quản lý thường là người chịu trách nhiệm và quyết định về tài chính, nhưng họ không hiểu sâu về nguyên tắc kế toán nên cần có những thông tin thuyết phục để ra quyết định. Những thông tin đó không chỉ trên các bảng khai tài chính mà còn thông tin cụ thể về tài chính, về hiệu quả và hiệu năng của các bộ phận để có những quyết định trong mỗi giai đoạn quản lý, kể cả tiếp nhận vốn liếng, chỉ đạo và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lý ( nhất là về tài chính ). Ví dụ về chế độ “khoán” ở doanh nghiệp xây dựng (theo tạp chí kiểm toán số 5/1999 ); Qua thực tế kiểm toán, kiểm toán viên thấy chi phí cho một công trình xây dựng dân dụng lại có đến 80 – 90% tổng chi phí là sắt thép, 10 – 20% tổng chi phí là xi măng, ngoài ra không có hoá đơn, chứng từ chi phí nào khác (công trình xây dựng không cần gạch, cát, nhân công …? ) Khi được hỏi, các đội trưởng trả lời là chỉ quan tâm đến nộp hoá đơn cho đủ mức chi phí khoán mà không để ý đến chi phí thực tế từng loại vật tư và chi phí khác. Từ đó, kiểm toán viên đề ra một số kiến nghị là cần bố trí ít nhất một nhân viên làm công tác kế toán ( chịu sự chỉ đaọ của phòng kế toán Công ty ) tại các đội xây dựng. Bên cạnh đó còn có hiện tượng một số đội trưởng lợi dụng việc cùng lúc thi công nhiều công trình, đã vay và ứng tiền vượt quá khối lượng công việc thực hiện rồi tự chiếm đoạt luôn. Về việc này, ngoài xác minh kiểm toán viên còn đề nghị doanh nghiệp nên qui định rõ mức tạm ứng, vay tối đa của đội sản xuất. Kiểm toán tài chính với chức năng kiểm tra, xác nhận tính trung thực và hợp lý, hợp pháp của các thông tin trong báo cáo tài chính sẽ giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp bớt lúng túng, yên tâm hơn khi ký các báo cáo tìa chính và công khai các báo cáo tài chính. Đồng thời, kiểm toán tài chính giúp doanh nghiệp đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính và công nợ, khả năng thanh toán công nợ, từ đó đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân và đề xuất giải pháp tăng cường khả năng cạnh tranh lành mạnh tài chính doanh nghiệp và lành mạnh khả năng thanh toán nợ. Đối với những doanh nghiệp làm ăn chính đáng, có hiệu quả thì kết quả các cuộc kiểm toán tài chính sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín của mình, nhờ đó doanh nghiệp có thuận lợi trong các quan hệ kinh tế. Chẳng hạn doanh nghiệp có thuận lợi trong hoạt động liên doanh liên kết, mua hàng hoá, thậm chí trong thị trường chứng khoán ( đối với những chúng tôi có phát hành cổ phần ). Những chủ doanh nghiệp làm ăn chính đáng, có hiệu quả, nhưng vì lý do nào đó bị tai tiếng thì kiểm toán viên sẽ là người xác nhận và bảo vệ cho họ. Nhận xét của các kiểm toán viên có uy tín sẽ làm tăng thêm tính pháp lý của bản báo cáo tài chính và danh tiếng của doanh nghiệp. Lẽ tất nhiên, các doanh nghiệp làm ăn gian dối hoặc sắp phá sản thường không muốn mời kiểm toán. Doanh nghiệp bao giờ cũng đặt lợi ích của mình lên hàng đầu và luôn tìm cách xử lý các nghiệp vụ hay các hoạt động kiểm toán sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp. Lúc đó kiểm toán tài chính với chức năng bày tỏ ý kiến, kiểm toán viên sẽ tư vấn cho doanh nghiệp về những yếu kém của doanh nghiệp, tư vấn về công tác kế toán tài chính, cũng như các hướng giúp hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hơn trong khuôn khổ Pháp luật. Tại Tổng công ty xây dựng Sông Đà, phòng kiểm toán nội bộ của Tổng công ty chính thức ra đời ngày 01/01/1998 nhờ sự nhận đúng mức cần thiết kiểm toán tài chính của ban lãnh đạo công ty. Trong năm 1998, kiểm toán nội bộ Tổng công ty đã hoàn thành công việc kiểm toán tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và báo cáo tài chính của toàn bộ 31 đơn vị thành viên và báo cáo tài chính toàn Tổng công ty năm 1997 ( theo tạp chí kiểm toán số 5/1999). Một ví dụ khác tại công ty 28 ( một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng cục hậu cần – Bộ Quốc phòng hoạt động trên lĩnh vực sản xuất kinh doanh ) xuất nhập khẩu các sản phẩm dệt, may, kinh doanh bất động sản, kinh doanh các công trình hạ tầng khu công nghiệp và dân dụng. Từ năm 1992, nhờ hệ thống kiểm toán nội bộ tốt, công ty đã khắc phục những thiếu sót trong quản lý, tiến hành đổi mới mô hình tổ chức gắn với việc quản lý đã nhanh chóng đem lại cho công ty những hiệu quả to lớn về mọi mặt. Bên cạnh đó, công ty đã tiến hành thuê kiểm toán độc lập để kiểm toán báo cáo tài chính các năm 1994 – 1995 – 1996. Riêng năm 1996, đã tiến hành kiểm toán 2 kỳ. Việc kiểm toán được tiến hành từ cácd đơn vị thành viên trực thuộc đến công ty. Tất cả các công trình đầu tư cũng đều được kiểm toán, nhờ đó mà công ty đã thu lại được một khoản tiền đáng kể. Từ năm 1992 đến năm 1997, vốn của công ty tăng lên gấp 5,67 lần ( Theo tạp chí kiểm toán số 1/1998 ). Trong doanh nghiệp, ngoài những vai trò trên, kiểm toán tài chính còn có tác dụng đối với cán bộ công nhân viên, người lao động làm việc tại đó. Khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán thì độ tin cậy của nó được tăng lên, giúp người lao động biết được tình hình tài chính của công ty mình thế nào, lãi hay lỗ, sự phân chia lãi có hợp lý không … Nếu báo cáo đó cho kết quả tốt về công ty, người lao động sẽ thêm gắn bó và tin tưởng vào công ty, yên tâm làm việc hoặc ngược lại. Mặt khác, chủ doanh nghiệp (hoặc giám đốc) luôn muốn có được những lao động tay nghề cao, làm việc có hiệu quả, một báo cáo tài chính với kết quả tốt sẽ là một sức hút giúp doanh nghiệp có được những nhân viên như mong muốn. 3. Vai trò với các bên thứ ba quan tâm. Bên thứ ba quan tâm tới các báo cáo tài chính gồm: các nhà đầu tư, ngân hàng, khách hàng, nhà cung cấp, chủ nợ và những người quan tâm khác. Thông thường, các thông tin về báo cáo tài chính không tới thẳng những người quan tâm đó, mà phải có sự đảm bảo của bên thứ ba độc lập là kiểm toán viên do có sự rủi ro thông tin, các báo cáo tài chính có nhiều khả năng không chính xác. Trong cơ chế thị trường hiện nay, rõ ràng người ra quyết định khó có khả năng hiểu biết tường tận và trực tiếp về đối tác mà anh ta tiến hành kinh doanh. Thông tin sử dụng là do người khác cung cấp cho. Bất cứ khi nào thông tin có được là do người khác cung cấp thì khả năng nó bị chủ ý, hoặc không chủ ý bóp méo sẽ tăng lên. Nếu mục đích của người cung cấp thông tin khác với người ra quyết định thì thì thông tin có thể bị hướng theo lợi ích của người cung cấp. Do vậy, thông tin bị công bố sai là điều khó tránh khỏi. Một báo cáo tài chính đã được kiểm toán là một biện pháp hiệu quả nhất để giảm thiểu rủi ro thông tin ( vừa đỡ tốn thời gian và tiền bạc ) cho những người quan tâm. Các nhà đầu tư cá nhân và các nhà đầu tư chuyên nghiệp ( nhà đầu tư có tổ chức ) trên thị trường chứng khoán thường lấy chính các báo cáo tài chính đã được kiểm toán làm căn cứ phân tích tình hình tài chính và kết quả hoạt động của công ty khi quyết định mua hoặc bán các chứng khoán đó. Hiện nay, các công ty niêm yết chứng khoán cũng như kinh doanh chứng khoán phải định kỳ nộp các báo cáo tài chính đã được kiểm toán cho Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và thị trường giao dịch chứng khoán. Các báo cáo tài chính phải được xác nhận bởi một tổ chức kiểm toán độc lập có uy tín. Đây là yêu cầu đặc biệt cần thiết đối với Việt Nam, khi mà việc đánh giá tính xác thực của các báo cáo tài chính cũng như việc tiếp cận các thông tin tài chính đối với một công ty ở Việt Nam đang còn là một vấn đề khó khăn. Các ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn, các nhà đầu tư và chính các chủ sở hữu cũng phải nắm chắc tình hình kinh doanh và khả năng trả nợ của bạn hàng để quyết định cho vay, thu hồi vốn hoặc không cho vay. Vì lợi ích của mình nên họ coi kiểm toán là một trong các điều kiện để xuất tiền cho vay hay bỏ vốn vào kinh doanh. Hiện nay các ngân hàng Vietincombank, Vietcombank, Indovinabank có qui định tất cả các khách hàng muốn vay tiền đều phải xuất trình báo cáo tài chính đã được kiểm toán viên độc lập xác nhận. Trong quan hệ kinh doanh, các khách hàng có thể mua chịu. Tuy nhiên, chỉ khi báo cáo tài chính cảu doanh nghiệp mua đó được kiểm toán viên có uy tín kiểm tra và xác nhận là tốt thì nhà cung cấp sẽ sẵn sàng bán chịu và ngược lại. Ngoài ra, kiểm toán tài chính còn giúp người dân củng cố niềm tin đối với các cấp uỷ Đảng, chính quyền và cơ quan Nhà nước trong việc sử dụng ngân sách Nhà nước, cũng như trong việc sử dụng các quỹ mà họ đóng góp. Tóm lại, đối với các bên thứ ba quan tâm, kiểm toán tài chính trước hết đóng vai trò trung gian, đảm bảo cho sự tin cậy của các thông tin từ người cung cấp đến người nhận. Tiếp theo, các thông tin ( báo cáo tài chính đã được kiểm toán ) lại là cơ sở cho các quyết định tài chính của các bên quan tâm này. II. Những hạn chế của kiểm toán tài chính ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của những hạn chế đó. Có thể nói ngay từ khi mới ra đời, kiểm toán tài chính đã đóng góp một phần không nhỏ và nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, “ vạn sử khởi đầu nan “. mặc dù hoạt động kiểm toán đã có từ lâu ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, nhưng ở nước ta lại là hoạt động hoàn toàn mới mẻ, kiến thức chuyên môn còn hạn hẹp, mội trường hoạt động cũng không hoàn toàn thuận lợi … do đó đã có những hạn chết không nhỏ trong việc phát huy vai trò của hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính nói riêng. Thứ nhất, về vấn đề nhận thức. Do hoạt động kiểm toán còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam, trong khi đó các tổ chức kiểm toán và các kiểm toán viên lại không được tự quảng cáo công khai về mình dưới bất kỳ hình thức nào, nên nhận thức, những hiểu biết sâu rộng, đúng đắn về hoạt động này còn bị hạn chế, nhất là trong thời gian đầu của thời kỳ đổi mới, cụ thể như sau: - Hầu hết người quản lý ở các đơn vị chưa hiểu hết mục đích của hoạt động kiểm toán, trừ những đơn vị kế toán có sự tham gia quản lý của nước ngoài, chưa thấy được lợi ích thiết thực từ những vấn đề của kiểm toán viên tron hoạt động tài chính và doanh nghiệp. - Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước, công ty tư nhân, công ty cổ phần, chưa muốn tiết lội những thông tin thực về hoạt động tài chính của doanh nghiệp mình cho người khác, trừ khi bị bắt buộc hoặc doanh nghiệp có sự cố. - Do hoạt động kiểm toán của các tổ chức kiểm toán trong nước mới hình thành nên có những người chưa thực sự tin tưởng vào chất lượng công việc của các kiểm toán viên Việt Nam. Vì vậy khi mà khách hàng của các tổ chức kiểm toán Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, liên doanh với nước ngoài, các tổ chức viện trợ hoặc tiếp nhận viện trợ ( là những tổ chức bị bắt buộc phải kiểm toán), một số doanh nghiệp khác có sự cố về tài chính … Tuy nhiên, hiện nay những nhận thức của các nhà quản lý các công ty, các tổ chức về lợi ích của hoạt động kiểm toán ( đặc biệt là kiểm toán tài chính ) ngày càng được mở rộng, nhất là sau khi kiểm toán Nhà nước ra đời, bảng khai tài chính của doanh nghiệp Nhà nước bắt buộc phải được kiểm toán bởi kiểm toán viên Nhà nước hay các tổ chức kiểm toán độc lập. Mặc dù vậy, những hạn chế như đã nói ở trên vẫn tồn tại như một hàng rào cản trở khác hàng đến với các dịch vụ kiểm toán như trước đây nhưng ở mức độ thấp hơn nhiều. Đặc biệt trong bối cảnh nhiều công ty, tổ chức kiểm toán cùng hoạt động như hiện nay thì chuyện “ ông nói gà, bà nói vịt “ trong kiểm toán cũng không phải là chuyện hiếm, nhưng đến nay vẫn chưa sửa được bao nhiêu. Điều này cũng góp phần làm cho các khách hàng chưa thực sự tin tưởng vào chất lượng kiểm toán. Thứ hai, Chúng ta đã chậm và chưa tập trung đúng mức cần thiết cho việc hình thành và tăng năng lực cho hệ thống kiểm toán. Hạn chế này cũng xuất phát từ sự yếu kém trong nhận thức nên khi đi vào kinh tế thị trường, Nhà nước chưa nhận thức ngay được rằng thanh tra tài chính nói riêng và hệ thống thanh tra nói chung chưa thoả mãn được yêu cầu về hoạt động của thanh tra, kiểm tra Nhà nước. - Việc đo tạo kiểm toán viên: Đội ngũ kiểm toán viên hiện nay hầu hết có trình độ nghiệp vụ và có kinh nghiệm về công tác tài chính kế toán nhưng lại rất mới mẻ về nghiệp vụ kiểm toán. Tại các nước phát triển, các kiểm toán đều được đào tạo có hệ thống và phải kinh qua các kỳ thi tuyển chọn gắt gao của các tổ chức nghề nghiệp như : Tại Mỹ có chức danh CPA – Cetiffied in public accountant, tại Pháp có chức danh Expert comptable. Sự hạn chế về mặt kỹ thuật nghề nghiệp đã làm cho việc hành sự của kiểm toán viên có những mặt hạn chế và ảnh hưởng nhất định đến chất lượng kiểm toán, do đó ảnh hưởng đến sự ra quyết định của những người sử dụng kiểm toán. Chẳng hạn như kiểm toán viên không có đủ khả năng, kiến thức trong việc sử dụng các kỹ thuật phát hiện và các thủ tục phân tích đánh giá các sai phạm trọng yếu, có thể không phát hiện ra được những sai phạm có qui mô lớn, làm tổn thất tài sản của doanh nghiệp và của Nhà nước và ảnh hưởng tới kế hoạch của những người sử dụng kết quả kiểm toán này. - Về chuẩn mực kiểm toán và cơ sở pháp lý của kiểm toán: Mới đây, sau một thời gian dài tìm hiểu, nghiên cứu những chuẩn mực kiểm toán Quốc tế và những đóng góp kinh nghiệm thực tế của các công ty kiểm toán độc lập, Bộ tài chính đã lần lượt công bố mười chuẩn mực kiểm toán đầu tiên nhằm từng bước chuẩn mực hoá hoạt động kiểm toán độc lập. Tuy nhiên, trong thời gian trước khi 10 chuẩn mực được ban hành, hoạt động kiểm toán chưa được chuẩn hoá, các công ty kiểm toán độc lập phải vận dụng các chuẩn mực kiểm toán Quốc tế, dù rằng biết rõ có nhiều điểm không phù hợp với khung cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi. Bên cạnh đó, chế độ kế toán tài chính của Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện, các văn bản về chế độ kế toán tài chính thường xuyên có sửa đổi trong thời gian ngắn nên ảnh hưởng không ít tới công tác kế toán và . Từ đó dẫn đến nhiều hệ quả khác, chẳng hạn như việc đánh giá chất lượng của một báo cáo kiểm toán vẫn còn thiếu căn cứ chung để làm thước đo, hay như khi có tranh chấp nổ ra, chúng ta cũng chưa có những cơ sở giải quyết các vấn đề thuộc về trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên. Cũng chính vì thiếu hệ thống chuẩn mực riêng nên mới xảy ra chuyện “ ông nói gà, bà nói vịt “ trong kiểm toán như đã nói ở trên. Do vậy nên cũng không ít đối tượng gian dối muốn thuê dịch vụ kiểm toán để hợp thức số liệu báo cáo kế toán của mình. Có thể dẫn chứng hai trường hợp ‘có vấn đề “ trong dịch vụ kiểm toán (theo báo Nhân dân – 5/3/2001). Đó là vụ hai công ty kiểm toán hàng đầu thực hiện hợp đồng dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính của Tổng công ty mới đây, Thanh tra Nhà nước phát hiện Tổng công ty than có nhiều sai phạm lớn, hạch toán và báo cá không trung thực … Vụ thức hai là, ông Phạm Ngọc Hữu, cán bộ Tổng cục kiểm toán một công trình nhà nghỉ hải quan tại Sầm Sơn, bên thi công đưa ra số liệu 6 tỷ 674 triệu đồng, công ty kiểm toán V xác định là 5 tỷ 945 triệu đồng, công ty kiểm toán A xác định là 6 tỷ 421,8 triệu đồng ( kết quả của hai hãng dịch vụ kiểm toán vênh nhau 476 triệu đồng !) Vậy Công ty nào đúng ? Số liệu nào trung thực ? Do đâu mà có tình trạng như vậy, phải chăng do thiếu những chuẩn mực làm căn cứ chung để đánh giá ? Tóm lại: Với những hạn chế như trên thì kiểm toán tài chính không thể phát huy hết vai trò của nó đối với nền kinh tế đất nước. Chính vì vậy, bên cạnh những đóng góp tích cực đáng được ghi nhận của kiểm toán tài chính trong những năm qua còn nổi lên một số hạn chế như sau: - Tình trạng buôn lậu, tham nhũng, hoạt động kinh doanh trái Pháp luật, trốn thuế … gây thất thoát ngân sách, tài sản Nhà nước vẫn còn lớn và khá phổ biến ở nhiều nơi. Ví dụ, vụ Tamexco thất thoát khoảng hơn 400 tỷ đồng, vụ Tân Trường Sanh khoảng vài nghìn tỷ đồng, vụ Epco – Minh Phụng hơn ba nghìn tỷ đồng … ( theo tạp chí kiểm toán số 3/1999 – bài viết của GS.TS Vũ Huy Từ ) - Ngân hàng, các nhà đầu tư có thể bị tổn thất lớn khi đầu tư vào các đơn vị mà nguyên nhân là do ngân hàng đã đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp dựa trên những báo cáo tài chính đã được kiểm toán kiểm toán nhưng không chính xác, không trung thực. - Đối với những người lao động trong doanh nghiệp, những báo cáo kiểm toán tài chính không chính xác sẽ làm cho họ bị thua thiệt trong vấn đề ăn chia, phân phối lợi nhuận …. từ đó ảnh hưởng tới thái độ làm việc và chất lượng công việc của người lao động. Phần III Phương hướng hoàn thiện và phát huy vai trò của kiểm toán tài chính Nhằm hạn chế những mặt chưa đạt được và khắc phục những yếu kém, tồn tại hiện nay của hoạt động kiểm toán, đồng thời để kiểm toán có thể phát huy hơn nữa vai trò của mình đối với nền kinh tế, chúng ta cần tập trung tháo gỡ và hướng vào việc giải quyết những vấn đề sau: Một là, cần nâng cao sự hiểu biết và nhận thức của công chúng nhất là các doanh nghiệp các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức đoàn thể xã hội … về ngành nghề cũng như hoạt động kiểm toán. Bởi vậy, một mặt cần tuyên truyền và phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài, sách, báo, tivi … về hoạt động kiểm toán. Mặt khác, có thể tổ chức các buổi hội thảo giữa các công ty kiểm toán với doanh nghiệp, với các cơ quan có liên quan với sinh viên các trường Đại học. Hai là, vấn đề xây dựng, hoàn thiện hệ thống các chuẩn mực, pháp lệnh và hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán. Hoạt động kiểm toán cũng như các hoạt động khác chỉ có thể thực hiện tốt và đạt hiệu quả cao trên cơ sở có một hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ và hợp lý. Kinh nghiệm của các nước đi trước và thực tiễn hoạt động kiểm toán của nước ta thời gian qua đã chỉ ra rằng, hệ thống các văn bản pháp lý cần thiết tối thiểu cho hoạt động kiểm toán ở mỗi quốc gia phải bao gồm: - Luật kiểm toán. - Điều lệ tổ chức và cơ chế hoạt động của kiểm toán Nhà nước. - Các văn bản pháp qui qui định về các nguyên tắc, chuẩn mực kiểm toán và các phương pháp chuyên môn, kỹ thuật kiểm toán. Tuy nhiên, từ khi ra đời và hoạt động ở Việt Nam kiểm toán vẫn chưa có được một hệ thống Pháp luật hoàn chỉnh. Các văn bản Pháp luật hiện hành hoặc còn thiếu hoặc đã ít nhiều không còn phù hợp. Do đó, Nhà nước và các cơ quan chức năng cần sớm nghiên cứu hoàn thiện hệ thống các văn bản Pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh tạo môi trường pháp lý đầy đủ và hiệu lực cho tổ chức, hoạt động kiểm toán. Đồng thời tiếp thu kinh nghiệm của các nước và sự giúp đỡ của INTOSAI ( Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao vàASOSAI tổ chức các cơ quan kiểm toán châu á ) để ban hành Luật kiểm toán, trước mắt là pháp lệnh kiểm toán trong đó qui định rõ vị trí pháp lý, chức năng nhiệm vụ, hệ thống tổ chức bộ máy của các cơ quan kiểm toán. Trong luật ( pháp lệnh ) cũng phải xác định giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán và trách nhiệm phối hợp trong kiểm toán nói riêng và giữa cơ quan kiểm toán với các hoạt động khác như thanh tra, quản lý tài chính, điều tra giám sát trong và ngoài doanh nghiệp. Một mặt cũng cần rà soát nghiên cứu sửa đổi bổ sung những qui định hiện hành về quản lý kinh tế – tài chính cho phù hợp với tình hình thực tiễn nhằm xác lập căn cứ chuẩn mực kiểm toán, thúc đẩy quá trình cải cách hành chính, đặc biệt là tổ chức bộ máy gọn nhẹ nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan kiểm toán. Ba là, việc phát triển kiểm toán viên phải đi đôi với việc đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhằm đảm bảo chất lượng cho hoạt động kiểm toán. Xuất phát từ thực tế ở Việt Nam đó là đội ngũ kiểm toán viên chuyên nghiệp ở nước ta còn quá ít và do đó, để thực hiện các cuộc kiểm toán đặc biệt là với kiểm toán độc lập chúng ta đã phải huy động khá nhiều cán bộ chưa phải là kiểm toán viên. Do quá trình đào tạo còn ngắn, kinh nghiệm trong công tác chưa nhiều … những cán bộ này còn yếu cả về nghiệp vụ và các kiến thức Pháp luật liên quan. Để có thể đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi đặt ra, mục tiêu của chúng ta là phải xây dựng được một đội ngũ kiểm toán viên đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt phải có đạo đức nghề nghiệp trong sáng khách quan, độc lập. Do vậy cần thực hiện đa dạng các hình thức bồi dưỡng và đào tạo sau: - Căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá, phân loại kiểm toán để xây dựng kế hoạch bồi dưỡng đào tạo tương xứng thiếu hụt kiến thức của từng loại kiểm toán viên và phù hợp yêu cầu kiểm toán từng giai đoạn - Xây dựng kế hoạch đào tạo dài hạn trong nước và ngoài nước ,kết hợp giữa đào tạo dài hạn và đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn .Có kế hoạch phối hợp với các trường đại học vế chương trình giảng dạy và đào tạo kiểm toán viên - Biên soạn và chuẩn hoá các giáo trình kiểm toán tài chính phục vụ cho công tác giảng dạy trong và ngoái ngành kiểm toán - Có chính sách đãi ngộ và tuyển dụng các cán bộ chuyên gia đã được đào tạo ở nước ngoài hoặc có kinh nghiệm trong kinh nghiệm kiểm toán …. Riêng đối với kiểm toán Nhà nước cần thực hiện nghiêm túc và giám sát chặt chẽ việc thi và cấp chúng chỉ kiểm toán viên . Chứng chỉ kiểm toán viên để hành nghề chỉ nên giữ giá trị trong 5 năm . Cũng nên xây dựng và áp dụng chế độ lương, chế độ đãi ngộ tương xứng với nhiệm vụ và yêu cầu công việc của kiểm toán viên. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chuẩn mực và quy tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán viên. Định kỳ tổ chức học tập chính trị, rèn luyện tu dưỡng lương tâm đạo đức hành nghề cho kiểm toán viên. Bên cạnh đó cần xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm quy chế hoạt động, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật để công tác kiểm toán đi vào kỷ cương và nề nếp gây dựng và củng cố lòng tin của Đảng , Nhà nước và công chúng đối với hoạt động kiểm toán. Bốn là, cần nhanh chóng hình thành phát triển và mở rộng các loại hình tổ chức và dịch vụ kiểm toán, dưới mọi hình thức, đồng thời tiến hành đổi mới cơ cấu, cơ chế hoạt động của bộ máy quản lý nhằm thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế. Cho đến nay số công ty hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán ở Việt nam lên tới 23với tổng số khoản 2000 nhân viên, trong đó có 5 công ty 100% vốn nước ngoài, 1công ty liên doanh, 7công ty quốc doanh… (Theo Báo Diễn đàn doanh nghiệp – số 20 – ngày 8/3/2001) đây thực sự là một con số đáng khích lệ, song chưa phải là lớn khi mà nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng có những thay đổi lớn mạnh. Vì vậy không chỉ cần tăng về số lượng mà chúng ta cần phải đa dạng hoá các loại hình dịch vụ dươí mọi hình thức (văn phòng, trung tâm, công ty dịch vụ ) không chỉ cung cấp các dịch vụ kiểm toán, tư vấn kế toán mà còn phải cung ứng các loại dịch vụ tư vấn thuế, tư vấn tài chính, mua bán, cung ứng phần mềm kế toán … Cần mở rộng hơn nữa mạng lưới kiểm toán độc lập đáp ứng nhu cầu kiểm toán của mọi Doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, các dự án đầu tư, công trình xây dựng cơ bản, đặc biệt hiện nay có dự kiến của Nhà Nước về việc quy định bắt buộc kiểm toán đối với các tổng công ty, Doanh nghiệp nhà nước, đây là cơ hội và thách thức không nhỏ đối với các công ty kiểm toán của Việt nam. Mặt khác, các công ty kiểm toán Việt Nam cần mạnh dạn lựa chọn liên doanh, liên kết với các công ty, tổ chức kiểm toán Quốc tế. Bởi việc hội nhập quốc tế không chỉ tạo điều kiện cho việc học hỏi kinh nghiệm, nầng cao chất lượng khả năng của mình mà còn giúp các công ty kiểm toán Việt nam mở rộng thêm các quan hệ bên ngoài và nâng cao khả năng cạnh tranh. Mặt khác các công ty kiểm toán Việt nam cần mạnh dạn lựa chọn liên doanh, liên kết với các công ty, tổ chức kiểm toán Quốc tế. Bởi việc hội nhập Quốc tế không chỉ tạo điều kiện cho việc học hỏi kinh nghiệm, nâng cao chất lượng khả năng của mình mà còn giúp các công ty kiểm toán Việt nam mở rộng thêm các quan hệ bên ngoài và nâng cao khả năng cạnh tranh. Cuối cùng, để công tác kiểm toán đi đúng hướng và hoạt động thực sự có hiệu quả chúng ta cần xây dựng, thiết lập các cơ quan kiểm tra, quản lý để tăng cường công tác thanh tra, giám sát đối với hoạt động kiểm toán. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay chất lượng kiểm toán phải được chú trọng hơn bao giờ hết và phải coi đây là công cụ đắc lực có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy vai trò của cơ quan thanh tra giám sát đối với công tác kiểm toán là đặc biệt quan trọng. Muốn vậy cần phải: Xây dựng, thiết lập một hệ thống giám sát chặt chẽ hoạt động dịch vụ kiểm toán, kiểm toán đảm bảo các dịch vụ này cung cấp có chất lượng, có độ tin cậy an toàn và đặc biệt đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho các hoạt động trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh vì các quyền lợi của người cung cấp các dịch vụ kế toán, người được kiểm toán. - Củng cố cơ cấu tổ chức và nâng cao năng lực các cơ quan quản lý nhà nước đối với các ngành dịch vụ kế toán và kiểm toán. Có cơ chế công nhận và ràng buộc trách nhiệm pháp lý đối với kết quả tư vấn trong lính vực này. - Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của các tổ chức hoạt động nghề nghiệp đặc biệt cần tăng cường chất lượng và năng lực hoạt động hội kế toán Việt Nam. Thành lập mới tổ chức nghề nghiệp các chuyên gia kế toán, các kiểm toán viên có chứng chỉ. - Chủ trương hạn chế và từng bước từ bỏ việc quản lý kinh tế đối với ngành kiểm toán, tăng cường biện pháp hành chính chuyển sang quản lý bằng pháp luật, bằng đòn bẩy kinh tế và công cụ kinh tế. Kết luận Tôi hiểu rằng khái niệm kiểm toán còn mới mẻ ngay cả đối với nền kinh tế nước ta trong cơ chế thị trường chứ không phải chỉ đối với từng cá nhân từng đơn vị kinh tế. Kiểm toán tài chính ở Việt Nam tuy đã xuất hiện từ lâu nhưng mới chỉ thực sự đi vào hoạt động theo đúng nghĩa của nó ở những năm gần đây. So với kiểm toán tài chính trên thế giới thì kiểm toán tài chính Việt nam còn quá non trẻ. Do đó những khó khăn trong quá trình thực hiện như thiếu cơ sở vật chất, cơ sở lý luận (hệ thống pháp lý, chuẩn mựckiểm toán …)và sự tham gia không nhiệt tình của nhiều doanh nghiệp cũng là điều dễ hiểu. Tuy non trẻ nhưng chúng ta cần phải thừa nhận rằng và khích lệ những đóng góp mà ngành kiểm toán đã mang lại trong thời gian qua. Bằng những hoạt động thực tiễn của mình kiểm toán tài chính ngày càng gần gũi và trở nên cần thiết cho tất cả những ai quan tâm đến tình hình tài chính của một tổ chức, đơn vị được kiểm toán. Ngày nay kiểm toán tài chính đã và đang được phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, góp phần không nhỏ vào việc quản lý tài chính, ngăn ngừa hiện tượng vi phạm pháp luật, vi phạm chính sách, chế độ tài chính kế toán … góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Kiểm toán tài chính cần tiếp tục nhận được quan tâm phát triển từ những cơ quan có thẩm quyền song cũng cần phải tự thân vận động để phát huy hết những yếu tố thuộc vai trò và chức năng của bản thân ngành nhằm phục vụ cho nền kinh tế Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29316.doc
Tài liệu liên quan