Thứ nhất, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cụ thể : đa dạng hoá đối tượng gửi tiền (mở rộng đến tầng lớp đan cư), mở rộng hình thức huy động vốn(áp dụng các phương pháp huy động mới như lãi suất bậc thang, tiết kiệm an sinh , tiết kiệm bao hiểm , tiết kiệm đảm bảo bằng vàng và ngoại tệ ). Phát triển các dịch vụ trọn gói như: thu ,chi tại nhà, dịch vụ qua Internet
Thứ hai, thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt, cần nâng cao lãi suất đối với các loại tiền gửi; từng bước giảm lãi suất với tiền gửi giao dịch, đồng thời tăng lãi suất với tiêng gửi trung và dài hạn.
Thứ ba, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, từng bước ứng dụng công nghệ hiện đại , nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên.
Thứ tư, thực hiện quảng cáo và tiếp thị để người dân hiểu được những lợi ích khi gửi tiền vvào ngân hàng. Tư vấn hỗ trợ người dân (đặc biệt ở vùng nông thôn ) làm các thủ tục liên quan đến tiền gửi, hướng dẫn sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi một cách hợp lý, đồng thời giúp người dân hiểu rõ về vai trò và những dịc vụ tiện ích của ngân hàng.
59 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2127 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trường phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
,2% GDP, chiếm 19,78% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu thô) và 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Một thành công nữa là Việt Nam đã thu hút được các tập đoàn lớn vào kinh doanh tại Việt Nam. Điều đó đã tạo ra uy thế cho Việt Nam cũng như giá trị sản phẩm trên trường quốc tế. Hiện có trên 110 các tập đoàn đa quốc gia (TNCs) trong danh sách 500 tập đoàn đa quốc gia lớn nhất thế giới (do tạp chí uy tín Fortune 500 công bố) đã đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký là 11,09 tỉ USD, chiếm một tỉ trọng lớn, 20% tổng vốn FDI của cả nước.
Tuy nhiên, đằng sau con số kỷ lục này là những nỗi lo về khả năng hấp thụ vốn. Trong số 20,3 tỉ đô la này, mới chỉ khoảng 4,6 tỉ đô la (chiếm 30%) được đưa vào thực hiện, chỉ vượt chút ít so với kế hoạch đề ra là 4,5 tỉ đô-la. trong 11 tháng đầu năm 2007 quy mô vốn đầu tư bình quân cho một dự án đạt trên 10 triệu USD (cao hơn mức bình quân cùng kỳ năm trước-8,5 triệu USD). Nhiều địa phương đã thu hút được các dự án FDI có quy mô lớn, từ các tập đoàn đa quốc gia. Cụ thể: Phú Yên có dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô, công suất 4 triệu tấn/năm, tổng vốn đầu tư 1,7 tỷ USD của Công ty Technostar Management (B.V.Islands) và Công ty Telloil (Nga); Bà Rịa Vũng Tàu dự án nhà máy sản xuất thép của Ấn Độ trên 527 triệu USD, Cảng quốc tế của Singapore 266,9 triệu USD, Cảng SP-SPA Cái Mép của Singapore 165 triệu USD.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trương trong năm 2008 sẽ chú trọng thu hút những dự án đầu tư nước ngoài phù hợp với quy hoạch và có lợi nhất cho việc phát triển kinh tế, không chỉ vì mục tiêu tăng lượng vốn cam kết như trước đây với mục tiêu thu hút 15 tỷ USD vốn FDI, giảm hơn 26% so với mức kỷ lục 20,3 tỷ USD của năm ngoái. Những lĩnh vực được tập trung thu hút đầu tư vẫn là công nghệ cao, công nghệ nguồn, cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn lực, phát triển y tế, xây dựng khách sạn và khu đô thị cao cấp - những dự án giúp thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với các nước.
b.Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Nguồn vốn ODA được Chính Phủ Việt Nam khẳng định là “có một tầm quan trọng đặc biệt trong chương trình phát triển kinh tế của nước ta”.
Cam kết và thực hiện ODA thời kì 1993-2004
Năm
Cam kết ODA (triệu USD)
Thực hiện ODA (triệu USD)
Tổng số
28.780
14.116
1993
1.810
413
1994
1.940
725
1995
2.260
737
1996
2.430
900
1997
2.400
1.000
1998
*2.200
1.242
1999
**2.210
1.350
2000
2.400
1.650
2001
2.400
1.500
2002
2.500
1.528
2003
2.830
1.421
2004
3.440
1.650
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
(*) Chưa kể 0,5 tỷ USD dự định hỗ trợ cải cách kinh tế
(**) Chưa kể 0,7 tỷ USD dự định hỗ trợ cải cách kinh tế
Ðể sử dụng nguồn vốn ODA đã cam kết, từ 1993 - 2004, Chính phủ Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ các Ðiều ước quốc tế cụ thể về ODA trị giá 22,199 tỷ USD, đạt khoảng 77,13% tổng vốn ODA đã cam kết tính đến hết năm 2004, trong đó, ODA vốn vay khoảng 18,05 tỷ USD (81.3%) và ODA vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 4,14 tỷ USD (18.6%). Tình hình thực hiện ODA đã có bước tiến triển khá, năm sau cao hơn năm trước và thực hiện tốt kế hoạch giải ngân hằng năm. Từ năm 1993 tới hết năm 2004 vốn ODA giải ngân khoảng 14,116 tỷ USD, tương đương với khoảng 49% tổng nguồn vốn ODA đã cam kết. Nguồn vốn ODA đã được tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội ưu tiên của Chính phủ, đó là: năng lượng điện (18.57%); ngành giao thông (22,42%); phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm cả thuỷ sản, lâm nghiệp, thuỷ lợi (14,37 %); ngành cấp thoát nước (9,98%); các ngành y tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ - môi trường (10,73%). Trong những năm qua, nhiều dự án đầu tư bằng vốn ODA đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng, góp phần tăng trưởng kinh tế, xoá đói, giảm nghèo như Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ 2 -1; nhà máy thủy điện sông Hinh; một số dự án giao thông quan trọng như Quốc lộ 5, Quốc lộ 1A (đoạn Hà Nội - Vinh, đoạn thành phố Hồ Chí Minh- Cần Thơ, đoạn thành phố Hồ Chí Minh- Nha Trang), cầu Mỹ Thuận..; nhiều trường tiểu học đã được xây mới, cải tạo tại hầu hết các tỉnh; một số bệnh viện ở các thành phố, thị xã như bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), bệnh viện Chợ Rẫy (thành phố Hồ Chí Minh); nhiều trạm y tế xã đã được cải tạo hoặc xây mới; các hệ thống cấp nước sinh hoạt ở nhiều tỉnh thành phố cũng như ở nông thôn, vùng núi. Các chương trình dân số và phát triển, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, tiêm chủng mở rộng được thực hiện một cách có hiệu quả.
Hết năm 2005, Việt Nam đã kí các hiệp định vay ODA với tổng giá trị 22,199 tỉ USD, chiếm hơn 77% số đã cam kết đến hết năm 2004, trong đó vốn vay ODA khoảng 18 tỉ (81,3%) và viện trợ ODA không hoàn lại cỡ 4 tỉ USD (18,6%), tổng số đã giải ngân đạt khoảng 16 tỉ.
Giải ngân ODA đạt 1,8 tỉ USD năm 2006, 2 tỉ USD năm 2007 và dự kiến 2,2 tỉ USD năm 2008. Cam kết ODA cho VN đã đạt 3,75 tỉ USD năm 2006 và ở mức kỷ lục 4,45 tỉ USD năm 2007, đạt khoảng 40% dự báo cam kết ODA cho giai đoạn 2006-2010. Trong đó, các nhà tài trợ song phương cam kết viện trợ cho Việt Nam 2,164 tỷ USD, đa phương 2,101 tỷ USD và từ các tổ chức phi chính phủ 180 triệu USD. Đứng đầu danh sách các nhà tài trợ là ADB với 1,14 tỷ USD, Liên minh châu Âu (EU) đứng thứ hai với 948,2 triệu USD. Năm ngoái Nhật Bản là nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam với 835 triệu USD. Trong năm 2007, Nhật Bản đứng thứ ba cùng Ngân hàng Thế giới (WB) với 890 triệu USD.
Theo thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, vốn ODA sẽ được tập trung ưu tiên cho các công trình hạ tầng kinh tế có quy mô lớn ở Hà Nội, TP HCM, các tuyến giao thông liên vùng (tuyến Bắc Nam), hai hành lang một vành đai kinh tế, trục giao thông Đông - Tây, giao thông Đồng Bằng sông Cửu Long... Bên cạnh đó, Việt Nam cam kết tiếp tục thúc đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, lành mạnh hoá các ngân hàng thương mại, đẩy nhanh cải cách hành chính và phòng chống tham nhũng.
Trong thời gian qua, Chính phủ đã huy động một khối lượng đáng kể nguồn vốn ODA để phát triển nguồn và lưới điện, một trong những ngành công nghiệp quan trọng phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong giai đoạn 2006-2010 ngành điện dự kiến cần 15-16 tỷ USD vốn đầu tư, trong đó một phần không nhỏ được huy động từ nguồn vốn ODA. Từ năm 1995 tới nay, EVN đã được Chính phủ giao tiếp nhận và thực hiện các chương trình, dự án với tổng vốn ODA khoảng 4,960 tỷ USD, trong đó các khoản tín dụng của Nhật Bản (JBIC) và WB (WB) chiếm tỷ trọng lớn (JBIC: 2,8 tỉ USD, WB: 1,1 tỉ USD).
Năm 2008, mức cam kết tài trợ vốn ODA đạt hơn 5,4 tỷ USD. So với năm ngoái, tổng mức cam kết năm 2008 cao hơn khoảng 1 tỷ USD. Trong đó, các nhà tài trợ song phương cam kết viện trợ cho Việt Nam 2,626 tỷ USD, đa phương 2,550 tỷ USD và từ các tổ chức phi chính phủ 250 triệu USD. ADB tiếp tục là nhà tài trợ dẫn đầu với mức cam kết ODA lên tới 1,350 tỷ USD, so với con số 1,14 tỷ USD mà đối tác này tài trợ năm 2007. Năm nay, Nhật Bản vượt EU, trở thành nhà tài trợ lớn thứ hai của Việt Nam với 1,111 tỷ USD, trong khi năm ngoái chỉ là 890 triệu USD.
c. Thị trường vốn quốc tế.
Để tạo đà cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững nhằm mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá, nhà nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn vốn. Một trong số đó là nguồn huy động qua thị trường vốn. Trong bối cảnh nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) đang ngày càng bị thu hẹp dần và dự kiến đến năm 2010 sẽ “biến mất” khỏi cơ cấu vốn vay, thì trái phiếu sẽ trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Kết quả giao dịch trái phiếu Chính phủ Việt Nam ngay lần chào bán đầu tiên trên thị trường vốn quốc tế ngày 27/10/2005 là “khá hời”. Đây là bước đi "khai phá" đầy thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận vào thị trường vốn quốc tế. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài nhận định rằng: “hiếm thấy lần phát hành trái phiếu Chính Phủ đầu tiên nào thu được thành công như của Việt Nam”. Số lượng nhà đầu tư đặt mua trái phiếu lên tới trên 255 nhà đầu tư lớn (so với 150 nhà đầu tư mua trái phiếu của Chính phủ Indonesia đầu tháng 10/2005). 750 triệu USD trái phiếu đã được bán hết với lãi suất danh nghĩa là 6,875%/năm; trong đó các nhà đầu tư châu Á nắm giữ 38%, châu Âu 32% và Mỹ là 30%. Trong số các nhà đầu tư này, các quỹ đầu tư tài chính là đối tượng quan tâm nhiều nhất đến trái phiếu của Việt Nam (chiếm tới 52%), còn lại là ngân hàng (25%), các công ty bảo hiểm (17%) và các tổ chức tài chính khác (7%).
Việc các tổ chức quốc tế nâng hạng mức tín nhiệm của Việt Nam là một thuận lợi mới để Việt Nam có thể vươn ra thị trường vốn quốc tế. Năm 2006, Việt Nam phát hành 500 triệu USD trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế. Sự kiện Deutsche Bank - một ngân hàng uy tín của Đức - có một cuộc giao dịch rất thành công với Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) trong việc phát hành 1.000 tỷ đồng trái phiếu, trong đó người mua hầu hết là các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo ra một tiền đề đầy triển vọng cho các công ty Việt Nam vươn ra thị trường vốn nước ngoài.
Trong năm 2007, phát hành trái phiếu Chính phủ khoảng 1 tỷ USD với thời hạn 15 và 20 năm để cho vay lại đối với một số dự án quan trọng như: Dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất, Dự án mua tàu vận tải của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam và Dự án thủy điện Xê ca mản 3 của Tổng công ty Sông Đà.
d.Kiều hối
Một trong những nguồn thu hút ngoại tệ hiệu quả và dồi dào nhất của Việt Nam hiện nay, là kiều hối. Nếu lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trên 1 tỷ USD vào cuối thập niên 90, thì sang năm 2000 con số đó đã tăng lên 2 tỷ USD. Lượng kiều hối tiếp tục đổ về nước trong những năm tiếp theo và đạt con số 2,6 tỷ USD vào năm 2003, tăng lên 3,2 tỷ USD năm 2004 và 3,8 tỷ USD trong năm 2005, năm 2006 là 5.2 tỷ USD. Con số tưởng chừng như nhỏ nhoi này lại có ý nghĩa rất lớn. Cả tỷ đô la được chuyển vào Việt Nam mà người thụ hưởng hầu như không phải mất một đồng chi phí nào; cũng có nghĩa, Việt Nam không "tốn" đồng nào để có được vài tỷ đô la hàng năm.
Kiều hối là nguồn vốn bên ngoài quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Ngoài lượng tiền chính thức được chuyển qua các ngân hàng, một lượng tiền khác được cho là đi theo các cơ chế không chính thức. Trong năm 2003, lượng kiều hối thống kê được đóng góp vốn cho nền kinh tế Việt Nam nhiều hơn lượng ODA đăng ký tới 1 tỷ USD. Lượng kiều hối của Việt kiều năm 2004 được ước tính trang trải tới 62% thâm hụt thương mại dự toán. Năm 2003, kiều hối về Việt Nam tương đương với khoảng 7,4% GDP, bằng 160% đầu tư trực tiếp nước ngoài và 13% xuất khẩu hàng hoá.
Trong 16 năm qua, tổng lượng kiều hối gửi về nước ta đạt trên 29,4 tỉ USD, bằng trên 70% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tính từ năm 1988, cao gấp rưỡi lượng vốn ODA được giải ngân tính từ năm 1993. Năm 2007, lượng kiều hối chuyển về nước tăng mạnh (ước đạt trên 6tỷ USD), gấp nhiều lần vốn ODA, cao hơn cả số vốn FDI thực tế chuyển vào thực hiện tại Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 7 trên thế giới và thứ 4 ở châu Á về kiều hối. Đây là nguồn lực tài chính lớn cho đất nước, cho các gia đình, đặc biệt làm giảm mạnh thâm hụt cán cân vãng lai, thậm chí là thặng dư cán cân vãng lai của Việt Nam và kiều hối bù lại cho thâm hụt cán cân xuất nhập khẩu mà nhập siêu được ước tính cả năm 2007 lên tới 9 tỷ USD.
II. ĐÁNH GIÁ ƯU, NHƯỢC ĐIỂM CỦA HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG VIỆC THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Ưu điểm
a. Nguồn vốn trong nước
Thị trường vốn: Tăng trưởng lớn nhất trong 20 năm trở lại đây.Những lĩnh vực thu hút khối lượng lớn vốn tín dụng ngân hàng trong năm 2007 đó là đầu tư CSHT, đầu tư bấtđộng sản mà đặc biệt là các dự án khu nhà ở mới & khu đô thị mới, đầu tư vốn trong lĩnh vực xuất khẩu & dịch vụ, nuôi trồng thuỷ hải sản,… Bên cạnh đó, đối tượng đầu tư chứng khoán, vàng, tín dụng,… cũng thu hút một khối lượng rất lớn vốn tín dụng.
Tốc độ tăng trưởng đó cũng cho thấy tiềm lực về vốn trong dân, trong xã hội rất lớn , hoạt động ngân hàng phát triển mạnh mẽ tạo lòng tin cho khách hàng, cho người gửi tiền, dịch vụ phát triển đa dạng. Đồng thời còn cho thấy, người dân càng có thói quen gửi tiền vào ngân hàng vừa hưởng lãi, vừa an toàn.TP Hồ Chí Minh: Quy mô tài chính- tiền tệ lớn nhất: Vốn huy động bằng ngoại tệ đạt 327,792 tỷ đồng, vốn huy động ngoại tệ quy đổi đạt 114,738 tỷ đồng, chiếm gần 26%.
Cũng tính đến hết tháng 12/2007, tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại & tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố HCM ước tính đạt 346,918 tỷ đồng, tăng 51% so với cuối năm 2006.Phân theo tiền tệ thì dư nợ cho vay bằng nội tệ đạt 241,190 tỷ đồng, dư nợ cho vay bằng ngoại tệ đạt 105,728 tỷ đồng. Phân theo kỳ hạn thì dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 212,48 tỷ đồng, dư nợ trung & dài hạn dạt 134,431 tỷ đồng. Tốc độ tăng dư nợ cho vay đó cũng cho thấy nhu cầu vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hộ dân cư trên địa bàn thành phố là rất lớn. Đồng thời dư nợ cho vay ngoai tệ lớn hơn số dư vốn huy động cho thấy nhu cầu vốn ngoại tệ cho nhập khẩu nguyên vật liệu, thiết bị máy móc cho đổi mới công nghệ & mở rộng kinh doanh là lớn nhất. Bên cạnh đó, do tỷ giá ổn định, lãi suất cho vay ngoại tệ chỉ bằng 50%-60% mức lãi suất cho vay nội tệ nên nhiều doanh nghiệp thích vay vốn ngoại tệ hơn, ngược lại người gửi tiền thì thích gửi bằng nội tệ hơn hơn vì lãi suất tiền gửi cùng kỳ hạn của nội tệ cao gấp hai lần tiền gửi ngoại tệ.
Hà Nội: Tốc độ tăng trưởng lớn nhất: Vốn huy động nội tệ đạt 236,180 tỷ đồng, tăng 39,05% & vốn huy động ngoại tệ đạt 90,444 tỷ đồng, tăng 24,05% so với cuối năm trước. Vốn huy động tăng nhanh một mặt phản ánh nền kinh tế VN đang rất sôi động, hiệu quả kinh doanh của nền kinh tế ngày càng nâng cao một cách bền vững. Mặt khác cũng phản ánh thu nhập của người dân, của doanh nghiệp cũng nâng cao. Trong số nguồn thu nhập đó có khối lượng đáng kể là kiều hối, tiền của người VN chuyển về.
Tại Hà Nội, dư nợ cho vay cũng tăng với tốc độ lớn như TP Hồ Chí Minh. Và cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn, cho vay ngắn hạn đạt 100089 tỷ đồng, tăng 33,5% và dư nợ cho vay trung dài hạn đạt 63,749 tỷ đồng, tăng 44,1%. Tín dụng trung dài hạn tăng cao hơn ngắn hạn, chứng tỏ nhu cầu vốn đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cho mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà xưởng, lắp đặt trang thiết bị mới & hiện đại tăng lên.Một nguyên nhân khác, vốn đầu tư cho các khu công nghiệp,khu chế xuất, khu đô thị mới, dự án nhà ở, vốn cho vay mua nhà chung cư, mua ô tô, phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị, thiết bi thi công, xây dựng khách sạn, văn phòng cho thuê,trung tâm thương mại,… cũng phát triển cao.
Thị trường vốn VN đầy triển vọng: VN phát hành trái phiếu ra nước ngoài năm 2005 đã tạo một chuẩn mực mới trong các kênh huy động nguồn vốn đồng thời nhận được sự ủng hộ & gây dựng được lòng tin từ các nhà đầu tư nước ngoài.
b.Nguồn vốn nước ngoài.
Thu hút đầu tư nước ngoài không phải chỉ là tạo một môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài vào kinh doanh mà tạo ra lực đẩy nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, gắn hiệu quả kinh doanh với lợi ích xã hội.
Nguồn ODA tăng: CSHT là lĩnh vực thu hút viện trợ ODA lớn nhất, chiếm tới 6/10 dự án lớn nhất. Những thành tích sử dụng viện trợ xoá đói giảm nghèo & phát triển bền vững của VN trong năm 2004 là tín hiệu cho thấy VN đang sử dụng có hiệu quả ODA. Các dự án phát triển nông thôn & CSHT hàng năm đã giúp cải thiện đời sống địa phương & nâng cao tiềm lực sản xuất của địa phương, góp phần thúc đẩy sự phát triển & nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong năm 2002, việc ký kết hiệp định về ODA tiến triển, thuận lợi, một số dự án lớn được ký kết: Dự án xây dựng sân bây Tân Sơn Nhất( 166,8 triệu USD ), dự án xây dựng cầu Thanh TRì Hà Nội (110 triệu USD, cấp lần 2),…
Nguồn FII: Mới vào từ vài năm nay, đặc biệt là từ đầu năm tới năm 2007 ước đạt 5,6 tỷ USD, cao gấp 4,3 lần năm trước, lượng vốn này cung với các nguồn ngoại tệ từ các kênh khác ( FDI, ODA,…) góp phần cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá & tác động lớn đến thi trường chứng khoán. Tác động này được thể hiện trên ba mặt: Tạo ra một nguồn vốn chiếm tỷ trọng khá trong tổng giá trị vốn hoá thị trường ( lớn hơn 25% ); giữ cho chỉ số giá chứng khoán không “ phi mã” khi thị trường xuất hiện nóng sốt do họ đẩy mạnh bán ra; giữ cho chỉ số giá chứng khoán không “ rơi tự do” khi thị trường nguội lạnh do họ đẩy mạnh mua vào để kéo các nhà đầu tư nhỏ lẻ không bán ra hoặc trở lại thị trường.
Nguồn FDI: Tỷ trọng lượng vốn đăng ký mới đầu tư vào nhóm ngành công nghiệp & xây dựngtiếp tục đạt kỷ lục lớn nhất, phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, thực hiện mục tiêu đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Bên cạnh những địa bàn trọng điểm những năm trước thu hút một lượng vốn lớn, năm nay tiếp tục thu hút nhiều nhưng chuyển dần sang hoặc là công nghệ kỹ thuật cao, hoặc là dịch vụ, nay đã có thêm những địa bàn mới mà các năm trước còn thu hút ít nhưng nay đã thu hút một lượng vốn lớn như: Phú Yên, Hậu Giang, Ninh Bình, Tây Ninh,… Có những địa bàn trong những năm trước ít xuất hiện nhưng nay đã xuất hiện như Hà Nam, Thái Bình, Hoà Bình, Hà Giang, Cao Bằng,…Chứng tỏ dòng vốn FDI vào việc sản xuất sản phẩm vật chất đã chuyển dần từ các khu đô thị trung tâm sang các địa bàn khác có điều kiện ngược lại. Điều này phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế khác nhau: Các đô thị chuyển trọng tâm vào phát triển công nghệ kỹ thuật cao, vào phát triển dịch vụ, còn các tỉnh thì chuyển trọng tâm sang phát triển công nghiệp- xây dựng- dịch vụ.
Tình hình cụ thể:
Năm 2000, sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp khoảng 12% GDP chung của cả nước, 34% trong công nghiệp & 22% xuất khẩu ( không kể dầu khí).Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những đã góp phần mở rộng thị trường ngoài nước, nâng cao nội lực xuất khẩu của VN mà còn thúc đẩy thị trường trong nước & các hoạt động dịch vụ khác. Đó là hoạt động kinh doanh, khách sạn, dịch vụ, tư vấn, công nghệ. Kim ngạch xuất khẩu khu vực này tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Năm 1997, xuất khẩu đạt 1,79 tỷ USD, năm 1998 tăng 10% so với năm trước, năm 1999 tăng 30% & năm 2000 ước tăng khoảng 28%. Ước tính giai đoạn 1996-2000 kim ngạch xuất khẩu khu vực này đạt trên 10,5 tỷ USD . Trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của VN, sản phẩm của các doanh nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng đáng kể, chẳng hạn như dày giép chiếm 42%, dệt may chiếm 25% & hàng điện tử, linh kiện, máy vi tính chiếm 84%.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo nên nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, góp phần tăng năng lực ngành công nghiệp VN. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm 100% về khai thác dầu, sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà, chiếm 50% sản lượng vải, 45% sản lượng may, 35% dày dép.
Qua đầu tư nước ngoài, nhiều công nghệ mới được nhập vào VN, như trong các lĩnh vực viễn thông, dầu khí, điện tử, tin học,… Các doanh nghiệp này cũng đã đem lại những mô hình quản lý tiên tiến cùng phương thức kinh tế hiện đại, điều này thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tỷ lệ đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng sản phẩm quốc nội tăng dần qua các năm, từ 3,6% năm 1993 lên 10,3% năm 1999, dự kiến năm 2000 chiếm khoảng 10,4%. Các doanh nghiệp khu vực này đã giải quyết việc làm cho khoảng 35 vạn lao động trực tiếp và khoảng 1 triệu lao động gián tiếp khác.
2.Hạn chế:
a.Nguồn vốn trong nước.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhà nước hiện nay vẫn chưa cao, đầu tư dàn trải đi kèm với tình trạng thất thoát vốn là một trong những lãng phí lớn nhất.
Với tốc độ đầu tư cao, tỷ lệ tăng trưởng lẽ ra phải đạt mức 9-10%, và với tốc độ tăng trưởng đạt được, số vốn thất thoát, lãng phí trong đầu tư hàng năm lên đến 1 tỷ USD. Yếu tố giúp dễ nhận thấy đầu tư về hiệu quả đầu tư thấp là chỉ số ICOR đang có xu hướng ngày càng tăng, từ mức 4,1( giai đoạn 1990-2000) lên xấp xỉ 5 ( giai đoạn 2001-2005) và tình trạng thất thoát, lãng phí đang diễn ra trong tất cả giai đoạn của dự án.
Hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn nhà nước đạt thấp thể hiện rất rõ thông qua tình trạng đầu tư dàn trải, tiến độ thi công chậm trễ, kéo dài, số dự án đầu tư tăng nhanh qua các năm không tương xứng với tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư.
Thống kê của tổng hội xây dựng cho thấy trong khi lượng vốn đầu tư taqng với mức độ vừa phải thì chỉ trong 5 năm, số lượng các dự án trong kế hoạch hằng năm đã tăng gần gấp đôi, từ 6942 dự án năm 2001 lên 13000 dự án năm 2005, đây chính là lý do dẫn đến tình trạng có tới 61% các công trình, dự án đang trong tình trạng dở dang.Hàng loạt các công trình xây dựng xong đưa váo sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế xã hội do không khai thác hết công suất, thiếu nguyên liệu, nguyên nhân là do quy hoạch kém, không đồng bộ, không gắn kết với quy hoạch phát triển ngành, vùng. Phát triển kết cấu hạ tầng là một trong những nội dung cần thiết để thực hiện CNH-HĐH đất nước. Hiện bộ Kế hoạch & Đầu tư đang hoàn chỉnh đề án “ xã hội hoá kết cấu hạ tầng” nhằm thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, kể cả những lĩnh vực nhạy cảm như điên, nước, làm đường,…Tuy nhiên trong nhiều trường hợp đầu tư nhà nước vẫn chưa tạo điều kiện để thu hut các nguồn vốn đầu tư khác như đầu tư tư nhân, mà ngược lại còn lấn át các nguồn này. Một nguyên nhân của thực trạng này là do tỷ trọng của nguồn vốn đầu tư nhà nước trong vốn đầu tư toàn xã hội còn quá cao và doanh nghiệp nhà nước còn giữ vai trò chi phối trong một số ngành, lĩnh vực. Vấn đề tư nhân tham gia đầu tư phát triển CSHT không mới, song đến nay vẫn còn nhiều hạn chế.
b.Nguồn vốn nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào VN tăng tốc đạt kỷ lục mới ở cả ba nguồn FDI, ODA, FII, ở cả số vốn đăng ký/ cam kết, thực hiện/giải ngân. Song tỷ lệ thực hiện thấp, giải ngân chậm.
Đối với FDI: Tỷ lệ thực hiện so với đăng ký còn thấp và có xu hướn giảm( tỷ lệ này của thời kỳ 1988-2005 là 50,3% ; năm 2006 còn 33%, nhưng năm 2007 là 23% ).
Đối với ODA: Bản chất thực sự của sử dụng nguồn vốn ODA là một sự đánh đổi. Tuy ODA là nguồn vay hỗ trợ có tính ưu đãi song không phải “cho không” mà là “có vay, có trả”, gắn với những điều kiện ràng buộc của quốc gia hay tổ chức cung cấp viện trợ Nhiều khi những điều kiện để đổi lấy ODA là rất khắt khe. Đó là còn chưa kể một số nước còn coi ODA như một công cụ chính trị va ngoại giao lợi hại’. ODA còn khiến nền kinh tế tăng trưởng chậm lại vì gánh nặng nợ nần. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010 của VN dự tính ODA sẽ đạt 19 tỷ USD vốn cam kết. Với số dân hiện nay của nước ta, trong vòng 5 năm đó, mỗi người dân sẽ phải trả khoản nợ không nhỏ so với thu nhập.
Đối với FII: nguồn vốn này cũng luôn tiềm ẩn những rủi ro cao hơn so với các nguồn vốn đầu tư khác, do nhà đầu tư dễ dàng “ rút khỏi cuộc chơi”, nếu việc đầu tư kém hiệu quả hoặc an ninh tài chính bị ảnh hưởng.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG VIỆC THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
I. CÁC GIẢI PHÁP CHUNG
Để tạo đà bứt phá cho nền kinh tế Việt Nam, cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:
Cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh bền vững của nền kinh tế theo hướng tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường khoa học, công nghệ; thị trường lao động, bất động sản… Đẩy mạnh phát triển các ngành và vùng kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng hiệu quả. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Thủ tướng yêu cầu ngay từ những ngày đầu, tháng đầu của quí I/2008, triển khai ngay kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, kiểm soát giá cả tiêu dùng…
Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Ưu tiên vốn ngân sách để đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng không có khả năng thu hồi vốn; tăng đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, các vùng hạn hán, úng lụt kéo dài. Tập trung chỉ đạo và triển khai thực hiện đúng tiến độ các dự án đầu tư quan trọng, nhất là các công trình trọng điểm quốc gia. Tiếp tục tạo chuyển biến mạnh mẽ trong cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng cơ bản, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước; thực hiện kiên quyết các giải pháp phòng chống tham nhũng, lãng phí, giải quyết khiếu nại tố cáo; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy hành chính Trung ương và địa phương theo hướng thống nhất, thông suốt, hiện đại.
1.Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế
Trong dài hạn năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động nguồn vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Vấn đề tăng trưởng là một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối vớivốn đầu tư cả trong nước và nước và nước ngoài theo một nguyên tắc: Vốn đầu tư được sử dụng ngày càng hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn.
Thực tiễn ở Việt Nam trong hững năm qua đã chứng minh điều này.Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, bên cạnh thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tích tăng trưởng cao lien tục. Bình quân những năm trong giai đoạn 1991-1997 là trên 8%, có những giai đoạn tăng cá biệt 2 năm lien tục tăng trên 9% mỗi năm,năm 2007 bình quân GDP là 8,5% . Đặt ra mục tiêu năm 2008 là 9%.Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt trên 20%/năm. điều đó làm cho khả năng huy động,khai thác và sử dụng nguồn vốn đầu tư được mở rộng hơn .Cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài đều có sự chuyển biến về quy mô và tốc dộ tăng trưởng.
Cần có những giải pháp để tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng cho nền kinh tế:
Tăng cường phát triển sản xuất kinh doanh và thực hành tiết kiệm trong cả sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội . Có các biện pháp hữu hiệu để sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả.
Đối với tất cả các nguồn vốn đầu tư, phải xá định yếu tố hiệu quả là yếu tố về mặt chất lượng của việc huy động vốn trong lâu dài. Hiệu quả của nguồn vốn đầu tư nhà nước phải đặc biệt đượ chú trọng . Các dự án sử dụng vốn nhà nước phải được đánh giá trên các tiêu chuẩn hiệu qủa, phải được quản lý chặt chẽ để đảm bảo thời gian xây dựng, giá cả và chất lượng công trình. Tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tăng cường tính hiệu quả của khu vực kinh tế này.
Các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được them gánh nặng nợ nần không trả được. Sử dung ODA có hiệu quả tren cơ sơ kiểm tra quản lý chặt chẽ chống lãng phi, tiêu cực.
Tạo môi trường hoạt động bình đẳng cho tất cả các nguồn vốn đầu tư; đầu tư trong nướcc và đầu tư nước ngoài, đầu tư của nhà nước và đầu tư của khu vực tư nhân.Xây dựng một hệ thống luật pháp thống nhất và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xoá bỏ tư tưởng bao cấp về vốn đầu tư, khuyến khích khu vực tư nhân bỏ vốn tham gia đầu tư. Lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo cho hoạt động đầu tư.
2- Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn được coi là điều kiện tiên quyết cho mị ý định đầu tư và hành vi đầu tưnhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của đất nước.
Sự ổn định kinh tế thoả mãn yêu cầu gắn liền với năng lực tăng trưởng của nền kinh tế hay ổn định trong tăng trưởng . Nền kinh tế có thể chủ động kiểm soát dược quá trình tăng trưởng, chủ động tái lập được trạng thái cân bằng mới tạo ra cơ sở ổn điinh lâu dài và vững chắc. Vì thế nó liên quan đến hoạt động điều tiết vĩ mô của chính phủ:
Ổn định giá trị tiền tệ: ổn định ở đây bao gồm kiềm chế lạm phát và khắc phục hậu quả của tình trạng lạm phát nếu có xảy ra đối với nền kinh tế. Để đạt yêu cầu ổn định giá trị tiền tệ, cần phải tạo ra sự đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường bao gồm cả lĩnh vực sản xuất vật chất, hệ thống tài chính và cơ chế phân phối, lưu thông tương ứng. Hoạt động của Ngân sách Nhà nước có ý nghĩa quan trọng. Ngân sách Nhà nước mà bị thâm hụt sẽ đi kèm với lạm phát cao và mất ổn định. Vì vậy kiểm soát được mức thâm hụt ngân sách là mục tiêu tài chính trung tâm hướng tới sự ổn định kinh tế vĩ mô. Thuế và chi Ngân sách là công cụ quan trọng trong ổn định giá trị tiền tệ. Mặt khác, thuế và công cụ tài chính là một trong những chính sách quan trọng trong việc khuyến khích đầu tư và tái đầu tư từ lợi nhuận.
Lãi suất và tỷ giá hối đoái: Lãi suất và tỷ giá hối đoái không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút các nguồn vốn đầu tư thông qua việc tạo lập ổn định kinh tế vĩ mô mà còn có tác động đến dòng chảy của các nguồn vốn đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định.
Đối với lãi suất, khi lãi suất càng cao thì về mặt lý thuyết xu hướng tiết kiệm càng lớn và từ đó tiềm năng của các nguồn vốn đầu tư ngày càng cao. Bên cạnh đó, nếu mức lãi xuất trên thị trường nội địa mà cao tương đối so với mức lãi xuất quốc tế thì sẽ là hấp dẫn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Trong điều kiện toàn cầu hoá và mở cửa của nền kinh tế thế giới, mức lãi xuất tương đối cao tại thị trường trong nước còn là công cụ để Chính phủ bảo vệ được nguồn vốn của nước mình ngăn chặn được nạn đào thoát vốn ra nước ngoài. Tuy nhiên mặt trái của lãi xuất là: nếu lãi xuất tăng cao cũng có nghĩa là chi phí sử dụng vốn trong đầu tư cao hơn và sẽ làm giảm phần lợi nhuận thực của nhà đầu tư. Vì vậy khi sủ dụng công cụ lãi xuất phải hết sức thận trọng để xác định mức lãi xuất phù hợp, có tác động tích cực đến hiệu quả huy động vốn.
Với tỷ giá hối đoái, giá trị của đồng nội tệ càng giảm thì khả năng thu lợi từ động nội tệ càng lớn. Điều này khuyến khích các nhà đầu tư vào hang xuất khẩu và khi đó sức hấp dẫn vốn nước ngoài cũng sẽ càng lớn. Một nước có khả năng xuất khẩu cao, khả năng trả nợ sẽ đảm bảo hơn. Tuy nhiên khi xem xét tỷ giá hối đoái trong chiến lược huy động vốn của một nền kinh tế mở, giá trị đồng tiền trên thế giới không chỉ ảnh hưởng tới khả năng vay và trả nợ thong qua việc làm tích cực hoá cán cân thương mại mà ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng nợ phải trả. Việc vay nợ tính thêo một đồng ngoại tẹ đang có xu hướng mạnh lên đồng nghĩa với việc phải trả một khối lượng nợ thực tế lớn hơn giá ttrị danh nghĩa trên hợp đồng. Vì vậy một tỷ giá phù hợp với tình hhình phát triển đất nước sẽ có vai trò tô lớn với việc thu hút đầu tư đặc biệt là đầu tư nước ngoài.
Trong dài hạn,thực hiện tốt chức năng hoạch định phát triển kinh tế-xã hội của nhf nước trong mối quan hệ mật thiết với lĩnh vưc thu hút các nguồn đầu tư. Nâng cao chất lượng huy động tổng thể có chính sách huy động đồng bộ các nguồn vốn, phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ và lĩnh vực ưu tiên. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý đầu tư gắn với việc hoàn thiện bộ máy tổ chức, đơn giản hoá thủ tục hành chính về đầu tư xây dựng. Nhanh chóng cải thiện và đồng nhấtmôi trường đầu tư để tạo điều kiện cho việc khai thác các nguồn vốn đầu tư phát triển trong các thành phần kinh tế. Coi trọng các hoạt động kế toán, kiểm toán, tư pháp hỗ trợ và đảm bảo kinh doanh lành mạnh, chống tham nhũng. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường, nhằm đảm bảo môi trường vĩ mô ổn định, minh bạch nhất quán và phù hợp với thong lệ quốc tế.
3- Xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả.
Xây dụng các chính sách huy động nguồn vốn có hiệu quả theo nguyên tắc sau :
Chính sách và giải pháp huy động vốn cho đầu tư phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn và thực hiện được cá nhiệm vụ của chính sách tài chính quốc gia. Việc thực hiện các chính sách và giải pháp này cần phải có sự tính toán tổng hợp về khả năng cung ứng vốn và khả năng tăng trưởng các nguồn vốn trên cơ sở giải quýêt hợp lý các mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dung. Các chính sách về đầu tư phải đảm bảo khuyến khích, định hướng các hoạt động thu hút cung ứng vốn nhằm huy động tổng lực của nền kinh tế cho công nghiệp hoá đất nước.
Phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài theo nguyên tắc : Vốn trong nước là quyết định và vốn nước ngoài là quan trọng.
Đa dạng hoá và hiện đại hoá các hình thức và phương tiện huy động vốn. Tiếp tục mở rộng các hình thức huy động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước từ khu vực dân cư qua hình thức phát hành trái phiếu với lãi xuất và thời hạn hấp dẫn. Từng bước tiến tới gia nhập thị trường vốn trong nước và ngoài nước để huy động vốn cho đầu tư và phát triển.
Các chính sách huy động vốn phải được tiến hành đồng bộ về cả nguồn vốn và biện pháp thực hiện. Đảm bảo sự bình dẳng gắn bó và tạo điều kiện lẫn nhau cùng phát triển giữa các nguồn vốn. Tiếp tục đổi mới các chính sách động viên các nguồn tài chính cho ngân sách nhằm đảm bảo tăng cường huy động vốn một cách vững chắc, ổn định và bền vững nhưng vẫn khuyến khích các doanh nghiệp và dân cư bỏ vốn ra đầu tư.
II.GIẢI PHÁP RIÊNG CHO TỪNG NGUỒN VỐN
1 NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC
a. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước
Theo Nghị quyết số 03/2007/NQ-CP ngày 19/01/2007 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước, trong đó tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, Bộ tài chính tích cực, chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương có liên quan rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế chính sách tài chính nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư và kinh doanh; thực hiện quyết liệt cải cách hành chính, nhất là đơn giản và công khai thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc để tạo bước đột phá trong khuyến khích hoạt động sản xuất - kinh doanh của các thành phần kinh tế ở trong nước, tập trung thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Hai là, đẩy mạnh thu ngân sách Nhà nước, phấn đấu thu đạt và vượt dự toán Quốc hội quyết định. Trong năm 2007 Bộ Tài chính tổ chức triển khai có hiệu quả luật quản lý thuế; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về thuế..., phối hợp với các lực lượng chức năng tổ chức thu dứt điểm các khoản nợ đọng thuế có khả năng thu hồi của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh.
Ba là, năm 2007 phải là năm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quản lý sử dụng ngân sách Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả, kỷ luật chi ngân sách Nhà nước.Ngay từ đầu năm, Bộ Tài chính đã phối hợp cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tập trung hướng dẫn triển khai dự toán chi ngân sách Nhà nước năm 2007 đã được Quốc hội quyết định theo đúng quy định; tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ về việc phân bổ và điều hành và thực hiện dự toán ngân sách Nhà nước năm 2007, qua đó nâng cao trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương đối với việc phân bổ, quản lý, sử dụng dự toán ngân sách Nhà nước của mình. Bộ Tài chính phối hợp cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý tài chính đối với các chương trình/dự án ODA; tập trung rà soát, sắp xếp lại các quỹ tài chính ngoài ngân sách hiện có, đảm bảo hoạt động có hiệu quả và đáp ứng các yêu cầu cam kết hội nhập.
Bốn là, đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao năng lực quản lý nhà nước; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tiêu cực, tham nhũng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của cộng đồng. Bộ Tài chính tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, các định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu ngân sách Nhà nước, thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và phòng, chống tham nhũng; thực hiện chế độ công khai tài chính đối với các cấp ngân sách Nhà nước, các đơn vị dự toán ngân sách.
b.Nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp
Đối với cộng đồng doanh nghiệp, bên cạnh việc sử dụng vốn tự có, vốn vay ngân hàng, cần xác định các phương thức thu hút vốn trong và ngoài nước một cách phù hợp. Cụ thể: các doanh nghiệp nên áp dụng hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu công ty; doanh nghiệp cổ phần có thể lựa chọn khả năng phát hành thêm cổ phiếu và niêm yết trên thị trường chứng khoán trong nước.
Đi với các doanh nghiệp lớn có nhu cầu vay vốn nước ngoài, cần chấp nhận kiểm toán quốc tế, thực hiện xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp để giúp phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường quốc tế; xác định Chiến lược kinh doanh 5 năm, 10 năm của doanh nghiệp; chủ động nâng cao tính minh bạch về tài chính, có định hướng kinh doanh rõ nét để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài (FII), từ các quỹ đầu tư...Tăng cường hiệu quả sử dụng vốn; đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả đầu tư là mục tiêu rất quan trọng, ảnh hưởng đến khả năng tái tạo vốn cho chính doanh nghiệp. c. Nguồn vốn từ khu vực dân cư và tư nhân
Do xuất phát từ đặc điểm, nguồn hình thành, hướng sử dụng, việc huy động vốn trong dân cũng thường xuyên có sự biến động do phụ thuộc vào môi trường kinh tế vĩ môvà chính sách vĩ mô; sự phát triển ổn định và uy tín của ngân hàng thương mại (các tiện ích, tính thống nhất, nghiệp vụ, sự phong phú);các hình thức huy động (hình thức huy động, kỳ hạn huy động …);thông tin (lôi cuốn người gửi tiền, giáo dục …) và các nhân tố khác (khuyến mại, maketting…). Chính vì các lý do trên để có thể huy động được nguồn vốn từ khu vực dân cư và tư nhân cần tập trung vào một số biện pháp sau:
Đối với các cơ quan quản lý của nhà nước, cần phải có các chính sách khuyến kích người dân đưa các khoản tiền nhàn rỗi vào tái đầu tư như: tiết kịêm, lãi suất, lạm phát và tỷ giá, thu hút vốn .Tạo môi trường chính trị, xã hội ổn định, an toàn, phát triển; nâng cao niềm tin của các tầng lớp dân cư vào các ngân hàng thương mại, thay đổi thói quen tiết kiệm, thói quen tiêu dùng.
Đối với các ngân hàng thương mại, để nâng cao sức cạnh tranh và thu hút nhiều hơn nguồn vốn trong dân cần:
Thứ nhất, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cụ thể : đa dạng hoá đối tượng gửi tiền (mở rộng đến tầng lớp đan cư), mở rộng hình thức huy động vốn(áp dụng các phương pháp huy động mới như lãi suất bậc thang, tiết kiệm an sinh , tiết kiệm bao hiểm , tiết kiệm đảm bảo bằng vàng và ngoại tệ ). Phát triển các dịch vụ trọn gói như: thu ,chi tại nhà, dịch vụ qua Internet…
Thứ hai, thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt, cần nâng cao lãi suất đối với các loại tiền gửi; từng bước giảm lãi suất với tiền gửi giao dịch, đồng thời tăng lãi suất với tiêng gửi trung và dài hạn.
Thứ ba, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, từng bước ứng dụng công nghệ hiện đại , nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên.
Thứ tư, thực hiện quảng cáo và tiếp thị để người dân hiểu được những lợi ích khi gửi tiền vvào ngân hàng. Tư vấn hỗ trợ người dân (đặc biệt ở vùng nông thôn ) làm các thủ tục liên quan đến tiền gửi, hướng dẫn sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi một cách hợp lý, đồng thời giúp người dân hiểu rõ về vai trò và những dịc vụ tiện ích của ngân hàng.
2. NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
a. Nguồn vốn ODA
Một là, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, thu hút và sử dụng vốn ODA; đồng thời xây dựng danh mục các chương trình, dự án quan trọng đầu tư bằng nguồn vốn ODA theo ngành và lĩnh vực (kể cả các lĩnh vực xã hội).
Hai là, các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư theo định hướng: phát triển nông nghiệp và nông thôn gắn với tiếp tục thực hiện xóa đói, giảm nghèo. ưu tiên sử dụng vốn ODA cho các chương trình, dự án hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, nước sạch, công trình thủy lợi, trường học, trạm y tế...), đặc biệt chú trọng đầu tư cho các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người...
Ba là, tiếp tục thực hiện các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội theo quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt nhằm tăng thêm năng lực các công trình giao thông vận tải (đường, cầu, cảng...) năng lượng điện, thủy lợi, thông tin liên lạc, các dự án phát triển giáo dục và đào tạo, y tế và các chương trình xã hội, bảo vệ môi trường...
Bốn là, các bộ, cơ quan, địa phương, đơn vị thực hiện các biện pháp thiết thực để đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA. Trong đó, cần thực hiện việc hài hòa về thủ tục với các nhà tài trợ theo nhóm hoặc song phương, từng bước giải quyết những vướng mắc về thủ tục chuẩn bị thực hiện dự án, trước hết là hài hòa kết cấu nội dung và hình thức các văn kiện dự án (báo cáo nghiên cứu khả thi), các quy trình và thủ tục đấu thầu, báo cáo triển khải các dự án ODA. Ban hành và tổ chức thực hiện, chính sách giải tỏa mặt bằng gắn với tái định cư, tạo điều kiện thực hiện việc giải ngân ODA nhanh, đúng quy định của các chương trình, dự án ODA đã cam kết.
Năm là, trong chỉ đạo thực hiện kế hoạch cần ưu tiên đảm bảo đủ vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA để thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết với các nhà tài trợ. Tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi cơ chế quản lý sử dụng vốn ODA, nhất là các vấn đề liên quan đến chính sách thuế, cho vay lại, định mức chi tiêu: tăng cường công tác đánh giá, thẩm định hiệu quả của các chương trình, dự án ODA.
Sáu là, các bộ, tỉnh và thành phố cần kiện toàn tổ chức quản lý và sử dụng ODA; nghiêm chỉnh thực hiện quy chế quản lý các dự án, quy chế hoạt động của Ban quản lý dự án và nâng cao năng lực của cán bộ tham gia công tác quản lý ODA ở các cấp trong việc chuẩn bị, tổ chức thực hiện. Trong đó, thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ và báo cáo kết thúc dự án, thực hiện kiểm toán các dự án ODA theo hướng tập trung vào một đầu mối để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý ODA được phân cấp theo các quy định hiện hành. Có biện pháp ngăn chặn những biểu hiện gây lãng phí, tham nhũng trong quá trình thực hiện dự án, tạo lòng tin cho các đối tác và cho những người được thụ hưởng lợi ích của dự án.
b. Nguồn vốn FDI
Một là, tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư cao hơn và có chất lượng hơn. Một môi trường đầu tư hấp dẫn khi chúng ta xây dựng được một hệ thống chính sách pháp luật rõ ràng, cụ thể. Các văn bản pháp luật phải minh bạch, có hệ thống, không trùng chéo, không tuỳ tiện thay đổi, nhất là đối với các luật thuế cũng như đối với các lĩnh vực không khuyến khích và cấm đầu tư; đơn giản hoá hệ thống thuế; xây dựng hệ thống pháp luật liên quan đến chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ… Cải cách triệt để thủ tục hành chính trên cơ sở xây dựng và hình thành hệ thống thủ tục hành chính phù hợp, đồng thời thường xuyên giám sát, kiểm tra để kịp thời chấn chỉnh và hạn chế những tiêu cực xảy ra trong đầu tư. Giảm thủ tục, phiền hà, sách nhiễu khi cấp phép đầu tư. Giảm các cấp quản lý đầu tư tiến tới 1 cửa, một con dấu trong đầu tư, giảm tính phân biệt giữa các thành phần kinh tế. Xác định hoạt động đầu tư là hoạt động kinh tế của doanh nghiệp; cơ quan nhà nước làm công tác quản lý thuần tuý, không can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư và quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Theo đó, các cơ quan quản lý trước hết có nhiệm vụ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành thực hiện hoạt động đầu tư. Khuyến khích các địa phương cạnh tranh thu hút FDI; xoá bỏ chế độ mua bán ngoại tệ bắt buộc, hoàn thiện các chế định trọng tài, tăng cường tham khảo ý kiến nhà đầu tư trong xây dựng pháp luật. Việt Nam cần phải tăng cường phân cấp và uỷ quyền quản lý đầu tư cho các cơ sở, địa phương, trong đó cho phép các địa phương được quyền cấp phép đầu tư cho các dự án có lượng vốn đầu tư lớn, có nhiều lợi ích và hiệu quả đối với quốc kế, dân sinh.
Hai là, thiết lập lại danh mục dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài rõ ràng, cụ thể, thiết thực, hiệu quả với nhiều ngành nghề đầu tư theo hướng có lợi hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Danh mục dự án quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001 – 2005 đã được ban hành, nhưng những dự án trọng điểm nhất vẫn chưa thu hút và hấp dẫn được các nhà đầu tư. Vì vậy, cần rà soát lại danh mục dự án này để điều chỉnh và bổ sung những dự án có quy mô lớn cần kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài với những tiêu chí cụ thể, rõ ràng thực sự có lợi cho cả nhà đầu tư cũng như cho đất nước. Đồng thời, các bộ, ngành và các địa phương có liên quan cần hoàn chỉnh nghiên cứu tiền khả thi với các thông số kinh tế – kỹ thuật cần thiết để tạo điều kiện cho việc tuyên truyền vận động đầu tư trong giai đoạn sắp tới. Với danh mục dự án đầu tư cũng cần thể hiện tất cả các thông số hấp dẫn các nhà đầu tư, quy định phân vùng đầu tư theo các chỉ tiêu lượng vốn, lĩnh vực ngành nghề ưu tiên, chế độ khuyến khích ưu đãi. Đồng thời, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một số lĩnh vực hẫp dẫn có lợi nhuận cao mà Nhà nước vẫn độc quyền, tiến tới xoá bỏ độc quyền đầu tư trong một số lĩnh vực này. Danh mục này cũng cần được xây dựng trên cơ sở phát huy các lợi thế của Việt Nam, có tính tập trung cao, tránh sự đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, hướng đích. Việt Nam cần có các định hướng rõ ràng các ngành cần đầu tư như những lĩnh vực công, nông hay thương nghiệp nào cần thu hút đầu tư nước ngoài thì tập trung thực hiện ưu đãi. Căn cứ trên việc xếp hạng của các tổ chức quốc tế về năng lực cạnh tranh trong đầu tư của từng nước (hoặc tập đoàn kinh tế), cũng như sự đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài đối với nước ta để sửa đổi, bổ sung những nhân tố có liên quan, sao cho hấp dẫn được cả những nhà đầu tư ở những nước khó tính nhất. Giảm thiểu các chi phí đang được xem là cao hơn các quốc gia cùng khu vực như điện, vận tải, cước phí viễn thông…nhằm tạo động lực thu hút mới đối với các nhà đầu tư.
Ba là, Thành lập câu lạc bộ FDI Việt Nam nhằm tổ chức các hoạt động như tư vấn, hướng dẫn hình thức và thủ tục đầu tư; xúc tiến thu hút FDI từ các nước; mở chiến dịch mới về vận động, xúc tiến đầu tư tại các quốc gia trọng điểm truyền thống như Nhật Bản, Singapore, EU, Đài Loan, Hàn Quốc… thiết lập các giải pháp về nâng cao khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh của nước ta. Coi trọng và đánh giá đúng vị trí của các thị trường và đối tác truyền thống, chủ yếu là các nước châu á vốn có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hoá với Việt Nam. Đồng thời, cần mở rộng việc thu hút FDI từ các nước đối tác mới như Hoa Kỳ, Nam Mỹ… Coi trọng việc đề ra các giải pháp để ngày càng có nhiều công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia hàng đầu thế giới đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt là trong những lĩnh vực công nghệ cao, viễn thông, xây dựng các công trình ngầm, các công trình treo. Đồng thời khuyến khích và hỗ trợ cho người Việt Nam ở nước ngoài kêu gọi, xúc tiến các nhà đầu tư nước ngoài hoặc trực tiếp đầu tư về Việt Nam.
Bốn là, Thiết lập các chính sách, chủ trương cụ thể nhằm chủ động xử lý, đối phó và giải quyết những vướng mắc của nhà đầu tư, tăng lòng tin của các nhà đầu tư.
FDI đã được xác định là nguồn vốn quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Trong hơn 17 năm qua, kể từ khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước, FDI đã có những đóng góp cơ bản quan trọng. Đến nay, nền kinh tế đã từng bước ổn định, Việt Nam đang chuẩn bị chuyển sang giai đoạn phát triển tăng tốc, FDI lại càng đóng vai trò quan trọng hơn. Để có thể thu hút nhiều hơn lượng vốn này, chúng ta cần phải có cái nhìn đúng đắn hơn và xác định đúng vai trò cũng như tầm quan trọng của FDI đối với sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Có như vậy mới tạo thêm sức hút vốn FDI để thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước./.
c. Nguồn vốn FII
Một là, cần sớm ban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật đầu tư và Luật chứng khoán trên tinh thần tiến đến mục tiêu tự do hoá nguồn vốn đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
Hai là, thực hiện minh bạch hoá, khai thông kênh thông tin đối với giới đầu tư. Khuyến khích các công ty định mức tín nhiệm có uy tín như Standard & Poor’s, Moody thành lập chi nhánh tại Việt Nam.
Ba là, khuyến khích các tổ chức tài chính nước ngoài mua cổ phần ngân hàng, công ty chứng khoán trong nước. Đây chính là một trong các biện pháp giúp tăng năng lực của các công ty chứng khoán Việt Nam, tiến tới phục vụ tốt cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Bốn là, tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp Việt Nam, bãi bỏ giới hạn này đối với các ngành nghề không trọng yếu và nâng giới hạn nắm giữ cổ phiếu đối với cổ phiếu ngân hàng lên 49%, cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài đặt chi nhánh tại Việt Nam."
Năm là, đẩy mạnh cải cách hành chính, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK), tăng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài ở cả công ty niêm yết lẫn công ty chưa niêm yết. Đặc biệt là việc ban hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán, với nhiều quy định thông thoáng hơn, bình đẳng hơn giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Những chính sách này, đã làm cho môi trường đầu tư ở Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn trong con mắt của nhà đầu tư nước ngoài
d. Nguồn kiều hối
Một là, chính sách quản lý kiều hối của Nhà nước phải thay đổi một cách rõ ràng theo hướng tự do hoá với một loạt cơ chế mới về quản lý ngoại hối thông thoáng, linh hoạt được ban hành. Đặc biệt là Nhà nước cho phép người hưởng thụ kiều hối được nhận ngoại tệ tiền mặt, hoặc ký gửi ngoại tệ vào tài khoản tiết kiệm ngoại tệ tại ngân hàng, được rút ra cả tiền gốc và tiền lãi bằng ngoại tệ; được phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để chi tiêu khi được phép xuất cảnh, hoặc bán ngoại tệ cho ngân hàng lấy tiền Việt Nam theo tỷ giá do ngân hàng công bố sát giá thị trường.
Hai là, chính phủ chủ trương bãi bỏ nhiều qui định về thuế cũng như ngoại tệ đối với người nhận và người gửi. Theo đó, người nhận không phải chịu thuế thu nhập cá nhân hoặc bắt buộc phải bán ngoại tệ cho ngân hàng như trước đây
Ba là, chúng ta cần thành lập một quỹ đầu tư an toàn để những người VN sống ở nước ngoài gửi tiền về tập trung.
Bốn là, chính sách về đất đai, nhà cửa, visa... đối với Việt kiều phải tiếp tục cởi mở, tạo dòng chảy thuận lợi cho kênh kiều hối tăng lên và chuyển một phần lượng ngoại tệ gần 4 tỉ USD của kiều bào gửi về mỗi năm thành vốn đầu tư hiệu quả.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24697.doc