Đề tài Vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước ở Việt Nam

I. Văn kiện - Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII (Nxb chính trị quốc gia 1996). - Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (Nxb chính trị quốc gia 2001). II.Sách 1. Lý thuyết kiểm toán (Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội khoa kế toán – Nhà xuất bản tài chính 1/2003). 2. Kiểm toán (Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh khoa kế toán – kiểm toán, bộ môn kiểm toán – Nhà xuất bản thống kê 2001). 3. Cẩm nang kiểm toán viên nhà nước (Kiểm toán nhà nước - Nxb chính trị quốc gia 8-2000). III. Tạp chí. 1. Tạp chí kiểm toán - Mối quan hệ giữa Quốc hội và cơ quan kiểm toán nhà nước (Lý Tài Luận – số 1/1998). - Vai trò của kiểm toán đối với hoạt động của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường (Vũ Xuân Hợp – số 1/1998). - Kiểm toán nhà nước là công cụ sắc bén giúp Quốc hội thực hiện chức năng kiểm soát và giám sát ngân sách Nhà nước (Mai Thúc Lân phó chủ tịch Quốc hội – số 2/1998). - Những căn cứ để xây dựng quy trình kiểm toán doanh nghiệp nhà nước (– số 3/1998). - Vai trò của kiểm toán nhà nước đối với việc kiểm tra, kiểm soát hệ thống hành chính nhà nước (Thạc sỹ Phạm Bình – số 1/1999). - Mất ý kiến về vai trò của cơ quan kiểm toán nhà nước trong quản lý tài chính vĩ mô (Pts.Trần Lê - số 1/1999). - Cơ quan kiểm toán nhà nước có vai trò quan trọng đối với quá trình quản lý, điều hành ngân sách Nhà nước và công quỹ quốc gia – số 4/200). - Trao đổi về vai trò và vị trí của kiểm toán nhà nước (Thạc sỹ.Trịnh Văn Cảnh – số 5/2000).

doc27 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ít những khó khăn và bất cập cần sớm có phương hướng giải quyết. Xuất phát từ tính cấp thiết vấn đề trên nên em đã chọn đề tài: “Vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước ở Việt Nam”. Trong quá trình thực hiện đề tài này, em đã được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo GS.TS Nguyễn Quang Quynh. Em xin chân thành cảm ơn thầy Nội dung I. Cơ sở lý luận. 1. Bản chất và sự cần thiết của kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn của Nhà nước thực hiện các chức năng kiểm toán tài sản công do các kiểm toán viên là công chức của Nhà nước tiến hành. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của kiểm toán nhà nước hết sức quan trọng trong việc kiểm soát việc sử dụng nguồn lực tài chính công, giúp Quốc hội điều hành, quản lý nền kinh tế có hiệu quả, bởi vì: Thứ nhất, kiểm toán nhà nước là một trong những nhân tố góp phần đảm bảo, duy trì tính kinh tế, tính hiệu quả trong hoạt động kinh tế. Thông qua hoạt động của mình, kiểm toán nhà nước chỉ rõ việc sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng doanh nghiệp và các yếu tố cản trở tính hiệu quả các hoạt động trong nền kinh tế. Mặt khác, kiểm toán nhà nước còn cung cấp cơ sở dữ liệu quan trọng tin cậy để thực hiện việc phân bổ và điều hành ngân sách Nhà nước một cách có hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn của từng ngành, từng lĩnh vực, từng khu vực, loại trừ những khoản chi phí bất hợp lý, lãng phí gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước. Thứ hai, kiểm toán nhà nước thực hiện việc kiểm tra tính hợp pháp, tính hợp lệ trong các hoạt động kinh tế – tài chính, làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế – tài chính trong nền kinh tế. Căn cứ vào các văn bản pháp luật mà Quốc hội và các cơ quan nhà nước có thẩm quỳên ban hành, kiểm toán xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tàị liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán hàng năm. Mọi sai phạm về các qui định về quản lý kinh tế – tài chính được xác lập và duy trì. Thứ ba, cơ quan kiểm toán đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện cơ chế chính sách tài chính, lập và giao kế hoạch ngân sách Nhà nước, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch ngân sách Nhà nước, đồng thời xử lý vi phạm trong thu- chi, điều hành và quyết toán ngân sách Nhà nước, các vi phạm về hạch toán tài sản, vốn, lãi, và phân phối tài chính trong sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, hoạt động của Kiểm toán còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa các sai phạm trong quản lý tài chính, cung cấp thông tin cho công luận về hoạt động kinh tế – xã hội, thực hiện quyền giám sát và thu hút vốn đầu tư của toàn xã hội. 2.Vai trò và nhiệm vụ đối với cơ quan Kiểm toán Nhà nước ở mỗi quốc gia. 2.1 Vai trò Dù hình thức và nhiệm vụ có khác nhau ở mỗi quốc gia, nhưng vai trò của kiểm toán nhà nước đã được thống nhất tại hội nghị lần thứ IX của INTOSAI tại Lima và được trình bày trong lời nói đầu trong tuyên bố Lima về các chỉ dẫn kiểm toán như sau: “- Trong bối cảnh việc sử dụng thống nhất và hiệu quả các khoản công quỹ là một trong những đòi hỏi thiết yếu đầu tiên cho việc sử dụng hợp lý các nguồn tài chính công và hiệu năng các quyết định của cơ quan có thẩm quyền; - Trong bối cảnh để đạt được mục tiêu này, không thể phủ nhận được rằng mỗi quốc gia cần phải có một Cơ quan Kiểm toán Tối cao được pháp luật đảm bảo tính độc lập; - Trong bối cảnh các Cơ quan Kiểm toán Tối cao đang ngày càng trở nên cần thiết hơn khi Nhà nước đã và đang mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực kinh tế xã hội và vì vậy phải hoạt động tuân theo những qui định của công cụ tài chính vốn có; - Trong bối cảnh các mục tiêu của kiểm toán – cụ thể là việc sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn công quỹ; tăng cường sự lành mạnh trong quản lý tài chính; điều hành tuần tự các hoạt động hành chính; và thông tin liên lạc với các cơ quan đại chúng và công chúng thông qua các báo cáo khách quan... đang rất cần thiết cho sự ổn định và phát triển của Nhà nước trong việc theo đuổi các mục tiêu của Liên Hiệp Quốc...” 2.2 Nhiệm vụ Nhiệm vụ gắn liền với cơ quan kiểm toán tối cao là kiểm toán tính hợp pháp và hợp của công tác quản lý tài chính và kế toán. Ngoài loại hình kiểm toán nêu trên còn có loại hình kiểm toán tập trung vào hoạt động, hiệu quả và hiệu năng của hành chính công. Loại hình kiểm toán này không chỉ kiểm toán các khía cạnh cụ thể của công tác quản lý mà cả các hoạt động quản lý bao trùm, gồm cả khâu tổ chức và hệ thống hành chính. Cơ quan kiểm toán Việt Nam. 3.1 Sự hình thành cơ quan Kiểm toán Nhà nước Việt Nam. Trước tình hình mới, để góp phần quản lý tốt nền kinh tế quốc dân, cơ quan Kiểm toán Việt Nam ra đời theo nghị định ngày 11/7/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Kiểm toán nhà nước thành lập để giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp. 3.2 Vai trò và nhiệm vụ chủ yếu của kiểm toán Nhà nước Việt Nam. + Xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm toán hàng năm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch đó. Định kỳ báo cáo thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm toán lên Thủ tướng Chính phủ. + Cung cấp kết quả kiểm toán cho Chính phủ và cho cơ quan nhà nước khác theo qui định của Chính phủ. + Xác nhận, đánh giá và nhận xét các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán đã được kiểm toán và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung đã đánh giá, nhận xét, xác nhận. + Thông qua hoạt động kiểm toán góp ý kiến với đơn vị được kiểm sửa chữa những sai sót, vi phạm để chấn chỉnh những công tác quản lý tài chính, kế toán của đơn vị; kiến nghị với cấp có thẩm quyền sử lý những vi phạm chế độ kế toán, tài chính của Nhà nước; đề xuất với Thủ tướng Chính phủ việc sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính, kế toán cần thiết. + Khi thực hiện nhiệm vụ, kiểm toán nhà nước chỉ tuân theo pháp luật và phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ đã được Nhà nước quy định; được yêu cầu đơn vị được kiểm toán và các đơn vị khác có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết để thực hiện nhiệm vụ kế toán. Trong trường hợp đoàn kiểm toán viên hoặc kiểm toán viên có ý kiến khác nhau thì kiểm toán nhà nước xem xét và có ý kiến kết luận cuối cùng. + Quản lý các hồ sơ, tài liệu đã được kiểm toán theo qui định của Nhà nước; giữ bí mật tài liệu, số liệu kế toán và hoạt động của đơn vị được kiểm toán. + Quản lý tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ sở vật chất của hệ thống tổ chức kiểm toán nhà nước theo qui định của Chính phủ. II. Vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước Việt Nam đối những đối tượng cụ thể. Kiểm toán Nhà nước ngay từ khi mới thành lập đã chứng tỏ được vai trò và nhiệm vụ quan trọng của mình trong rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Nhưng vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước Việt Nam được thể hiện rõ nét nhất qua các đối tượng kiểm toán sau: 1.Vai trò của kiểm toán nhà nước trong việc giám sát ngân sách Nhà nước 1.1 Tầm quan trọng của việc quản lý ngân sách Nhà nước Như đã biết, trong hệ thống tài chính của một nước, ngân sách Nhà nước là cao hiệu quả kinh tế, xã hội của nguồn lực ngân sách Nhà nư khâu tài chính quan trọng nhất. Vì chỉ có nó mới đảm bảo nguồn tài chính cho tất cả các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước là đối tượng kiểm toán chủ yếu và thường xuyên của cơ quan kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước nhằm góp phần làm lành mạnh hoá tình hình ngân sách Nhà nước, tạo môi trường tài chính ổn định có lợi cho phát triển kinh tế và đời sống nhân dân. Những kết quả kiểm toán trung thực, chính xác, khách quan của cơ quan Kiểm toán Nhà nước báo cáo lên Chính phủ và Quốc hội không chỉ cho phép đánh giá tình hình tài chính, ngân sách đúng mà còn cung cấp những thông tin làm căn cứ cho việc hoạch định chính sách, các giải pháp quản lý ngân sách, khắc phục những yếu kém trong quản lý thu – chi ngân sách Nhà nước và nâng ớc. 1.2 Vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong việc hỗ trợ Quốc hội tăng cường năng lực giám sát ngân sách Nhà nước. Như chúng ta đã biết, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thực hiện chức năng lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Trong lĩnh vực ngân sách Nhà nước, Quốc hội thực hiện quyền quyết định dự toán ngân sách Nhà nước, phân bổ ngân sách Trung ương và phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách Nhà nước. Đồng thời, Quốc hội thực hiện giám sát việc chấp hành dự toán ngân sách Nhà nước, thực thi các chế độ tiêu chuẩn định mức chi ngân sách và các chính sách tài chính vĩ mô phục vụ phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Để thực hiện đúng chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của mình, bên cạnh việc đổi mới cơ cấu tổ chức, tăng cường năng lực đại biểu Quốc hội, cần phải có các công cụ hỗ trợ hoạt động lập pháp cũng như giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Một trong những công cụ hữu hiệu để Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình là kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước, với tư cách là cơ quan chuyên môn do Quốc hội thành lập sẽ có vai trò to lớn giúp Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội trên một số nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán và cung cấp thông tin cho Quốc hội, Hội đồng Nhân dân để xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước. Đây là công việc kiểm toán sau (hậu kiểm) – một chức năng mang tính truyền thống của cơ quan kiểm toán nhà nước. Tất cả các cơ quan kiểm toán nhà nước trên thế giới đều thực hiện chức năng này và đây là nhiệm vụ không thể thiếu trong việc trợ giúp Quốc hội, Hội đồng Nhân dân phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước hàng năm. Vấn đề này đã được trong tuyên bố Lima của Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao – INTOSAI rằng: “ ... Kiểm toán sau là một nhiệm vụ không thể thiếu được của Kiểm toán Nhà nước, không lệ thuộc vào việc nó có được kiểm toán trước (tiền kiểm) hay không”. Kiểm tra sau của kiểm toán nhà nước không chỉ dừng lại ở việc xem xét độ tin cậy của các thông tin, các chỉ tiêu trong các báo cáo quyết toán ngân sách, tính tuân thủ trong quản lý điều hành ngân sách Nhà nước mà còn xem xét các khía cạnh về tính hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả của công tác quản lý và điều hành của Chính phủ; xem xét tính hiệu lực và hiệu quả trong các khoản chi của ngân sách Nhà nước. Tuyên bố Lima nêu rõ: “Kiểm toán sau do cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện chỉ rõ trách nhiệm của cơ quan có nghĩa vụ báo cáo, có thể dẫn tới bồi hoàn thiệt hại đã xảy ra và là việc làm thích hợp để ngăn chặn những tái phạm sau này”. Một số nước còn quy định báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước trình Quốc hội, Hội đồng Nhân dân có ý kiến xác nhận của Tổng Kiểm toán Nhà nước rằng báo cáo đã được kiểm toán và đảm bảo tính trung thực; kèm theo báo cáo quyết toán trình Quốc hội, Hội đồng Nhân dân là báo cáo của Kiểm toán Nhà nước về công tác quản lý, điều hành ngân sách Nhà nước. Đây là một trong các nguồn thông tin và căn cứ để Quốc hội, Hội đồng Nhân dân thảo luận và phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước, giải toả trách nhịêm cho Chính phủ, Uỷ ban Nhân dân về năm ngân sách đã qua. Thứ hai, kiểm toán nhà nước góp phần quan trọng trong việc lập, quyết định dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm. Chúng ta có thể thấy rằng, tài liệu về dự toán ngân sách Nhà nước không chỉ chứa đựng những vấn đề chính trị, kinh tế chủ yếu của một quốc gia mà còn là những tài liệu mang tính nghiệp vụ cao đòi hỏi phải được kiểm tra, xem xét kĩ lưỡng trước khi quyết định. Nguồn lực ngân sách Nhà nước đòi hỏi phải được phân bổ để đáp ứng những mục tiêu đã đề ra, hạn chế tình trạng lạm dụng trong việc phân bổ ngân sách. Vì vậy cần phải có một cơ quan độc lập, có kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn cần thiết đánh giá toàn bộ diễn biến của quá trình lập dự toán. Cơ quan kiểm toán nhà nước có thể chỉ ra những sai lệch của dự toán ngân sách Nhà nước so với các nguyên tắc của tính tuân thủ, tính hợp lý, khả thi và tiết kiệm. Đây là hình thức tiền kiểm của kiểm toán nhà nước, đảm bảo các nguồn lực được động viên và phân bổ vào những mục tiêu mà quốc gia theo đuổi cũng như tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả của các khoản chi ngân sách Nhà nước; tránh được những sai phạm ngay từ khi lập và phân bổ dự toán ... Hình thức kiểm toán trước của kiểm toán nhà nước cũng đã được khẳng định trong tuyên bố Lima: “Kiểm toán trước một cách có hiệu quả là điều không thể thiếu được đối với một nền kinh tế công cộng lành mạnh với tư cách là một nền kinh tế thác quản – phân cấp và uỷ quyền”. Kinh nghiệm cho thấy, nhiều nước trên thế giới đều sử dụng cơ quan kiểm toán nhà nước trong việc kiểm toán dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm trước khi trình Quốc hội quyết định. Việc tham gia của cơ quan kiểm toán nhà nước trong việc lập dự toán ở mỗi nước có hình thức và mức độ khác nhau nhưng nhìn chung đều là đưa ra ý kiến phản biện về dự toán ngân sách Nhà nước do Chính phủ trình làm cơ sở cho Quốc hội thảo luận và quyết định. Thứ ba, Kiểm toán Nhà nước trợ giúp Chính phủ, Quốc hội trong việc xem xét quyết định các phương án đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm của quốc gia. Việc đầu tư xây dựng các chương trình trọng điểm quốc gia không chỉ tiêu tốn một lượng lớn tiền mà còn liên quan đến chiến lược phát triển quốc gia. Điều đó đòi hỏi không chỉ được xem xét về mặt kĩ thuật mà còn phải xem xét các khía cạnh về kinh tế, xã hội... Trong điều kiện đó nếu không có một cơ quan độc lập với cơ quan soạn thảo, có đủ năng lực về chuyên môn, tuân theo các chuẩn mực nghề nghiệp xem xét, đánh giá trước khi Chính phủ, Quốc hội, Hội đồng Nhân dân thảo luận và quyết định có thể sẽ gây ra những rủi ro cho các quyết định đầu tư. Kinh nghiệm của nhiều nước, nhất là những nước có lịch sử phát triển kiểm toán nhà nước lâu đời đều giao cho cơ quan kiểm toán nhà nước thực hiện nhiệm vụ này. Thứ tư, kiểm toán nhà nước tham gia với Quốc hội trong việc quyết định những chính sách về tài chính, ngân sách. Đây chính là hoạt động tư vấn của cơ quan kiểm toán nhà nước để phát hiện kịp thời những hạn chế, bất cập trong bản thân các văn bản pháp luật, nhất là trong trường hợp luật pháp đã lạc hậu, xa rời thực tiễn. Trên cơ sở đó, kiểm toán nhà nước kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương hoàn thiện hệ thống pháp luật, các chính sách và chế độ quản lý. Các ý kiến tham gia của kiểm toán nhà nước sẽ tạo nên luồng thông tin đa chiều, làm cơ sở cho việc thảo luận và quyết định. Thứ năm, kiểm toán nhà nước cung cấp các thông tin dữ liệu cho các cơ quan quản lý phục vụ tốt hơn công tác quản lý ngân sách Nhà nước. Thông qua kết quả kiểm toán, ngoài việc cung cấp thông tin cho Quốc hội, Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước còn cung cấp cho các cơ quan quản lý những yếu kém bất cập trong quản lý ngân sách Nhà nước; những đơn vị vi phạm chính sách, chế độ quản lý ngân sách Nhà nước. Trên cơ sở đó, các cơ quan quản lý đề ra các biện pháp quản lý thích hợp nhằm quản lý ngân sách Nhà nước tốt hơn. Đối với những trường hợp vi phạm chính sách, chế độ quản lý ngân sách Nhà nước mà kiểm toán nhà nước đã phát hiện, các cơ quan quản lý có biện pháp thu hồi cho ngân sách Nhà nước như thu hồi các khoản thuế gian lận, thu hồi các khoản chi sai chế độ, ...duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý ngân sách Nhà nước. Việc cung cấp thông tin cho Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng Nhân dân và các cơ quan Nhà nước khác cũng như các hoạt động tư vấn thông qua nghĩa vụ báo cáo của cơ quan kiểm toán nhà nước. Dù cơ quan kiểm toán nhà nước trực thuộc Quốc hội, Chính phủ về các vấn đề liên quan đến công tác quản lý ngân sách và tài sản công. Các báo cáo của kiểm toán nhà nước có thể dưới dạng báo cáo thường niên hoặc báo cáo đặc biệt theo sáng kiến của cơ quan kiểm toán nhà nước, cũng có thể là báo cáo theo yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Nhân dân. Luật ngân sách Nhà nước sửa đổi đã quy định nghĩa vụ báo cáo của cơ quan kiểm toán nhà nước trước Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ, đây là điều kiện quan trọng để hoàn thiện và phát triển hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam nhằm quản lý ngân sách Nhà nước một cách hiệu quả, tiết kiệm hơn. 2. Vai trò của kiểm toán nhà nước đối với việc kiểm tra, kiểm soát hệ thống hành chính Nhà nước. Vai trò của việc kiểm tra, kiểm soát hệ thống hành chính Nhà nước. Nền hành chính nói chung và bộ máy hành chính nói riêng là bộ phận trọng yếu trong hệ thống chính trị; trong cơ cấu quyền lực Nhà nước của nhân dân, quyền lực Nhà nước thống nhất không phân chia, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra, kiểm soát đối với hành chính Nhà nước do nhiều cơ quan, tổ chức tham gia, với mục đích, nội dung, phương thức khác nhau: Kiểm tra, kiểm soát đối với hành chính Nhà nước là một nội dung, một khâu có tầm quan trọng hàng đầu trong lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; đặc biệt trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII đã chỉ rõ: “Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan trọng và hữu hiệu để đảm bảo hiệu lực quản lý Nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội”. Đó cũng là một nội dung của nhiệm vụ tiếp tục cải cách nền hành chính Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Kiểm tra của Đảng đối với hành chính Nhà nước thực hiện thông qua một hệ thống cơ quan và tổ chức Đảng từ TW đến cơ sở, trong đó có cả tổ chức Đảng trong bộ máy hành chính Nhà nước. Mỗi cơ quan và tổ chức thực hiện chức năng kiểm tra với phạm vi và phương thức khác nhau, nhưng về cơ bản có nội dung thống nhất. Kiểm tra của Đảng đối với hành chính Nhà nước là kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết của Đảng, từ việc thể chế hoá Nghị quyết đến việc tổ chức thực hiện; Kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của tổ chức Đảng, đảng viên trong cơ quan hành chính; kiểm tra công tác cán bộ của Đảng trong các cơ quan hành chính; năng lực, phẩm chất của Đảng viên... căn cứ làm cơ sở để đánh giá trong kiểm tra của Đảng chủ yếu là các Nghị quyết và văn bản của Đảng. Hầu hết các chủ trương, chính sách và Nghị quyết của Đảng được thể chế hoá thành pháp luật và các quyết định quản lý Nhà nước. Trong kiểm tra của Đảng khi đánh giá cụ thể phải căn cứ một phần vào pháp luật Nhà nước. Pháp luật của Nhà nước là sự thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách và các Nghị quyết của Đảng. Việc đánh giá trong kiểm tra của Đảng một phần dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước, đòi hỏi cán bộ kiểm tra của Đảng không chỉ nắm vững đường lối chủ, trương, chính sách các nghị quyết của Đảng mà còn phải có kiến thức về quản lý Nhà nước và pháp luật; phải phối hợp giữa kiểm tra của Đảng với hoạt động kiểm tra, thanh tra kiểm toán của Nhà nước. Kiểm tra của Đảng đối với hành chính nhà nước do nhiều cơ quan tổ chức thực hiện. Vấn đề nổi lên hiện nay là cần cụ thể hoá vị trí, vai trò, trách nhiệm của cơ quan và tổ chức Đảng trong cơ quan hành chính Nhà nước, đặc biệt là tổ chức Đảng cơ sở. Nội dung lãnh đạo và kiểm tra của tổ chức Đảng trong một cơ quan hành chính cụ thể là gì? để làm tròn được vai trò lãnh đạo kiểm tra thì đảng viên, tổ chức Đảng cơ sở được biết đến đâu, được bàn đến đâu trong toàn bộ công việc và hoạt động của cơ quan hành chính? Mối quan hệ và phối hợp trong kiểm tra và lãnh đạo công tác kiểm tra giữa tổ chức Đảng của cơ quan hành chính cấp trên với tổ chức Đảng của cơ quan hành chính cấp dưới như thế nào? Trách nhiệm của tổ chức Đảng và Đảng viên đến đâu khi kiểm tra phát hiện những sai sót trong quản lý Nhà nước ở chính cơ quan mình... Để tăng cường sự lãnh đạo của các cơ quan và tổ chức Đảng trong hệ thống hành chính; cần cụ thể hoá bằng pháp luật mối qụan hệ giữa tổ chức Đảng với cơ quan hành chính và thủ trưởng cơ quan hành chính. Sự kiểm tra giám sát của nhân dân đối với hành chính Nhà nước, do nhiều tổ chức và cá nhân tham gia, với nội dung, phạm vi và phương thức khác nhau. Trong đó có cả những tổ chức và cá nhân bên ngoài hệ thống hành chính Nhà nước, và có cả những tổ chức và cá nhân nằm trong hệ thống hành chính Nhà nước. Những tổ chức, cá nhân nằm ngoài hệ thống hành chính Nhà nước, ở một khía cạnh nhất định là đối tượng của quản lý hành chính Nhà nước. Hoạt động kiểm tra, giám sát của nhân dân trong hệ thống này dựa trên cơ sở pháp luật để thực hiện và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, góp phần tham gia xây dựng và quản lý Nhà nước. Trên thực tế, cơ chế kiểm tra, giám sát chưa được qui định cụ thể, rõ ràng để có khả năng thực hiện có hiệu quả và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Những qui định về thẩm quyền và trình tự giải quyết kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo của nhân dân còn nhiều điều bất hợp lý làm cho nhiều vụ việc giải quyết kéo dài, lòng vòng. Mặt khác, bộ máy hành chính quá cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều nấc quá xa dân, chưa tạo thuận lợi để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thậm chí, có lúc thông tin về đời sống thực tế của nhân dân, về những ý kiến của nhân dân bị cơ quan Nhà nước cấp dưới bưng bít hoặc sửa đổi... Trong hệ thống hành chính Nhà nước, thành viên của các tổ chức xã hội (như công đoàn, đoàn thanh niên, phụ nữ) vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quản lý hành chính Nhà nước. Nhu cầu, lợi ích của những thành viên đó gắn liền với hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước, mà hoạt động của các cơ quan hành chính lại tuân theo chế độ thủ trưởng, thứ bậc, mệnh lệnh đơn phương. Do đó, hoạt động kiểm tra, giám sát của các tổ chức xã hội đối với hành chính Nhà nước là góp phần thực hiện phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, góp phần làm trong sạch bộ máy hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, thiết lập kỉ cương xã hội. 2.2 Phối hợp kiểm tra của Đảng với kiểm toán Nhà nước trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Với tính chất là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước, sự ra đời của cơ quan kiểm toán nhà nước sẽ đáp ứng yêu cầu cơ bản trong việc giải quyết các vấn đề bất ổn trong việc kiểm tra, kiểm soát hệ thống hành chính Nhà nước đã nêu ở trên. Bởi vì sự ra đời của cơ quan này một mặt tạo ra sự hoàn chỉnh đồng bộ trong hoạt động kiểm tra, đặc biệt là trong kiểm tra tài chính; mặt khác, do tính độc lập của kiểm tra từ bên ngoài đối với hệ thống hành chính sẽ làm tăng được khả năng ngăn chặn và loại trừ các tiêu cực trong bộ máy hành chính Nhà nước hiện nay. Kiểm toán Nhà nước là một công cụ quan trọng thực hiện kiểm tra một cách thường xuyên, liên tục việc chấp hành luật báo cáo chế độ chính sách trong quá trình quản lý và chấp hành thu – chi ngân sách Nhà nước. Qua kết quả kiểm toán, kiểm toán nhà nước đưa ra các ý kiến đánh giá, nhận xét giúp đỡ đơn vị sử dụng kinh phí đúng mục đích nhằm tiết kiệm các nguồn lực tài chính góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước và các chương trình, dự án cải cách hành chính Nhà nước. Đồng thời hoạt động của Kiểm toán Nhà nước đang góp phần vào mặt trận đấu tranh chống lãng phí, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, tham nhũng, góp phần làm trong sạch bộ máy hành chính Nhà nước. Tham gia ý kiến với Quốc hội vào việc xây dựng và phân bổ dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm, giúp Quốc hội quyết định và phân bổ dự toán thu – chi ngân sách Nhà nước phù hợp với tình hình thực tế. Tuy kiểm toán nhà nước chưa kiểm toán dự toán ngân sách Nhà nước, nhưng đây là tiền đề để kiểm toán nhà nước tiến hành tham gia kiểm toán dự toán ngân sách Nhà nước khi được Nhà nước giao nhiệm vụ này. Thông qua kết quả kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ, kiểm toán nhà nước đã tiến hành cắt giảm các khoản chi tiêu không đúng nội dung, vượt định mức của các cơ quan hành chính công, thu hồi các khoản chi không đúng chế độ quy định nộp ngân sách Nhà nước, đồng thời kiến nghị với các đơn vị được kiểm toán khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước nhằm phát huy hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà nước, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước. Thông qua kết quả kiểm toán việc tuân thủ, các định mức biên chế, các chế độ thanh toán, chi trả tiền lương của các đơn vị hành chính sự nghiệp Nhà nước, kiểm toán nhà nước đã xuất toán các khoản chi trả tiền lương không đúng chế độ theo hợp đồng ngoài biên chế, chi thưởng, chi trả không đúng ngạch bậc, chi lễ tết, phụ cấp, trợ cấp cho cán bộ không đúng chế độ. Việc làm này đã có những tác động tích cực đến công tác tổ chức nhân sự của các cơ quan hành chính Nhà nước. Đây cũng là một nội dung hết sức quan trọng trong việc kiểm tra thực hiện tinh giảm tổ chức và biên chế. Thông qua kết quả kiểm toán và thu thập ý kiến phản hồi tại cơ sở, nghiên cứu để đề xuất kiến nghị với các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước sửa đổi, bổ xung luật và các cơ chế, chính sách của Nhà nước và các lĩnh vực quản lý kinh tế – tài chính cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế trong từng thời kì. Ngoài ra, kiểm toán nhà nước còn tham gia ý kiến với các cơ quan soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách, chế độ phù hợp với điều kiện cụ thể. 3. Vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán Nhà nước thể hiện trong một vài lĩnh vực khác. 3.1 Kiểm toán nhà nước trong quản lý hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận quan trọng của kinh tế Nhà nước, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Hiện nay, có hàng nghìn doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động trên các lĩnh vực sản xuất, lưu thông phân phối, cung ứng dịch vụ trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, bưu điện, tài chính, tín dụng ngân hàng... Hàng năm nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước là từ nguồn thu của các doanh nghiệp Nhà nước. Vì vậy, doanh nghiệp Nhà nước là một trong những đối tượng của kiểm toán nhà nước. Với doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kiểm toán nhà nước trước tiên là kiểm tra, đối chiếu số liệu trên quyết toán với tình hình thực tế của tài sản nguồn vốn; với tình hình kinh doanh, chi phí thực tế hợp lý, hợp lệ; tính đầy đủ, trung thực, chính xác về kết quả hoạt động, nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước... Trên cơ sở đó xác nhận toàn bộ hay từng phần những nội dung báo cáo quyết toán hàng năm của doanh nghiệp. Kiểm toán nhà nước sẽ kiểm tra xác định các báo cáo tài chính và sự tuân thủ chính sách, chế độ tài chính kế toán của các doanh nghiệp Nhà nước. Qua đó đưa ra những nhận xét, đánh giá và kiến nghị giúp cho doanh nghiệp Nhà nước được kiểm toán chấn chỉnh nề nếp trong quản lý và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nói riêng và pháp luật nói chung. Để hoàn thành mục tiêu đề ra, kiểm toán doanh nghiệp Nhà nước do kiểm toán nhà nước thực hiện là một loại hình kiểm toán tổng hợp bao gồm cả 3 loại kiểm toán: kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Kiểm toán hoạt động là sự tổng hợp kiểm toán tổng hợp về hoạt động của một đơn vị bộ phận, một loại nghiệp vụ hoặc toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp để đánh giá kết quả hoạt động của nó. Kiểm toán hoạt động tập trung vào nghiên cứu, xem xét, đánh giá tính kinh tế hiệu quả và hiệu năng của từng đối tượng nói trên. Kiểm toán tuân thủ tức là đánh giá sự tuân thủ của các quy định, chính sách chế độ tài chính, kế toán và pháp luật trong hoạt động của doanh nghiệp, với vai trò là người sở hữu, nhà nước xây dựng các quy chế, chính sách, chế độ để kiểm soát các hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước sao cho các đơn vị này sử dụng các nguồn vốn trong hoạt động của mình có hiệu quả cao nhất, đóng góp nhiều nhất vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước, đồng thời các quy định này cũng hướng tới việc bảo vệ tài sản, bảo vệ bí mật của quốc gia, thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước sử dụng có hiệu quả các nguồn lực được giao. Dưới góc độ quản lý vĩ mô, nhà nước đóng vai trò là người chỉ đạo kiểm soát nền kinh tế. Nhà nước thông qua các chính sách, qui định để quản lý các doanh nghiệp nhà nước và sử dụng nó làm công cụ quan trọng trong quản lý và phát triển nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước được nhân lên một cách rõ rệt khi có các qui chế phù hợp trong hoạt động và được nhà nước giám sát, kiểm tra chặt chẽ thông qua bộ máy kiểm toán. Kiểm toán tuân thủ ở đây không chỉ dừng lại ở chỗ chỉ ra các vi phạm chính sách, chế độ của các doanh nghiệp nhà nước mà còn phải đảm nhiệm vai trò tích cực hơn đó là thực hiện chức năng tư vấn đề xuất với Thủ tướng Chính phủ việc sửa đổi, bổ sung cải tiến cơ chế quản lý kinh tế tài chính, kế toán cần thiết. Đây chính là một trong những điểm khác biệt quan trọng giữa kiểm toán nhà nước với kiểm toán độc lập. Với địa pháp lý của mình, kiểm toán nhà nước không những chỉ xét sự tuân thủ pháp luật mà còn được tham gia vào tư vấn trong xây dựng pháp luật. Kiểm toán báo cáo tài chính là sự xác minh tính chính xác, trung thực, hợp lý của các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính. Đánh giá sự tuân thủ các chính sách, cơ chế tài chính và phù hợp với nguyên tắc kế toán trong quá trình lập báo cáo tài chính và tính hợp pháp của các biểu mẫu. Ngoài ra, kiểm toán nhà nước còn đưa ra những kiến nghị, yêu cầu đối tượng được kiểm toán phải có biện pháp cụ thể khắc phục những tồn tại, yếu kém và kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chính sách, cơ chế, chế độ về quản lý kinh tế, tài chính. Tuỳ theo yêu cầu của, mục đích, tính chất của từng cuộc kiểm toán, nên kiểm toán nhà nước có thể áp dụng riêng biệt hay kết hợp ba loại hình kiểm toán: kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Việc áp dụng các loại hình kiểm toán khác nhau đối với các doanh nghiệp nhà nước sẽ giúp cho nhà nước thực hiện tốt việc quản lý, sử dụng vốn, nguồn vốn, thu nhập, chi phí, kết quả kinh doanh, nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước và thực hiện các chính sách, chế độ của nhà nước trong lĩnh vực kế toán tài chính doanh nghiệp. Giải quyết mối quan hệ tài chính giữa nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; giữa doanh nghiệp với tập thể người lao động trong quan hệ thanh toán nội bộ doanh nghiệp; giữa doanh nghiệp với con nợ, chủ nợ, với khách hàng. Nhằm thực hiện thực hiện quan hệ sản xuất, tổ chức quản lý, tổ chức và vận hành các hoạt động tài chính doanh nghiệp đó vào kỉ cương, nề nếp. Tức là làm cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả góp phần nâng cao doanh lợi cho doanh nghiệp và toàn xã hội. Như vậy, hoạt động kiểm toán vừa là thực hiện chức năng kiểm tra của cơ quan công quyền, vừa thúc đẩy sự đổi mới, hoàn thiện quản lý doanh nghiệp, đem lại hiệu quả cao hơn cho nền kinh tế quốc dân. Kiểm toán nhà nước với nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Đất nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, cơ sở hạ tầng còn rất yếu kém. Do đó việc xây dựng các công trình hạ tầng cơ bản là rất cần thiết và phải được thực hiện liên tục, nhanh chóng. Tuy nhiên, việc thực hiện chương trình này còn nhiều bất cập và yếu kém cần được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ. Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát này không ai khác chính là kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước thực hiện việc xác định những điểm yếu trong quá trình tổ chức quản lý đầu tư xây dựng dễ dẫn đến những gian lận, sai sót làm cho báo cáo quyết toán không đúng đắn, trung thực, từ đó xác định những trọng yếu trong công tác kiểm toán để lập kế hoạch triển khai thực tế. Kiểm toán nhà nước kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán dự án đầu tư xây dựng công trình; đánh giá kết quả của quá trình đầu tư xây dựng và việc chấp hành pháp luật, chế độ nhà nước để rút kinh nghiệm, tăng cường công tác quản lý. Trong năm 2003 kiểm toán nhà nước đã kiểm toán báo cáo quyết toán 14 công trình trọng điểm và quốc gia, 6 chương trình mục tiêu của Chính phủ và nhiều công trình xây dựng cơ bản của các địa phương. Kết quả kiểm toán đã thu hồi, giảm cấp phát cho ngân sách nhà nước 161 tỷ đồng. Đồng thời kiểm toán nhà nước đã phát hiện những tồn tại trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, kiến nghị với các đơn vị được kiểm toán cũng như các cơ quan quản lý chức năng sửa chữa và khắc phục những tồn tại đó. Điều này đã chứng minh một cách rõ ràng về vai trò của cơ quan kiểm toán nhà nước trong việc trợ giúp Nhà nước trong việc quản lý những chương trình đầu tư xây dựng cơ bản. Qua những phân tích trên ta đã nhận ra được vai trò to lớn của cơ quan kiểm toán nhà nước trong việc giám sát những công trình xây dựng cơ bản. III. Một số định hướng nhằm nâng cao vai trò của kiểm toán nhà nước ở Việt Nam hiện nay 1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của kiểm toán nhà nước Đứng trước đòi hỏi về sự phát triển của kiểm toán Nhà nước trong thời kì mới thì với những văn bản pháp lý hiện hành, cơ sở pháp lý là chưa đầy đủ và chưa ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ và vai trò của kiểm toán nhà nước. Mặt khác, nó còn chưa phù hợp với thông lệ phổ biến ở các nước trên thế giới, thể hiện trong Hiến pháp, luật của các nước và hiến chương INTOSAI mà Việt Nam là một thành viên chính thức. Hoạt động kiểm toán nhà nước chưa thực sự đảm bảo tính độc lập, khách quan trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc thu chi ngân sách nhà nước. Với chức năng kiểm tra tài chính công cao nhất nhưng kiểm toán nhà nước vẫn chưa có đầy đủ một hành lang pháp lý cao, rõ ràng để hoạt động nên hiệu lực và hiệu quả hoạt động kiểm toán còn hạn chế. Vì vậy, cần bổ sung vào hiến pháp một số điều, khoản qui định rõ địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nước, trong đó khẳng định kiểm toán nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất của Việt Nam. Điều này là hết sức quan trọng vì nó đảm bảo tính đồng bộ và có hệ thống, ở mức độ cao trong quan hệ với các văn bản hiện hành như Luật ngân sách nhà nước, Luật ngân hàng nhà nước... Phải sớm xây dựng và ban hành luật kiểm toán nhà nước nói riêng nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý để hướng dẫn và điều chỉnh các mối quan hệ trong hoạt động kiểm toán một cách đồng bộ và đầy đủ, trong đó ngoài quy đinh nhiệm vụ, chức năng cần bao gồm những vấn đề: - Khẳng định kiểm toán nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính cao nhất của nhà nước. - Ngân sách hoạt động của cơ quan kiểm toán nhà nước hàng năm do Quốc hội quy định. - Cần quy định để kiểm toán nhà nước được quyền độc lập trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán, bao gồm cả quyền đình chỉ, gia hạn hoặc thay đổi kế hoạch kiểm toán. Kiểm toán nhà nước có quyền công khai kết quả kiểm toán theo quy định của pháp luật góp phần công khai và minh bạch hoá các quan hệ tài chính. Xác định đúng đắn địa vị pháp lý của kiểm toán nhà nước. Trong điều kiện Việt Nam, vấn đề thể chế và tổ chức bộ máy nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc thống nhất quyền lực, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc xác định vị trí độc lập trong hoạt động của kiểm toán nhà nước là hết sức quan trọng và cần thiết. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo tính khách quan của công tác kiểm toán. Cần xác định rõ mô hình cơ quan kiểm toán nhà nước trực thuộc Quốc hội hay trực thuộc Chính phủ. Điều quan trọng hơn cả vẫn là phải tạo cơ sở pháp lý để đảm bảo tính độc lập, khách quan và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của kiểm toán nhà nước; giúp Quốc hội trong việc thẩm tra và giám sát các hoạt động kinh tế – tài chính đảm bảo những thông tin dữ liệu có độ tin cậy cao để giúp Quốc hội, Chính phủ quyết định những vấn đề cơ bản liên quan đến chính sách tài chính quốc gia và ngân sách nhà nước hàng năm. Hiện nay có ba mô hình có thể lựa chọn đối với kiểm toán nhà nước là: - Kiểm toán nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước và tài sản công, là cơ quan của Chính phủ (cấp bộ hoặc cấp ngang bộ). Theo đó Tổng kiểm toán nhà nước được Thủ tướng Chính phủ đề cử, Quốc hội phê chuẩn và thủ tục bổ nhiệm như Bộ trưởng và có nhiệm kỳ cùng Chính phủ. - Kiểm toán nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước và tài sản công trực thuộc Quốc hội. Kiểm toán nhà nước có địa vị ngang bằng các uỷ ban Quốc hội, Tổng kiểm toán nhà nước và các phó Tổng kiểm toán do Quốc hội bầu như mọi chủ nhiệm, phó chủ nhiệm uỷ ban khác. Nhiệm kỳ công tác như nhiệm kỳ của Quốc hội hoặc dài hơn theo quyết định của Luật kiểm toán. - Kiểm toán nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước và tài sản công độc lập, đứng ngoài cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Theo đó, Tổng kiểm toán nhà nước được Chủ tịch nước giới thiệu, Quốc hội bầu như bầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao, và nhiệm kỳ có thể không như nhiệm kỳ Quốc hội mà là 6 năm, 10 hay 12 năm theo quy định của luật kiểm toán. Tuy nhiên, kiểm toán nhà nước dù tổ chức theo mô hình nào thì cũng phải đảm bảo tính độc lập trong tổ chức và hoạt động của cơ quan kiểm toán nhà nước và phải đảm bảo thực hiện trách nhiệm báo cáo Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ về kết quả hoạt động kiểm toán. 3. Tăng cường năng lực của kiểm toán nhà nước. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức của bộ máy kiểm toán nhà nước Phát triển mạng lưới kiểm toán nhà nước khu vực thích hợp theo từng giai đoạn để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán ngân sách nhà nước và các đối tượng khác trên địa bàn các địa phương. Dự kiến đến năm 2010 kiểm toán nhà nước sẽ có 9 khu vực. Củng cố và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy kiểm toán nhà nước Trung ương theo hướng chuyên môn hoá kiểm toán theo ngành thu hẹp; tăng cường năng lực cho các bộ phận chức năng khối văn phòng theo hướng: - Tách kiểm toán ngân sách nhà nước thành kiểm toán ngân sách nhà nước I và kiểm toán ngân sách nhà nước II để chuyên môn hoá và theo dõi liên tục các đối tượng kiểm toán; - Tách kiểm toán doanh nghiệp nhà nước thành kiểm toán các tổ chức tài chính tiền tệ và kiểm toán doanh nghiệp; - Thành lập vụ tổng hợp pháp chế; - Phát triển phòng thanh tra kiểm tra nội bộ thành Vụ kiểm tra chất lượng kiểm toán và đạo đức hành nghề kiểm toán viên. - Xây dựng và sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới để hoàn thiện hệ thống quy chế hoạt động của các đơn vị thuộc và trực thuộc kiểm toán nhà nước. - Nghiên cứu ban hành và thực hiện cơ chế phân cấp quản lý đối với kiểm toán nhà nước chuyên ngành và khu vực. 3.2 Xây dựng đội ngũ kiểm toán viên và công chức kiểm toán nhà nước. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch dài hạn và từng năm về đào tạo, bồi dưỡng kiểm toán viên, công chức của ngành trên cơ sở soát xét, phân loại đánh giá cán bộ, công chức, kiểm toán viên và đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng hiện nay cũng như yêu cầu phát triển của ngành trong tiến trình cải cách hành chính. Đổi mới công tác quy hoạch, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt. Thực hiện thí điểm để tiến tới áp dụng hình thức bổ nhiệm có thời hạn và bổ nhiệm lại cán bộ lãnh đạo theo quy định. Có kế hoạch thường xuyên kiểm tra, sát hạch, đánh giá, phân loại kiểm toán viên để sắp xếp, bố trí công việc phù hợp. Xác định hợp lý biên chế và nghiên cứu đề xuất với Chính phủ giải quyết chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với kiểm toán viên và công chức kiểm toán nhà nước. 3.3 Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kiểm toán Chuẩn mực kiểm toán là những nguyên tắc có hiệu lực để đo lường chất lượng công việc. Các chuẩn mực kiểm toán được ban hành để hướng dẫn kiểm toán viên làm việc với chất cao, đồng thời để đánh giá công việc của kiểm toán viên. Do đó chuẩn mực kiểm toán đóng một vai trò quan trọng chủ yếu trong việc chuẩn hoá hoạt động kiểm toán và giải quyết vấn đề trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên. Hiện nay, quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra đang diễn ra nhanh chóng dẫn đến sự gia tăng của nhu cầu thông tin toàn cầu ngoài các thông tin tài chính lịch sử truyền thống. Vì vậy, các tổ chức kiểm toán trên thế giới đã và đang tích cực phát triển các chuẩn mực liên quan đến việc kiểm toán các thông tin ngoài thông tin tài chính. Để đáp ứng được yêu cầu hội nhập hoá nền kinh tế thế giới thì đòi hỏi Chĩnh phủ và Quốc hội phải nhanh chóng nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam phục vụ cho các cuộc kiểm toán. Tuy nhiên việc xây dựng các chuẩn mực kiểm toán phải phù hợp với tập quán quốc tế nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu quản lý về mặt nhà nước. Vì vậy, việc xây dựng những chuẩn mực đó có thể đi theo những phương hướng cơ bản sau: -Hệ thống chuẩn mực kiểm toán được xây dựng trên cơ sở các chuẩn mực kiểm toán quốc tế và có xem xét chuẩn mực kiểm toán các quốc gia khác. - Các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam phải phù hợp các đặc điểm của Việt Nam. - Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam phải hướng về việc nâng cao chất lượng của các công ty kiểm toán Việt Nam đồng thời kiểm soát được chất lượng của các công ty kiểm toán quốc tế hoạt động tại Việt Nam. - Cơ chế ban hành chuẩn mực kiểm toán Việt Nam phải giải quyết được mối quan hệ giữa Nhà nước và tổ chức nghề nghiệp trong quá trình lập quy và kiểm soát chất lượng công việc kiểm toán. - Hệ thống kiểm toán Việt Nam phải phát triển đồng bộ với hệ thống kế toán Việt Nam. - Quy trình xây dựng các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam phải chuyển sang công nghiệp hoá. Như vậy, các chuẩn mực kiểm toán cần phải được xây dựng một cách chặt chẽ và khẩn trương để hình thành một cơ sở lý luận đáp ứng được nhu cầu kiểm toán của các loại hình kiểm toán nói chung cũng như kiểm toán nhà nước nói riêng. 3.4 Xây dựng và thực hiện cơ chế kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ chất lượng kiểm toán Đổi mới công tác kiểm toán trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước và cải cách tài chính công (thực hiện khoán chi hành chính ở các cơ quan nhà nước và thực hiện cơ chế tài chính trong các đơn sự nghiệp có thu...); nghiên cứu và từng bước áp dụng có kết quả các cuộc kiểm toán chuyên đề và kiểm toán hoạt động. Đổi mới quy trình và phương pháp kiểm toán cho phù hợp với tình hình mới, đáp ứng yêu cầu kiểm toán trước khi Quốc hội, Hội đồng Nhân dân xem xét, phê chuẩn. Tăng cường cung cấp trao đổi thông tin giữa kiểm toán nhà nước với các cơ quan Quốc hội và Chính phủ bằng cách tin học hoá các hoạt động của kiểm toán nhà nước và kết nối với mạng tin học của Quốc hội và Chính phủ. Thực hiện công khai kết quả kiểm toán theo quy định của pháp luật. Nghiên cứu và tổ chức thực hiện cơ chế xem xét, đánh giá kết quả kiểm toán hàng năm trước khi trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội. Theo hướng này, cần tổ chức các cuộc thảo luận về kết quả kiểm toán đối với từng bộ, ngành, địa phương, đơn vị do Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội chủ trì, có sự tham gia của Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban khác của Quốc hội có liên quan, đại diện của kiểm toán nhà nước, bộ Tài chính và đại diện các đơn vị được kiểm toán trước khi lập báo cáo thẩm tra trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội. 3.5 Phát triển cơ sở vật chất và ứng dụng công nghệ thông tin Tổ chức và hoạt động của cơ quan kiểm toán nhà nước mang tính đặc thù, không hoàn toàn giống với các cơ quan hành chính khác: số lượng nhân viên mỗi kiểm toán nhà nước chuyên ngành và khu vực (các tổ chức tương đương cấp vụ) là rất lớn so với các vụ ở các bộ ngành khác; kiểm toán viên thường xuyên phải đi công tác xa cơ quan trên phạm vi cả nước; chi phí đào tạo, bồi dưỡng kiểm toán viên ở các nước thường được xếp vào loại chi phí nghiệp vụ... nhưng hiện nay định mức về ô tô, điện thoại, công tác phí, chi phí đào tạo, bồi dưỡng, trang bị máy tính xách tay... của kiểm toán nhà nước Việt Nam vẫn chỉ được tính toán và cấp phát như các ngành khác. Vì vậy, hàng năm kinh phí cấp không đủ chi, còn phải nhờ vả các đơn vị được kiểm toán làm hạn chế tính độc lập của kiểm toán. Do đó, cần xây dựng các tiêu chuẩn, định mức chi tiêu phù hợp với đặc thù ngành kiểm toán và đề nghị Nhà nước có chế độ ưu tiên thích đáng xây dựng trụ sở, trang bị làm việc, hạ tầng công nghệ thông tin... cho kiểm toán nhà nước để đáp ứng được các mục tiêu phát triển nói trên. Đồng thời đề nghị Chính phủ cho trích một tỷ lệ thích hợp theo kết quả kiểm toán hàng năm để bổ xung kinh phí hoạt động, mua sắm tài sản cố định và khuyến khích vật chất cho cán bộ, kiểm toán viên (trước đây Bộ Tài chính đề nghị Chính phủ là 2% trên tổng số thu hồi cho ngân sách nhà nước theo kết quả kiểm toán) nhưng cho đến nay vẫn chưa được giải quyết. Tiến hành xây dựng, trang bị đầy đủ trụ sở, phương tiện làm việc cho kiểm toán nhà nước ở Trung ương và các kiểm toán nhà nước các khu vực. Cơ bản xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và triển khai tin học hoá các hoạt động quản lý hành chính của kiểm toán nhà nước trong giai đoạn 2001 –2005. Phấn đấu đến năm 2010 hoàn thiện và nâng cấp hệ thống thông tin điện tử, củng cố và nâng cấp mạng diện rộng (WAN), xây dựng và kết nối mạng LAN tại các kiểm toán nhà nước khu vực; xây dựng và đưa vào sử dụng rộng rãi các cơ sở dữ liệu điện tử, các phần mềm trợ giúp nghiệp vụ kiểm toán. ` 4. Chiến lược hội nhập và hợp tác quốc tế Duy trì và phát triển các mối quan hệ, hợp tác quốc tế đã có; mở rộng hơn nữa, đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả các mối quan hệ, các hình thức hợp tác song phương và đa phương với INTOSAI, ASOSAI và cơ quan kiểm toán nhà nước các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện lộ trình hội nhập và hợp tác quốc tế; giai đoạn 2001 – 2005 sẽ chuẩn bị các tiền đề cơ bản cho hội nhập và hợp tác quốc tế; giai đoạn 2006 –2010 là giai đoạn hội nhập tích cực và đến 2020, kiểm toán nhà nước Việt Nam có thể hoàn toàn hội nhập năng động với kiểm toán nhà nước các nước trên thế giới. Kết luận Đảng cộng sản Việt Nam là một Đảng cầm quyền, không có mục đích nào khác là phấn đấu cho “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Song mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cần phải trở thành hiện thực thông qua hệ thống luật pháp của nhà nước. Việc tăng cường sức chiến đấu của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm soát luôn luôn là một đòi hỏi bức xúc hơn bao giờ hết; trong đó, cơ quan kiểm toán nhà nước phải là một công cụ kiểm tra tài chính công sắc bén, chỉ tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật. Cơ quan kiểm toán nhà nước mặc dù mới hình thành và đi vào hoạt động nhưng đã có những cố gắng rất lớn trong việc xây dựng tổ chức bộ máy, xây dựng lực lượng kiểm toán viên và từng bước triển khai chương trình kế hoạch kiểm toán hàng năm với phạm vi, quy mô ngày càng đa dạng và phức tạp, với chất lượng ngày càng cao. Thông qua hoạt động kiểm toán của kiểm toán nhà nước đã phát hiện ra những sai phạm trong việc chấp hành chế độ chính sách và pháp luật của Nhà nước, kịp thời chấn chỉnh và đưa công tác quản lý tài chính vào nề nếp. Kết quả có ý nghĩa lớn hơn, quan trọng hơn nữa là, thông qua hoạt động của mình, kiểm toán nhà nước đã kịp thời đề xuất, kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan chức năng về những sơ hở trong công tác quản lý, những bất cập trong cơ chế, chính sách hiện hành để kịp thời điều chỉnh, bổ sung hoặc sửa đổi cho sát hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy ngay từ hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ 3 (khoá VIII) đã khẳng định: “Đề cao vai trò của kiểm toán nhà nước trong việc kiểm toán mọi cơ quan, tổ chức có sử dụng ngân sách Nhà nước và công bố kết quả kiểm toán cho dân biết” Nói tóm lại, việc nâng cao vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước ở Việt Nam hiện nay là một nhu cầu hết sức bức xúc và cần thiết nhằm củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới. Tài liệu tham khảo I. Văn kiện - Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII (Nxb chính trị quốc gia 1996). - Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (Nxb chính trị quốc gia 2001). II.Sách 1. Lý thuyết kiểm toán (Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội khoa kế toán – Nhà xuất bản tài chính 1/2003). 2. Kiểm toán (Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh khoa kế toán – kiểm toán, bộ môn kiểm toán – Nhà xuất bản thống kê 2001). 3. Cẩm nang kiểm toán viên nhà nước (Kiểm toán nhà nước - Nxb chính trị quốc gia 8-2000). III. Tạp chí. 1. Tạp chí kiểm toán Mối quan hệ giữa Quốc hội và cơ quan kiểm toán nhà nước (Lý Tài Luận – số 1/1998). Vai trò của kiểm toán đối với hoạt động của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường (Vũ Xuân Hợp – số 1/1998). Kiểm toán nhà nước là công cụ sắc bén giúp Quốc hội thực hiện chức năng kiểm soát và giám sát ngân sách Nhà nước (Mai Thúc Lân phó chủ tịch Quốc hội – số 2/1998). Những căn cứ để xây dựng quy trình kiểm toán doanh nghiệp nhà nước (– số 3/1998). Vai trò của kiểm toán nhà nước đối với việc kiểm tra, kiểm soát hệ thống hành chính nhà nước (Thạc sỹ Phạm Bình – số 1/1999). Mất ý kiến về vai trò của cơ quan kiểm toán nhà nước trong quản lý tài chính vĩ mô (Pts.Trần Lê - số 1/1999). Cơ quan kiểm toán nhà nước có vai trò quan trọng đối với quá trình quản lý, điều hành ngân sách Nhà nước và công quỹ quốc gia – số 4/200). Trao đổi về vai trò và vị trí của kiểm toán nhà nước (Thạc sỹ.Trịnh Văn Cảnh – số 5/2000). - Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa kiểm toán nhà nước và doanh nghiệp nhà nước (Nguyễn Thanh Nhiên – số 1/2001). Kiểm toán nhà nước có thể giúp được gì cho doanh nghiệp nhà nước (Nguyễn Mạnh Đức – số 1/2001). Vai trò của kiểm toán nhà nước trong quá trình cải cách hành chính nhà nước (Hà Lê Mỹ Dung – số 6/2001). Sự cần thiết phải tiếp tục xem xét địa vị pháp lý và những vấn đề liên quan đến kiểm toán nhà nước (Phúc Nghiêm – số 1/2002). Nhận thức về vai trò của kiểm toán nhà nước trong sự nghiệp đổi mới (Nguyễn Văn Hiển – số 5/2002). Vai trò của kiểm toán nhà nước đối với công cuộc cải cách hành chính quốc gia, giải pháp và khuyến nghị (GS.TS Vương Đình Huệ phó tổng kiểm toán nhà nước – số 6/2003). Bàn về địa vị pháp lý, tính độc lập của kiểm toán nhà nước, xác định vai trò tương lai của kiểm toán nhà nước Việt Nam (PGS. TS Nguyễn Đình Hựu – số 1/2004). Mối quan hệ giữa Quốc hội và kiểm toán nhà nước, những yêu cầu đặt ra đối với kiểm toán nhà nước, trong việc hỗ trợ Quốc hội tăng cường năng lực giám sát ngân sách nhà nước (GS.TSKH Tào Hữu Phùng – số 1/2004). Vai trò của kiểm toán nhà nước trong việc hỗ trợ Quốc hội và Hội đồng nhân dân nâng cao năng lực giám sát ngân sách nhà nước (GS.TS Vương Đình Huệ phó tổng kiểm toán nhà nước – số 1/2004). 2.Tạp chí kinh tế phát triển - Vấn đề xây dựng chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (Vũ Hữu Đức - số 2/2000) Phương hướng xây dựng chuẩn mực kiểm toán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay – số 2/2000).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30008.doc
Tài liệu liên quan