Phần mở đầu 1
I. Lý do chọn đề tài 1
II. Lịch sử vấn đề 2
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
IV. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 7
V. Đóng góp của đề tài. 7
VI. Phương pháp nghiên cứu 7
VII. Cấu trúc luận văn 8
Phần Nội dung 9
Chương một. Những tiền đề lí luận của đề tài 9
I. Đổi mới phương pháp dạy học văn. 9
I.1. Đổi mới phương pháp dạy học văn nói chung 9
I.1.1. Phương pháp dạy học văn truyền thống 10
I.1.2. Sự đổi mới trong phương pháp dạy học văn 10
I.2. Đổi mới phương pháp dạy học truyện cổ tích thần kì nói riêng 11
II. Tấm Cám trong nhà trường phổ thông. 14
II.1. Trước chương trình sách giáo khoa thí điểm năm 2003. 14
II.2. Trong chương trình sách giáo khoa thí điểm năm 2003 15
II.2.1. Về mức độ hợp lý của việc chọn học Tấm Cám 16
II.2.2. Về mức độ hợp lý của việc chọn học văn bản 16
II.2.3. Về mức độ hợp lý của việc giảng dạy Tấm Cám theo hướng Tích hợp 18
IIi. Đặc điểm tâm lý tiếp nhận tấm cám của học sinh lớp 10 THPT 20
III.1. Thuận lợi 20
III.2. Khó khăn 20
III.3. Phương hướng tác động 21
IV. vai trò và tác dụng của yếu tố thần kì trong dạy học tấm cám 22
IV.1. Khái quát về yếu tố thần kì 22
IV.1.1. Khái niệm và biểu hiện 23
IV.1.2. Vai trò và ý nghĩa 24
IV.2. Đặc sắc của yếu tố thần kì trong truyện cổ tích Tấm Cám 24
IV.3. Vai trò và tác dụng của yếu tố thần kì trong dạy học Tấm Cám 26
IV.3.1. Giúp học sinh khám phá giá trị nổi bật về nội dung, ý nghĩa của truyện 27
IV.3.2. Giúp học sinh phát huy năng lực nhận thức 35
IV.3.3. Giúp học sinh phát huy năng lực cảm thụ thẩm mĩ 36
Chương HAI -Khảo sát và đánh giá việc dạy và học Tấm Cám theo chương trình thí điểm ở trường THPT. 37
I. Mục đích khảo sát 37
I.1. Tầm quan trọng của việc khảo sát 37
I.2. Mục đích khảo sát 38
II. Đối tượng và tài liệu khảo sát. 39
II.1. Giáo viên đứng lớp 40
II.2. Học sinh 40
II.3. Tài liệu khảo sát (Sách giáo khoa, Sách giáo viên, Sách bài tập) 40
III. Hình thức khảo sát 41
III.1. Khảo sát tài liệu 41
III.1.1 Tài liệu là sách giáo khoa 41
III.1.2. Tài liệu là “Sách giáo viên” 41
III.1.3. Tài liệu là sách bài tập 41
III.2. Trao đổi với giáo viên và học sinh 41
III.3. Sử dụng hình thức phiếu điều tra 42
III.3.1. Phiếu điều tra đối với học sinh 42
III.3.2. Phiếu điều tra đối với giáo viên 44
IV.Khảo sát và kết quả khảo sát 45
IV.1. Khảo sát và đánh giá tài liệu khảo sát 45
IV.1.1. Sách giáo khoa 45
IV.1.2. Sách giáo viên 50
IV.1.3. Sách bài tập 52
IV.2. Khảo sát và đánh giá tình hình dạy và học Tấm Cám theo chương trình thí điểm ở trường THPT. 53
IV.2.1. Tình hình học 53
IV.2.2. Tình hình giảng dạy 59
IV.3. Tổng hợp kết quả 61
IV.3.1. Kết quả khảo sát về sách giáo khoa 62
IV.3.2. Kết quả khảo sát về sách giáo viên 63
IV.3.3. Kết quả khảo sát về sách bài tập 63
IV.3.4. Kết quả khảo sát về tình hình học Tấm Cám theo chương trình thí điểm ở trường THPT. 63
IV.3.5. Kết quả khảo sát về tình hình dạy Tấm Cám theo chương trình thí điểm ở nhà trường THPT. 64
Chương ba: Phương hướng dạy học Tấm Cám từ việc nhận thức về vai trò và tác dụng của yếu tố thần kì 66
I. Phương hướng truyền thống trong dạy học Tấm Cám 66
I.1. Đối với học sinh mẫu giáo 5-6 tuổi 66
I.2. Đối với học sinh lớp 7-THCS 68
I.2.1. Khái quát chung 68
I.2.2. Hướng phân tích theo nhân vật 69
I.2.3. Hướng phân tích theo chủ đề, theo mô típ 70
II. Cơ sở và phương hướng cụ thể của việc đề xuất 72
II.1. Cơ sở đề xuất. 72
II.1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học Tấm Cám. 72
II.1.2. Xuất phát từ yêu cầu rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh trong giờ dạy tác phẩm văn chương. 74
II.1.3. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của việc dạy và học Tấm Cám hiện nay (theo chương trình thí điểm lớp 10-THPT) 75
II.2.Phương hướng cụ thể 75
II.2.1. Từ vai trò của yếu tố thần kì đến phương hướng dạy học Tấm Cám theo tiến trình của cốt truyện 75
II.2.2. Những định hướng cụ thể về nội dung và phương pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu truyện Tấm Cám 76
Iii. Thiết Kế Bài Dạy Tấm Cám 89
III.1. Hướng đổi mới thiết kế bài dạy 89
III.2. Mục đích thiết kế 90
III.3. Thiết kế thử nghiệm: Bài dạy: Truyện Cổ Tích Tấm Cám 90
PHần kết luận 102
thư mục tham khảo 104
111 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 8409 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò và tác dụng của yếu tố thần kì trong dạy học Tấm Cám nhằm phát huy năng lực nhận thức và cảm thụ thẩm mĩ cho học sinh lớp 10 THPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
truyện cổ tích thần kì Việt Nam được nhiều người yêu thích. Nó phong phú về nghệ thuật, có nhiều tầng nội dung ý nghĩa và lấp lánh nhiều màu sắc, giá trị. Chưa một ai dám nghĩ rằng mình đã hiểu hết cái hay, cái đẹp của truyện một cách thật thấu đáo. Tuy nhiên mỗi giáo viên dạy văn thông qua hoạt động của mình sẽ là người hướng dẫn, tổ chức học sinh tiếp cận và nắm chắc giá trị nội dung cơ bản nhất của truyện.
Theo GS -TS Nguyễn Thanh Hùng thì “Muốn giảng dạy Tấm Cám có hiệu quả phải chú trọng phản ánh trung thành giá trị của cổ tích thần kỳ biểu hiện trên hai phương diện: sự thật đời sống và chân lý nghệ thuật” [13.145]. Do vậy trong giảng dạy Tấm Cám phải định hướng cho học sinh nắm vững hai giá trị này.
Dù cổ tích thần kì khoác áo hoang đường kì ảo và những điều không thể tin cậy về mặt mô tả hiện thực song sự thật đời sống vẫn được bộc lộ trong mối quan hệ lịch sử và những bài học kinh nghiệm sống. Tấm Cám phản ánh số phận nhỏ bé, bất hạnh và sức sống, sức trỗi dậy mãnh liệt của Tấm trước sự vùi dập của các thế lực thù địch. Đồng thời nó trình bày lý tưởng xã hội, quan điểm và mơ ước của nhân dân.
Tấm Cám là kiểu truyện quen thuộc trên thế giới và cũng là truyện cổ tích thấm đẫm màu sắc dân tộc. Giúp học sinh tìm hiểu đặc điểm này là một cách để các em thấy nét đặc sắc, sức biểu cảm to lớn của truyện cổ tích Việt Nam cũng như của truyện Tấm Cám. Từ đó tạo niềm yêu thích, tạo hứng thú học tập cho các em.
Phổ biến trên thế giới là kiểu truyện: Cô gái mồ côi ở với dì ghẻ- bị bóc lột, bị đối xử cay nghiệt- cuối cùng có được hạnh phúc lấy được hoàng tử như truyện “Lọ lem” (Pháp),“Cô Tro Bếp” (Đức), “Nàng Diệp Hạn” (Trung Quốc), “Con cá vàng” (Thái Lan)... Theo thống kê của nhà nghiên cứu Xô Viết S.EM.Mêlêtinxki thì trên thế giới có tới 500 truyện kiểu Tấm Cám. Điều đó phản ánh nét chung về hoàn cảnh xã hội và thân phận của người mồ côi ở các nước trên thế giới trong thời điểm đó. Song quan trọng hơn phải hướng dẫn cho học sinh cảm thụ được sức biểu cảm đặc sắc của Tấm Cám.
Trước hết là không gian làng quê Việt Nam quen thuộc với vẻ đẹp bình dị của cây cau, xoan đào, cây thị...; với những con vật thân quen: Cá bống, gà trống, con trâu; hay những phong tục sinh hoạt hàng ngày: mò cua bắt tép, hội làng, ngày giỗ bố... Những hình ảnh đó tạo nên hồn quê Việt Nam mộc mạc cho truyện cổ tích.
Với hình ảnh cô Tấm, bên cạnh cái cốt lõi là hành động chức năng, nhân vật còn chứa trong mình “ những tâm tình tha thiết của nhân dân”. Nhân vật Tấm không phải là nhân vật có chiều sâu tâm lý và đời sống nội tâm phát triển nhưng vẫn có sức biểu cảm lớn.
Trong hoàn cảnh bất hạnh, lúc đầu cô phản ứng bằng việc khóc, về sau cô chủ động, kiên trì vươn lên giành sự sống. Sức sống, sức trỗi dậy của cô đã tô đậm thêm phẩm chất tốt đẹp vốn có ở người con gái Việt Nam. “Tính chất biểu cảm của nhân vật là nét độc đáo Việt Nam mà giáo viên cần khắc hoạ khi giảng dạy Tấm Cám [13.146].
Hình ảnh “miếng trầu têm cánh phượng”, môtíp hoá thân kì ảo là những hình ảnh, môtíp đặc sắc biểu hiện tính dân tộc của truyện.
Miếng trầu ở nước ta không phải chỉ ăn để cho “đỏ môi thơm miệng” mà còn có ý nghĩa văn hoá, gắn với phong tục hôn nhân, gắn với mọi sinh hoạt từ thân thiết hàng ngày đến những lễ nghi quan trọng của gia đình, xã hội. Hình ảnh miếng trầu đã đi vào ca dao, thơ ca và trở thành một hình ảnh quen thuộc.
Tấm biến hoá thành chim vàng anh, xoan đào, khung cửi, quả thị... (những hình ảnh “hoàn toàn Việt Nam”) cũng đem lại màu sắc dân tộc cho truyện (Nhân vật ở bản kể Campuchia biến thành cây chuối, ở bản kể Thái Lan biến thành chim chào mào...)
Tính dân tộc, tính Quốc tế góp phần tạo nên giá trị đặc sắc của Tấm Cám.
Trong quá trình dạy còn phải giúp học sinh nắm được bố cục và nội dung của từng phần trong truyện.
Diễn biến của cốt truyện Tấm Cám đi theo hai tiến trình:
Tiến trình 1: Từ đầu cho đến khi Tấm được chọn làm hoàng hậu.
Có thể khái quát nội dung của tiến trình này là: Thân phận và con đường đến với hạnh phúc của cô gái mồ côi.
Nhân vật Tấm là hình tượng tiêu biểu cho hình ảnh trẻ mồ côi bị dì ghẻ áp bức bách hại. Trong truyện cổ tích có rất nhiều nhân vật mồ côi, họ có những nét giống nhau, tạo thành một kiểu nhân vật – kiểu nhân vật mồ côi. Mồ côi là đối tượng nhỏ bé, cô đơn, yếu thế trong gia đình và xã hội. Những hiểu biết về kiểu nhân vật mồ côi sẽ giúp các em hiểu vì sao nói Tấm là một nhân vật mồ côi tiêu biểu nhất trong thế giới cổ tích.
Tấm phải chịu đựng rất nhiều khổ cực, bất hạnh trong cuộc đời. Có người nói Tấm là “Kiểu dạng người bất hạnh đến hai lần” (Vừa là người con riêng, người mồ côi lại phải sống với mụ dì ghẻ và cô em gái cùng cha khác mẹ vô cùng độc ác).
Tấm sớm mồ côi mẹ rồi lại mất cả cha, phải sống với dì ghẻ độc ác, luôn tìm đủ mọi cách để hành hạ Tấm. Trong khi mẹ con Cám phởn phơ ăn chơi thì Tấm phải làm việc quần quật luôn canh. Đã thế còn bị mẹ con cám tước đoạt lần lượt từ ước mơ nhỏ bé nhất, bị hành hạ đủ kiểu.Rõ ràng sự đau khổ bất hạnh của Tấm không chỉ ở lĩnh vực vật chất mà cả ở lĩnh vực tinh thần.
Trong khi dạy giáo viên phải giúp các em hiểu vì sao Tấm lại phải chịu bất hạnh đến cùng cực như vậy mà chỉ phản ứng bằng cách khóc. Sự bất hạnh của Tấm một mặt phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ, mặt khác nó là biểu hiện đặc điểm của nhân vật chức năng trong truyện cổ tích. Nhân vật chức năng là nhân vật không mang tính cách, có chức năng “thuyết minh cho quan điểm, đạo đức của nhân dân”. Vì thế nhân vật cổ tích được chia làm hai tuyến thiện- ác, tốt- xấu rành mạch. Tấm đại diện cho nhân vật mang tính thiện: Chăm chỉ, hiền lành, đôn hậu; Mẹ con Cám đại diện cho cái ác, cái xấu. Tấm càng khổ bao nhiêu thì càng làm nổi rõ bản chất độc ác của mẹ con Cám bấy nhiêu.
Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám ngày càng tăng. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn, xung đột thiện - ác trong xã hội. Ở đây cần lưu ý cho các em: Xung đột xã hội thường được hiện lên trên sân khấu gia đình - là một đặc trưng của truyện cổ tích.
Như vậy cái thiện càng bị o ép, áp bức, cái ác càng lộng hành, tác oai tác quái, càng thể hiện mâu thuẫn sâu sắc không thể dung hoà giữa hai phe, tạo không khí căng thẳng buộc phải thay đổi. Và mẫu thuẫn ấy thường được truyện cổ tích giải quyết theo hướng: Sử dụng yếu tố thần kì - dù lâu hay mau, dù gian nan khó khăn đến thế nào thì cuối cùng thiện nhất định thắng ác.
Giáo viên cũng cần giúp học sinh hiểu vì sao con đường đến với hạnh phúc của cô gái mồ côi lại phải có sự giúp đỡ của yếu tố thần kì? Con đường đến với hạnh phúc của nhân vật thiện chính là xu hướng giải quyết mâu thuẫn đặc biệt của truyện cổ tích. Trong xã hội xưa, khi sự áp bức, bất công vẫn còn là phổ biến, khi những đau khổ của người mồ côi là có thực thì hạnh phúc mà họ được hưởng thường hiếm hoi và phần lớn chỉ là mơ ước. Để tạo nên một “hiện thực như mơ ước” ấy, không thể không sử dụng yếu tố thần kì.
Yếu tố thần kì là những yếu tố siêu nhiên, sản phẩm do trí tưởng tượng của con người sáng tạo nên. Đó có thể là nhân vật thần kì (Tiên, Bụt), con vật thần kì (chiếc giầy, đàn thần, mâm thần...) hay sự hóa thân của nhân vật.
Các yếu tố thần kì có vai trò hết sức quan trọng trên con đường đến với hạnh phúc của Tấm. Bụt, gà, chim sẻ là những yếu tố thần kì giúp Tấm đến được hạnh phúc của mình: trở thành hoàng hậu.
Trước hết, Bụt có vai trò thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện. Khi các nhân vật chính gặp khó khăn, Bụt xuất hiện và giúp đỡ; khó khăn được giải quyết, tiến trình câu chuyện được tiếp tục.
Về ý nghĩa xã hội, Bụt đền bù cho những thiệt thòi mà Tấm phải gánh chịu và tạo thêm sức mạnh cho Tấm đi đến thắng lợi sau này. Sự giúp đỡ của Bụt đã thể hiện triết lý của nhân dân “ở hiền gặp lành”- một triết lý phổ biến trong truyện cổ tích.
Tiến trình 2: Bắt đầu từ lúc Tấm về nhà giỗ bố đến khi ở với bà cụ bán hàng nước rồi gặp lại vua.
Nội dung bao trùm của tiến trình này là: Thái độ phản kháng của Tấm và cuộc đấu tranh gian nan, quyết liệt để giành và giữ hạnh phúc.
Trong phần này phải chú ý vào các chi tiết phản ánh thái độ và cuốc đấu tranh ngày càng quyết liệt của Tấm. Trước kia, mỗi lần bị bắt nạt, Tấm chỉ biết khóc. Tiếng khóc ấm ức chứng tỏ cô ý thức được nỗi đau khổ của mình. Đó là thái độ phản kháng đầu tiên. Sự tàn nhẫn, độc ác của mẹ con Cám với động cơ muốn chiếm đoạt tất cả những gì thuộc về Tấm ngày càng tăng. Chúng muốn tiêu diệt Tấm đến cùng (Chặt cau giết hại, giết chim vàng anh, chặt cây xoan đào, đốt khung cửi...). Từ sự bị động và phản ứng yếu ớt, Tấm đã có phản ứng mạnh mẽ hơn và cuối cùng đã hành động quyết liệt.
Phân tích tiến trình hai phải thấy sự đổi khác trong cuộc đời, trong hành động của Tấm, thấy được tình cảm của Tấm dành cho lao động trong sinh hoạt bình dị với con trâu, ruộng vườn, cây cau, ngày giỗ bố. Đồng thời giúp học sinh cảm nhận được tình cảm mến yêu của nhân dân gửi gắm vào sự hoá thân và sự hồi sinh của Tấm trong những sự vật đẹp đẽ như chim vàng anh, cây xoan đào, quả thị thơm. Đó là tính chất biểu cảm của linh hồn nhân vật. Đó cũng là cách dân gian biểu dương và ngợi ca tinh thần ham sống, quyết sống và giành lấy sự sống cho mình của Tấm. Tấm đã tự mình tìm thấy sức mạnh trong ý chí và sức sống của mình. Từ một cô gái nhà nghèo nàn, lép vế, Tấm trở thành một người tự quyết, tự bảo vệ hạnh phúc của mình.
Sau bao lần hoá thân chiến đấu chống kẻ thù, Tấm trở lại với cuộc đời, xinh đẹp hơn nhiều và hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Đó là chiến thắng tất yếu của cái thiện, của lòng nhân đạo và lạc quan theo quan niệm của nhân dân.
Trong tiến trình hai này, tác giả dân gian không sử dụng yếu tố thần kì như trước. Yếu tố thần kì đã được hoá thân vào sự bất tử của Tấm. Ở đây thế giới linh hồn hư ảo trở thành thế giới thần kì. Đây là chặng đời đẹp nhất, phong phú nhất, toàn vẹn nhất của Tấm, bởi nó thể hiện tập trung hành động chức năng của nhân vật. Nhân dân lao động gửi vào nhân vật Tấm ý thức giành và giữ hạnh phúc của mình. Hạnh phúc đó phải tự mình giành và giữ thì mới bền chặt. Vì vậy, khác với Phần I, yếu tố thần kì (Chim vàng anh, xoan đào, quả thị) không thay Tấm trong cuộc chiến đấu mà chỉ là nơi tấm hoá thân để trở về đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn .
Sự hoá thân trở về hưởng hạnh phúc đời thường của Tấm phản ánh mơ ước “ở hiền gặp lành”, mơ ước về công bằng xã hội của nhân dân. Người lương thiện không thể chết oan, phải được hưởng hạnh phúc, còn kẻ ác nhất định bị trừng phạt. Điều này thể hiện quan niệm hết sức thực tế về hạnh phúc của người lao động. Họ không tìm hạnh phúc ở cõi nào khác mà tìm và giữ hạnh phúc thực sự ngay ở cõi đời này.
Bàn về sự hoá thân, giáo viên nên hướng dẫn học sinh tìm hiểu xem đó có phải là ảnh hưởng từ thuyết luân hồi của nhà Phật không?. (Như một ý kiến đã nêu). Thực ra ở đây nếu có mượn thuyết luân hồi thì truyện chỉ mượn cái vỏ bề ngoài để thể hiện mơ ước, tinh thần lạc quan của người lao động . Bởi luân hồi nhà Phật là để chịu đau khổ do tội lỗi từ kiếp trước, rồi sau đó tìm hạnh phúc ở cõi Niết Bàn cực lạc. Còn cô Tấm chết đi sống lại nhiều lần không phải để chịu khổ đau, cũng không định tìm hành phúc mơ hồ ở cõi khác mà quyết giành và giữ hạnh phúc ngay ở nơi trần thế. Điều đó thể hiện lòng yêu đời và tinh thần thực tế của người lao động khi sáng tạo cổ tích.
Làm sao để học sinh nhìn nhận đúng đắn cách kết thúc truyện cũng là một nội dung quan trọng giờ học cần đạt được. “Phải để cho Tấm trừng phạt Cám như vậy thì mới chân thực”[15.97]. Trừng phạt chỉ là kiểu hành động. Truyện cổ tích thần kì chỉ xét hành động trong ý nghĩa chức năng của nó chứ không tính đến hành động ấy được thực hiện bằng cách nào và ai hành động.
Tấm chưa phải là hình tượng con người có tất cả những khả năng tốt xấu, thiện ác chuyển hoá trong một cá nhân. Tấm chỉ là biểu tưởng giàu tính nhân văn và vẻ đẹp theo quan niệm thẩm mĩ dân gian người Việt. Tấm chỉ là nhân vật hành động thực hiện chức năng duy nhất đến cùng bằng mọi khả năng có thể có, vì đó là truyện đời xưa, “truyện bịa đặt đến mức không còn bịa được hơn. Và hành động trừng phạt chỉ là một môtíp nghệ thuật cần phải có để thể hiện quan niệm ác giả ác báo của người sáng tác, chứ nó không bao giờ được coi là mục đích giãi bày”.
Không xuất phát từ những đặc điểm của truyện cổ tích thần kì thì không thể lý giải đúng đắn, hợp lý cách kết thúc này.
II.2.2.2. Định hướng một số phương pháp góp phần nâng cao năng lực nhận thức và cảm thụ thẩm mĩ của học sinh trong tìm hiểu truyện Tấm Cám
Tấm Cám là truyện cổ tích hay nhưng khó dạy. Truyện có nội dung hết sức phong phú và phức tạp, chứa đựng nhiều giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà học sinh không thể tự nắm bắt được. Hơn nữa thời lượng giảng dạy lại chỉ bó hẹp trong hai tiết học. Do vậy muốn đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra, mỗi giáo viên cần phải lựa chọn biện pháp, phương pháp cụ thể, phù hợp tương ứng, hướng dẫn học sinh nắm bài, hiểu bài nhanh nhất. Qua đó góp phần nâng cao năng lực nhận thức và cảm thụ thẩm mĩ cho học sinh.
Từ tình hình trên, người viết nhấn mạnh một số biện pháp như sau:
II.2.2.2.1. Phương pháp đọc, kể sáng tạo
Phương pháp đọc sáng tạo có vị trí quan trọng trong việc dạy học văn.Con đường đến với tác phẩm văn chương nhất thiết phải từ đọc, hơn nữa phải gắn liền với việc đọc. Đọc là một hình thức hoạt động có tính chất đặc thù của nhận thức về văn học. Đọc văn nhằm góp phần “dựng dậy các cảm xúc đang ngủ yên trong chữ nghĩa”, nhằm làm vang lên ý đồ, dụng ý của nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. “Hiểu bài văn rồi đọc mới tốt nhưng đọc tốt càng hiểu thêm bài văn” (Lê Trí Viễn).
Thực chất phương pháp đọc sáng tạo là phương pháp tiếp nhận nghệ thuật một cách sáng tạo mà vấn đề chủ yếu cần quan tâm là sự cảm thụ trược tiếp. GS-TS Nguyễn Thanh Hùng trong “Hiểu văn –dạy văn” đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của đọc như sau:
“Đọc văn gắn liền hữu cơ với việc tiếp nhận. Vì muốn lĩnh hội trọn vẹn tác phẩm văn học không còn con đường nào khác là đọc và sử dụng các hình thức khác nhau, dưới những bình diện khác nhau để đạt tới sự hiểu biết và xúc cảm thật sự nhằm khám phá bản thân và hướng thiện”
Đọc văn làm cho sự cảm thụ của bạn đọc nói chung và của học sinh nói riêng sâu sắc hơn. Nó tạo điều kiện cho việc phân tích và thâm nhập vào tác phẩm được dễ dàng, thuận lợi. Việc đọc của học sinh không chỉ đọc câu chữ mà phải có cách đọc đúng, đọc hay để đi đến cảm thụ tác phẩm được đúng. Đó là đọc sáng tạo.
Mục đích của phương pháp đọc sáng tạo là hình thành và duy trì những ấn tượng nghệ thuật để học sinh tiếp tục đi sâu vào nội dung tư tưởng và hình thức ngôn ngữ tác phẩm. Phương pháp này phát triển năng lực cảm thụ nghệ thuật cho học sinh.
Âm vang của lời đọc sẽ kích thích quá trình cảm nhận tiếp theo, qúa trình tri giác, tưởng tượng và tái hiện hình tượng văn học.
Với cổ tích, đọc lại càng có một ý nghĩa quan trọng: Đọc đưa học sinh hoà cảm vào thế giới của câu chuyện. Đọc cổ tích mang đặc điểm riêng, ấy là sự tập trung cao độ và “hoá thân” vào nhân vật. Nói một cách hình tượng như Pautôpxki: “Đọc cổ tích phải nín thở vì nếu thở mạnh sẽ bay mất phấn hương cuả cổ tích”.
Việc đọc bao gồm có 3 cấp độ: Đọc chữ, đọc diễn cảm, đọc nghệ thuật (Hát ru, kể sáng tạo). Trong giờ dạy truyện cổ tích tránh việc kể chỉ dừng lại ở việc tóm tắt cốt truyện. Dạy cổ tích, đọc nhất thiết phải là phương pháp chủ đạo, trong đó kể sáng tạo đóng vai trò đặc biệt quan trọng (Đây được coi là biện pháp đặc thù trong dạy học cổ tích).
Sở dĩ như vậy là vì:
Thứ nhất: cổ tích “sống” được nhờ hình thức diễn xướng đặc biệt này. “Kể” là đặc điểm cơ bản tiêu biểu của cổ tích. Nó xuất phát từ đặc trưng chung của văn học dân gian là tính truyền miệng, song nó cũng xuất phát từ những đặc điểm riêng của truyện cổ tích.
Thứ hai: Đặc điểm cổ tích được xây dựng phù hợp với hình thức kể: tính cách nhân vật cổ tích khá đơn giản, cốt truyện phát triển theo trình tự thời gian, sự lặp lại về kết cấu và mô típ, nội dung phản ánh gần gũi cuộc sống con người.
Kể sáng tạo truyện cổ tích được giải quyết ở hai góc độ: Một là, Vẫn giữ nguyên nội dung cốt truyện. Dựa vào thi pháp truyện để kể, căn cứ vào những yếu tố động, biến đổi của truyện để sáng tạo trong hoạt động kể.
Hai là, kể sáng tạo truyện cổ tích làm thay đổi nội dung cốt truyện, sản sinh truyện cổ tích mới. Sáng tạo ở góc độ này dựa vào học thuyết về cấu trúc lồng ghép truyện cổ tích thần kì của B.P Kerơbelite.
Hoạt động kể sáng tạo của học sinh chú trọng vào cách thức(1).
Đặc trưng chung của cổ tích là tính dị bản – nghĩa là đa ngôn ngữ về hình thức diễn đạt. Cổ tích là của nhân dân và được sáng tác tiếp theo thời gian. Học sinh có quyền tham gia quá trình đó bằng hoạt động kể sáng tạo của mình. Kể sáng tạo quan tâm đến cử chỉ, động tác, giọng nói, tác phong, ngôn ngữ, vẻ mặt của người kể sao cho phù hợp, không thừa thãi, gượng ép.
Sau khi giáo viên nêu một số vấn đề chung, để chuẩn bị phân tích tác phẩm, giáo viên gọi một học sinh kể sáng tạo toàn bộ truyện Tấm Cám. Giáo viên hướng dẫn học sinh kể các đoạn văn vần – một yếu tố cố định trong cốt truyện để giúp học sinh “đọc ra những con người trong một con người và đọc ra một con người trong cộng đồng xã hội thẩm mĩ của nó” [12.69].
Ví dụ: khi kể giọng của Cám lúc lừa giỏ tép của Tấm thì kể với giọng ngon ngọt, nịnh nọt. Giọng Tấm lúc gọi Bống lên ăn cơm phải kể với giọng dịu dàng, trìu mến, thân thương; giọng con gà thì kể rõ ràng, dứt khoát; lời mụ dì ghẻ ở đám hội phải kể bằng giọng mỉa mai, coi thường, đay nghiến. Lời của Tấm cảnh cáo Cám lại phải kể với âm điệu dứt khoát, thể hiện ý đe doạ, cảnh cáo. Lời dịu dàng, tha thiết, chân tình sẽ giành cho việc kể lại lời của vua nói với chim vàng anh và của bà cụ bán hàng nói với quả thị.
Như vậy bên cạnh giọng kể biểu cảm các chi tiết của truyện, giáo viên cần hướng dẫn học sinh kể đảm bảo đúng, hay những đoạn văn vần – lời nói của nhân vật trong truyện.
Phần luyện tập có thể tạo điều kiện để các em kể sáng tạo phần kết thúc. Đó cũng là một cách để bộc lộ và phát triển năng lực nhận thức của mình.
Như vậy kể vừa thích hợp với đặc trưng loại hình truyện cổ tích, vừa có tác dụng cực kì quan trọng là gợi được không khí diễn xướng vốn là đặc trưng cho hoạt động thông tin và tiếp nhận của sáng tác dân gian.
Hoạt động kể truyện Tấm Cám có thể thực hiện bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau: có thể cho học sinh kể lại toàn bộ tác phẩm. Cũng có thể cho học sinh kể từng bộ phận như cuộc đời của nhân vật hay cho học sinh kể lại một số tình tiết cơ bản then chốt...
Hình thức có thể sinh động linh hoạt. Một vài học sinh và tập thể bổ sung nhằm làm nổi bật được cốt truyện, nhân vật chính diện, các biến cố, tình tiết. Song điều quan trọng có tính nguyên tắc là giáo viên không nên tự mình đảm nhiệm hoàn toàn việc đọc, việc kể. Yêu cầu cần đạt là tập cho học sinh tự mình được tập kể. Tập kể để học sinh dần dần có được năng lực kể chuyện cổ tích, một năng lực cần thiết trong đời sống nhà trường cũng như ngoài trường.
Tóm lại, việc sử dụng phương pháp kể sáng tạo trên cơ sở tôn trọng văn bản SGK thay cho đọc chữ trong dạy cổ tích hiện nay là biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả của giờ dạy cổ tích. Như vậy vừa phát triển ngôn ngữ vừa phát triển tư tưởng, vừa tập thao tác phân tích tác phẩm cho học sinh.
II.2.2.2.2. Gây tình huống dân gian trong giảng dạy Tấm Cám
Đây cũng là một phương pháp quan trọng trong giờ dạy cổ tích. Tác phẩm truyện cổ tích là một tác phẩm văn học dân gian, có rất nhiều đặc điểm khác xa với văn học viết. Do vậy, dạy cổ tích, trước hết và nhất thiết phải tạo ra môi trường, không khí cổ tích phù hợp để dẫn dắt học sinh vào “thế giới cổ tích” của truyện. Phương pháp gây tình huống dân gian cần phải được tiến hành trong suốt giờ dạy. Các thao tác cơ bản của nó gồm:
Trước hết là khâu vào bài và khâu kết thúc phải được quan tâm một cách có dụng ý. Vào bài xác lập sự chú ý và tạo tâm thế cho giờ học. Kết thúc gây ấn tượng và tạo dư âm của bài giảng.
Mở bài hay không chỉ gợi rung động ban đầu mà còn đặt ra tình huống có khả năng khêu gợi hứng thú được tìm hiểu tác phẩm của học sinh. Vào bài cổ tích có rất nhiều cách khác nhau. Tuỳ theo đặc điểm học sinh và không khí giờ học mà lựa chọn kiểm vào bài nào cho phù hợp. Có thể đi từ dấu ấn của học sinh về những truyện cổ tích đã được nghe từ nhỏ gợi rung động ở các em; hay đi từ những đặc điểm tiêu biểu của cổ tích tạo tâm lý thích thú tìm hiểu cái riêng, độc đáo, hoặc từ một câu nhận định hay nào đó.
Kết thúc để tạo dư âm có thể sử dụng các biện pháp của hoạt động liên môn: đóng kịch...
Vào bài hay kết thúc phải tôn trọng 6 nguyên tắc: Hay - Nhanh - Nhạy - Đúng - Trúng - Đủ.
Trong quá trình dạy, giáo viên phải tạo được “môi trường cộng cảm” giữa người kể và người nghe, tạo được không khí mơ mộng, không gắn bó trực tiếp với hiện thực ngày nay.Tận dụng sức biểu cảm của thời gian nghệ thuật trong câu mở đầu không thể thay thế được “ngày xửa ngày xưa”, đó là thời gian nghệ thuật đồng nhất để tạo không gian đồng nhất - thời gian, không gian quá khứ.
Việc kết hợp giữa kể sáng tạo của học sinh, với các hoạt động liên môn: đóng kịch, xem băng hình, vẽ tranh minh hoạ đều góp phần to lớn cho việc nâng cao chất lượng giờ dạy cổ tích. Cách làm đó tạo hứng thú giúp các em hiểu sâu tác phẩm hơn.
II.2.2.2.3. Phương pháp so sánh
Sử dụng để hướng dẫn học sinh cảm thụ được vẻ đẹp thẩm mĩ của truyện Tấm Cám.
So sánh là phương pháp quen thuộc được sử dụng rộng rãi và hữu hiệu trong phân tích văn học, nhằm tìm ra những nét tương đồng và dị biệt.
Để học sinh cảm thụ được vẻ đẹp thẩm mĩ của truyện Tấm Cám, giáo viên cần tiến hành so sánh truyện với các truyện khác ở cùng kiểu truyện, cùng kiểu nhân vật, kiểu xung đột... Từ đó cho các em nhận thức được những đặc trưng chung cũng như nét đặc sắc riêng của truyện.
Để có phương tiện so sánh, giáo viên cần phô tô những tài liệu về phần mình định định hướng cho học sinh so sánh.
Chẳng hạn, để thấy được tính dân tộc và tính quốc tế của kiểu truyện Tấm Cám, giáo viên nên phô tô bản tóm tắt các dị bản của truyện. Việc làm này vừa giúp học sinh có cái nhìn tổng quát, vừa tiết kiệm thời gian phải kể lại của giáo viên.
Để làm nổi bật nét đặc sắc của yếu tố thần kì, giáo viên cần hướng dẫn học sinh so sánh với những truyện cổ tích thần kì đã được học: chẳng hạn cũng là sự biến hoá nhưng sự biến hoá ở Sọ Dừa, Nàng Cóc khác hẳn sự biến hoá của Tấm. Sọ Dừa, Nàng Cóc biến hoá để hưởng hạnh phúc ở đời. Còn Tấm biến hoá để đấu tranh giành lại hạnh phúc ở cuộc đời.
So sánh về cách kết thúc của truyện cũng là một cách phát triển năng lực nhận thức, cảm hiểu của học sinh. Từ đó giúp các em hiểu đúng về vẻ đẹp của một truyện cổ tích thần kì.
Việc so sánh có thể tiến hành ngay trong tác phẩm: so sánh về hành động của Tấm, về vai trò của các yếu tố thần kì trong tiến trình I và tiến trình II. đây là một cách hiệu quả nhất giúp học sinh thấy được sự phát triển của mâu thuẫn, xung đột, thấy được sự phản kháng ngày càng tăng, đấu tranh ngày càng quyết liệt của Tấm để giành và giữ hạnh phúc của mình.
So sánh là cách thức nhanh nhất, hiệu quả nhất giúp học sinh hình thành kĩ năng phát hiện nhanh vấn đề nổi bật, kĩ năng tìm hiểu truyện nhanh, đúng, trúng.
II.2.2.2.4. Phương pháp dạy Tấm Cám theo đặc trưng thi pháp loại thể
Để học sinh có thể cảm nhận vẻ đẹp phôncơlo của Tấm Cám, từ đó mà hiểu sâu sắc ý nghĩa của truyện cổ tích, giáo viên phải từ việc khơi gợi hứng thú của học sinh mà dẫn dắt các em tiếp cận và chiếm lĩnh tác phẩm. Con đường tiếp cận có hiệu quả là con đường của thi pháp, mà ở đây là thi pháp truyện cổ tích.
Giáo viên giúp học sinh tiếp cận theo hai tiến trình cụ thể của bản kể được lựa chọn trong rất nhiều văn bản khác nhau sẽ đem lại cái nhìn cụ thể về sự phát triển và đổi mới của truyện.
Trong qúa trình đó, giáo viên hướng dẫn học sinh từng bước làm nổi bật những đặc điểm của các yếu tố sau:
Về cấu tạo cốt truyện: Tấm Cám được cấu tạo theo đường thẳng, theo trình tự diễn biến của các hành động nhân vật (cũng là trình tự thời gian) một cách chặt chẽ, khiến cho các chi tiết kết dính với nhau trên một trục duy nhất.
Về các mô típ: Tấm Cám là một trong những truyện cổ tích đứng hàng đầu về số lượng mô típ và có những mô típ rất tiêu biểu cho một tác phẩm phôncơlo. Trong giảng dạy phải giúp học sinh nắm được các mô típ: mâu thuẫn dì ghẻ – con chồng, sự giúp đỡ của Bụt, của con vật thần kì, mô típ rơi giày – thử giày, mô típ hoá thân, mẹ ăn thịt con; nắm được ý nghĩa của những mô típ ấy, từ đó hiểu được những triết lý nhân sinh, quan niệm và mơ ước nhân dân gửi gắm trong truyện.
Những câu văn vần xen kẽ; thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật; không khí truyện cũng là những yếu tố học sinh cần nắm được trong quá trình tiếp cận. Qua đó thấy được nét mộc mạc dân gian, vừa hư vừa thực, thấy được những hình ảnh quen thuộc mang giá trị biểu cảm tạo nên tính dân tộc đặc sắc của truyện.
Phân tích Tấm Cám theo đặc trưng phôncơlo, theo con đường thi pháp là để chỉ ra những giá trị thẩm mĩ của hình tượng nhân vật cổ tích và thế giới cổ tích giàu tính nghệ thuật để nhận ra cảm xúc về cái đẹp của con người trong thế giới tình cảm của truyện Tấm Cám.
Trong quá trình phân tích các yếu tố thi pháp của truyện Tấm Cám, giáo viên cần đặc biệt chú ý để học sinh nắm rõ đặc sắc của các yếu tố thần kì trong truyện. Việc phân tích các yếu tố thần kì có giá trị giải thích phẩm chất nhân vật và làm cho cốt truyện tiến triển hợp lý. Lựa chọn và phát hiện giá trị của các yếu tố thần kì và các chi tiết quan trọng trong tiến trình truyện Tấm Cám như vậy sẽ tạo nên một sự hứng thú tiếp nhận ở học sinh; đồng thời thực hiện bài học giáo huấn một cách tự nhiên, sâu sắc.
Tóm lại, tiếp cận tác phẩm văn học thuộc bất cứ thể loại nào trên cơ sở đặc trưng thi pháp thể loại sẽ là hướng đi đúng đắn, khoa học và chuẩn xác nhất. Đồng thời cũng là bước đi ngắn nhất dẫn dắt người học đến với tác phẩm, sống cùng tác phẩm.
Nói tóm lại, trên đây tôi đã đưa ra những định hướng cụ thể về nội dung và phương pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu truyện Tấm Cám nhằm phát huy năng lực nhận thức và cảm thụ thẩm mĩ của các em. Do yêu cầu của luận văn tốt nghiệp và yêu cầu của đề tài, người viết chỉ nhấn mạnh vào một số phương pháp quan trọng như: đọc, kể sáng tạo; gây tình huống dân gian; phương pháp so sánh; phương pháp dạy theo đặc trưng thi pháp loại thể nhằm tổ chức, gợi mở, nhằm khơi dậy những hoạt động bên trong của chủ thể sáng tạo học sinh để các em tự tìm hiểu, khám phá và chiếm lĩnh tác phẩm. Tất nhiên trong quá trình phân tích tác phẩm, người viết sử dụng đồng bộ, linh hoạt các phương pháp trên đồng thời phối hợp với các biện pháp khác như: nêu vấn đề, gợi mở... để giờ học đạt được hiệu quả như mong muốn.
III. THIẾT KẾ BÀI DẠY TẤM CÁM
(Theo phương hướng đã đề xuất)
III.1. Hướng đổi mới thiết kế bài dạy
Thiết kế bài dạy là tên gọi mới về giáo án lên lớp của giáo viên theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học ở bất cứ bộ môn nào.
Từ chỗ giáo án chỉ là một đề cương nội dung cần truyền thụ qua lời diễn giảng của giáo viên, trong thời gian quy định, tiến đến thiết kế bài dạy trên cơ sở xác lập mối quan hệ hỗ trợ hợp tác và tích cực, phát triển năng động sáng tạo của chủ thể người học- đó là một bước tiến mới.
Thiết kế bài dạy trên lớp là hợp thể của những hoạt động giữa người dạy và học được kế hoạch hoá đến từng chi tiết. Nó là kết quả của quá trình tìm hiểu và lựa chọn nội dung cơ bản và lôgíc vận động của nội dung đó trong tài liệu giảng dạy. Ngoài ra người thiết kế phải kết hợp sự hiểu biết của mình với điều kiện và năng lực tiếp nhận, với khả năng vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã có của người học. Từ những tình huống học tập được đặt ra từ nội dung khách quan của tác phẩm phù hợp với trình độ và đặc điểm tiếp nhận tác phẩm văn chương của lớp học, giáo viên sắp xếp hợp lí một hệ thống thao tác tương ứng, nhằm hướng dẫn học sinh từng bước tự xử lý để tiếp cận và chiếm lĩnh tác phẩm một cách sáng tạo. Do đó tạo được ở từng chủ thể học sinh một sự tự phát triển toàn diện.
III.2. Mục đích thiết kế
Tiến hành thiết kế bài dạy, người viết nhằm mục đích sau đây:
Một là: Nhằm minh hoạ khả năng vận dụng những lý thuyết chung (đã trình bầy ở chương một) vào một bài dạy cụ thể.
Hai là: Nhằm chỉ ra, nhấn mạnh những đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của truyện Tấm Cám, cũng như những biện pháp có thể thực hiện làm phong phú, sâu sắc hơn những phương pháp hướng dẫn học sinh tiếp cận, phân tích một truyện cổ tích. Đó chính là sự cụ thể hoá những định hướng về nội dung và phương pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu truyện Tấm Cám (đã nêu ở phần trên) thành các thao tác cụ thể trong giờ học.
Ba là: Nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hiện nay: Phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế của các giờ học, đưa phương hướng giảng dạy Tấm Cám ở trường THPT một cách hợp lý nhằm phát huy năng lực nhận thức và cảm thụ thẩm mĩ của học sinh, tạo nên một giờ học hiệu quả.
III.3. Thiết kế thử nghiệm: Bài dạy: Truyện Cổ Tích Tấm Cám
THIẾT KẾ BÀI DẠY
TRUYỆN CỔ TÍCH: TẤM CÁM
Thời gian: 2 tiết
A. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU
1. Kiến thức
Giúp học sinh:
Thấy được cuộc đấu tranh giữa Tấm và mẹ con Cám là cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, rất khó khăn, quyết liệt nhưng thiện nhất định thắng ác.
Hiểu được triết lý nhân sinh, quan niệm, mơ ước, tinh thần lạc quan và nhân đạo của nhân dân gửi vào truyện.
Thấy được nghệ thuật sử dụng yếu tố thần kì, lối kể chuyện hấp dẫn, nắm được những đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích thần kì và những đặc sắc của Tấm Cám.
Có cách nhìn nhận đúng đắn về cách kết thúc truyện.
2. Kỹ năng: (Rèn luyện tổng hợp các kĩ năng)
Kĩ năng kể sáng tạo.
Tóm tắt một tác phẩm tự sự.
Phân tích truyện dân gian.(truyện cổ tích)
B. CÁC BƯỚC LÊN LỚP
1. Ổn định tổ chức (kiểm tra sĩ số)
2. Kiểm tra bài cũ.
3. Bài mới
*Lời vào bài:
“ Nếu nhắm mắt nghe bà kể chuyện
Sẽ được nhìn thấy các bà tiên
Thấy chú bé đi hài bảy dặm
Quả thị thơm cô Tấm rất hiền”
Quả thực, những câu truyện “ngày xửa ngày xưa”, những câu truyện cổ tích đã tạo nên một sức hấp dẫn đến muôn đời. Đó là một thế giới “như mơ ước”, một thế giới mà theo Gorki - nó khác hẳn “cuộc sống tẻ nhạt, nghèo nàn, đầy tiếng than thở của những người tham lam không cùng và đầy lòng ghen tị”. Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam rất phong phú, có đến hàng trăm truyện. Song có một truyện hay nhất, tiêu biểu nhất mà người Việt Nam nào cũng biết và yêu thích ngay từ nhỏ. Đó là truyện cổ tích Tấm Cám. Hôm nay, cô cùng các em sẽ đi vào tìm hiểu những giá trị đặc sắc của truyện cổ tích này.
*Tổ chức dạy học
PHƯƠNG PHÁP
NỘI DUNG DẠY - HỌC
Ngoài việc hướng dẫn học sinh đọc toàn bộ truyện ở nhà, giáo viên định hướng học sinh chú ý đọc một số đoạn tiêu biểu có những câu văn vần (chú ý đến sức biểu cảm của giọng điệu).
Yêu cầu: Học sinh kể sáng tạo toàn bộ câu chuyện
Yêu cầu: Học sinh tóm tắt truyện một cách ngắn gọn, đầy đủ, dễ hiểu.
Hỏi: Theo em, cốt truyện phát triển theo mấy tiến trình ? Nội dung cơ bản của mỗi tiến trình ?
Hỏi:Đọc xong truyện hình ảnh nào gợi cho em ấn tượng sâu sắc nhất?( Khơi gợi cho học sinh tự bộc lộ)
Hỏi: Vì sao nói Tấm Cám là kiểu truyện quen thuộc trên thế giới lại đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam? (Đã phô tô bản tóm tắt các dị bản của truyện cho học sinh)
Hỏi: Vì sao nói Tấm là nhân vật tiêu biểu của kiểu nhân vật mồ côi trong truyện cổ tích thần kì?
Hỏi: Những tình huống: Thưởng yếm đỏ, cái chết của cá Bống, vua mở hội, rơi giày... gợi cho em những suy nghĩ gì về thân phận của Tấm và mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con dì gh?
Hỏi: Theo em bản chất của những mâu thuẫn đó là gì?
Hỏi: Mâu thuẫn ấy thường được giải quyết theo hướng nào?
Hỏi: Qua các câu truyện cổ tích đã đọc và học, em thấy nhân vật bất hạnh đến với hạnh phúc có dễ dàng không và đến bằng con đường nào ?
Hỏi: Em hiểu thế nào là yếu tố thần kì và biểu hiện của nó?
Hỏi: Theo em, yếu tố thần kì có vai trò như thế nào đối với con đường đến với hạnh phúc của Tấm ?
Yêu cầu: Học sinh kể sáng tạo tiến trình II.
Hỏi: Theo em, vì sao nói thái độ phản kháng và cuộc đấu tranh của Tấm ngày càng cao và càng quyết liệt hơn?
Hỏi: Sự hoá thân của Tấm có ý nghĩa như thế nào?
Hỏi: Theo em, vai trò của yếu tố thần kì đối với con đường giành và giữ hạnh phúc của Tấm có gì khác trước?
Hỏi: Từ yếu tố thần kì em có nhận thức như thế nào về triết lý nhân sinh, quan niệm và mơ ước của nhân dân gửi gắm trong truyện?
Hỏi: Theo em, cuối cùng mẹ con Cám bị trừng phạt như thế có đích đáng không? Vì sao?
(Để học sinh thảo luận về các cách kết thúc của truyện)
Hỏi: Sau khi phân tích truyện, ấn tượng để lại cho em sâu đậm nhất là gì?.
Bài tập: Tấm Cám mang đầy đủ đặc trưng của truyện cổ tích thần kì và có nét đặc sắc riêng. Em hãy chứng minh điều đó.
I. Hướng dẫn học sinh thâm nhập vào “thế giới cổ tích” Tấm Cám:
( Giáo viên hướng dẫn học sinh kể sáng tạo lại truyện.Chú ý về giọng điệu:
Giọng Cám lúc lừa giỏ tép của Tấm: ngon ngọt, nịnh nọt.
Giọng Tấm gọi Bống: dịu dàng, trìu mến, thân thương.
Giọng con gà: Rõ ràng, dứt khoát.
Giọng mụ dì ghẻ ở đám hội: Mỉa mai, đay nghiến,chì chiết
Giọng vua và bà cụ hàng nước: Dịu dàng, tha thiết, chân tình.
Giọng Tấm cảnh cáo Cám: Rõ ràng, dứt khoát, đe doạ).
(Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt theo tiến trình của cốt truyện, chú ý vào những chi tiết được coi làm đầu mối của truyện: Yếm đỏ, Bụt giúp, cá Bống, đi hội, thử giầy, sự hoá thân của Tấm, vua nhận ra và rước Tấm về cung, mẹ con Cám bị trừng phạt).
Dự kiến trả lời:
- Theo hai tiến trình:
+ Tiến trình I: Từ đầu đến khi Tấm được chọn làm hoàng hậu.
+ Tiến trình II: Từ lúc Tấm về nhà giỗ bố đến lúc ở với bà cụ hàng nước rồi lại gặp vua.
- Nội dung (Tương ứng của hai tiến trình)
+ Trình bày thân phận của Tấm (Cô gái mồ côi) và con đường đến với hạnh phúc của cô.
+ Cuộc đấu tranh gian nan, quyết liệt để giành và giữ hạnh phúc của Tấm.
Cả hai tiến trình đều thể hiện mơ ước “ở hiền gặp lành” và triết lý về hạnh phúc của nhân dân lao động xưa.
* Dự kiến trả lời:
Hình ảnh cô Tấm
Hình ảnh ông Bụt
Sự hoá thân
Kết thúc truyện.
* Dự kiến trả lời:
- Là kiểu truyện quen thuộc trên thế giới:
+ Thống kê năm 1955 của nhà nghiên cứu Nga về kiểu truyện Tấm Cám trên thế giới: 500 dị bản.
Ví dụ: Lọ Lem (Pháp), Cô Tro Bếp (Đức), Nàng Diệp Hạn (Trung Quốc), Con cá vàng (Thái Lan), Truyện con rùa (Mianma), Nêang Cantoc (Campuchia).
- Đậm đà bản sắc dân tộc: Biểu hiện ở:
+ Bức tranh thiên nhiên gần gũi, quen thuộc: Cây cau, giếng nước, ruộng đồng làng quê.
+ Phong tục sinh hoạt hàng ngày: Mò cua bắt tép, chăn trâu, hội làng.
+ Những nét riêng của cô Tấm
+Đặc sắc của yếu tố thần kì
+ Hình ảnh miếng trầu têm cánh phượng.
Sức biểu cảm của truyện- một biểu hiện dân tộc tính của Tấm Cám.
II/ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu truyện.
(Theo tiến trình phát triển của cốt truyện, theo đặc trưng thi pháp loại thể)
1/Hướng dẫn học sinh tìm hiểu Tiến trình I: Thân phận và con đường đến với hạnh phúc của cô gái mồ côi.
Thân phận của cô gái mồ côi:
* Dự kiến trả lời:
- Truyện cổ tích có nhiều nhân vật mồ côi, họ có những nét giống nhau, tạo thành “kiểu nhân vật mồ côi” – một đối tượng nhỏ bé, cô đơn, yếu thế trong gia đình và xã hội.
- Cô Tấm: Nhân vật mồ côi tiêu biểu.
+ Bất hạnh đến hai lần (là “người con riêng”, “ người mồ côi” lại phải sống với mụ dì ghẻ và cô em gái cùng cha khác mẹ vô cùng độc ác.)
* Dự kiến trả lời:
* -Tấm (đại diện cho nhân vật mang tính thiện) là cô gái chăm chỉ, hiền lành, đôn hậu (bắt đầy giỏ tép mong có được yếm đỏ, chăn trâu đồng xa, nhịn cơm để dành nuôi bống).
- Cái ác hiện hình trong mẹ con dì ghẻ qua các hành động: Lừa gạt lấy mất giỏ tép để tước đoạt ước mơ bé nhỏ là cái yếm đỏ; lén lút giết chết bống là người bạn duy nhất của Tấm; trắng trợn trộn thóc với gạo nhằm dập tắt niềm vui được giao cảm với đời của cô.
* Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con dì ghẻ phát triển theo chiều hướng từ thấp đến cao.
- Mọi đau khổ của Tấm bị đẩy lên tận cùng.
- Sự độc ác của mẹ con dì ghẻ cũng được đẩy lên tận cùng.
(Đoạn này giáo viên cần hướng dẫn học sinh hiểu về “nhân vật chức năng”- loại nhân vật nguyên phiến, bất biến, đảm nhiệm chức năng biểu tượng cho hai hạng người: giàu- nghèo, thiện - ác. Tấm đại diện cho nhân vật mang tính thiện. Mẹ con Cám đại diện cho cái ác).
* Dự kiến trả lời:
- Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám phản ánh mâu thuẫn, xung đột thiện- ác trong xã hội.(Tấm và mẹ con Cám đại diện cho các lực lượng đối lập: dì ghẻ- con chồng, chị em cùng cha khác mẹ trong gia đình phụ quyền thời cổ; lực lượng đối lập thiện- ác trong xã hội).
Đặc trưng của truyện cổ tích: Xung đột xã hội được thể hiện trên sân khấu gia đình.
*Dự kiến trả lời:
Dù lâu hay mau, dù gian nan khó khăn đến thế nào, song thiện nhất định thắng ác.
Giải quyết nhờ sự giúp sức của yếu tố thần kì.
Con đường đến với hạnh phúc của cô gái mồ côi
*Dự kiến trả lời:
Không. Vì trong xã hội người bóc lột người thì đau khổ của người mồ côi là có thực và phổ biến, còn hạnh phúc mà họ được hưởng thường hiếm hoi, chỉ là mơ ước - mơ ước về hạnh phúc thể hiện lòng lạc quan yêu đời, hi vọng về tương lai,về sự công bằng của nhân dân.
Bằng con đường sử dụng yếu tố thần kì.
*Dự kiến trả lời:
Là những yếu tố siêu nhiên, sản phẩm do trí tưởng tượng của con người sáng tạo nên.
Gồm: Nhân vật thần kì: Tiên, Bụt...; con vật thần kì: ngựa thần, chim thần, gà biết nói...; đồ vật thần kì: khăn thần, mâm thần,...; và sự hoá thân của nhân vật.
*Dự kiến trả lời:
- Không thể thiếu.
- Giúp Tấm và đưa Tấm đạt tới đỉnh cao hạnh phúc:
+ Bụt, gà, chim sẻ: Giúp Tấm khi cô buồn tủi: Mất yếm đỏ, không tìm thấy xương cá bống, nhặt thóc ra khỏi gạo trộn, đi hội làng, gặp vua và trở thành hoàng hậu (hình ảnh cao nhất về hạnh phúc theo quan niệm của nhân dân.)
+ Ông Bụt: Nhân vật tôn giáo (Phật giáo) đã được dân gian hoá, trở thành ông lão hiền lành, tốt bụng, xuất hiện đúng lúc để thực hiện mơ ước của nhân dân.
Là nhân vật phù trợ, xuất hiện giúp nhân vật chính giải quyết khó khăn ,thúc đẩy cốt truyện phát triển.
Về ý nghĩa xã hội: Bụt đền bù những thiệt thòi mà Tấm phải chịu; đóng vai trò tạo thêm sức mạnh cho Tấm đi đến thắng lợi sau này.
Thể hiện triết lý “ở hiền gặp lành”- một triết lý phổ biến trong truyện cổ tích.
(Giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu nét đặc sắc của Tấm Cám khi không dừng ở kết thúc phổ biến trong các truyện cổ tích ở Châu Âu: Nhân vật trải qua thử thách với sự giúp đỡ của yếu tố thần kì và hưởng hạnh phúc.)
2/ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu tiến trình II:
Thái độ phản kháng và cuộc đấu tranh gian nan, quyết liệt để giành và giữ hạnh phúc của Tấm
*Dự kiến trả lời:
- Sự tàn nhẫn độc ác cùng với động cơ muốn chiếm đoạt tất cả những gì của Tấm khiến mẹ con Cám tìm mọi cách để tiêu diệt tận cùng sự tồn tại của Tấm: Chim vàng anh, xoan đào, khung cửi...
- Từ sự bị động, phản ứng yếu ớt, Tấm đã có phản ứng mạnh mẽ hơn và cuối cùng đã hành động quyết liệt:
+ Trước kia: Khi bị bắt nạt, Tấm chỉ biết khóc (Thái độ phản kháng đầu tiên)
+ Bị mụ dì ghẻ chặt cau giết chết, linh hồn Tấm vùng dậy mạnh mẽ và quyết liệt, trở về cuộc đời đòi hạnh phúc.
Sự hoá thân.
*Dự kiến trả lời:
- Phản ánh tính chất gay gắt, quyết liệt của cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác.
- Thể hiện sức sống mãnh liệt, không thể bị tiêu diệt của cái thiện.
+ Hoá chim vàng anh để mắng Cám.
+ Hoá cây xoan đào, khung cửi: để rủa và tuyên chiến với Cám.
+ Hoá ra cây thị (quả thị) để trở về với đời.
Cuộc chiến đấu giữa Tấm với mẹ con dì ghẻ gian nan, quyết liệt nhưng cuối cùng Tấm đã chiến thắng. Đó là chiến thắng tất yếu của cái thiện, của lòng nhân đạo và lạc quan theo quan niệm của nhân dân.
* Dự kiến trả lời:
- Tiến trình I: Mỗi lần Tấm khóc thì Bụt hiện lên giúp đỡ, ban tặng vật thần kì.
(Bụt chỉ giúp Tấm trong giai đoạn trước khi Tấm chết)
- Tiến trình II:
+ Bụt không xuất hiện, Tấm không khóc mà đấu tranh quyết liệt
+ Yếu tố thần kì đã được hoá thân vào sự bất tử của Tấm (Yếu tố thần kì không thay Tấm trong cuộc chiến đấu mà chỉ là nơi Tấm hoá thân để trở về đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn mà thôi)
Đây là chặng đời đẹp nhất, phong phú nhất và toàn vẹn nhất của Tấm vì nó thể hiện tập trung hành động chức năng của nhân vật (Nhân dân lao động gửi vào Tấm ý thức giành và giữ hạnh phúc của mình)
* Dự kiến trả lời:
- Khi nói đến mơ ước trong cổ tích, không thể thiếu vai trò của yếu tố thần kì.
- Sau bao lần hoá thân, Tấm trở về với cuộc đời xinh đẹp hơn, trở thành hoàng hậu, còn mẹ con Cám bị tiêu diệt.
+Phản ánh mơ ước “ở hiền gặp lành” của nhân dân.
+ Nêu triết lý: “ác giả ác báo”, phù hợp với mong ước của nhân dân về sự trừng phạt kẻ thù.
Phản ánh mơ ước về sự công bằng xã hội: Người lương thiện không thể chết oan, phải được hưởng hạnh phúc, còn kẻ ác nhất định bị trừng phạt
+ Phản ánh quan niệm và mơ ước hết sức thực tế về hạnh phúc của người lao động: Hạnh phúc không phải là ở kiếp sau mà là phải tìm và giữ hạnh phúc thực sự ở ngay cõi đời này.
(Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh hiểu: Sự hoá thân trong truyện không phải là để thể hiện thuyết luân hồi của nhà Phật: Truyện chỉ mượn cái vỏ bề ngoài để thể hiện mơ ước, tinh thần lạc quan của người lao động mà thôi. Bởi luân hồi nhà Phật là để chịu đau khổ do tội lỗi từ kiếp trước, rồi sau đó tìm hạnh phúc ở cõi Niết Bàn cực lạc. Còn cô Tấm chết đi sống lại nhiều lần không phải để chịu khổ đau, cũng không định tìm hạnh phúc mơ hồ ở cõi Niết Bàn mà quyết giành và giữ hạnh phúc ngay ở nơi trần thế. Điều đó thể hiện lòng yêu đời và tinh thần thực tế của người lao động khi sáng tạo cổ tích)
+ Kết thúc có hậu là biểu hiện cao nhất của mơ ước
Những mơ ước trên biểu hiện tâm hồn lãng mạn, tinh thần lạc quan yêu đời và niềm khát khao vươn tới cái đẹp, cái thánh thiện của nhân dân lao động.
3/ Hướng dẫn học sinh hiểu về cách kết thúc truyện.
(Giáo viên dạy theo bản kể của Chu Xuân Diên – Lê Chí Quế, đồng thời giới thiệu cho học sinh bản kể khác, có kết thúc Tấm giết chết Cám, làm mắm gửi cho dì ghẻ).
*/ Dự kiến trả lời:
- Rất đích đáng.
- Đây là môtip nghệ thuật cần phải có để thể hiện triết lý “ác giả ác báo” của người sáng tác.
(Giáo viên phải giúp học sinh hiểu về đặc điểm nhân vật chức năng – Tấm: Tấm là nhân vật chức năng – hành động, được giao phó nhiệm vụ (thể hiện quan điểm mơ ước của nhân dân), phải bằng việc làm để đi đến cùng mục đích. Vẻ đẹp của nhân vật chức năng hành động không có liên quan gì đến việc nhân vật đó đã hoàn thành nhiệm vụ theo cách nào. Nhân vật Tấm chỉ tồn tại trong hành động và sáng giá trong hành động mà thôi.
Sự trừng phạt của Tấm là thay mặt cái thiện, tiêu diệt cái ác, thể hiện cảm quan lãng mạn táo bạo của nhân dân)
*/ Hướng dẫn học sinh bộc lộ cảm xúc sau khi học:
Dự kiến trả lời:
- Yêu thích truyện Tấm Cám hơn
- Truyện Tấm Cám là truyện cổ tích hay, có nhiều giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
- Truyện có ý nghĩa giáo dục (Nhận thức triết lý nhân sinh, sống lạc quan hơn...)
III/ Hướng dẫn học sinh luyện tập
*Dự kiến trả lời:
- Đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích thần kì.
+ Sự tham gia khá phổ biến của yếu tố thần kì: Tiên, Bụt, vật thần kì, con vật thần kì, biến hoá thần kì.
+ Kết cấu tương đối thống nhất: Dạng kết cấu phổ biến là nhân vật chính trải qua phiêu lưu, thử thách -> cuối cùng đạt được ý nguyện (Trở thành vua, hoàng hậu, hưởng hạnh phúc).
Hai dạng kết cấu: - Truyện về người đi tìm
-Truyện về nạn nhân.
- Tấm Cám:
+ Kết cấu: thuộc loại kết cấu thứ hai: Trải qua hoạn nạn, thử thách -> hưởng hạnh phúc, làm hoàng hậu. (Kết cấu vừa tiêu biểu, vừa phong phú bởi sự tham gia của nhiểu chi tiết cụ thể sinh động)
+ Yếu tố thần kì:
Nét đặc sắc:
Có sự tham gia đầy đủ nhất của các yếu tố thần kì
(So sánh với
Cây tre trăm đốt: Bụt, cây tre thần kì
Sọ Dừa : Biến hoá thần kì
Cây khế : Con vật thần kì)
Nét đặc sắc về nhân vật Bụt, sự hoá thân.
* Kết thúc bài học
Giáo viên hướng dẫn học sinh tự rút ra kết luận qua phần nội dung phân tích.
Yêu cầu: Học sinh đọc phân vai đoạn cuối của tiến trình II
Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà: Luyện tập, học bài cũ; Soạn “Chử Đồng Tử”.
PHẦN KẾT LUẬN
Việc dạy - học văn có những khả năng giáo dục rất quan trọng, do đó đề ra những phương pháp và biện pháp cụ thể, thích hợp khi tiếp cận từng thể loại tác phẩm, phù hợp với đặc điểm tâm lý tiếp nhận của đối tượng học sinh... là một việc làm quan trọng và cần thiết.
Tấm Cám là một truyện cổ tích hay và tiêu biểu nhất của Việt Nam. Năm 2003, Tấm Cám lại được đưa vào dạy trong chương trình sách giáo khoa thí điểm cho học sinh lớp 10 THPT. Với luận văn này, người viết xin góp một phần công sức vào việc nghiên cứu truyện cổ tích Tấm Cám trong nhà trường, để bàn luận, khẳng định và khơi sâu những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Từ những cơ sở lí luận về: Đổi mới phương pháp dạy học văn; Tấm Cám trong nhà trường phổ thông; Đặc điểm tâm lí tiếp nhận Tấm Cám của học sinh lớp 10 THPT;Vai trò và tác dụng của yếu tố thần kì trong dạy học Tấm Cám.
Từ việc “Khảo sát và đánh giá việc dạy và học Tấm Cám theo chương trình thí điểm ở trường THPT”.
Người viết đã đề xuất “Phương hướng dạy học Tấm Cám từ việc nhận thức về vai trò và tác dụng của yếu tố thần kì”.
Cách làm này đi từ lí luận, thực tiễn để tìm phương pháp, biện pháp thích hợp. Do đó đã đem lại giá trị lí luận và giá trị thực tiễn cho luận văn.
Với yêu cầu của luận văn “Vai trò và tác dụng của yếu tố thần kì trong dạy học Tấm Cám nhằm phát huy năng lực nhận thức và cảm thụ thẩm mĩ cho học sinh lớp 10 THPT”, người viết đã đưa ra các biện pháp, cách thức hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo tiến trình của cốt truyện, theo đặc trưng thi pháp loại thể (đặc biệt nhấn mạnh đặc điểm thi pháp về yếu tố thần kì) nhằm phát huy năng lực nhận thức và cảm thụ thẩm mĩ của các em từ đó nâng cao hiệu quả của việc dạy học truyện cổ tích trong nhà trường phổ thông.
Thông qua những phương hướng và biện pháp đã đề xuất, người viết hi vọng với thiết kế thể nghiệm bài dạy Truyện cổ tích Tấm Cám theo sát tinh thần dạy học mới sẽ phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế của các bài dạy Tấm Cám hiện nay. Từ đó mà có khả năng phát huy một cách tối đa năng lực tiếp nhận sáng tạo, khả năng tiếp nhận chủ động của học sinh và tích cực hoá hoạt động của các em trên lớp. Đồng thời cũng có thể nâng cao được “tầm đón nhận” của học sinh, rút ngắn được “khoảng cách thẩm mĩ” giữa học sinh với truyện cổ tích có từ “ngày xửa ngày xưa”, phù hợp với tâm lí tiếp nhận của học sinh, đưa các em đến và nhập vào “thế giới cổ tích” bằng con đường ngắn nhất. Đó là con đường vận động bên trong của cảm xúc, của tư duy nghệ thuật thông qua các hoạt động tri giác, liên tưởng, tưởng tượng, phân tích, tổng hợp....
Với phương pháp và biện pháp này, học sinh sẽ trở thành trung tâm, thành “bạn đọc sáng tạo” đích thực trong giờ học. Việc nhận thức và cảm thụ cái hay, cái đẹp trong truyện Tấm Cám của các em trở thành quá trình tự giác. Các em sẽ có hứng thú và tự giác biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo để “phát huy năng lực nhận thức và cảm thụ thẩm mĩ”, để thanh lọc, phát triển nhân cách, niềm tin cũng như trình độ am hiểu văn chương. Do đó hiệu quả tác động thẩm mĩ trong giờ dạy được nâng lên rõ rệt.
Mặc dù đã nỗ lực cố gắng hết sức, song người viết biết rằng những suy nghĩ, tìm tòi của bản thân về vấn đề này không tránh khỏi những thiếu sót. Người viết mong nhận được những góp ý chân thành để có dịp sẽ tiếp tục hoàn thiện hơn việc nghiên cứu của mình.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Hà Châu
: Về đặc điểm thẩm mĩ của truyện cổ tích thần kì ở Việt Nam. Tạp chí Văn học số 5 - 1972.
2. Nguyễn Đổng Chi
: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập) NXB KHXH. 1972 - 1982
3. Nguyễn Viết Chữ
: Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể) - Nxb ĐHQG Hà Nội - 2001
4. Chu Xuân Diên
Lê Chí Quế
: Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam - Nxb ĐHQG Hà Nội - 1996
5. Chu Xuân Diên
: Văn hoá dân gian. Mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại - Nxb Giáo dục - 2001.
Lương Văn Đang
Đinh Thái Hương
: Giảng văn I - Nxb ĐH và THCN - H - 1982.
Nguyễn Xuân Đức
: Những vấn đề thi pháp văn học dân gian.
Nxb KHXH - 2003.
Trần Thanh Đạm
: Vấn đề giảng dạy tác phẩm theo loại thể.
Nxb Giáo dục - H - 1971
Hoàng Ngọc Hiến
: Giảng truyện Tấm Cám ở trường phổ thông.
Báo Giáo dục và Thời đại số 29. Ngày 18/7/1994.
Lê Văn Hồng
(chủ biên)
: Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm.
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội - 1997.
Nguyễn Thanh Hùng
: Văn học và nhân cách - Nxb Văn học - H. 1995.
Nguyễn Thanh Hùng
: Đọc văn và tiếp nhận văn chương - Nxb Giáo dục - H.2002.
Nguyễn Thanh Hùng
: Hiểu văn - Dạy văn - Nxb Giáo dục - H. 2003
Nguyễn Thị Thanh Hương
: Dạy học văn ở trường phổ thông - Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội - 2001.
Đinh Gia Khánh
: Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám - Nxb Giáo dục - H. 1968.
Vũ Ngọc Khánh
(Chủ biên)
: Sách giáo viên văn 7 - Tập I - Nxb Giáo dục. 1987.
17. Nguyễn Xuân Lạc
: Thử đề xuất một cách tiếp cận truyện Tấm theo tinh thần Phôncơlo học - TC văn hoá dân gian. Số 3 - 1991.
18. Nguyễn Xuân Lạc
: Văn học dân gian trong nhà trường.
Nxb Giáo dục - 1998.
19. Phan Trọng Luận
: Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học - Nxb Giáo dục. H - 1993.
20. Phan Trọng Luận
(Chủ biên)
: Phương pháp dạy học văn - Tập I - Nxb Giáo dục - H. 2001.
21. Phan Trọng Luận
: Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông. Tập I. Nxb Giáo dục - H. 2002.
22. Tăng Kim Ngân
: Cổ tích thần kì người Việt - đặc điểm cấu tạo và cốt truyện. Nxb KHXH - H. 1997.
23. Phạm Xuân Nguyên
: Đôi điều suy nghĩ về truyện Tấm Cám.
TC Văn hóa dân gian - Số 2. 1994.
24. Lê Trường Phát
: Thi pháp văn học dân gian - Nxb Giáo dục. H. 2000
25. Rer.Z.Ia
: Phương pháp văn học dân gian - Nxb Giáo dục - H. 2000
26. Đặng Thiêm
: Trao đổi về giảng truyện Tấm Cám ở trường phổ thông
Báo Giáo dục và Thời đại số 34. 22/8/1994.
27. Bùi Văn Tiếng
: Bàn về cách ứng xử nghệ thuật của truyện cổ tích Tấm Cám. Báo Giáo dục và Thời đại số 39 - 26/9/1994.
28. Đỗ Bình Trị
: Phân tích tác phẩm văn học dân gian - Nxb Giáo dục - H - 1995.
29. Hoàng Tiến Tựu
: Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy nghiên cứu văn học dân gian - Nxb Giáo dục - 1997.
30. Hoàng Tiến Tựu
: Bình giảng truyện dân gian - Nxb Giáo dục - H. 1998.
31. Phạm Thu Yến
(chủ biên)
: Giáo trình văn học dân gian - Nxb Đại học sư phạm Hà Nội - H. 2002
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC1022.doc