Đề tài Vai trò và ý nghĩa của kiểm toán độc lập ở Việt nam đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

Năm : Cần phải có các trương trình đào tạo đội ngũ kiểm toán viên giỏi, có kinh nghiệm, có đạo đức nghề nghiệp, không ngừng học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới. . . nhằm đưa hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt nam đi vào nền nếp. Một hệ thống kiểm toán tốt, đủ trình độ, chặt chẽ và nghiêm túc chắc chắn xẽ góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn kịp thời và thiệt hại không đáng có giúp cho nền kinh tế đất nước theo kịp các nước lân bang.

doc45 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1517 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò và ý nghĩa của kiểm toán độc lập ở Việt nam đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh và thuận lợi trong quan hệ tài chính với các đơn vị tài chính bên ngoài. Hơn thế nữa các Nhà quản trị doanh nghiệp, các Nhà quản lý khác cần những thông tin trung thực không chỉ trên bảng khai tài chính mà còn những thông tin cụ thể về tài chính về hiệu quả và hiệu năng của mỗi bộ phận để có những quyết định trong mọi giai đoạn quản lý kể cả tiếp nhận vốn liếng, chỉ đạo và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lý. -Người lao động, khách hàng, các Nhà cung cấp và những người quan tâm khác cũng cần hiểu rõ thực chất về kinh doanh, tình hình tài chính của các đơn vị như số lượng, chất lượng sản phẩm hàng hoá,cơ cấu sản xuất và khả năng thanh toán.. Như vậy để có thông tin trung thực thì chỉ có qua kiểm toán mới có được. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì vai trò của kiểm toán độc lập là hết sức quan trọng. II.Vai trò của kiểm toán độc lập đối với khách thể của kiểm toán độc lập ở Việt nam Theo thông tư số 22 TC/CĐKT (29/01/94) đã nêu rõ đối tượng của kiểm toán độc lập chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Ngoài các doanh nghiệp đối tượng của kiểm toán độc lập có thể là các đơn vị hành chính sự nghiệp, các đoàn thể quần chúng các tổ chức xã hộivà các tổ chức quốc tế. Khi các tổ chức này có nhu cầu hoặc cơ quan quản ký cấp trên, cơ quan thuế hoặc cơ quan Nhà nước yêu cầu. Như vậy có thể nói đối tượng (khách thể) của kiểm toán độc lập rộng hơn so với kiểm toán Nhà nước. Khi nền kinh tế thị trường phát triển, các thành phần kinh tế các tổ chức kinh tế đa dạng và phức tạp, bên cạnh đó mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, sự quan tâm đến tình hình tài chính của nhau ngày càng tăng hay nói cách khác ngày càng có nhiều đối tượng quan tâm đến tin tức tài chính của doanh nghiệp. Nhưng không phải tất cả mọi người đều tin ngay vào bản tự báo cáo của doanh nghiệp mà phải có sự kiểm tra độ tin cậy của bản báo cáo đó. Điều đó dẫn đến nhu cầu về kiểm toán độc lập ngày càng cao và khách thể của kiểm toán độc lập ngày càng mở rộng. ở Trung Quốc thì đối tượng bắt buộc phải được kiểm toán độc lập xác nhận gồm: - Tất cả các công ty có vốn đầu tư nước ngoài(Công ty 100% vốn nước ngoài, liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh). - Tất cả các công ty có phát hành cổ phiếu(tham gia thị trường chứng khoán) đều phải được kiểm toán độc lập xác nhận trên báo cáo tài chính hai năm liềnvà phải có lãi. - Các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện tư nhân hoá.. Riêng ngân hàng Thượng Hải quy định: “Tất cả khách hàng muốn vay tiền của ngân hàng Thượng Hải đều phải nộp báo cáo tài chính đã được kiểm toán viên xác nhận”. Nhưng ở Việt nam ta, thông tư số 22 quy định khách thể kiểm toán độc lập gồm: - Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. - Các doanh nghiệp liên doanh giữa các tổ chức trong và ngoài nước. - Các hợp tác xã và doanh nghiệp cổ phần. - Các doanh nghiệp và xí nghiệp tư (kể cả các công ty trách nhiệm hữu hạn). - Các công trình dự án có nguồn ngân sách từ bên ngoài ngân sách Nhà nước. 1.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Gồm các doanh nghiệp giữa các tổ chức trong và ngoài nước và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) Đại hội Đảng 8 đã đề ra là đưa đất nước phát triển theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nhằm tiến nhanh, tiến mạnh, vững chắc lên Chủ nghĩa xã hội . Do đó để thực hiện được những mục tiêu trên thì cơ chế quản lý kinh tế cũng phải được hoàn thiện cho phù hợp đặc biệt đó là nguồn vốn lớn lao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Việt nam ta đã phải trải qua nhiều cuộc khánh chiến trường kỳ đi lên xây dựng đất nước từ một nền kinh tế nhỏ bé, lạc hậu, công nghiệp nhỏ là chủ yếu với một cơ sở hạ tầng bị chiến tranh tàn phá nặng nề đặc biệt trải qua một thời gian dài với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp cho nên nền kinh tế vốn đã yếu kém càng trở lên khó khăn hơn trước, từ những thực tế đó Đại Hội Đảng 6 (12/86) đã quyết định chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nuớc cùng với chinh sách mở cửa “Việt nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” để nhằm thu hút sự đầu tư giúp đỡ của nước ngoài, để đưa đất nước đi lên hoà nhập với nền kinh tế thế giới thông qua thực hiện phân công lao động quốc tế. Chủ trương của Nhà nước là tăng tốc độ phát triển kinh tế, đạt bình quân 400usd/1 người một năm vào cuối thế kỉ 20,muốn đạt mục tiêu này thì tốc độ phát triển bình quân hàng năm phải đảm bảo đạt là 7% trở lên và nhu cầu về vốn đầu tư phải có từ 4,2 tỷ usd trở lên cho mỗi năm tức là tích luỹ phải đạt trên 22% thu nhập quốc dân hàng năm. Đây là con số tích luỹ vượt quá khả năng nền kinh tế nước ta cho nên nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài là nguồn bổ xung quan trọng để nước ta có thể đạt được 26,3 tỷ usd tổng sản phẩm thu nhập năm 2000 đảm bảo gấp đôi thu nhập quốc dân năm 1990. Vì nếu có vốn đầu tư nước ngoài có thể mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và dịch vụ, không những thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn giúp ta giải quyết tình trạng thất nghiệp đang đè nặng nên nền kinh tế của đất nước. Hơn thế nữa thông qua đầu tư của các nước phát triển chúng ta có điều kiện tiếp nhận những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới nhờ đó có thể giảm bớt được khoảng cách tăng trưởng cuả ta so với các nước . Chỉ có dựa vào sự thu hút vốn đầu tư quốc tế chúng ta mới đủ khả năng khai thác có hệu quả những tiềm năng của đất nước mà bao năm qua không có vốn chúng ta không thể đưa vào khai thác như dầu mỏ, khoáng sản. . . Bên cạnh đó thông qua hợp tác liên doanh với nước ngoài chúng ta còn học được kinh ngiệm quản lý kinh doanh, học tập cách làm thương mại và phong cách làm việc trong điều kiện kinh tế thị trường của các doanh nghiệp nước ngoài. Thực trạng hơn 10 năm qua chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn đó là không ngừng tăng trưởng kinh tế đưa đất nước dần thoát ra khỏi đói nghèo, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện.. . Mặc dù trong năm qua khu vực có những biến động, khủng khoảng lớn về kinh tế nhưng tốc độ tăng trưởng của Việt nam vẫn đạt 5.6%(năm 1998) cao nhất trong khu vực Đông Nam á. Có được thành tựu đó là nhờ sự lỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta trong đó cũng có sự đóng góp của các doanh nghiệp Việt nam có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là nguồn vốn FDI trong 10 năm qua không chỉ thay đổi về số lượng dự án mà tổng số vốn đầu tư và chất lượng đầu tư cũng thay đổi đáng kể. Từ 1988-1990 FDI chỉ dừng lại ở những dự án vừa và nhỏ với quy mô trung bình 8,5 triệu USD /1dự án. Cuối năm 1990 có khoảng 203 dự án với tổng số vốn 1726 triệu USD. Đến giai đoạn 91-95 tỷ lệ tăng trung bình là 50 % tuy nhiên do ảnh hưởng của khủng khoảng kinh tế khu vực lên đầu tư trực tiếp vào Việt nam bị ảnh hưởng và chững lại có suy giảm nên 1996 tổng FDI là 8,5 tỷ USD tăng 30% so với năm 95 với độ lớn trung bình của dự án là 26,1 triệu USD thì đến năm 1997 tổng FDI chỉ còn khoảng 4,4 tỷ với trung bình 13,1 triệu USD/dự án. Năm 1998 có khoảng 260 dự án với tổng số vốn là 4827,6 triệu USD. Cũng theo số liệu thống kê năm 1997 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nuớc ngoài đã tạo ra 7,8 % GDP chưa kể xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt-Xô Petro. Tính đến hết ngày 30/9/1998 có 1052 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt nam. Những con số trên cho thấy FDI ở Việt nam ngày càng có xu hướng gia tăng nhưng để cho việc đầu tư vào nền kinh tế trong nước đảm bảo và đạt hiệu quả cao, đôi bên cùng có lợi thì Đảng và Nhà nước ta cũng đã quy định về việc áp dụng chế độ kế toán Tài chính vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi cấp bách đặc biệt là kiểm toán độc lập trong lĩnh vực này cũng được nâng cao không chỉ đối với Việt nam mà còn đối với cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư vào Việt nam. Điều 98 NĐ 18-CP ngày 16/3/1993 của chính phủ quy định chi tiết luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam đã quy định: “Báo cáo kế toán của doanh nghiệp có vốn đầu tư nuớc ngoài phải được công ty kiểm toán xác nhận trước khi gửi cho Uỷ Ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư và cơ quan thuế trong vòng 3 tháng kể từ ngày khoá sổ năm tài chính của doanh nghiệp”. Điều 2 quy chế kiểm toán độc lập (ban hành kèm theo nghị định 07/cp ra ngày 29/01/94 của chính phủ cũng đã quy định: “Báo cáo quyết toán của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, xí nghệp tư doanh hoạt động theo lụât công ty, luật doanh nghiệp tư nhân phải có xác nhận của kiểm toán độc lập mới có giá trị pháp lý”. Thông tư 27 TC/CĐKT quy định : “Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam thì công việc kiểm toán được thực hiện hàng năm. Báo cáo quyết toán gửi cho các cơ quan quản lý Nhà nước phải kèm theo báo cáo kiểm toán của tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động hợp pháp tại Việt nam hoặc một tổ chức kiểm toán độc lập khác được Bộ tài chính chấp nhận”. Đảng và chính phủ ta khuyến khích các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng chế độ kế toán thống kê quy định tại pháp lệnh thống kê ngày 10/5/1988. Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể thực hiện chế độ kế toán và thống kê theo những tiêu chuẩn và quy tắc phổ biến được Bộ tài chính và Tổng cục thống kê chấp thuận và chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính và thống kê Việt nam. Qua đó thực trạng đã diễn ra một số vấn đề sau: 1. Một số các xí nghiệp đã coi nhẹ công tác thống kê kế toán đặc biệt là công tác thống kê, hơn thế nữa có những xí nghiệp trong một thời gian dài không có một báo cáo nào gửi tới các cơ quan chức năng. 2. Do có đối tác nước ngoài thuộc nhiều nước khác nhau nên một số xí nghiệp áp dụng một số chế độ kiểm toán và thống kê khác nhau điều đó đã gây ra nhiều khó khăn cho các cán bộ Việt nam dẫn đến báo cáo gửi các cơ quan quản lý không đúng như thời gian quy định gây khó khăn cho các Nhà quản lý. 3.Chất lượng các báo cáo không đạt yêu cầu như thu chi, phân bổ không phù hợp với quy định hiện hành của Bộ tài chính. Đặc biệt nhiều khoản thu chi do vô tình hay cố ý không được phản ánh trong báo cáo kế toán nhằm giảm các khoản phải nộp cho ngân sách Nhà nước điển hình như bảo hiểm xã hội, thuế thu nhập cá nhân. . . Những tồn tại trên đã gây khó khăn đến việc tổng hợp số liệu các cơ quan chức năng Nhà nước, thiếu cơ sở dữ liệu để đánh giá chính xác đặc biệt là hoạt động hợp tác đầu tư nước ngoài từ đó có những đánh giá sai lệch về vai trò của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế chung của đất nước. Điều đó đòi hỏi các báo cáo kế toán phải được công ty kiểm toán độc lập kiểm tra trước khi gửi nó đến cơ quan cấp trên. Hơn nữa sự ra đời của kiểm toán độc lập đã tạo ra sức hút mạnh mẽ với các nhà đầu tư nước ngoài. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài các danh nghiệp nước ngoài liên tục tìm kiếm cơ hội để xâm nhập vào thị trường Việt nam bởi vì Việt nam là một nước đang phát triển nhiều tài nguyên thiên nhiên và nhân công dồi dào. . . Tuy nhiên nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài chưa quyết định đầu tư vào Việt nam hoặc đã có giấy phép nhưng chưa thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng không thực hiện triệt để dự án.Một trong những nguyên nhân chủ yếu giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài là chưa có đủ tổ chức tư vấn về tài chính, kế toán và kiểm toán có uy tín theo tập quán quốc tế. Người nước ngoài đã quen với cách thu thập thông tin qua người trung gian bằng cách thuê các kiểm toán viên kiểm tra khả năng tài chính của đối tác trước khi xác định đầu tư. Hay ngay trong quá trình kinh doanh cũng phải có người tư vấn kiểm toán xác nhận báo cáo tài chính. Hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt nam còn nhỏ bé đã làm cho nhiều người nước ngoài e ngại bỏ vốn đầu tư vào Việt nam. Một cố vấn của Ngân hàng thế giới nói “Chỉ khi nào kiểm toán Việt nam có thể kiểm tra bảo đảm rằng vốn của Ngân hàng thế giới đưa vào Việt nam được sử dụng đúng mục đích và có khả năng hoàn trả thì Ngân hàng thế giới mới yên tâm bỏ vốn vào Việt nam ”. Nhiều chuyên gia trên thế giới nhận định kiểm toán Việt nam phát triển phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ tạo ra môi trường thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tăng thêm lòng tin, khuyến khích các doanh nghiệp có tiềm năng vào Việt nam hoạt động. Như vậy kiểm toán Việt nam phải phát triển cả chiều rộng và chiều sâu mới có đủ khả năng thực hiện đúng được yêu cầu cấp bách của các cá nhân và tổ chức nước ngoài. Có thể nói họ yên tâm vào các kết quả được kiểm toán và sẽ lựa chọn những lĩnh vực, phạm vi, khía cạnh để đầu tư vào Việt nam với mục đích thu được hiệu quả và lợi nhuận lớn nhất. Do vậy nhà nước cũng phải có những biện pháp thích hợp tạo điều kiện thuận lợi cho công việc đầu tư nước ngoài vào Việt nam để có thể cải tiến nền kinh tế đất nước cho một tương lai tốt đẹp. 2.Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn a. Công ty cổ phần Nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, với sự bung ra cuả các thành phần kinh tế các doanh nghiệp có nhiều hình thức khác nhau: các tổ chức, đơn vị, hợp tác xã... tất cả cùng vận động trong cơ chế thị truờng. Sự tiếp cận đuợc lý thuyết về kinh tế thị trường đã là một vấn đề nhưng còn khó hơn để làm sao vận hành lý thuyết đó vào thực tế nhằm đưa hoạt động sản xuất kinh doanh đó có hiệu quả, giảm thiểu những khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế thị trường... Đó là mối quan tâm của Nhà nước và chính các đơn vị kinh doanh do đó đơn vị kinh doanh cũng không thể lơ là bỏ mặc trách nhiệm cho Nhà nước như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Như vậy trong suốt thời gian chuyển sang cơ chế thị trường. Một số các doanh nghiệp làm ăn có lãi vì lý do nào đó như biết cách quản lý, biết cách sử dụng vốn có hiệu quả... bên cạnh đó còn có các đơn vị làm ăn bị thua lỗ, như vậy biện pháp để đưa các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trở lại sản xuất có lãi thì Nhà nước ta đã đề ra cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, mục đích để giảm gánh nặng cho Nhà nướcvà tăng trách nhiệm cá nhân đối với đơn vị... Hiện nay ở nước ta đã bắt đầu có những doanh nghiệp cổ phần hoá bước đầu làm ăn có hiệu quả. Tháng 12/97 hội nghị lần 4 ban chấp hành trung ương Đảng đã ra nghị quyết trong đó nêu rõ định hướng và giải pháp cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước . “Phân loại doanh nghiệp nhà nước công ích, doanh nghiệp kinh doanh. xác định danh mục loại doanh nghiệp nào Nhà nước phải giữ 100% vốn , loại doanh nghiệp nào cần phải giữ tỷ lệ vốn để chi phối, loại doanh nghiệp Nhà nước chỉcần giữ phần giữ một phần vốn ở mức thấp”, “Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn cần lập kế hoạch cổ phân hoá để tạo động lực phát triển và thúc đẩy làm ăn có hiệu quả”. Thông qua đó Nhà nước xẽ tạo điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp cổ phần phát triển những thế mạnh của mình. Việc cổ phần hoá ở nước ta diễn ra rất chậm với số doanh nghiệp được cổ phần không lớn. Nguyên nhân thực tế đó là do trước đây chủ hoặc giám đốc doanh nghiệp toàn quyền quyết định đối với doanh nghiệp nhưng khi cổ phần thì quyền quyết định không còn là duy nhất mà do Hội đồng quản trị. .. Tâm lý ngại cổ phần hoà cũng là một nguyên nhân cản trở tiến trình cổ phần hoá ở nước ta. Nhưng một nguyên nhân không kém phần quan trọng là việc định giá, đánh giá tài sản của doan nghiệp trước khi cổ phần hoá một doanh nghiệp. Đây là một vấn đề hết sức khó khăn đối với các doanh nghiệp bởi vì việc định giá phải như thế nào để phù hợp với các bên. Kiểm toán độc lập ra đời đã đáp ứng được yêu cầu đánh giá và định giá tài sản một cách đúng đắn và phù hợp với lợi ích của các bên. Đối với các công ty cổ phần là khách thể của kiểm toán độc lập đã được quy định trong quy chế về kiểm toán độc lập. Đó là các báo cáo quyết toán hàng năm phải gửi kèm theo báo cáo kiểm toán của tổ chức kiểm toán độc lập. ở Trung Quốc thì các công ty có phát hành cổ phiếu đều phải qua kiểm toán độc lập xác nhận trên báo cáo tài chính 2 năm liền và phải có lãi trong đó các công ty được phát hành cổ phiếu cho người nước ngoài thì phải được công ty quốc tế kiểm toán, như vậy kiểm toán độc lập có một vai trò hết sức to lớn đối với các công ty cổ phần góp phần cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị đạt hiệu quả. Ban quản trị, hội đồng quản trị có được những báo cáo trung thực để ra quyết định hội đồng. Đây là công việc sống còn của mỗi đơn vị nói chungvà các công ty cổ phần nói riêng, hơn thế nữa muốn thu hút được nguồn vốn đầu tư bên ngoài (các cá nhân, những người lao động..) thì dĩ nhiên nếu là công ty cổ phần làm ăn có lãi họ xẽ thuê kiểm toán độc lập về kiểm toán các bảng khai tài chính để tạo sự tin tưởng của những người quan tâm đến bảng báo cáo tài chính khi đó lượng vốn thu được từ những người đầu tư sẽ tăng lên. Mặt khác các cổ đông, góp vốn, liên doanh hoặc mua cổ phiếu của doanh nghiệp nhưng không dễ gì có thể kiểm tra kỹ lưỡng báo cáo tài chính do không có nghiệp vụ hoặc không phải ai cũng có thể kiểm tra. .. Do đó khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán viên xác nhận là trung thực, hợp lý thì có thể yên tâm chia lợi tức và quyết định tiếp tục hoặc không tiếp tục tham gia kinh doanh. Có khi những cổ đông trước khi quyết định mua cổ phiếu với số lượng lớn cũng mời kiểm toán độc lập đến để kiểm tra báo cáo tài chính của công ty. Như vậy kiểm toán độc lập xuất hiện đã làm thoả mãn nhu cầu của các cơ quan Nhà nước, các công ty cổ phần và cổ đông. Nhà nước có báo cáo tài chính để xem xét hoạt động của doanh nghiệp để từ đó tính các khoản phải nộp vào ngân sách tránh trường hợp các công ty ghi giảm các khoản nộp vào ngân sách Nhà nước. Măt khác trên cơ sở đó Nhà nước đưa ra những biện pháp để quản lý nền kinh tế, hội đồng quản trị cần có thông tin trung thực để quyết định phương hướng hoạt động và phân chia lợi nhuận, những cổ đông thì yên tâm hơn khi mua cổ phiếu tránh những rủi ro lớn. Một vấn đề nữa là khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, việc mua bán các chứng khoán diễn ra thường xuyên thì xẽ dẫn đến sự ra đời của thị trường chứng khoán đó là một tất yếu khi đó việc công khai các thông tin có liên quan đến các công ty phát hành chứng khoán trở nên rất quan trọng, nó có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư và các công ty phát hành vì đối với các nhà đầu tư cần mọi thông tin về công ty để ra quyết định đầu tư, nếu công ty có tình hình tài chính ổn định, làm ăn có lãi thì nhà đầu tư xẽ quyết định đầu tư và ngược lại, hay hiện tại công ty làm ăn kém hiệu quả nhưng trong tương lai công ty có một triển vọng tốt hơn, thì các nhà đầu tư xẽ xem xét và đưa ra quyết định. Hơn thế nữa việc khẳng định giá trị của công ty có ảnh hưởng trực tiếp tới giá chứng khoán, do vậy các nhà phát hành chứng khoán phải công khai các thông tin đầy đủ để các nhà đầu tư có thể tiếp cận, cho nên thông tin cần phải trung thực, chuẩn xác. Trong giai đoạn đầu lợi ích của các nhà đầu tư và của nhà phát hành đôi khi đối lập, nhà đầu tư muốn có thông tin về công ty trong khi đó công ty thì lại không muốn tiết lộ những thông tin xấu về bản thân. Như vậy nếu thông tin tiết lộ không chính xác thì giá chứng khoán xẽ bị sai lệch mà người chịu trách nhiệm không phải là ai hết mà chính là các nhà phát hành chứng khoán. Bên cạnh tính trung thực và chính xác thông tin còn phải mang tính kịp thời, thông tin phải được đưa ra càng sớm càng tốt vì nếu không tiết lộ ngay thì dễ có tình trạng lợi dụng thông tin để thực hiện những giao dịch nội gián. Như vậy thông tin cần phải được một tổ chức kiểm toán độc lập có uy tín kiểm toán và xác nhận vì chỉ có kiểm toán độc lập với tư cách khách quan có trình độ xẽ có được những thông tin chuẩn xác và cung cấp kịp thời. Một số nước trên thế giới có thị trường chứng khoán phát triển mạnh cũng yêu cầu các đơn vị phát hành chứng khoán tiết lộ các thông tin định kì có kèm theo xác nhận của của công ty kiểm toán bên cạnh các bản báo cáo tài chính. Trong khi đó chúng ta đang tiến hành cổ phần hoá một loạt các công ty Nhà nước làm ăn kém hiệu quả trong đó có các công ty vừa và nhỏ chuẩn bị khẩn trương cho việc hình thành thị trường chứng khoán Việt nam thì vấn đề công khai thông tin tài chính của các công ty này trở nên quan trọng và trở thành yêu cầu không thể thiếu được để thị trường chứng khoán Việt nam hoạt động lành mạnh. Như vậy việc xuất hiện các công ty cổ phần và thị trường chứng khoán là một tất yếu khách quan của phát triển kinh tế thị trường, khi đó để các công ty đi vào khuôn khổ và kinh doanh có hiệu quả thì việc yêu cầu có một tổ chức kiểm toán độc lập chuyên kiểm toán hàng năm để đưa ra các thông tin trung thực,kịp thời. . . là yếu tố rất quan trọng quyết định sự phát triển của chính bản thân doanh nghiệp và với sự phát triển chung của đất nước. b. Các công ty trách nhiệm hữu hạn Trong nền kinh tế thị trường cùng với sự ra đời và phát triển của các công ty cổ phần thì các công ty trách nhiệm hữu hạn cũng xuất hiện phổ biến ở khắp mọi nơi, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực, với nhiều đối tượng. . . Sự ra đời của các công ty nhằm đáp ứng chủ trương huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, tài nguyên của đất nước, tạo thêm việc làm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người góp vốn đầu tư, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện cho những người có vốn nhỏ dễ dàng góp vốn đầu tư cũng như dễ dàng chuyển nhượng phần vốn đó của mình. Hơn thế nữa bằng hình thức công ty các Nhà kinh doanh phân tích rõ trách nhiệm và phân chia những rủi ro có thể xảy ra và có thể huy động được số tiền để nhanh chóng phục vụ sản xuất kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn ra đời làm phong phú thêm các loại hình công ty trong nền kinh tế thị trường và tại điều 13 luật công ty thì công ty trách nhiệm hữu hạn cũng như các công ty khác phải : - Ghi chép sổ sách kế toán và quyết toán theo quy định của pháp luật về kế toán thống kê và chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính - Nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Như vậy để các công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động có hiệu quả thì Nhà nước phải kiểm tra giám sát thường xuyên, ngăn chặn kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật trong việc sản xuất kinh doanh và nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tại thông tư số 22 hướng dẫn thực hiện quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. (Ban hành kèm theo nghị định số 07ngày 29/01/1994 của chính phủ) đã quy định rõ các công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động theo luật công ty thì công việc kiểm toán được thực hiện hàng năm và báo cáo quyết toán năm gửi cho các cơ quan quản lý của Nhà nước phải kèm theo báo cáo kiểm toán của tổ chức kiểm toán độc lập. Do đó việc thực hiện của kiểm toán độc lập với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn này là hết sức cần thiết đối với chính lợi ích của công ty và hơn nữa đối với các cơ quan chủ quản, cơ quan thuế vụ thì việc báo cáo quyết toán được kiểm toán viên xác nhận là đúng đắn trên cơ sở đó xẽ tính thuế, phần nghĩa vụ mà công ty phải có trách nhiệm nộp cho cơ quan Nhà nước. Bên cạnh đó Nhà nước sẽ có các phương hướng và biện pháp chỉ đạo tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của công ty một cách gián tiếp như tăng thuế nhập khẩu hoặc giảm thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng mà các công ty, các doanh nghiệp trong nước sản xuất được. . . để các doanh nghiệp trong nước có điều kiện thuận lợi xuất khẩu ra nước ngoài, cạnh tranh trên thị trường thế giới. 3.Các doanh nghiệp tư nhân Để thực hiện nhát quán chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, khuyến khích việc đầu tư kinh doanh bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bỏ vốn ra kinh doanh, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh, ngày 21/12/1990 Quốc hội nước ta đã thông qua luật doanh nghiệp tư nhân, một loại hình doanh nghiệp mới trong nền kinh tế nước ta. với hình thức này những người có vốn, có kỹ thuật có thể tiến hành kinh doanh ở quy mô lớn, kinh doanh lâu dài, điều đó xẽ góp phần sử dụng có hiệu quả những nguồn vốn lớn trong nhân dân, sử dụng có hiệu quả những nguồn tài nguyên của đất nước, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho xã hội góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển cho nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa bằng hình thức doanh nghiệp tư nhân những nhà kinh doanh có những quyền lợi và nghĩa vụ gì khi họ kinh doanh. Tại điều 3 luật doanh nghiệp tư nhân quy định. - Chủ doanh nghiệp phải ghi chép sổ sách kế toán và quyết toán theo quy định của pháp luật về kế toán thống kê và chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính. - Chủ doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Còn theo quy chế của kiểm toán độc lập thì không bắt buộc các doanh nghiệp tư nhân phải kiểm toán các bảng khai tài chính hàng năm mà kiểm toán chỉ xẩy ra khi các doanh nghiệp yêu cầu hoặc khi có yêu cầu của các cơ quan thuế, cơ quan Nhà nước. Trong sự cạnh tranh gay gắt để tồn tại cũng như mọi doanh nghiệp khác doanh nghiệp tư nhân muốn hoạt động có hiệu quả thì chủ doanh nghiệp phải năng động. Việc kiểm toán các bảng khai tài chính của doanh nghiệp có tác động rất lớn và thúc đẩy sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp muốn vay vốn ngân hàng, muốn mua chịu hàng hoá thì các bên có liên quan yêu cầu tình hình tài chính của doanh nghiệp phải vững chắc và ổn định, khi đó ngân hàng mới có cơ sở đảm bảo để cho vay, người bán mới dám bán chịu. . . hay nói một cách khác một tổ chức hoặc bạn hàng muốn làm ăn với doanh nghiệp thì việc họ yêu cầu doanh nghiệp phải trung thực về tình hình tài chính của mình, đó là một yêu cầu chính đáng để họ có thể yên tâm khi mà bỏ đồng vốn ra làm thế nào để có hiệu quả nhất. Vì lợi ích của mình mà các doanh nghiệp yêu cầu hay mời kiểm toán độc lập. Còn đối với các cơ quan Nhà nước và cơ quan thuế vụ khi họ nghi ngờ về các bản khai tài chính của doanh nghiệp là không trung thực thì họ xẽ yêu cầu kiểm toán độc lập xác minh về tính chính xác của nó để tránh tình trạng doanh nghiệp ghi giảm phần lợi nhuận thu được để làm giảm các khoản phải nộp vào ngân sách Nhà nước. Hiện nay ở nước ta con số doanh nghiệp tư nhân không phải là nhỏ, việc họ kinh doanh hay sản xuất các mặt hàng mà pháp luật cho phép có ý nghĩa rất to lớn đóng góp một phần không nhỏ vào tổng sản phẩm quốc dân . Để thực hiện những mục tiêu lớn về tăng trưởng kinh tế, ổn định đời sống của nhân dân,đưa nhân dân thoát dần khỏi cảnh đói nghèo thì việc khuyến khích sản xuất trong dân cư là thết thực và cần thiết nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Nhưng bên cạnh đó việc quản lý đối với loại hình doanh nghiệp này làm sao để mà nó hoạt động tốt không phải là dễ, do vậy việc tăng cường kiểm toán độc lập để kiểm tra tình hình tài chính của doanh nghiệp là cần thiết . Hiện tại các bản báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp tư nhân là không bắt buộc nhưng trong tương lai khi mà loại hình doanh nghiệp phát triển mạnh thì việc bắt buộc phải có xác nhận của kiểm toán độc lập kèm theo bảng khai tài chính là cần thiết để tránh những rủi ro lớn trong kinh doanh. Hơn thế nữa trong điều kiện kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải tiến hành cạnh tranh có những doanh nghiệp trụ vững và phát triển nhưng bên cạnh đó có những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ dẫn đến sự phá sản thì việc định giá tài sản của doanh nghiệp khi bị phá sản cũng gặp nhiều khó khăn, do vậy cũng cần phải có kiểm toán độc lập là bên thứ 3 thực sự độc lập khách quan đánh giá tài sản của doanh nghiệp và dựa trên cơ sở đó doanh nghiệp có thể phân chia tài sản đó một cách công bằng. 4.Các hợp tác xã. Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay theo định hướng Xã hội chủ nghĩa thì vai trò và vị trí của loại hình kinh tế tập thể vẫn được Nhà nước khuyến khích phát triển và xác nhận là một loại hình kinh tế cơ bản trong nền kinh tế xẫ hội chủ nghĩa, có quan hệ gắn bó chặt chẽ với các loại hình kinh doanh khác trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều chính sách pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh tế tập thể phát triển sản xuất kinh doanh tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao trình độ quản lý để phát triển sản xuất nâng cao năng xuất lao động, cải thiệh đời sống người lao động, tăng phần đóng góp cho ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cùng với các doanh nghiệp Nhà nước trở thành những yếu tố chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân từng bước củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian qua Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách kinh tế để hướng dẫn giúp đỡ các đơn vị kinh tế tập thể phất triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong các lĩnh vực nông nghiệp, dịch vụ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, vận tải,xây dựng. . . Đồng thời dựa trên hiệu quả kinh tế mà đẩy mạnh việc phân công, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá giữa các đơn vị kinh tế tập thể với các đơn vị kinh tế quốc doanh và tư doanh, giữa các vùng, các ngành sản xuất. . Đơn vị kinh tế tập thể là đơn vị kinh tế tự quản của các xã viên, tự huy động, tự đóng góp các tư liệu sản xuất và các nguồn vốn khác, tự quyết định mọi vấn đề sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về thu nhập và lỗ lãi. Hợp tác xã là đơn vị kinh tế mà Nhà nước không bắt buộc phải kiểm toán các bảng báo cáo tài chính hàng năm, mà kiểm toán độc lập được kiểm toán khi được lời mời của các bên. Kiểm toán độc lập được mời khi có yêu cầu của các cơ quan chủ quản, cơ quan Nhà nước, cơ quan thuế vụ để xác định đúng đắn phần nghĩa vụ phải nộp cho ngân sách Nhà nước. Hơn thế nữa hợp tác xã gồm nhiều xã viên nên việc đánh giá tài sản ban đầu cũng như thông báo tình hình lỗ lãi khi sản xuất kinh doanh nếu các xã viên hay hợp tác xã yêu cầu kiểm toán thì kiểm toán độc lập được phép. Như vậy kiểm toán đối với hợp tác xã có ý nghĩa to lớn cho việc định hướng ra quyết định định hướng kinh doanh để hợp tác xã có thể cạnh tranh trong thị trường. Bên cạnh đó khi hợp tác xã giải thể thì cũng gặp nhiều khó khăn về định giá tài sản, khi đó kiểm toán độc lập được mời đến để giúp đơn vị đánh giá giá trị tài sản để phân chia một cách hợp lý. 5.Các đối tuợng khác Doanh nghiệp Nhà nước Sau chiến thắng Điện biên phủ miền bắc hoàn toàn giải phóng cũng như sau giải phóng miền nam 30/04/1975. Nhà nước thực hiện quốc hữu hoá các tư liệu sản xuất của xã hội trước đó nằm trong tay đế quốc, tư sản mại bản như các nhà máycơ sở kinh doanh thương mại, các cơ quan cung ứng các dịch vụ điện nước,sân bay, hải cảng cũng như các hầm mỏ công trường, lâm trường. v.v. từ nền tảng đó Nhà nước đã tổ chức lại phương thức kinh doanh theo cơ chế kế hạch hoá xã hội chủ nghĩa thời kỳ này Nhà nước kinh doanh là chủ yếu chỉ dành một phần nhỏ cho kinh tế tư nhân và cá thể. Do hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, không thể đáp ứng được nhu cầu xã hội không thể tiến kịp các nước văn minh trên thế giới. Để xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp bằng một nội dung đổi mới căn bản trong quản lý kinh tế. Từ năm 1986 nhiều chính sách và văn bản pháp luật đã được ban hành mở đường cho các đơn vị kinh tế của Nhà nước tự chủ trong hoạt động sản xuất và kinh doanh đồng thời tạo điều kiện cho các loại hình kinh doanh khác phát triển như doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, hộ cá thể và các hình thức công ty. Đặc biệt là Nhà nước đã xác lập quyền bình đẳng cho các tổ chức kinh tế này trong hoạt động kinh doanh trong cạng tranh, trong quan hệ và trong xử lý các tranh chấp trước pháp luật. Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta chủ chương phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế hàng hoà nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta chủ trương tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước thành lập pháp nhân kinh tế theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luậtvới các thànhphần kinh tế khác loại trừ những trường hợp ưu tiên, ưu quyền của cơ chế cũ. Nhà nước ta đã ban hành nghị định 388 HĐBT ra ngày 02/11/1991 ban hành quy chế về thành lập và giải thể doanh nghiệp Nhà nước tiếp đó là nghị định 12 Cp ngày 2/3/93 ban hành bản quy định về sắp xếp lại tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý các doanh nghiệp Nhà nước. Đến kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá 9 nước cộng hoà XHCN Việt nam đã thông qua luật doanh nghiệp Nhà nước 20/4/95 và công bố ngày 9/5/95 đó là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm tăng cường quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp quốc doanh, thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả và thực hiện đúng các mục tiêu mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp. Để giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, doanh nghiệp Nhà nước trực tiếp hoạt động dưới sự lãnh đạo của Nhà nước là doanh nghiệp có sử dụng nguồn vốn do ngân sách Nhà nước cấp. Để đồng vốn Nhà nước giao cho thật sự có hiệu quả thì Nhà nước kiểm tra xem xét và uốn nắn kịp thời những sai sót, vi phạm của doanh nghiệp. Nhà nước kiểm tra thông qua bộ máy độc lập và dựa trên kết quả đó mà Nhà nước có những biện pháp giúp doanh nghiệp vượt ra khỏi khó khăn hoặc trên cơ sở đó Nhà nước có thể ra quyết định giải tán doanh nghiệp hoặc cổ phần hoá kịp thời nhằm ngăn chặn những thiệt hại có thể xảy ra. Trong giai đoạn hiện nay việc kiểm tra và xem xét đối với doanh nghiệp Nhà nước phải thực hiện khắt khe có như vậy thì doanh nghiệp mới tự đứng vững được trong cơ chế thị trường, cơ chế mà mọi đơn vị tổ chức ra sức hoạt động sản xuất để tìm kiếm cơ hội phát triển. Theo nghị định 70 CP ngày11/7/94 có quy định doanh nghiệp Nhà nước là đối tượng kiểm tra cơ quan kiểm toán Nhà nước. Nhưng theo điều 2 nghị định 07/cp ngày29/1/91 có quy định kiểm toán độc lập thực hiện theo yêu cầu của các doanh nghiệp Nhà nước. Do đó cơ quan Nhà nước không chỉ là khách thể của cơ quan kiểm toán Nhà nước mà còn là khách thể của kiểm toán độc lập. Như vậy vai trò của các cơ quan kiểm toán độc lập đối với các doanh nghiệp Nhà nước cũng góp phần đáng kể của sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước. Kiểm toán độc lập được thực hiện kiểm tra khi các doanh nghiệp có yêu cầu và khi cơ quan quản lý cấp trên, cơ quan thuế hoặc cơ quan tài chính Nhà nước yêu cầu. b.Tổ chức sự nghiệp, đoàn thể xã hội và các tổ chức quốc tế tại Việt nam Trong công cuộc hội nhập hoá, quốc tế hoá, hoà nhập vào nền kinh tế thế giới Việt nam luôn là thị trường đầy sức sống vẫy gọi sự hợp tác của các nước. Hiện nay nước ta có quan hệ với nhiều nước trên thế giới, đó là một kết quả đáng khích lệ, trên cơ sở đó ta có thể tiến mạnh hơn để giảm khoảng cách về kinh tế và mọi mặt so với các nước trên thế giới.Việc phục vụ cho những phát triển toàn diện của con người về y tế, giáo dục. . . Nhiều đoàn thể xã hội, tổ chức quốc tế hoặc các tổ chức hoạt động công ích ở Việt nam nhằm tạo mọi điều kiện giúp Việt Nam phát triển. Còn có phát triển được hay không lại phụ thuộc vào Việt nam chúng ta. Làm sao để có thể đảm bảo được rằng sự đầu tư, giúp đỡ của các tổ chức xã hội, tổ chức quốc tế đó là có hiệu quả nhất. Vậy Việt nam chúng ta phải tạo ra niềm tin, sức hút đối với các tổ chức đó. Việc các tổ chức quốc tế muốn liên kết làm ăn, trợ giúp các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp các thành phần kinh tế trong nước phát triển là một điều kiện hết sức thuận lợi đối với Việt nam ta. Nhưng không phải các tổ chức quốc tế muốn đầu tư vào đâu là được mà ngay bản thân tổ chức quốc tế cũng phải xem xét nên đầu tư vào đâu, như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Trước thực trạng nguồn vốn có hạn mà các chỗ cần có sự giúp đỡ lại nhiều thì việc lựa chọn để giúp đỡ là hiển nhiên. Do vậy các đơn vị muốn được sự trợ giúp phải tự khẳng định mình và các tổ chức đoàn thể xã hội trên cơ sở tình hình tài chínhvà phương hướng làm ăn của các đơn vị mà ra quyết định. Trong trường hợp đó nếu như các tổ chức xã hội, tổ chức quốc tế tại Việt nam muốn có thông tin chính xác về tình hình hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính của các đơn vị. thì có thể mời kiểm toán độc lập là đơn vị độc lập trung gian đến kiểm toán để có kết quả trung thực và đúng đắn. Tóm lại khách thể của kiểm toán độc lập tại Việt nam chủ yếu là: Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong nền kinh tế, ngoài một số trường hợp bắt buộc(Công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty trách nhiệm hữu hạn, hoạt động theo luật nước ngoài và luật công ty) thì còn lại là khi có nhu cầu của các đơn vị. Chính sự phong phú trên đã giúp cho các tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động ngày càng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng, công việc kiểm toán ngày càng nhiều với doanh thu ngày càng lớn đã góp phần đóng góp đáng kể vào việc ngăn chặn các vi phạm pháp luật về tài chính và kế toán, làm giảm thất thoát nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Có thể nói vai trò của kiểm toán độc lập là rất lớn và có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển kinh tế đất nước. Phần III: Những tồn tại, khó khăn và phương hướng đối với hoạt động của kiểm toán độc lập ở Việt nam Với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước từ năm 1985 nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến và phát triển mạnh mẽ chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dẫn đến bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước xuất hiện hàng vạn các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó còn có cả các tổ chức xã hội , các tổ chức tiền tệ tín dụng trong nước và quốc tế. Theo thông lệ quốc tế phổ biến thì các tổ chức kinh tế này là đối tượng chủ yếu của kiểm toán độc lập và bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước thì các tổ chức này cũng đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các tổ chức , đoàn thể xã hội, các tổ chức tín dụng tiền tệ hoạt động sản xuất kinh doanh hoạt động theo đúng pháp luật, thực hiện đúng các quy định về tài chính kế toán và đạt hiệu quả cao thì việc ra đời của hệ thống kiểm toán độc lập là cần thiết và có ý nghĩa thiết thực. Nhà nước ta cũng đã có sự quan tâm đến việc cải cách chính sách tài chính kế toán, kiểm toán trong đó có sự cho phép của chính phủ Việt nam cho các công ty kiểm toán quốc tế vào hoạt động ở Việt nam. Được phép của chính phủ, năm 1989 Bộ tài chính đã ký quyết định thành lập bộ phận chuyên trách nghiên cứu hoạt động tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán. Ngày 13/05/1991, Bộ tài chính ra quyết định thành lập 2 doanh nghiệp đầu tiên tại Việt nam hoạt động trong lĩnh vực tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán đó là Công ty tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC) và công ty kiểm toán Việt nam (VACO). Ngày 29/01/1994 Thủ tướng chính phủ đã ký Nghị định số 07/Cp ban hành về quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân, ngày 19/03/1994 Bộ tài chính có thông tư số 22/TC/CĐKT hướng dẫn thực hiện quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời ngày 19/03/1994 Bộ trưởng Bộ tài chính đã ký quyết định số 237 TC/QĐ/CĐKT ban hành quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán viên. . . Sự ra đời của những văn bản này đã công nhận chính thức sự hiện diện của kiểm toán độc lập ở Việt nam và nhiều công ty kiểm toán độc lập ở trong nước đã ra đời, một số các công ty kiểm toán nước ngoài cũng đã có các văn phòng và chi nhánh ở Việt nam. Ngay từ khi mới ra đời mặc dù gặp nhiều khó khăn vì môi trường pháp lý, kinh nghiệm hoạt động chưa nhiều, cán bộ được đào tạo trong cơ chế cũ chưa thích nghi với cơ chế mới, các doanh nghiệp nước ngoài chưa thật tin tưởng. . . nhưng các công ty kiểm toán Việt nam đã vượt lên và phát triển nhanh, có vị trí vững chắc trong nền kinh tế chuyển đổi. . Từ chỗ chỉ có 2 công ty nhỏ vởi khoảng 20 cán bộ đến nay hoạt động kiểm toán đã phát triển mạnh mẽ rộng khắp các tỉnh thành trong cả nước với trên 1000 cán bộ và 14 tổ chức kiểm toán độc lập bao gồm 6 công ty kiểm toán quốc doanh, 3công ty trách nhiệm hữu hạn, 5 công ty kiểm toán quốc tế 100% vốn nước ngoài, 1 công ty liên doanh. Hoạt động kiểm toán độc lập không chỉ phát triển về số lượng cán bộ và tổ chức kiểm toán mà bên cạnh đó phạm vi kiểm toán và chất lượng kiểm toán cũng không ngừng được nâng cao từ chỗ hoạt động tư vấn tài chính và kiểm toán còn rất đơn điệu tập trung chủ yếu vào việc kế toán và kiểm toán các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các dự án do các tổ chức quốc tế tài trợ, đến nay các dịch vụ đã phát triển phong phú và đa dạng bao gồm các dịch vụ về kiểm toán độc lập, các dịch vụ về kế toán, các dịch vụ về tư vấn tài chính, kiểm toán, thuế.. . Phạm vi kiểm toán cũng được mở rộng đến tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các cơ quan, tổ chức xã hội, các dự án đầu tư trong và ngoài nước. Có thể nói thời gian qua hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt nam là thời kỳ thử thách đày khó khăn , nhưng nó đã có bước phát triển đáng kể. tuy nhiên nếu nghiêm túc nhìn nhận và đánh giá hoạt động vừa qua cũng không còn ít những điều bức xúc có thể nêu nên một cách khái quát các vấn đề nổi cộm trong công tác kiểm toán độc lập ở nước ta hiện nay như sau: Một là: Còn khá nhiều doanh nghiệp không thực hiện kiểm toán theo quy định hiện hành. Điểm 2 mục 1 thông tư 22/TC/CĐKT của Bộ tài chính đã quy định “ Đối với các đối tượng kiểm toán là các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam, các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hoạt động theo luật công ty công việc kiểm toán được thực hiện hàng năm và báo cáo quyết toán năm gửi cho các cơ quan quản lý Nhà nước phải kèm theo báo cáo kiểm toán của tổ chức kiểm toán độc lập hợp pháp ở Việt nam hoặc một tổ chức kiểm toán độc lập khác được Bộ tài chính chấp thuận ”. Trên thực tế quy định trên gần như chỉ được thực hiện ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và một số ít các doanh nghiệp Nhà nước, các công ty trách nhiệm hữu hạn.. . Vì vậy các báo cáo quyết toán hàng năm (nếu có) gửi cho các cơ quan quản lý Nhà nước cũng có rất ít trường hợp kèm theo báo cáo kiểm toán. Hai là :Đối với những đơn vị đã thực hiện việc kiểm toán thì hiệu lực pháp lý của báo cáo kiểm toán cũng chưa được tôn trọng. Điều 1 trong quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo nghị định số 07/CP ngày 29/01/1994 đã quy định “ Sau khi có xác nhận của kiểm toán viên thì các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các đơn vị kế toán là căn cứ cho việc điều hành quản lý hoạt động ở đơn vị, cho các cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính Nhà nước xét duyệt quyết toán hàng năm của các đơn vị kế toán cho cơ quan thuế tính toán số thuế và các khoản nộp khác của đơn vị đối với các ngân sách Nhà nước,. . .”. Đồng thời tại điều 8 của nghị định này quy định: “ công việc kiểm toán phải được thực hiện theo trình tự và phương pháp nghiệp vụ chuyên môn do Bộ tài chính quy định. Khi kết thúc công việc kiểm toán, kiểm toán viên phải lập báo cáo kiểm toán ghi ý kiến nhận xét của mình vào báo cáo kiểm toán và chịu hoàn toàn trách nhiệm về các ý kiến đó. Báo cáo kiểm toán phải khách quan, trung thực có chữ ký của kiểm toán viên và phải được lãnh đạo của tổ chức kiểm toán xác nhận, ký tên, đóng dấu ”. Ta thấy những quy định trên là đầy đủ và chặt chẽ song trên thực tế các báo cáo kiểm toán vẫn không có giá trị pháp lý cao đối với cơ quan thuế. Ngành thuế không thừa nhận kết quả trong báo cáo kiểm toán mà lại tổ chức kiểm tra quyết toán thuế. Đây là sự chồng chéo không đáng có gây lãng phí và phiền hà cho các doanh nghiệp. Hơn thế nữa tại điều 68 Chương 8 NĐ 12/CP ngày 18/02/1997 của chính phủ quy định chi tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam lại quy định “ Báo cáo tài chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài hợp doanh đã được kiểm toán có thể được sử dụng làm cơ sở để xác định và quyết toán các nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước Việt nam ”. Như vậy với từ “ có thể ” đã làm giảm hiệu lực pháp lý của báo cáo kiểm toán, chính những quy định trên dẫn đến việc các cơ quan thuế vụ không sử dụng các báo cáo kiểm toán nghiễm nhiên được thừa nhận. Ba là : Vẫn chưa có quy định về việc xử lý những đơn vị thuộc diện phải kiểm toán hàng năm nhưng không thực hiện kiểm toán. Đó là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng khá nhiều doanh nghiệp không thực hiện kiểm toán hàng năm nhưng không ai biết và không ai xử lý. bản thân những quy định hiện hành cũng chưa khẳng định nghĩa vụ bắt buộc này, tại điều 4 của quy chế kiểm toán độc lập quy định : “Tổ chức kỉêm toán độc lập là một doanh nghiệp (công ty kiểm toán hoặc văn phòng kiểm toán ) được thành lập theo quy định hiện hành về thành lập các doanh nghiệp. . . ” còn ở điều 7 thì cũng quy định : “Đối tượng có yêu cầu kiểm toán được tự do lựa chọn các tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động hợp pháp ở Việt nam để ký kết hợp đồng kiểm toán ”, từ những quy định trên dẫn đến việc các đối tượng có yêu cầu kiểm toán phải ký hợp đồng kiểm toán. Điều đó có nghĩa là khi các doanh nghiệp không có yêu cầu kiểm toán thì sẽ không kiểm toán , do đó việc các doanh nghiệp không thuộc đối tượng bắt buộc kiểm toán cũng ít quan tâm đến vấn đề kiểm toán. Bốn là : Giá phí kiểm toán hiện nay quá cao đang là một trong những nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp ngại, né tránh kiểm toán, đặc biệt là các doanh nghiệp không bắt buộc phải kiểm toán. Hiện nay đối với một doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ mức giá phí mỗi lần kiểm toán khoảng 15 đén 20 triệu đồng còn với doanh nghiệp lớn thì mức phí này lên cao gấp nhiều lần, đặc biệt là mức phí kiểm toán do các công ty nước ngoài quy định đối với một doanh nghiệp có quy mô vừa vào khoảng 15 đến 20 ngàn usd. Năm là : Các văn bản quy định hiện hành chưa thành một hệ thống, chưa đày đủ, cụ thể, đôi chỗ còn chồng chéo, tính pháp lý lại chưa cao thậm trí có tình trạng không thống nhất giữa các văn bản. Chẳng hạn NĐ 59/CP ngày 20/10/1996 và thông tư 75/ TC/TCDN ngày 12/11/1996 quy định “ báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán và có xác nhận đã được kiểm toán của kiểm toán nội bộ hoặc kiểm toán độc lập ” trong khi đó thông tư 07/TC/TCDN ngày 27/02/1997 lại quy định các báo cáo này không nhất thiết phải qua kiểm toán nội bộ hoặc kiểm toán độc lập và xác nhận của các tổ chức trên , chính những mâu thuẫn trên đã dẫn đến ngăn cản sự phát triển của hoạt động kiểm toán. Như vậy để tạo điều kiện và môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động kiểm toán độc lập nói riêng ở Việt nam, hoà nhập với môi trường kế toán, kiểm toán quốc tế và khu vực thì trong thời gian trước mắt chúng ta cần phải nhanh chóng nghiên cứu và hoàn thành hệ thống chuẩn mực kế toán và kiểm toán, để làm cơ sở để đào tạo và chỉ đạo cho việc hoạt động, kiểm soát chất lượng của kiểm toán, mức giá phí kiểm toán và cơ chế tài chính cho các công ty kiểm toán trong nước và quốc tế một cách có hệ thống phù hợp với môi trường kiểm toán trên thế giới và Việt nam, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kiểm toán phát triển trong mọi lĩnh vực ở mọi nơi trong cả nước nhằm đưa hoạt động tài chính đi vào kỉ cương nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó cần phải quy định rõ: Một : Quy định rõ khách thể của kiểm toán độc lập. NĐ số 07/CP chỉ tập trung hướng dẫn và điều tiết hoạt động của chính phía chủ thể là các công ty kiểm toán độc lập trong nước trong đó không quy định rõ nghĩa vụ và quyền hạn của khách thể kiểm toán độc lập, bao gồm cả khách thể bắt bưộc như các công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty cổ phần và khách thể tự nguyện như các trương trình các dự án, các cá nhân khác có nhu cầu kiểm toán hoặc hướng dẫn kiểm toán, . . .Mặt khác cần phải quy định rộng hơn đối tượng bắt buộc phải kiểm toán hàng năm, nhằm mở rộng môi trường hoạt động của kiểm toán độc lập, tạo sức hút với đầu tư nước ngoài, để phát triển kinh tế đất nước. Hai : Mở rộng và hoàn thiện bộ máy tổ chức kiểm toám độc lập Kiểm toán độc lập của ta hiện nay chỉ tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp có cơ quan chủ quản là bộ tài chính đã khiến cho rất nhiều người băn khoăn nghi ngờ về tính độc lập của những công ty này. Vậy cần sớm chuyển các công ty này sang công ty liên doanh hay tổ chức kiểm toán, và tách các công ty kiểm toán ra khỏi ngành, chức năng để các công ty này thật sự độc lập về hình thức lẫn vật chất. Bên cạnh đó theo thông lệ chung về hình thức pháp nhân cuả công ty kiểm toán ta nên xác định chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp doanh và phải chịu trách nhiệm vô hạn vì người sử dụng kết quả kiểm toán có yêu cầu đòi hỏi các công ty kiểm toán độc lập phải chịu trách nhiệm vô hạn, chính điều này xẽ dẫn đến các công ty kiểm toán và kiểm toán viên phải luôn cố gắng lỗ lực để hoàn thiện chuyên môn. Một hình thức nữa của kiểm toán nữa là cũng nên thành lập các văn phòng tư trong tương lai để phục vụ được các yêu cầu kiểm toán ngày càng tăng. Ba: Khẳng định lại hiệu lực pháp lý của báo cáo kiểm toán đối với các doanh nghiệp để tránh phiền hà cho chính bản thân doanh nghiệp. Khi mà hiện nay công ty kiểm toán độc lập và vụ thuế đều thuộc Bộ tài chính quản lý, nên Bộ tài chính cần phải xem xét để tránh gây nên những lãng phí không đáng có. Bốn : Quy định rõ khung giá phí kiểm toán và công bố công khai, điều này rất quan trọng để các doanh nghiệp tự giác đến với kiểm toán độc lập, tránh tình trạng mức giá phí quá cao xẽ dẫn đến các công ty. doanh nghiệp né tránh kiểm toán. Năm : Cần phải có các trương trình đào tạo đội ngũ kiểm toán viên giỏi, có kinh nghiệm, có đạo đức nghề nghiệp, không ngừng học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới. . . nhằm đưa hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt nam đi vào nền nếp. Một hệ thống kiểm toán tốt, đủ trình độ, chặt chẽ và nghiêm túc chắc chắn xẽ góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn kịp thời và thiệt hại không đáng có giúp cho nền kinh tế đất nước theo kịp các nước lân bang. tài liệu tham khảo Tìm hiểu về kiểm toán độc lập ở Việt nam (Nhà xuất bản tài chính HN – 1995 ) Kế toán, kiểm toán và phân tích tài chính doanh nghiệp (Nhà xuất bản tài chính HN – 1996) Lý thuyết kiểm toán (Nhà xuất bản HN –1998 ). Tìm hiểu về luật kinh tế (Nhà xuất bản thống kê ) Tạp chí tài chính ; số ) 04, 10 năm 1992, số 08 năm 1991, số 02 năm 1994, số 01 năm 1999. Tạp chí kinh tế phát triển : số 49 năm 1994, số 77, 82 năm 1997. Tạp chí thương mại :số 16 năm 1997. Tạp chí kiểm toán : số 1,2,3, năm 1997,số 1 năn 1998.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1263.doc
Tài liệu liên quan